
Thiên văn học và những mốc lịch sử
đáng chú ý nhất - phần 2
3- Thiên văn học cận đại
Thiên văn học thời kì cận đại đánh dấu những bước tiến quan trọng
nhất trong nhận thức của con người về Trái Đất và Hệ Mặt Trời.
-Năm 1543, một nhà thiên văn học người Ba Lan là Nicolais
Copernics cho xuất bản tác phẩm Về sự quay của thiên cầu, trong đó ông mô
tả lại toàn bộ cấu tạo của Hệ Mặt Trời hoàn toàn khác với mô hình trước đây
của Ptolemy. Trong mô hình của Copernics, Mặt Trời nằm ở trung tâm vũ
trụ, các hành tinh quay xung quanh Mặt Trời trên các quĩ đạo tròn theo thứ
tự từ trong ra ngoài là Sao Thuỷ, Sao Kim, Trái Đất, Sao Hoả, Sao Mộc và
Sao Thổ; ngoài ra Trái Dất còn tự quay quanh trục của nó sinh ra ngày và
đêm, còn Mặt Trăng là một vệ tinh chuyển động tròn quanh Trái Đất. Năm
1543 cũng là năm cuối cùng của Copernics, mô hình của ông sau này được
gọi là mô hình nhật tâm Copernics

Năm 1572, Tycho Brahe phát hiện và quan sát sự xuất hiện của một
sao siêu mới trong chòm sao Cassiopeia. Năm 1576, Brahe thành lập đài
thiên văn Uraniborg
-Năm 1600, Jordano Bruno bị thiêu sống vì đứng ra bảo vệ mô hình
nhật tâm Copernics. Mô hình nhật tâm sau khi ra đời vẫn bị phản đối dữ dội
từ phía nhà thờ do nó đối lập lại với mô hình Ptolemy đã đứng vững hơn
1000 năm, hơn thế nữa nó lại “chống lại sự sắp đặt của Chúa trời”. Bruno là
người đầu tiên dũng cảm bảo vệ đến cùng mô hình nhật tâm. Ông còn cho
rằng mỗi sao là một Mặt Trời và quanh các sao cũng có thể có các hành tinh,
và như vậy sự sống không chỉ có trên Trái Đất. Những tư tưởng này ủa
Bruno làm nhà thờ thiên chúa nổi giận và Bruno bị đưa lên giàn thiêu vào
năm 1600.
-Năm 1603, Johanne Kepler xác lập danh mục sao của mình, hoàn
chỉnh hơn các danh mục đã có, năm 1604 ông quan sát và phát hiện một sao
siêu mới trong chòm sao Ophiuchus
-Năm 1608, Lippershey, một thợ kính người Hà Lan khám phá ra cách
ghép 2 thấu kính với nhau để tăng độ phóng đại, chiếc kính thiên văn đầu
tiên ra đời.

-Năm 1609, áp dụng công trình của Lippershey, Galileo Galilei đã trở
thành người đầu tiên sử dụng kính thiên văn để quan sát bầu trời. Các quan
sát của Galilei bằng chiếc kính có độ phóng đại 30 lần đã giúp ông tìm ra 4
vệ tinh lớn nhất của sao Mộc (ngày nay gọi là 4 vệ tinh Galilei – Galilean
Satellites), các lỗ thiên thạch trên Mặt Trăng và sự tồn tại của dải Ngân Hà
với rất rất nhiều sao.
Cũng trong năm 1609, Kepler tìm ra 2 định luật đầu tiên của mình về
quĩ đạo và vận tốc chuyển động của các hành tinh quanh Mặt Trời
-Năm 1919, Kepler khám phá ra định luật cuối cùng (định luật 3
Kepler) về chuyển động hành tinh, trong đó liên hệ bán trục lớn quĩ đạo với
chu kì quĩ đạo của hành tinh.
Năm 1632, Galilei cho xuất bản cuốn sách Đối thoại giữa 2 hệ thống
thế giới trong đó sử dụng các cuộc đối thoại giữa 2 mô hình Ptolemy và
Copernics để hứng minh sự đúng đắn của mô hình nhật tâm. Tác phẩm này
của Galilei sau này đã khiến nhà thờ nổi giận và ông phải chịu khá nhiều
hình phạt về việc này. Ngoài thiên văn ra, Galilei còn có nhiều khám phá và
quan điểm về vật lí, đặc biệt ông được coi là người đã sáng lập ra vật lí thực
nghiệm.

Năm 1656, Huygens khám phá ra các tính chất của vành đai sang của
Sao Thổ (Saturn’s Ring) và vệ tinh lớn nhất của nó – Titan.
Năm 1668, Newton chế tạo ra chiếc kính thiên văn phản xạ đầu tiên.
Khác với kính thiên văn khúc xạ như của Galilei, kính thiên văn phản xạ sử
dụng gương cầu lõm làm vật kính, cho độ phân giải cao hơn kính khúc xạ rất
nhiều.
4- Thiên văn học hiện đại
Thiên văn học hiện đại được đánh dấu bằng sự ra đời của cơ học cổ
điển (hay còn gọi là cơ học Newton – Newtonian mechanics) qua việc
Newton (1642 – 1727) đưa ra 3 định luật cơ bản của động lực học và định
luật vạn vật hấp dẫn. Cơ học cổ điển với nền tảng là các định luật của
Newton có những ảnh hưởng và đóng góp quan trọng nhất cho hầu hết các
thành tựu vật lí và thiên văn trong suốt các thế kỉ 17,18 và 19, thậm chí ngày
nay (thế kỉ 21) thì các định luật Newton vẫn có những đóng góp không thể
thiếu trong nhiều công trình vật lí hiện đại.
-Năm 1687, Newton cho ra đời tác phẩm Các nguyên lí toán học của
triết học tự nhiên, trong đó ông nêu ra các nghiên cứu của mình về chuyển

động của các vật thể và tương tác giữa chúng. Các khám phá của Newton
được thể hiện trong 3 định luật chuyển động mang tên ông và thuyết hấp dẫn
vũ trụ (định luật vạn vật hấp dẫn). Các lí thuyết này đã đánh dấu sự ra đời
của cơ học cổ điển và làm nền tảng cho các khám phá trong hơn 2 thế kỉ tiếp
theo về vật lí và thiên văn.
-Năm 1705, Halley dự đoán chính xác chu kì của một sao chổi và tiên
đoán sự quay lại của nó vào năm 1758. Sao chổi đó sau này được gọi là sao
chổi Halley.
-Năm 1725, Flamsteed đưa danh mục sao của mình trong đó ông đánh
số các sao theo từng chòm sao và theo chiều tăng của toạ độ RA (Right
Ascension - khoảng cách góc tích từ điểm xuân phân đến hình chiều của
ngôi sao lên xích đạo trời)
Năm 1728, Halley khám phá ra sự chuyển động của các ngôi sao trên
thiên cầu.
James Bradley đề xuất ý kiến về lí thuyết quang sai của các sao cố
định.
-Năm 1744, sao chổi 6 đuôi Cheseaux được phát hiện