
năng chống oxy hóa của huyết tương có nguồn gốc từ acid uric. Ở loài chim
và bò sát và trong một số động vật có vú ở sa mạc (chuột túi kangaroo), acid
uric là sản phẩm cuối cùng của quá trình chuyển hóa purine, nhưng nó được
bài tiết trong phân là một khối khô. Ở người, khoảng 70% acid uric được
đào thải qua thận và trong 5-25% trường hợp suy giảm chức năng bài
tiết ở thận dẫn đến tăng acid uric máu.
Một số người dân có những đột biến trong các protein chịu trách nhiệm về
sự bài tiết acid uric của thận. 9 gen cho đến nay đã được xác định: SLC2A9,
ABCG2, SLC17A1, SLC22A11, SLC22A12, SLC16A9, GCKR, LRRC16A
và PDZK1. SLC2A9 vận chuyển cả acid uric và fructose.
Nồng độ bất thường của acid uric không phải là bệnh lý nhưng có liên quan
với một loạt các bệnh lý.
Tăng acid uric máu là nguyên nhân chính gây nên bệnh gút. Việc tăng
nhập purin hoặc giảm thải acid uric đều dẫn đến tăng acid uric trong máu.
Nếu acid uric kết tủa và lắng đọng ở tim mạch thì gây viêm mạch máu, viêm
màng ngoài tim; ở vùng đầu gây ra viêm kết mạc, viêm mống mắt, viêm
tuyến mang tai, viêm màng não. Nếu kết tủa ở vùng sinh dục, các tinh thể
uric gây viêm tinh hoàn, viêm tuyến tiền liệt. Ở thận, chúng gây sỏi
urat...Ngoài ra khi tăng acid uric là cơ hội cho các bệnh đi kèm phát triển
như: Béo phì, tăng lipid máu, tiểu đường, xơ vữa động mạch, tăng huyết áp.
Do vậy giảm acid urid trong máu là yếu tố quyết định trong điều trị
bệnh gút và kiểm soát các bệnh liên quan tới gút.