
249
GIỚI THIỆU VĂN HOÁ TẶNG QUÀ CỦA
NGƯỜI NHẬT BẢN VÀO BÀI GIẢNG
NGỮ PHÁP CHO – NHẬN BẰNG TIẾNG NHẬT
Phan Thị Nga
Viện Công nghệ Việt Nhật
Đại học Công nghệ TP.Hồ Chí Minh
Tóm tắt
Tặng quà trong các dịp lễ, Tết thể hiện sự tri ân của người tặng đối với những
người mà họ quý mến, biết ơn, và là một nét đẹp văn hóa phổ biến ở nhiều quốc
gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Việc tặng quà nhau không chỉ gắn kết tình
cảm, khắng khít các mối quan hệ mà có thể thể hiện được văn hoá, phong tục tặng
quà của một quốc gia, trong trường hợp người tặng và người nhận đến từ hai đất
nước khác nhau. Vì vậy mà việc tặng quà cũng cần chú ý đến phong tục tập quán
của mỗi dân tộc.
Không chỉ việc tặng quà cần có văn hóa mà ngay cả cách nhận quà cũng đòi hỏi
những quy chuẩn nhất định. Người nhận quà nên hay không nên thể hiện thái độ
gì trước những món quà có giá trị lớn hoặc quà có giá trị thấp? Việc từ chối món
quà ra sao cho thật khéo léo và lịch sự cũng là điều cần phải chú ý. Đăc biệt với
người Nhật, họ luôn cẩn trọng và tỉ mỉ từ những điều nhỏ nhất.
Sinh viên hay người học tiếng Nhật nói chung, ngoài việc học ngôn ngữ thì điều
quan trọng chính là học hỏi những nét văn hoá đẹp từ họ, thông qua ngôn ngữ để
hiểu sâu hơn về phong tục của đất nước họ. Trong tiếng Nhật sơ cấp, chúng ta
được học cấu trúc ngữ pháp “cho – nhận”, ngoài việc ghi nhớ cách sử dụng động
từ, trợ từ thì còn cần chú ý cách hành văn, cách nói chuyện trong nhiều tình huống
tặng quà khác nhau. Chng hạn người Nhật tặng quà nhau vào dịp nào? Họ nói
gì khi tặng nhau? Họ tặng gì và gói quà như thế nào? Hướng đến vấn đề này, bài
viết muốn trình bày về sự cần thiết phải kết hợp giảng dạy văn hoá Nhật Bản lồng
ghép trong các cấu trúc ngữ pháp tiếng Nhật. Sinh viên sau khi ra trường không
chỉ tốt tiếng Nhật mà nên biết cách hành xử đúng mực, phù hợp với quy chuẩn văn
hoá trong các doanh nghiệp Nhật.

250
Từ khoá: nhận quà, tặng quà, tiếng Nhật, văn hoá
1. Đặt vấn đề
Đối với người Nhật Bản, tặng quà là một nghệ thuật mà trong đó ẩn chứa
giá trị văn hóa tốt đẹp. Tặng quà không cần có giá trị cao nhưng quá trình để trao
món quà đến tay người nhận là cả một công phu chứa đựng tình cảm rất lớn của
người tặng.
Để giúp sinh viên hiểu thêm và có thể thực hành thực tế được khi đi làm sau
này, Giảng viên nên kết hợp chia sẻ thêm về văn hoá tặng qùa của người Nhật. Cụ
thể, người Nhật tặng quà nhau vào những dịp nào? Tặng ai? Gói qùa như thế nào?
Họ sẽ nói gì khi trao quà cho nhau?
Trong bài viết này, tôi sẽ dùng giáo trình Marugoto để minh hoạ một số tình
huống tặng qùa của người Nhật. Trong giáo trình Marugoto (Rikai) sơ cấp A2, chủ
đề số 9 nói về “Oiwai – chúc mừng” sẽ dạy cho sinh viên các động từ cho – nhận,
cách sử dụng cấu trúc “ai cho ai cái gì” hay “món quà này tôi nhận từ ai”,...Chủ đề
9 cũng giới thiệu rõ các tình huống cho – nhận vào dịp Sinh nhật, Giáng sinh, Ngày
của Cha…từ đó sinh viên sẽ liên hệ thực tế, so sánh với phong tục tặng qùa của
người Việt Nam. Cùng phân tích cụ thể hơn qua các hình ảnh minh hoạ sau:
Hình 1.1: Các dịp Lễ người Nhật thường tặng quà (Marugoto – Rikai A2
tr.152)

251
Hình 1.2: Các món quà tặng (Marugoto – Rikai A2 tr.153)
Thông qua hai bài tập nhỏ đầu bài học, sinh viên dễ dàng trả lời được câu
hỏi: Người Nhật tặng quà vào dịp nào? ( Ví dụ sinh viên trả lời là : Giáng sinh,
Sinh nhật, Sinh em bé, Lễ tình nhân…) Người Nhật thường tặng nhau quà gì? ( Ví
dụ sinh viên trả lời là: đồng hồ, cặp, đồ chơi, búp bê…). Đáp án sẽ chính là hình
minh hoạ và từ vựng được ghi ra sẵn trong sách.
Đây là cách Input trực quan sinh động mà sinh viên, đặc biệt là sinh viên
đang học trình độ sơ cấp sẽ rất thích thú. Hình ảnh đẹp mắt, chủ đề thực tế gần gũi,
quen thuộc. Điểm cộng lớn mà cá nhân tôi rất thích ở giáo trình Marugoto này.
Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là: vậy những món quà như hình ảnh ở trên sẽ được tặng
vào dịp nào? Ai tặng cho ai? Hay dịp Lễ tình nhân 14/2, ở Nhật Bản con trai có
chủ động tặng socola cho con gái không? Đây là ba vấn đề lớn mà Giảng viên cần
cung cấp thêm thông tin, song song với việc Input từ vựng mới vào đầu giờ. Hoặc
Giảng viên sẽ không vội cung cấp thông tin ngay, mà sẽ để sinh viên tự hiểu ra sau
khi đưa vào phần phân tích Hội thoại mẫu rồi sau đó đúc kết lại thông tin chính.
Trang 155, có mẫu câu: “ジョイさん は さとうさん に はなを
あげます。”

252
( Tạm dịch: John tặng hoa cho Satou.). Ngoài ra còn có cả hình ảnh minh hoạ trên
tay John cầm bó hoa, hay nhiều câu mẫu khác chỉ rằng món quà này nhận từ ai.
Sau nhiều ví dụ như vậy, sinh viên nhận ra được hai cấu trúc ngữ pháp:
Tặng: A は B に C を あげます
Nhận: B は Aに/から C を もらいます
Trong đó, A và B là từ chỉ người, C là món quà.
Bài hội thoại và bài tập cũng chỉ ra được ở Nhật, họ tặng hoa vào dịp sinh
nhật, tặng cặp (túi xách) cho người bắt đầu đi làm…
Trên đây chỉ là ví dụ của một cấu trúc ngữ pháp và phần nào giúp sinh viên
mường tượng được các tình huống tặng quà ở Nhật. Sau đó đến các bài hội thoại
sau ở trang 156, nêu ra câu hỏi: Ở đất nước bạn, sẽ tặng quà gì để chúc mừng người
mới sinh em bé? Sinh viên xem hội thoại, hiểu được phong tục tặng qùa cho người
sinh em bé, vậy bên Việt Nam có phong tục đó không? Người Việt chúng ta sẽ
tặng gì vào dịp như vậy? Giảng viên sẽ cho sinh viên trao đổi, tìm kiếm thông tin
từ đó lồng ghép vào các chia sẻ của mình. Giúp sinh viên có cái nhìn mới mẻ hơn,
rộng hơn về nét văn hoá này.
Việc bắt đầu học tập bất kỳ một ngoại ngữ nào cũng sẽ gặp nhiều khó khăn
nhưng cũng sẽ có rất nhiều điều thú vị. Nếu sinh viên chỉ chăm chăm học thuộc
lòng từ vựng và ngữ pháp, mà bỏ qua những phần kiến thức hữu dụng của giáo
trình cung cấp thì thật bỏ phí. Và hơn ai hết, người kích thích trí tò mò, hứng thú
nghiên cứu cho sinh viên chính là giảng viên.
Có thể nói với giáo trình Maruogoto, chủ đề tặng quà chúc mừng đã được
minh hoạ rất sinh động và chi tiết. Sinh viên dễ dàng thay thế từ vựng vào các mẫu
câu để hội thoại trôi chảy. Nhưng vai trò của giảng viên cần được chú trọng trong
việc giúp sinh viên nhận ra nét văn hoá tặng quà của người Nhật, so sánh với phong
tục của Việt Nam, từ đó giúp sinh viên hứng thú tự tìm hiểu đào sâu văn hoá hai
quốc gia.

253
2. Văn hoá tặng quà của người Nhật
Sinh viên trong khi học chủ đề 9 – Oiwai, sẽ nhận ra nhiều nét tương đồng,
nhưng cũng có nhiều điểm rất đặc sắc, mới lạ mà có thể các bạn chưa từng biết
đến. Vì vậy, trong khi giảng dạy ngữ pháp cho – nhận, Giảng viên cần bổ sung
thêm những thông tin mới về văn hoá tặng quà của người Nhật. Điều này thật sự
rất hữu ích cho sinh viên. Sau đây sẽ là những nét đặc trưng trong văn hoá tặng
quà của người Nhật. Giảng viên có thể hướng dẫn sinh viên tự tìm hiểu thêm hoặc
chia sẻ luôn ngay trong giờ học tiếng Nhật tại lớp học.
2.1. Người Nhật luôn tỉ mỉ và chu đáo khi gói quà
Ông bà ta thường nói: “Của cho không bằng cách đem cho”, hay “ Của một
đồng, công một nén”. Thật vậy, khi trao cho nhau những món quà, cả người tặng
và người nhận đều giữ trong mình một cảm xúc riêng, tình cảm chân thành hay
lòng biết ơn dành cho nhau. Giá trị của món quà ắt hẳn không quan trọng bằng
cách chúng ta nâng niu, tỉ mỉ chuẩn bị sao cho thật hoàn mỹ, sao cho thật vừa ý
thích đối phương. Với người Nhật cũng vậy, món quà được tặng không quan trọng
bằng cách mà người ta trao tặng chúng. Món quà có rất nhiều ý nghĩa khi tặng vào
những dịp khác nhau: Tặng vào những ngày lễ, tặng để cảm ơn hay tặng để tạo sự
thân thiết cho mối quan hệ. Dù tặng quà với ý nghĩa nào chăng nữa, người tặng
cần chuẩn bị chu đáo khi gói quà.