
120
KHAI THÁC YẾU TỐ VĂN HÓA TRONG VIỆC
GIẢNG DẠY HÁN HÀN (HÁN TỰ THÀNH NGỮ)
Dương Văn Thành
Trường Đại học Kinh tế Tài chính TPHCM
Khoa Ngôn ngữ Văn hóa Quốc tế
Tóm tắt
Bài báo nghiên cứu khai thác yếu tố văn hóa trong việc giảng dạy Hán Hàn, cụ
thể là việc giảng dạy Hán tự thành ngữ . Một trong những cách thức giảng dạy
Hán Hàn hay Hán tự tiếng Hàn là thông qua Hán tự thành ngữ, bởi trên thực tế
những thành ngữ đều được hình thành dựa trên cơ sở văn hóa – văn minh. Yếu tố
văn hóa được phản ánh rất rõ ràng qua ngôn ngữ, cụ thể là qua đặc trưng cũng
như nguồn gốc xuất hiện của nó.
Từ khóa: Hán Hàn, Hán tự thành ngữ, Yếu tố văn hóa trong Hán Hàn, Giảng
dạy Hán Hàn.
Đặt vấn đề
Việt Nam, ngày càng có nhiều sinh viên muốn học tiếng Hàn do sự quan
tâm đến Hàn Quốc ngày càng tăng. Ngoài ra, ngày càng có nhiều sinh viên học
tiếng Hàn từ Việt Nam học lên cao học hoặc đến Hàn Quốc để học nâng cao. Vì
lý do đó, đặc biệt cần phải có nhiều nghiên cứu để giảng dạy tiếng Hàn và phát
triển các phương án giảng dạy mới và giáo trình.
Sự giao lưu văn hóa giữa hai nước luôn luôn được thể hiện trong hoạt động
giao tiếp ngôn ngữ. Việc dạy học, nghiên cứu, so sánh tiếng Hàn và tiếng Việt
cùng đó cũng ngày càng nhận được sự quan tâm của nhiều học giả.
Trong quá trình học tập và giảng dạy, tôi đã được tiếp cận với một lượng từ
Hán Hàn và nhận thấy lượng từ này chiếm hơn 70% từ vựng tiếng Hàn, đồng thời
có nhiều điểm tương đồng với từ Hán Việt trong ngôn ngữ của chúng ta như phát

121
âm, ý nghĩa. Từ đó có thể nói đây chính là một thuận lợi cho người Việt khi học
tiếng Hàn.
Những sinh viên Việt Nam quen thuộc với bảng chữ cái rất quan tâm và hứng
thú với chữ Hán và từ vựng Hàn Hàn, nhưng rất khó để hiểu, học và sử dụng nó.
Nghiên cứu này đặc biệt nhằm mục đích tìm cách dạy và học chữ Hán cũng như
từ vựng Hán Hàn một cách thú vị cho sinh viên Việt Nam thông qua các yếu tố
văn hóa. Tôi sẽ giới thiệu các ví dụ dựa trên kinh nghiệm đào tạo chữ Hán và Hán
Hàn tại khoa Ngôn ngữ và Văn hóa Quốc tế trường Đại học Kinh tế - Tài chính
TP.HCM và xem xét suy nghĩ của người học để tìm ra phương án đào tạo chữ Hán
và từ vựng Hán Hàn phù hợp.
I. Cơ sở lý luận
1. Khái quát về Hán tự tiếng Hàn và Hán Hàn
1.1. Khái niệm.
Hán tự tiếng Hàn là gì? Chúng ta gọi người Trung Quốc là người Hán (漢族).
Hán tự có nghĩa là 'văn bản được sử dụng bởi người Trung Quốc gốc Hán'. Nó
được tạo ra bằng cách kết hợp chữ Hán ‘한(漢)’ và chữ cái ‘글자 자(字)’ của
người Hán. Ngoài ra, Hán tự cũng có nghĩa là chữ Hán thời Hán ‘한(漢)’ vì nó
phát triển gần giống với chữ mà chúng ta đang sử dụng bây giờ ở Trung Quốc.
Cuối cùng, nó có nghĩa là chữ viết của người Trung Quốc.
Cũng giống như khái niệm từ Hán Việt của Việt Nam hay khái niệm Kanji
của Nhật Bản, trong tiếng Hàn, những từ vựng có nguồn gốc Hán được gọi là
Hanja, dùng để chỉ những từ vay mượn gốc Hán và được phiên âm theo tiếng
Hàn.
1.2. Đặc điểm của chữ Hán từ vựng Hán Hàn
Khác với trật tự từ tiếng Hàn, từ Hán Hàn cũng có đặc trưng như tiếng
Trung Quốc, việc từ Hán Hàn kết hợp với từ Thuần Hàn và được đọc như âm
Hán – Hàn tạo nên từ phức cũng chính là đặc trưng mang tính vay mượn.

122
Trước khi Hangul được tạo ra, Hàn Quốc không có chữ viết. Vì vậy, họ
mượn chữ Hán mà người Trung Quốc viết và thể hiện suy nghĩ của họ. Thế nên,
ngay cả sau khi Hangul được tạo ra, hơn 70% trong số những từ chúng ta sử
dụng vẫn còn lại những từ tiếng Hán.
Ví dụ: Bố mẹ부모(父母), anh em 형제(兄弟), trường học 학교(學校), lớp
học 교실(敎室), ô tô 자동차(自動車),
Như vậy, hầu hết những từ mà chúng ta không biết đều là những từ được tạo
ra từ Hán tự. Vì vậy, để hiểu rõ về Hán Hàn, cần phải biết nhiều chữ Hán.
Nếu chúng ta biết từ "cha" và "mẹ" là từ kết hợp giữa ‘아버지 부(父)’ và
‘어머니 모(母)’, "anh trai" và "em trai" là từ kết hợp giữa ‘형(兄)’ và ‘동생
제(弟)’ thì có thể dễ dàng biết được ý nghĩa của từ "cha và mẹ", "anh trai và em
trai". Nếu bạn tìm hiểu về Hán tự hay Hán Hàn, bạn có thể hiểu chính xác ý nghĩa
của những câu văn có yếu tố tiếng Hán trong tiếng Hàn.
1.3. Nguồn gốc chữ Hán trong tiếng Hàn Quốc
Tiếng Hàn là ngôn ngữ thuộc loại hình chắp dính với kho tàng lớn là từ vay
mượn từ nhiều thứ tiếng, và điều đáng chú ý là số lượng từ ngoại lai này lại chiếm
tỷ lệ lớn hơn cả và thậm chí còn áp đảo từ bản ngữ (thuần Hàn) về mặt số lượng.
Theo thống kê tỉ lệ từ Hán Hàn chiếm trong khoảng 50% - 70% vốn từ vựng tiếng
Hàn. Điều này cho thấy tầm quan trọng của lớp từ vựng vay mượn này. Thêm vào
đó, niên đại vay mượn của lớp từ vựng này cũng vào loại lâu đời bậc nhất, tính đến
nay đã được khoảng hơn 2000 năm.
Xét trên góc độ cội nguồn, có thể chia lớp từ vựng vay mượn từ tiếng Hán ra
thành 3 loại như sau: từ Hán Hàn được du nhập từ Trung Quốc, từ Hán Hàn được
du nhập từ Nhật Bản và từ Hán Hàn tự tạo tại Hàn Quốc. Vì được du nhập vào bán
đảo Hàn từ thời kì đầu cho đến thời cận đại nên lớp từ Hán Hàn bắt nguồn từ Trung
Quốc có lịch sử lâu đời nhất; lớp từ Hán Hàn gốc Nhật được du nhập trong suốt
giai đoạn Nhật Bản đô hộ bán bán đảo Hàn từ năm 1910 đến 1945. Bên cạnh đó,

123
từ Hán Hàn tự tạo tại Hàn Quốc được xem là một sản phẩm mang tính sáng tạo
khá độc đáo của dân tộc Hàn thông qua quá trình sử dụng và lĩnh hội chữ Hán.
2. Yếu tố văn hóa được biểu hiện qua Hán Hàn (Hán tự thành ngữ)
Đặc trưng của Hán tự thành ngữ
Đại đa số Hán tự thành ngữ được cấu tạo đều có nguồn gốc từ một điển xưa tích
cũ
trong lịch sử, những truyện ngụ ngôn, những bài học cuộc sống. Chúng giữ
nguyên được giá trị hoặc chỉ thay đổi nhỏ khi vận dụng vào nhiều trường hợp
khác nhau trong cuộc sống.
능자승당 (Năng giả thăng đương 能者昇當): người có tài năng đương nhiên
sẽ thăng tiến, thành công. Mặc dù đã trải qua thời gian dài nhưng ý nghĩa vốn có
của câu thành ngữ này vẫn không thay đổi (Lê Huy Khoa, 2008).
Thông thường, Hán tự thành ngữ có hai, bốn hay tám chữ thì cũng được giải
thích qua tiếng thuần Hàn bằng một cụm từ, một câu, thậm chí để hiểu căn nguyên
sâu xa cần đến cả một đoạn, một bài giải thích rất dài. Điều đó chứng minh rằng
Hán tự thành ngữ dù mang ý nghĩa rất thâm sâu nhưng cũng rất ngắn gọn và súc
tích.
일석이조 (Nhất thạch nhị điểu 一石二鳥): câu này có ý nghĩa tương đương
với câu “Nhất cử lưỡng tiện”, tức một công đôi việc trong tiếng Việt (Lê Huy Khoa,
2008).
Dù là điển xưa tích cũ, từ thời Tam quốc hay thời Joseon, nhiều thành ngữ
vẫn được
liên tục được sử dụng cho đến tận ngày nay với những ý nghĩa mà nó vốn mang.
사고무친 (Tứ cố vô thân 四顧無親): câu này có ý chỉ sự cô độc, đơn độc,
không nơi nương tựa. Câu thành ngữ này rất súc tích, chỉ đơn giản bốn chữ nhưng
nội dung rất hàm ý (Lê Huy Khoa, 2008).
Cũng giống như tục ngữ, thành ngữ nói chung và Hán tự thành ngữ nói riêng
luôn chứa đựng những điều răn dạy của người xưa về lòng hiếu thảo, tình cảm anh

124
em vợ chồng, ơn huệ, giáo dục, thậm chí là cả những tư tưởng triết học, chính trị,
… từ ngàn xưa tới nay.
인사수심 (Nhân sự tùy tâm 人事隨心): mọi việc đều tùy theo tâm tính con
người (Lim Jong Tae, 2015).
선인선과 (Thiện nhân thiện quả 善因善果): câu này có ý nghĩa tương
đương với câu “Ở hiền gặp lành” hoặc câu “Gieo nhân nào gặp quả ấy” trong
tiếng Việt. Dù rất ngắn gọn nhưng tính giáo huấn vô cùng sâu sắc (Lê Huy Khoa,
2008).
Không chỉ ngày xưa mà ngay cả trong thời đại ngày nay, trên các phương
tiện thông tin đại chúng như tivi, báo đài, tạp chí, … vẫn sử dụng rất nhiều Hán
tự thành ngữ. Những thành ngữ này phổ biến và quen thuộc đến nỗi trong sinh
hoạt hàng ngày, từ gia đình cho đến cơ quan công sở đều vận dụng nó một cách
rất hiệu quả và linh hoạt.
이심전심 (Dĩ tâm truyền tâm 以心傳心) truyền từ tâm tới tâm. Đặc biệt
làm việc tốt thì sự việc sẽ được truyền đi từ tấm lòng người này đến tấm lòng
người khác (Lim Jong Tae, 2015).
각인각색(các nhân các sắc各人各色): câu này có nghĩa là mỗi người một
kiểu, một vẻ, hay có ý kiến riêng của mình (Lê Huy Khoa, 2008).
Nguồn gốc của Hán tự thành ngữ
Tục ngữ là một kho tàng văn hóa, văn học của nhân loại không chỉ riêng với Hàn
Quốc mà còn ở nhiều nơi trên thế giới. Tục ngữ cũng hàm chứa những điều giáo
huấn, trào phúng, phê phán với những hình ảnh ẩn dụ, so sánh rất gần gũi với
cuộc sống thường nhật. Từ những câu tục ngữ vốn có đó, người Hàn Quốc đã sử
dụng Hán tự đúc kết lại thành những thành ngữ cũng mang ý nghĩa súc tích và
ngắn gọn hơn.Ví dụ như sau:
감탄고토 (Cam thôn khổ thổ甘呑苦吐): thành ngữ này có nguồn gốc từ câu tục
ngữ “달면 삼키고 쓰면 뱉는다”, nghĩa là “Ngọt thì nuốt vào, đắng thì nhả ra”