
157
LỒNG GHP YẾU TỐ VĂN HÓA VÀO GIẢNG DẠY TỪ VỰNG CHỈ
MÀU SẮC TRONG TIẾNG TRUNG
ThS. Hứa Phạm Cẩm Tú
Trường Đại học Kinh tế - Tài chính TP.HCM
Khoa Ngôn ngữ & Văn hóa quốc tế
Tóm tắt: Ngôn ngữ và văn hóa có mối quan hệ mật thiết, không thể tách rời nhau.
Biểu hiện trực tiếp nhất trong mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa đó là ngôn
ngữ thể hiện suy nghĩ, thái độ, giá trị quan của con người đối với thế giới. Từ ngữ
chỉ màu sắc, con vật, số từ… là những từ vựng phổ thông trong mỗi một ngôn ngữ,
trong đó màu sắc là một thuộc tính của vật thể mà con người bằng tri giác của
mình đã nhận thức được. Mỗi ngôn ngữ, mỗi dân tộc lại có một hệ thống biểu thị
màu sắc khác nhau, thể hiện sự khác biệt trong tư duy, thế giới quan và văn hóa
của dân tộc đó. Vì thế việc so sánh và lồng ghép yếu tố văn hóa vào trong giảng
dạy tiếng Trung cho sinh viên Việt Nam là cần thiết để vừa tăng tính tò mò và thú
vị trong quá trình tìm hiểu một ngôn ngữ mới, vừa giúp sinh viên được hoàn thiện
không chỉ kỹ năng ngôn ngữ mà cả khả năng lý giải, biểu đạt một cách tinh tế, đạt
hiệu quả cao trong giao tiếp nhất là giao tiếp liên văn hóa trong một thế giới phng
như hiện nay.
Từ khóa: giảng dạy từ vựng tiếng Trung, giao tiếp liên văn hóa; từ vựng chỉ màu
sắc, tiếng Trung; tiếng Việt
1. Đặt vấn đề
Từ ngữ chỉ màu sắc, con vật, số từ… là những từ vựng phổ thông trong mỗi
một ngôn ngữ. Tuy nhiên ý nghĩa tượng trưng và sắc thái tình cảm của những từ
này lại tồn tại sự khác biệt văn hóa rất lớn. Sự khác biệt về nội hàm văn hóa của
những từ ngữ này bắt nguồn từ sự khác biệt của hoàn cảnh địa lý, phương thức tư
duy, tín ngưỡng tôn giáo, tâm lý dân tộc v.v… giữa các dân tộc. Sự khác biệt về
nội hàm văn hóa của từ ngữ dễ dẫn đến hiểu lầm không hay trong giao tiếp liên
văn hóa. Do đó, trong quá trình giảng dạy ngôn ngữ, ngoài việc truyền đạt các kiến

158
thức về ngôn ngữ, giáo viên tiếng Trung có thể đi sâu phân tích từ góc độ văn hóa
để kích thích trí tò mò, tăng tính hấp dẫn của môn học và trang bị thêm kiến thức
văn hóa xã hội để sinh viên hiểu sâu sắc hơn về phong tục, tập quán, điển cố lịch
sử, nghệ thuật tôn giáo…giữa Trung Quốc và Việt Nam. Từ đó nâng cao khả năng
lý giải và năng lực vận dụng cũng như biểu đạt ngôn ngữ. Bài viết này tiến hành
phân tích yếu tố văn hóa của từ vựng chỉ màu sắc cơ bản trong tiếng Trung và tiếng
Việt, đồng thời chỉ ra những đặc điểm giống nhau và khác nhau của các từ chỉ màu
sắc đó, góp phần khẳng định mối quan hệ hữu cơ giữa ngôn ngữ và văn hóa nói
chung, mối quan hệ giữa ngôn ngữ – văn hóa trong tiếng Trung và tiếng Việt nói
riêng với một số ví vụ minh họa mà giáo viên tiếng Trung có thể áp dụng để lồng
ghép vào bài giảng của mình.
2. Cơ sở l luận
2.1 Giả thuyết của Sapir và Whorf
Các nhà nhân chủng học từ lâu đã rất quan tâm đến mối quan hệ giữa ngôn
ngữ và văn hóa. Nhà nhân chủng học người Đức Wilhelm von Humboldt đã từng
nói sự khác biệt giữa ngôn ngữ hoàn toàn không nằm ở sự khác nhau về phát âm
hay các ký tự mà nằm ở chỗ khác biệt về thế giới quan. Nhà nhân chủng học người
Mỹ Sapir và Whorf tiến hành nghiên cứu sâu hơn về mối quan hệ giữa ngôn ngữ
với thế giới quan, tư duy và văn hóa; từ đó đưa ra giả thuyết nổi tiếng – Giả thuyết
Sapir và Whorf hay còn được gọi là giả thuyết về tính tương đối của ngôn ngữ.
Giả thuyết Sapir và Whorf được hiểu là cuộc thẩm tra kỹ hơn của tri giác văn
hóa quen; có thể tìm thấy nguyên gốc của cách giải thích này trong những tác phẩm
của Franz Boas, người sáng lập nhân chủng học ở Hoa Kỳ. Ở Hoa Kỳ, Boas gặp
những ngôn ngữ thổ dân Mỹ thuộc về nhiều ngữ hệ, tất cả các ngôn ngữ này khác
hẳn các ngôn ngữ gốc Semit và Ấn-Âu lúc đó được nghiên cứu bởi phần nhiều học
giả châu Âu. Boas thấy rõ cuộc sống và các phạm trù có thể thay đổi đến mức độ
nào tùy theo địa phương, nên cuối cùng ông cho rằng văn hóa và cuộc sống của
dân tộc được phản ánh trong ngôn ngữ của họ.
Còn về phần Sapir, Sapir là một trong những sinh viên giỏi nhất của Boas.
Ông đẩy mạnh lý lẽ của Boas bằng cách chỉ ra rằng các ngôn ngữ là các hệ hình
thức (formal system) hoàn toàn. Do vậy, cách suy nghĩ và hoạt động không được

159
bày tỏ bằng một từ dứt khoát, đúng hơn là bằng tính mạch lạc và tính hệ thống của
ngôn ngữ, tác động qua lại trên phạm vi rộng hơn với suy nghĩ và cách hoạt động.
Mặc dù những quan điểm của ông có lúc thay đổi, nhưng vào cuối đời sống, Sapir
cho rằng ngôn ngữ không chỉ phản ánh văn hóa và thói quen, chứ ngôn ngữ và suy
nghĩ có quan hệ tác động qua lại, dẫn đến điểm quyết định.
Whorf là học trò của Sapir. Ông từng làm giám định bồi thường viên các tai
nạn về hỏa hoạn trong công ty bảo hiểm. Ông phát hiện các hành vi dẫn đến hỏa
hoạn đều liên quan đến việc hiểu sai tên gọi đối với sự vật. Ví dụ như công nhân ở
công trường thường ném đầu thuốc lá hoặc que diêm vào những thùng chứa xăng
có ghi “empty” bên ngoài, bởi vì “empty” thông thường thể hiện việc “trống rỗng,
không có đồ đạc, không có người (ở nhà)”; tuy nhiên trên thực tế, trong thùng xăng
luôn còn sót lại một ít xăng dư. Ông dùng ví dụ này để nói rõ mối quan hệ mật
thiết giữa ngôn ngữ, tư duy và hành vi. Sapir chỉ rõ “Con người không chỉ sống
trong một thế giới của hoạt động xã hội mà còn bị điều khiển chặt chẽ bởi một
ngôn ngữ cụ thể nào đó vốn là phương thức biểu đạt của xã hội đó”. Whorf cũng
nhấn mạnh: “Thế giới biểu hiện là các cảm giác và ấn tượng kiểu ống kính vạn hoa.
Những điều này phải được tổ chức bởi đầu óc của con người, có nghĩa là chúng
được sắp xếp bởi hệ thống ngôn ngữ trong bộ não của con người”. Do quan điểm
của Sapir - Whorf nhấn mạnh tác dụng mang tính quyết định của ngôn ngữ đối với
tư duy , vì vậy giả thuyết được trình bày bằng cách mạnh này còn được gọi là
“Thuyết quyết định”.
Về sau rất nhiều học giả thử chứng minh tính chính xác của giả thuyết mang
tính mạnh này, nhưng đáng tiếc là đến nay vẫn chưa thể chứng thực cho giả quyết
ngôn ngữ quyết định tư duy của con người. Tuy nhiên cũng không xuất hiện luận
chứng nào đi ngược lại giả thuyết này. Whorf sau đó đã chỉnh sửa quan điểm của
“thuyết quyết định ngôn ngữ” này, chỉ ra ngôn ngữ ảnh hưởng đến tri nhận, thái
độ và hành vi của con người đối với thế giới, chứ không quyết định tri nhận, thái
độ và hành vi của con người. Giả thuyết được trình bày bằng cách yếu này sau khi
được điều chỉnh đã đưa ra quan điểm về sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa ngôn ngữ và
văn hóa . Vì vậy còn có tên gọi là “thuyết tương đối ngôn ngữ”.

160
Giả thuyết Sapir – Whorf chủ yếu bao gồm ba hàm ý: (1) Mỗi ngôn ngữ tri
nhận và phân chia thế giới hiện thực bằng những phương thức khác nhau; (2) việc
một người sử dụng kết cấu ngôn ngữ ảnh hưởng dến cách người đó tri nhận và hiểu
thế giới; (3) những người nói những ngôn ngữ khác nhau sẽ tri nhận thế giới khác
nhau. Lý luận của Sapir - Whorf đã khơi gợi niềm cảm hứng lớn cho việc nghiên
cứu ngôn ngữ giao tiếp liên văn hóa. Rất nhiều học giả thuộc lĩnh vực giao tiếp
liên văn hóa đã ứng dụng quan điểm của Sapir – Whorf về việc ảnh hưởng lẫn nhau
giữa ngôn ngữ và văn hóa, tức là tin rằng ngôn ngữ và văn hóa tác động qua lại,
mô típ ngôn ngữ khác nhau sẽ khiến cho con người có nhận thức khác nhau về thế
giới.
2.2 Tầm quan trọng của việc lồng ghép yếu tố văn hóa vào giảng dạy ngoại
ngữ cho sinh viên các ngành ngôn ngữ
Giao tiếp ngôn ngữ là phương thức chủ yếu trong giao tiếp liên văn hóa.
Ngôn ngữ không chỉ là công cụ của giao tiếp mà còn để truyền tải văn hóa. Hàm
nghĩa của ngôn ngữ thể hiện nội hàm văn hóa riêng, việc sử dụng ngôn ngữ cần
tuân thủ quy tắc văn hóa nhất định. Mối quan hệ mật thiết giữa ngôn ngữ và văn
hóa khiến giao tiếp ngôn ngữ trở thành một trong những nội dung chính trong
nghiên cứu giao tiếp liên văn hóa. Đối với giảng viên đang giảng dạy ở khoa ngôn
ngữ (với đặc thù có từ hai chuyên ngành ngôn ngữ trở lên) thì một trong các mục
tiêu giảng dạy quan trọng là bồi dưỡng năng lực giao tiếp liên văn hóa cho sinh
viên. Riêng đối với giảng viên ngành ngôn ngữ Trung, do mối quan hệ mật thiết
về văn hóa giữa Việt Nam và Trung Quốc trong lịch sử và những nét tương đồng
lớn về văn hóa giữa hai nước dễ gây ra những ngộ nhận về văn hóa hai nước cho
sinh viên, vì vậy, ngoài việc lồng ghép nội dung văn hóa trong quá trình giảng dạy
ngôn ngữ, cần làm rõ những điểm dễ gây hiểu lầm trong giao thoa văn hóa của hai
nước, giúp sinh viên không chỉ sử dụng ngôn ngữ đúng và nhuần nhuyễn mà còn
sử dụng hay và tinh tế, tạo được hiệu quả cao trong giao tiếp nhất là giao tiếp liên
văn hóa.
3. Một số từ ch màu sắc cơ bản và yếu tố văn hóa đi km
3.1 Màu đỏ
(红色)

161
Màu đỏ trong rất nhiều nền văn hóa tượng trưng cho sự nhiệt tình, nguy hiểm
và bạo lực. Rudolf Arnheim - một nhà văn đồng thời cũng là nhà tâm lý học tri
giác người Mỹ đã từng nói trong cuốn “Art and visual perception” (tạm dịch là
“Nghệ thuật và sự cảm thụ bằng thị giác”) rằng: “Màu đỏ được cho rằng là màu
sắc khiến cho con người bị kích động, bởi vì nó khiến người ta nghĩ đến ý nghĩa
của lửa, máu và cách mạng”. Tuy nhiên, trong văn hóa Trung Quốc và Việt Nam ,
màu đỏ tượng trưng cho hạnh phúc, cát tường và niềm vui. Ở Trung Quốc, trong
ngày Tết cổ truyền, mọi người thường thích dán câu đối đỏ, dán chữ Phúc màu đỏ
ở hai bên cửa, treo đèn lồng đỏ ở cổng. Còn người Việt Nam mỗi lần Tết đến, “thịt
mỡ, dưa hành, câu đối đỏ” từ xưa đã là hình ảnh tượng trưng cho đời sống vật chất
và tinh thần của người Việt Nam. Ngoài ra, ở Trung Quốc, người ta gọi việc kết
hôn là “hồng hỷ sự”(红喜事), vì vậy trong ngày trọng đại này, cô dâu sẽ thường
mặc váy áo màu đỏ, trên đầu đội tấm khăn lụa màu đỏ, còn chú rể khoác khăn màu
đỏ, trước ngực cài bông hoa đỏ, ở cổng dán câu đối song hỷ màu đỏ, thiếp mời
cũng được viết trên giấy đỏ, khi đưa tiền mừng hoặc tặng quà cưới cũng thường
dùng giấy đỏ gói lại. Ở Việt Nam, người dân cũng thích dùng màu đỏ cho hôn lễ.
Lễ vật sẽ được đặt lên mâm tráp và phủ vải nhung đỏ để nhà trai mang tới lễ ăn
hỏi tại nhà gái. Tuy thiếp mời cưới ở Việt Nam hiện nay không nhất thiết dùng
giấy màu đỏ để viết như trước đây mà có thể sử dụng giấy màu trắng, vàng kem
thậm chí màu xanh dương v.v… nhưng từ “thiệp hồng” (“hồng” ở đây là một từ
Hán Việt, chỉ màu đỏ) đã là danh từ được dùng để chỉ thiếp mời đám cưới.
Màu đỏ trong tiếng Trung và tiếng Việt đều tượng trưng cho sự hưng thịnh,
thành công trong sự nghiệp, “được xã hội ca ngợi, được mọi người yêu quý”. Một
số từ ngữ được tạo nên từ “đỏ”, ví dụ như: 大红人 (đại hồng nhân: người được
mọi người yêu quý),很红(rất đỏ, may mắn),走红(gặp may mắn),唱红了(hát
rất đắt sô),红云(vận may, số đỏ). Trong tiếng Việt, nếu ai đó gặp may mắn thì
cũng nói là số đỏ, vận đỏ.
Ngoài ra, màu đỏ cũng mang nghĩa trung tính, ví dụ như “红脸” (mặt hồng
hào) chỉ sự khỏe mạnh, tươi tắn như trong cụm từ tiếng Trung “红光满面”(khuôn