Thương mại Việt Nam
lượt xem 14
download
Đất nước ta đang dần hội nhập và đang có những thành tựu nhất định. Việc Việt Nam là thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại quốc tế hàng hóa dịch vụ, đầu tư quốc tế, đổi mới mạnh mẽ hơn và đồng bộ hơn các thể chế, đồng thời, cải tiến nền hành chính quốc gia theo hướng hiện đại. Nền kinh tế Việt Nam có những khởi sắc nhất định. Song Việt Nam gặp không ít khó khăn và đứng trước không ít thách thức. Thương mại có vai trò vô cùng quan trọng không...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Thương mại Việt Nam
- Thương mại Việt Nam LỜI MỞ ĐẦU Đất nước ta đang dần hội nhập và đang có những thành tựu nhất định. Việc Việt Nam là thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại quốc tế hàng hóa dịch vụ, đầu tư quốc tế, đổi mới mạnh mẽ hơn và đồng bộ hơn các thể chế, đồng thời, cải tiến nền hành chính quốc gia theo hướng hiện đại. Nền kinh tế Việt Nam có những khởi sắc nhất định. Song Việt Nam gặp không ít khó khăn và đứng trước không ít thách thức. Thương mại có vai trò vô cùng quan trọng không chỉ giúp tăng trưởng kinh tế mà còn giúp chúng ta thu được nguồn ngoại tệ, tăng thêm mối quan hệ bạn hữu giữa các quốc gia, giúp chúng ta bắt kịp với sự thay đổi phát triển, các công nghệ mới của các nước khác. Nhận thấy vai trò vô cùng quan trọng đó. Và những điều kiện của nước ta. Chúng tôi thực hiện đề tài “ Thương mại Việt Nam” để giúp các bạn hiểu sâu hơn về thương mại nói chung và quan trọng hơn là thương mại nước ta nói riêng. Rất mong được sự giúp đỡ của cô và các bạn để bài tiểu luận đầy đủ và hoàn chỉnh hơn. Xin chân thành cảm ơn. 1
- Thương mại Việt Nam I, Khái niệm thương mại 1. Thương mại là gì ? Thương mại là hoạt động trao đổi của cải, hàng hóa, dịch vụ, kiến thức, tiền tệ v.v giữa hai hay nhiều đối tác, và có thể nhận lại một giá trị nào đó (bằng tiền thông qua giá cả) hay bằng hàng hóa, dịch vụ khác như trong hình thức thương mại hàng đổi hàng (barter). Trong quá trình này, người bán là người cung cấp của cải, hàng hóa, dịch vụ... cho người mua, đổi lại người mua sẽ phải trả cho người bán một giá trị tương đương nào đó. 2.Phạm vi, môi trường hoạt động của thương mại. Thị trường là cơ chế để thương mại hoạt động được. Dạng nguyên thủy của thương mại là hàng đổi hàng (barter), trong đó người ta trao đổi trực tiếp hàng hóa hay dịch vụ mà không cần thông qua các phương tiện thanh toán. Ví dụ, một người A đổi một con bò lấy 5 tấn thóc của người B chẳng hạn. Hình thức này còn tồn tại đến ngày nay do nhiều nguyên nhân (chẳng hạn do bên bán không tin tưởng vào tỷ giá hối đoái của đồng tiền sử dụng để thanh toán). Trong hình thức này không có sự phân biệt rõ ràng giữa người bán và người mua, do người bán mặt hàng A lại là người mua mặt hàng B đồng thời điểm. Việc phát minh ra tiền (và sau này là tín dụng, tiền giấy và tiền ảo (tức không phải tiền tồn tại dưới hình thức được in hay được đúc ra) như là phương tiện trao đổi đã đơn giản hóa đáng kể hoạt động thương mại và thúc đẩy hoạt động này, nhưng bên cạnh đó nó cũng phát sinh ra nhiều vấn đề mà hoạt động thương mại thông qua hình thức hàng đổi hàng không có. Vấn đề này được xem xét cụ thể hơn trong bài Tiền. Hoạt động thương mại hiện đại nói chung thông qua cơ chế thỏa thuận trên cơ sở của phương tiện thanh toán, chẳng hạn như tiền. Kết quả của nó là việc mua và việc bán tách rời nhau. 3. Nguyên nhân tồn tại của thương mại Thương mại tồn tại vì nhiều lý do. Nguyên nhân cơ bản của nó là sự chuyên môn hóa và phân chia lao động, trong đó các nhóm người nhất định nào đó chỉ tập trung vào việc sản xuất để cung ứng các hàng hóa hay dịch vụ thuộc về một lĩnh vực nào đó để đổi lại hàng hóa hay dịch vụ của các nhóm người khác. Thương mại cũng tồn tại giữa các khu vực là do sự khác biệt giữa các khu vực này đem lại lợi thế so sánh hay lợi thế tuyệt đối trong quá trình sản xuất ra các hàng hóa hay dịch vụ có tính thương mại hoặc do sự khác biệt trong các kích thước 2
- Thương mại Việt Nam của khu vực (dân số chẳng hạn) cho phép thu được lợi thế trong sản xuất hàng loạt. Vì thế, thương mại theo các giá cả thị trường đem lại lợi ích cho cả hai khu vực. II, Chức năng của ngành thương mại 1.Chức năng tổ chức lưu thông hàng hoá làm thay đổi các hình thái giá trị của hàng hoá Chúng ta đã biết hàng hoá sau khi được sản xuất ra phải trải qua khâu lưu thông thì mới thực hiện được giá trị và giá trị sử dụng của nó.Ngành thương mại thực hiện chức năng tổ chức lưu thông hàng hoá,chuyển hoá các hình thái giá trị của hàng hoá,tức là thực hiện việc mua – bán hàng hóa.Đây có lẽ là chức năng cơ bản nhất của ngành thương mại,thể hiện tính độc lập tương đối và tính phụ thuộc của ngành thương mại trong nền kinh tế quốc dân,giữ vai trò quan trọng trong quá trình tái sản xuất xã hội .Trong quá trình thực hiện chức năng lưu thông hàng hoá ngành thương mại luôn tìm cách tổ chức quá trình vận động hàng hoá hợp lý,rút ngắn thời gian lưu thông,nhưng vẫn đảm bảo thoả mãn nhu cầu thị trường và không ngừng nâng caotìm kiếm lợi nhuận 2. Chức năng tiếp tục quá trình sản xuất trong lưu thông Xuất phát từ đặc điểm của sản xuấtvà tiêu dùng, hàng hoá sau khi sản xuất trong lưu thông mới đáp ứng được đủ nhu cầu tiêu dùng,đòi hỏi ngành thương mại phải có những biện pháphữu hiệu nhất để chuyển đổi các hình thái của hàng hoá như :đóng gói,chia nhỏ,dán mã,bảo quản hang hoá,bảo hành hàng hoá sau khi bán …đảm bảo hàng hoá ở dạng tốt nhất,phù hợp với thị hiếu của xã hội,chất lượng cũng như mẫu mã.Thươngmại góp phần tạo ra giá trị hàng hoá và bảo toàn giá trị sử dụng hàng hoá. 3.Thúc đẩy quá trình chuyên môn hóa sản xuất. Mỗi lãnh thổ , khu vực đều có thể chuyên môn hóa một lại sản phẩm phù hợp với điều kiện khu vực , kinh tế, tự nhiên của mình . Vì vậy có thể chuyên môn hóa tạo điều kiện tối đa phát triển toàn nguồn lực. Đồng thời các nước các khu vực khác cũng chuyên môn hóa tạo điều kiện cho các nước còn lại mua những thứ cần thiết mà khu vực mình thiếu. 3
- Thương mại Việt Nam 4. Thương mại là khâu nối giữa sản xuất và tiêu dùng. Đối với nhà sản xuất, hoạt động thương mại có tác động từ việc cung ứng nguyên liệu, vật tư, máy móc đến việc tiêu thụ sản phẩm. Đối với người tiêu dùng, hoạt độ ng thương mại không những đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của họ mà còn có tác dụng tạo ra thị hiếu mới, nhu cầu mới. 5. Ngành thương mại bao gồm nội thương và ngoại thương. Hoạt động nội thương tạo ra thị trường thống nhất trong nước và thúc đẩy phân công lao động theo lãnh thổ giữa các vùng. Thương nghiệp bán lẻ còn phục vụ nhu cầu tiêu dùng của từng cá nhân trong xã hội. Hoạt động ngoại thương (xuất + nhập khẩu) gắn thị trường trong nước với thị trường thế giới. III. Các yếu tố ảnh hưởng đến ngành thương mại . Ngành thương mại về tổ chức theo lãnh thổ của ngành thương mại phụ thuộc vào khá nhiều yếu tố: người phân phối, số lượng, và chất lượng hàng hóa, phương tiện phân phối và chuyên chở. 1. Vai trò của người phân phối rất quan trọng trong ngành thương mại. Mặc dù không phải là người làm ra hàng hóa. Nhưng họ là người làm tăng giá trị hàng hóa nhờ tìm ra thị trường tiêu thụ của nó. Nếu không có người phân phối hoặc người phân phối không năng động thì sẽ dẫn đến sản phẩm khó tiêu thụ dẫn đến sản xuất trì trệ. 2. Phí tổn phân phối trong ngành nội thương. Bao gồm phí tổn trung gian và phí tổn tổng cộng. Phí tổn trung gian được đề ra là phí tổn từ nơi sản phẩm từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ phải trải qua rất nhiều công đoạn. Các công đoạn này tốn kém rất nhiều kinh phí. 3. Các phương tiện vân chuyển cũng có vai trò hết sức quan trọng . Mặc dù người bán rất muốn bán người mua cũng muốn mua. Song giao thông vận tải kém phát triển cũng kìm hãm sự phát triển của ngành thương mại. 4. Các phương tiện thông tin giúp cho người tiêu dùng biết đến sản phẩm kích thích họ mua hàng. 4
- Thương mại Việt Nam 5. Chính sách của nhà nước về vấn đề thuế, chính sách tài chính , chính sách về thị trường và các yếu tố về xã hội dân cư mức thu nhập cũng ảnh hưởng khá lớn đến sự phát triển của ngoại thương. IV. Thương mại Việt Nam 1. Vai trò của ngành mại trong nền kinh tế thị trường Việt Nam * Đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường ở nước ta Kể từ khi xoá bỏ cơ chế quản ký quan liêu bao cấp(1986)chuyển sang nền kinh tế mở cửa nền kinh tế thị trường nước ta đã gặp rất nhiều khó khăn cả về chủ quan lẫn khách quan.Xuất phát điểm ở mức thấp,t ừ mộ t nước nông nghiệp nghèo nàn lạc hậu,bị ảnh hưởng nặng nề của chiến tranhvà ở đây đó vẫn còn các hình báng của cơ chế quản lýthiếu tinh thần trách nhiệm hoặc ỷ lại,nhưng Việt Nam vẫn quyết tâm mở cửa,hội nhập,hợp tác giao lưu,xây dựng nền kinh tế thị trường trong sự quản lý của nhà nước và theo định hướng xã hội chủ nghĩa với phương châm “h ội nhập nhưng không hoà tan”nền kinh tế thị trường ở nước ta phát tri ển theo xu thế chung nhưng vẫn mang những nét đặc trưng,phong cách riêng của Việt Nam. * Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần Phát triển hàng hoá là sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội,hàng hoá trên thị trường ngày càng nhiều hơn đáp ứng với nhu cầu đa dạng của thị trường.Để thoát ra khỏi nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung việc phát triển hàng hoá đóng vai trònhư một nhiệm vụ quan trọng nhất cho sự phát triểnnền kinh tế hiện đại,hợp tác và hội nhập theo xu thế phát triển chung của nhân loại Nhà nước cho phép các cá nhân tập thể tự do thành lập mở rộng các 5
- Thương mại Việt Nam hoạt động kinh doanh,mỗi bộ phận kinh tế là một bộ ph ận c ấu thành của nền kinh tế quốc đân trong sự thống nhất các quan hệ hàng hoá,tiền tệ,nhưng các thành phần kinh tế tự do đầu tư vào phat tri ển s ản xu ất kinh doanh và kinh doanh phải đúng pháp luật,theo cơ chế hiện hành. Nền kinh tế nhà nước luôn giữ vai trò chủ đạo,là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để nhà nước định hướng vá điều ti ết n ền kinh tế tổng thể. * Tất cả các quan hệ kinh tế trong quá trình tái sản xuất xã hội đều thông qua thị trường Trong nền kinh tế thị trường các yếu tố cấu thành sản xuất như lực lượng sản xuất hay tư liệu sản xuất đều có thể trở thành đối tượng mua bán và đều được tiền tệ hoá.ở đây tiền tệ đóng vai trò rất quan trọng,nó như một sức mạnh ghê gớm tạo nên công cụ cần thiết cho các thành ph ần kinh tế. Kinh tế thị trường là một thể thống nhất của các yếu tốthị trường ở thị trường hàng hoá - dịch vụ , thị trường lao động,thị trường chứng khoán…Việt nam đang cố gắng từng bước tạo dựng đồng bộ các yếu tố thị trường thúc đẩy sự hình thành phát triển bước hoàn thiện theo đ ịnh hướng xã hội chủ nghĩa. * Cơ chế thị trường tự điều chỉnh Dấu hiệu cơ bản nhất của cơ chế thị trường là cơ chế hình thành giá,định giá theo quan hệ cung cầu.Cơ chế thị trường nó có thể tự điều chỉnh,cân đối nền kinh tế theo yêu cầu của các quy luật,giá cả,cạnh tranh hay lưu thông.Vận hành nền kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị trường là phương thức cơ bản để khai thác tối đa mội nguồn lực đưa vào sản xuất kinh doanh và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn đó nhằm đ ưa nhịp độ phát triển kinh tế với tốc độ nhanh đáp ứng nhu cầu công cuộc dựng xây 6
- Thương mại Việt Nam đất nước * Kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước Nền kinh tế thị trường có nhiều thành phần kinh tế tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh,mỗi thanh phần kinh tế vừa chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế riêng của các phương thức tạo ra nó,tự do cạnh tranh vể chiếm lĩnh thị trường,tìm kiếm lợi nhuận cao nhất,từ đó nền kinh tế thị trường luôn có tính hai mặt :mặt tích cực và mặt tiêu cực Mặt tích cực của nó là thúc đẩy sản xuất không ngừng phát triể,đổi mới trong kinh doanh,khai thác mọi tiềm lực và sử dụng có hiệu quả các tiềm lực đó trong sản xuất kinh doanh,đẩy nhanh nh ịp độ tăng trưởng kinh tế và nâng cao hiệu quả kinh tế – xã hội của nền kinh tế. Vì chạy theo lợi nhuận tự do cạnh tranh nên nền kinh tế thị trường bộc lộ rõ những mặt tiêu cựccủa nó là phát triển hàng hoá một cách vô tổchức cạch tranh không lành mạnh dẫn đến suy thoái,khủng hoảng xung đột xã hội,vi phạm pháp luật do đó luôn cần có s ự can thiệp kịp thời của Nhànước như một yếu tố khách quan. Đảm bảo thị trường phát triển ổn định sự quản lý của Nhà nước vừa tuân thủ những quy luật chung của nền kinh tế thị trường,vừa phải tuân thủ các quy luật của chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ chuyển giao.Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường theo định h ướng chiến lược và k ế hoạch phát triển kinh tế bằng pháp luật,tạo ra các công cụ để đi ều tiết thị trường ở tầm vĩ mô bằng cơ chế chính sách và sức m ạnh c ủa kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo. * Phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa Quản lý và phát triển nền kinh tế thị trường theo dịnh hướng xã hội chủ nghĩa là rút ngắn đặc trưng cơ bản nhất của nền kinh tế th ị trường ở nước ta,khác với nền kinh tế thị trường trong chế độ tư bản chủ nghĩa,phát triển sản xuất,kinh doanh theo cơ chế thị trường ở nước ta không chỉ là mục tiêu tạo ra một nền kinh tế lớn mạnh hội nhập và phát triển theo xu thếchung mà còn mục đích phát tri ển l ực l ượng s ản xuất,phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội,nâng cao đời sống nhân dân.Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựngquan hệ sản xuất mới phù hợp với định hướng đã đề ra: sở hữu,quản lý và phân phối. Trong vi ệc thực hiện mục đích xây dựng nền kinh tế thị trường theo đ ịnh h ướng xã hội chủ nghĩa nhà nước cần phải nhanh chóng điều chỉnh áp dụng 7
- Thương mại Việt Nam đồng bộ cách chính sách giải pháp,hoàn thiện chế độ sở hữuvề tư liệu sản xuất với nhiều hình thức sơt hữu khác nhau và nhiều thành phần kinh tế,trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò ch ủ đạo,tạo l ập đồng bộ các yếu tốthị trường,phân phối sản phẩm xã hội theo kết quả lao động và hợp đồng kinh tế,tránh tình trạng làm nhiều h ưởng ít,làm ít hưởng nhiều gây lên bất công cho xã hội b) Vai trò của ngành thương mại trong nền kinh tế thị trường Việt Nam * Thương mại tạo các điều kiện chuyển nền kinh tế tự cung tự cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước Trong lịch sử phát triển xã hội loài người,thương mại đã từng đóng vai trò khá quan trọng đó là xoá bỏ nền sản xuất nhỏ tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy ra đời nền sản xuất hàng hoá (hàng hoá sản xuất ra để trao đổi).Trong thời kỳ chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế này vai trò của thương mại lại được khẳng định như một mắt xích không thể thiếu được trong quá trình vận hành nền kinh tế theo cơ chế thị trường.Thương mại tác động tích cực thúc đẩy quá trình phân công lại lao động xã hội ở nước ta,chuyên môn hoá và hợp tác sản xuất,hướng sản xuất theo nền sản xuất hàng hoá lớn,tạo ra nguồn hàng lớn cung cấp cho chu cầu đa dạng trong nước và xuất khẩu.Thương mại là yếu tố trực tiếp thúc đẩy lưu thông hàng hoáphát triển,cung ứng hàng hoá và dịch vụ thông suốt trong vùng các trọng điểm kinh tế của đất nước.Sự hoạt động của thương mại bên cạnh chịu sự chi phối của các quy luật nền kinh tế hàng hoá,còn thực hiện cácchính sách kinh tế xã hội,cung ứng tư liệu sản xuất,vật phẩm tiêu dùng và mua các sản phẩm ở vùng kém phát triển,kinh tế khó khăn để thúc đẩy kinh tế hàng hoá ở các vùng này phát triển,đẩy lùi kinh tế tự nhiên rút ngắn khoảng cách giàu nghèo giữa các vùng,cân bằng lại các hoạt động kinh tế. * Thương mại góp phần xoá bỏ cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp từng bước xây dụng nền kinh tế thị trường Mặc dù,có nhiều hạn chế nhất định nhưng trong những năm thực hiện đường nối đổi mới vừa qua,ngành thương mại nước ta đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ.Nghị quyết hội nghị lần thứ 12 Ban chấp hành trung ương khoá VII đã khẳng định “ Ngành thương mại cùng các ngành và địa phương đã đạt được những thành tựu bước 8
- Thương mại Việt Nam đầu quan trọng ở lĩnh vực lưu thông hàng hoá và dịch vụ,góp phần tạo nên những biến đổi sâu sắc trên thị trường trong nước và thị trường ngoài nước”. Trong việc thực hiện đường lối đổi mới kinh tế cho thấy thương mại là nghành đi đầu trong việc xoá bỏ nền kinh tế tự cung tự cấp chuyển sang nền kinh tế thị trường.Nhờ sự đổi mới trong hoạt động thương mại mà việc mua – bán trên thị trường được thực hiện tự do theo quan hệ cung cầu,giá cả được hình thànhtrên thị trường dựa trên cơ sở quy luật giá trị,cung – cầu,sức cạnh tranh…tất cả những điều đó đã góp phần xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp và chuyển sang nền kinh tế thị trường hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa. * Thương mại thúc đẩy sản xuất phát triển cung ứng các nhu cầu cho nhân dân và đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước ( Xây dựng chủ nghĩa xã hội) Là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng thương mại cung ứng các tư liệu sản xuất cần thiết,tạo điều kiện cho tái sản xuất tiến hànhmột cách thuận lợi mặt khác thương mại tiêu thụ sản phẩm làm cho sản phẩm được thực hiện. Hàng hoá được tiêu thụ nhanh sẽ rút ngắn được chu kỳ tái sản xuấtvà tốc độ tái sản xuất.Thông qua nhiệm vụ hoạt động của mình trên thị trường rộng lớn,thương mại mở con đường tiêu thụ cho sản phẩmcông nông nghiệp,thúc đẩy công nghiệp phát triển. Trong thời kỳ thực hiện cơ chế quản lý hành chính tập trung quan liêu bao cấp mọi sản phẩm hàng hoá đều được nhà nước phân chia theo một cách nhất định,thương mại chỉ thực hiện cung cấp dịch vụ,hàng hoá do nhà nước định trước.Nền kinh tế có sức ì lớn các thành phần kinh tế không được khuyến khích phát triển,quan hệ cung cầu vốn đã mất cân đối lại càng mất cân đối hơn.Nhưng từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường hoạt động thương mại chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế thị trường đã góp phần kích thích sản xuất phát triển,cung ứng hàng hoá và dịch vụ cho nhân dân .Thương mại đã có nhiều những đóng góp tích cực trong việc ổn định và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân,cung ứng hàng hoá và dịch vụ theo yêu cầu của nhân dânvề số lượng cũng như mẫu mã và chất lượng hàng hoá với giá hợp lý và phong cách phục vụ quần chúng một cách tốt nhất . Hoạt động thương mại thông qua cơ chế thị trường kích thích các 9
- Thương mại Việt Nam nhà sản xuất kinh doanh ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật ,đổi mới trang thiết bị và quy trình công nghệ ,ứng dụng khoa học vào quản lý để nền sản xuất ngày một phong phú tiên tiến hơn,có đủ sức cạnh tranh trên thị trường .Đây là những tiến trình quan trọng trên con đường công nghiệp hoá ,hiện đại hoá đất nước.Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá là một quá trình chịu sự tác động của nhiều nhân tố trong đó thị trường và thương mại có ý nghĩa quan trọng.Hoạt động thương mại cótác dụng phát triển thị trường trong nước và ngoài nước thông qua xuất nhập khẩu .Hàng hoá tiêu thụ nhanh,giá trị hàng hoá được thực hiện ,phần tích luỹ trong cơ cấu giá cả hàng hoá được hình thành.Mặt khác bản thân thương mại cũng góp phần tích luỹ phần tích luỹ của thương mại chính làlợi nhuận do thực hiện chức năng lưu thông nói đúng hơn là do thực hiện chức năng tiếp tục quá trình sản xuất trong lưu thông tạo ra.Như vậy hoạt động thương mại góp phần tích luỹ vốn cho sự nghiệp ,công nghiệp hoá ,hiện đại hoá đất nước,trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội phồn vinh và phát triển. * Thương mại góp phần mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại và hội nhập Các quy luật phân công và hợp tác lao động ,về lợi thế so sánh giữa các quốc gia,vốnlà những quy luật có liên quan đến sự hình thành và phát riển thương mại quốc tế.Tuy vậy trong thời kỳ nước ta luẩn quẩn trong nền kinh tế bao cấp,nhà nước hầu như “đóng cửa”hợp tác quốc tế bị thu hẹp ,có chăng chỉ là một doanh nghiệp của nhà nước được phép xuất nhập khẩu. Thực hiện đường lối đổi mới kinh tế chính sách mở cửa ,quan hệ hợp tác quốc tế giữa nước ta với các nước ngày càng phát triển ,phù hợp với xu hướng chung là hội nhập khu vực và thế giới.Nhà nước cho phép tất cả cácloại hình doanh nghiệp của các thành phần kinh tế được kinh doanh xuất nhập khẩu . Quan hệ thương mại với các nước sẽ ngày càng được củng cố vì lợi ích từ hai phía ,thương mại sẽ đóng vai trò trực tiếpmở rộng các hoạt động xuất nhập khẩu ,xuất khẩu tại chỗ thiết lập và mở rộng quan hệ buôn bán với các nước trên thế giới ,góp phần mở rộng quan hệ 10
- Thương mại Việt Nam kinh tế đối ngoại,nối liền sản xuất với tiêu dùng trong nước với các nước trên thế giới ,góp phần tích luỹ vốn ,nhất là vốn ngoại tệ và đổi mới công nghệ .Ngoài ra sẹ mở cửa quan hệ thương mại góp phần phá vỡ thế bị bao vây cấm vận,thay đổi cách nhìn nhận của bạn bè quốc tế và nâng cao vị thế của Việt Nam. 2. Nội thương Việt Nam 2.1. Khái niệm nội thương Nội thương, còn được gọi là thương mại nội địa, là việc trao đổi hàng hóa nội địa trong phạm vi ranh giới của một quốc gia. Điều này có thể được phân chia thành hai loại, bán buôn và bán lẻ . Thương mại bán buôn là có liên quan với việc mua hàng hóa từ nhà sản xuất hoặc đại lý với số lượng lớn và bán chúng với số lượng nhỏ hơn cho những người khác, những người có thể bán lẻ hoặc thậm chí người tiêu dùng . Thương mại buôn bán được thực hiện bởi các thương nhân bán buôn hoặc đại lý hoa hồng bán buôn. Thương mại bán lẻ là có liên quan với việc bán hàng hóa với s ố lượng nhỏ cho người tiêu dùng. Thức thương mại này được đưa về chăm sóc bởi các nhà bán lẻ. Tuy nhiên, trong thực tế, các nhà sản xuất và bán buôn cũng có thể thực hiện phân ph ối bán l ẻ hàng hoá đ ể bỏ qua các nhà bán lẻ trung gian, nhờ đó họ kiếm được cao hơn lợi nhuận . Hoạt động thương mại trong nước thời gian qua phát tri ển sôi động, khối lượng hàng hoá lưu thông tăng lên liên tục, mặt hàng ngày càng phong phú, đa dạng vê mẫu mă, chủng loại, đáp ứng đư ợc nhu cầu cơ bản sản xuất. Các thủ tục : giao bán hàng t ại nhà, th ủ t ục gói hàng,làm bao bì,quảng cáo. Ngoài các thủ tục còn có các hình th ức bán hàng mới như: cửa hàng tự chọn, bán hàng bằng máy tự động, bán hàng qua điện thoại, máy tính, thẻ tín dụng đang phát tri ển mạnh m ẽ. Bên cạnh đó các hình thức bán hàng cổ điển vẫn gi ữ được v ị th ế h ết sức quan trọng: tổng đại lý, bán hàng tổng hợp , bán chịu hay bán trả góp 2.2. Tình hình nội thương ở Việt Nam Kinh tế Việt Nam trong năm 2011 đã chịu những tác động không nhỏ từ các yếu tố bên ngoài như khủng hoảng nợ công ở châu Âu, sự suy thoái của các nền kinh tế phát triển ... Trong nước, thời tiết tác động bất lợi đến sản xuất, một số chi phí đầu vào cho sản xuất tăng; đặc 11
- Thương mại Việt Nam biệt, chúng ta phải thực hiện việc thắt chặt chính sách tiền tệ, tài khoá để ngăn chặn lạm phát tăng cao ... Tuy nhiên, dưới sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, sự đồng thuận cũng như hưởng ứng tích cực của toàn dân và DN, cung cầu hàng hoá trong nước tiếp tục giữ được sự ổn định và có chuyển biến tích cực. a. Ổn định và phát triển Theo Bộ Công Thương, năm vừa qua bất chấp những khó khăn và thách thức của nền kinh tế, hàng hóa cung ứng trên thị trường ngày càng phong phú về qui cách, chủng loại và chất lượng, đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng ngày càng đa dạng trong nước. Nhiều DN th ương mại đã củng cố và phát triển hệ thống phân phối, triển khai các loại hình bán buôn, bán lẻ mới theo hướng hiện đại và chuyên nghiệp. Mạng lưới chợ và loại hình thương mại truyền thống tiếp tục được quan tâm phát triển. Thị trường miền núi, hải đảo được bảo đảm cung cấp các mặt hàng chính sách như sách vở, muối ăn, dầu h ỏa ... Ngoài ra hệ thống siêu thị ngày càng được ưu chuộng đáp ứng nhu cầu của khách hàng, đảm bảo hơn chất lượng của sản phẩm. Cân đối cung cầu các mặt hàng thiết yếu cơ bản được bảo đảm, đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của nhân dân, không để xảy ra tình trạng “sốt hàng, sốt giá”. Tuy nhiên,do giá không ít loại hàng hóa tăng, cộng thêm với diễn biến phức tạp của thời tiết, dịch bệnh gây giảm nguồn cung một số mặt hàng nông sản thực phẩm thiết y ếuđã dẫn đến tăng CPI và ảnh hưởng đến tiêu thụ sản phẩm, đến đời sống nhân dân. Theo đó, tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng cả nước năm 2011 ước đạt 2.004,4 nghìn tỷ đồng, tăng 24,2% so với năm 2010. Đây là mức tăng khá cao trong bối cảnh nền kinh tế gặp khó khăn. Đáng chú ý, trong năm 2011 hệ thống phân ph ối theo "chu ỗi" b ắt đ ầu được hình thành và có xu hướng phát triển như là một tất y ếu khách quan của lý thuyết "quy mô kinh tế" trong lĩnh vực phân ph ối. Ph ương thức nhượng quyền thương mại đang từng bước hình thành nhằm mở rộng mạng lưới bán hàng, khai thác và kết hợp nguồn lực của nhiều doanh nghiệp nhỏ trở thành hệ thống có qui mô lớn và có trình độ tổ chức cao. Bên cạnh đó, công tác quản lý thị trường đã được quan tâm và chú trọng hơn. Lực lượng Quản lý thị trường đã phối hợp với các lực lượng chức năng có liên quan tích cực thực hiện công tác kiểm tra 12
- Thương mại Việt Nam kiểm soát thị trường, các đơn vị phụ trách về thị trường trong nước cùng với các sở công thương đã làm tương đối tốt công tác dự báo tình hình, chủ động nắm tình hình cung cầu, giá cả hàng hoá, đặc biệt là một số mặt hàng thiết yếu như: gạo, lương thực, th ực phẩm, xăng dầu, phân bón… kịp thời đưa ra những giải pháp cụ thể để xử lý những vấn đề xảy ra trên thị trường, hạn chế tình trạng đầu cơ, góp phần ổn định thị trường. b. Tiếp tục mở rộng Theo Bộ Công Thương, năm 2012 bảo đảm cân đối cung cầu những mặt hàng trọng yếu, đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế và tiêu dùng của nhân dân trong mọi tình huống vẫn là những ưu tiên hàng đầu của Chính phủ. Theo đó, tập trung hoàn thành quy hoạch phát triển các h ệ th ống phân phối và hệ thống sản xuất các mặt hàng quan trọng, thiết yếu; từng bước phát triển hệ thống phân phối hiện đại (siêu th ị, trung tâm thương mại, cửa hàng tiện lợi), trước hết tại các thành ph ố và các đô thị lớn. Tiếp tục thực hiện cuộc vận động "Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam". Bên cạnh đó, nâng cao chất lượng công tác thông tin, dự báo th ị trường và phân tích diễn biến cung cầu, giá cả th ị trường; Đ ẩy m ạnh các hoạt động xúc tiến thương mại nhằm mở rộng thị trường nội địa, nhất là vùng nông thôn, miền núi. Ứng dụng nhanh thương mại điện tử tạo ra các kênh phân phối văn minh, hiện đại. Đồng thời, tăng cường công tác quản lý thị trường, chống buôn lậu, hàng giả, kém chất lượng; tăng cường quản lý và giám sát cạnh tranh; điều tra và xử lý kịp thời các vụ việc vi phạm để bảo đảm môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng cho các DN thu ộc m ọi thành phần kinh tế, bảo vệ quyền lợi người tiêu Dự kiến tổng mức lưu chuyển bán lẻ hàng hoá và dịch vụ xã hội 2012 tăng khoảng 22-23% so với năm 2011, ước đạt khoảng 2.445 nghìn tỷ đồng./. 2.3. Nội thương qua những con số Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 6 tháng đầu năm 2012 ước đạt 1141,4 nghìn tỷ đồng, tăng 19,8% so với cùng kỳ năm 2011. Nếu loại trừ yếu tố giá, tổng mức bán lẻ tăng 6,8%, đây là mức tăng cao nhất từ đầu năm đến nay. Theo các thành phần kinh tế, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài có mức tăng trưởng cao nhất, tăng 34,2%, tiếp đó là khu vực kinh tế 13
- Thương mại Việt Nam tư nhân và kinh tế cá thể tăng lần lượt là 26,4% và 20,4%, khu vực kinh tế nhà nước có mức tăng trưởng thấp nhất, chỉ tăng 1,1%. Theo ngành kinh tế, tăng cao nhất là ngành du lịch (tăng 27%); tiếp theo là dịch vụ (22,8%); khách sạn, nhà hàng (20,6%) và cuối cùng là thương nghiệp (19,3%). Tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ 6 tháng đầu năm so với cùng kỳ giảm 2,8 điểm phần trăm (cùng kỳ năm 2011 tăng 22,6%). Th ị trường hàng hoá trong nước dồi dào, nguồn cung hàng hoá trên thị trường luôn được đảm bảo, tuy nhiên tiêu dùng chững lại do kinh tế gặp khó khăn, hàng hoá khó tiêu thụ, giá giảm. Chỉ số giá tiêu dùng 6 tháng đầu năm so với tháng 12 năm 2011 chỉ tăng 2,52% đây là mức tăng khá thấp so với nhi ều năm tr ở l ại đây (6 tháng đầu năm 2005-2011 của các năm thông thường tăng từ 2,68- 5,2%, riêng năm 2008 tăng 18,44%, năm 2011 tăng 13,29%). Trong cơ cấu CPI 6 tháng đầu năm, ngoài nhóm bưu chính viễn thông tiếp tục giảm 0,22% thì nhóm lương thực đã giảm khá sâu, giảm 4,68%. Chính sự giảm sâu của nhóm lương thực đã giữ cho nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng thấp nhất trong 11 nhóm hàng (chỉ tăng 1,09%). Các nhóm giao thông, nhà ở và vật liệu xây dựng sau khi tăng m ạnh trong 4 tháng đầu năm do giá xăng dầu, gas tăng cao thì sang tháng 5, 6 đã giảm liên tục do giá các mặt hàng này giảm. Nhóm có mức tăng cao nhất là nhóm hàng hoá dịch vụ khác tăng 6,28% do vi ệc đi ều ch ỉnh tăng phí bảo hiểm xã hội và một số dịch vụ khác. Các nhóm còn lại tăng từ 2,08-4,77%. Theo nhận định của Bộ Công thương, 6 tháng còn lại của năm 2012, thương mại nội địa có nhiều dấu hiệu khả quan hơn vì từ đây đến cuối năm là thời điểm có nhiều dịp lễ hội diễn ra trên cả nước nh ư, rằm Trung Thu, Quốc khánh, chuẩn bị cho Tết dương lịch và Tết Nguyên đán Quý tỵ… Ngoài ra, với những chính sách khuyến khích tiêu dùng của Chính phủ, sức mua trên thị trường tăng cao hơn 6 tháng đầu năm. Dự kiến, cả năm 2012, tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ xã hội tăng khoảng 20 – 21% so với năm 2011, cân đ ối cung c ầu m ột số mặt hàng trọng yếu 2012 vẫn đảm bảo. 3. Ngoại thương Việt Nam 3.1. Khái niệm ngoại thương Ngoại thương là việc trao đổi hàng hóa và dịch vụ quan biên giới quốc gia hoặc lãnh thổ. Đối với phần lớn các nước, nó tương đương 14
- Thương mại Việt Nam với một tỷ lệ lớn trong GDP. Mặc dù thương mại quốc tế đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử loài người (xem thêm Con đường Tơ lụa và Con đường Hổ phách), tầm quan trong kinh tế, xã hội và chính trị của nó mới được để ý đến một cách chi tiết trong vài thế kỷ gần đây. Thương mại quốc tế phát triển mạnh cùng với sự phát triển của công nghiệp hoá, giao thông vận tải, toàn cầu hóa, công ty đa quốc gia và xu hướng thuê nhân lực bên ngoài. Việc tăng cường thương mại quốc tế thường được xem như ý nghĩa cơ bản của "toàn cầu hoá". Ngoài ra Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại quốc tế WTO tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho việc buôn bán với nước ngoài đồng thời cũng là thách thức không ít với thị trường trong nước và đặc biệt là khi buôn bán với nước ngoài xảy ra không ít vấn đề VD : Tình trạng bị kiện chống phá giá. Tình trạng mất thương hiệu. Hay tình trạng sản phẩm Việt Nam không đạt tiêu chuẩn Quốc Tế. Ngoại thương với tư cách là một khoa học cũng là một nhánh của kinh tế học. Thương mại quốc tế hợp cùng tài chính quốc tế tạo thành ngành kinh tế học quốc tế. 3.2. Những vấn đề nổi bật của hoạt đông ngoại thương trong những năm gần đây: a) Tăng trưởng trong khó khăn Nhưng ngay đầu năm 2011, ngành công thương lại nhìn nhận tình hình thương mại quốc tế sẽ không dễ dàng như trước. Hội nghị ngành này lúc đó cho rằng, các quốc gia đang từng bước chuyển đổi cơ cấu và xu hướng sẽ là cân bằng lại thị trường trong nước và ngoài nước, đặc biệt với những thị trường dung lượng lớn. Hoa kỳ, EU, Nhật Bản, những thị trường xuất khẩu chủ lực của Việt Nam đều được dự báo sẽ khó khăn hơn trong tăng trưởng. Cho nên, xuất hiện sự hồ nghi khả năng không đạt được mức tăng trưởng kim ngạch trên 20% trong năm trước đó. Năm đầu tiên thực hiện nghị quyết của Đại hội Đảng 11, mục tiêu tăng trưởng xuất, nhập khẩu đề ra chỉ ở mức khá khiêm tốn xuất khẩu tăng khoảng 10% so với thực hiện năm trước. Nhưng, thực tế đã không diễn ra như vậy. Số liệu chốt cho tới thời điểm này được Vụ trưởng Vụ Thương mại Dịch vụ (Tổng cục Thống kê) Lê Thị Minh Thủy thông tin với 15
- Thương mại Việt Nam VnEconomy, tổng kim ngạch xuất khẩu cả năm ước tính đã vượt 96 tỷ USD, tăng khoảng 33% so với năm 2010; kim ngạch nhập khẩu đạt gần 106 tỷ USD, tăng tương ứng khoảng 25%. b) Vị thế đối tác thương mại mới Nhìn lại trong 12 tháng qua, về cơ bản kim ngạch xuất, nhập khẩu không có tháng nào quá đuối, trừ tháng 2 do ảnh hưởng của Tết Nguyên đán. Sau một chuỗi các tháng cuối năm 2010 kim ngạch xuất, nhập khẩu duy trì ổn định ở mức 6 tỷ và 7 tỷ USD đã là khá cao so với trước, sang năm 2011, ngoại thương Việt Nam tiến thêm một bước dài. Dung lượng thị trường xuất khẩu đã cố định được ở mức từ 7,2-9,3 tỷ USD/tháng; trong khi nhập khẩu kéo từ mức 8,2-9,6 tỷ USD/tháng, suốt giai đoạn từ tháng 3 cho đến tận cuối năm. Một vài biểu hiện “ngúng nguẩy” từ đối tác lớn như trường hợp gạo Việt bị thương nhân Philippines “bắt bí”, hay dệt may đuối hơn vào cuối năm, vàng “khuynh đảo” cả hai chiều thương mại… chưa dễ làm thay đổi vị thế ngoại thương vẫn đang liên tục tăng trưởng và mở rộng mấy năm gần đây. Năm 2011 khép lại với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đã vượt mức 200 tỷ USD, gấp khoảng 2 lần GDP năm trước đó. Kết quả là Việt Nam đã “qua mặt” Philippines để giữ vị trí thứ 5 về xuất nhập khẩu trong khu vực Đông Nam Á, chỉ còn xếp sau Singapore, Thái Lan, Indonesia và Malaysia. c) Nhập siêu có xu hướng giảm Trong một cuộc họp với Bộ Công Thương gần đây, Phó thủ tướng Hoàng Trung Hải khi đề cập đến con số nhập siêu giảm trong năm nay có nói vui về một thứ trưởng, khi đó, ông Hải dùng từ “lắm chiêu” để khen cho Bộ Công Thương hoàn thành nhiệm vụ được giao. Vị thứ trưởng nọ khi đó chỉ cười, nhưng những gì mà con số nhập siêu thể hiện đã cho thấy nỗ lực của ngành này. Bởi lẽ, sau hai năm liền ở trạng thái thâm hụt cán cân thanh toán tổng thể, dự trữ ngoại hối của Việt Nam đã bị “thổi bay” nhiều tỷ USD. 16
- Thương mại Việt Nam Tính đến quý 1/2011, con số chính thức từ Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho thấy, dự trữ ngoại hối chỉ còn tương đương khoảng 3,5 tuần nhập khẩu. Gánh vác việc cân bằng lại thu - chi ngoại tệ của quốc gia, Bộ Công Thương là điểm đột phá đầu tiên. Cũng giống như 2009, năm nay trạng thái ngoại thương của Việt Nam có rất nhiều đột biến, đặc biệt là trong quý 3. Ở giai đoạn này, cán cân thương mại biến động dữ dội giữa các mốc xuất siêu hơn 1,1 tỷ USD trong tháng 7, sang nhập siêu trên 1,5 tỷ USD của tháng 9. Tuy nhiên, về tổng thể, nhập siêu đã được kiểm soát tốt hơn, với con số ước tính trong năm khoảng 9,5 tỷ USD, thấp hơn nhiều năm 2010 (nhập siêu 12,6 tỷ USD) và 2009 (12,85 tỷ USD). Tỷ lệ nhập siêu so với kim ngạch xuất khẩu giảm xuống 10,4% trong năm nay, thay vì 17,5% trong năm 2010. Theo thông tin chính thức, cán cân thanh toán tổng thể của Việt Nam trong năm nay ước tính tăng khoảng 2,5-3 tỷ USD và dự trữ ngoại hối cũng đã tăng lên, tương ứng bằng khoảng 7,5 tuần nhập khẩu vào quý 3 năm nay. d) Cơ cấu xuất nhập khẩu ít thay đổi Nhưng những lưu ý của Bộ Công Thương về các hạn chế trong cơ cấu hàng xuất nhập khẩu lâu nay, trong năm 2011 chưa được cải thiện nhiều. Về cơ bản, Việt Nam vẫn ở tình trạng nhập lớn nguyên, nhiên liệu, nhất là nguyên liệu gia công sản xuất các ngành như dệt may, da giày, linh kiện điện tử... thể hiện tính gia công và phụ thuộc bên ngoài của sản xuất trong nước. Về nhập khẩu, nhóm hàng nguyên nhiên vật liệu, máy móc thiết bị, phụ tùng ước đạt kim ngạch 87,6 tỷ USD trong năm nay, tăng 22,5% so với năm 2010, dù tỷ trọng trong tổng kim ngạch nhập khẩu đã giảm khoảng 1,7% nhưng vẫn chiếm tới 82,6% kim ngạch nhập khẩu. Với các mặt hàng máy móc, thiết bị, phụ tùng, thị trường nhập khẩu chủ yếu vẫn là châu Á - Thái Bình Dương nên nhiều lo ngại lâu nay về xu hướng tăng nhập khẩu công nghệ trung gian chưa được giải quyết triệt để. 17
- Thương mại Việt Nam Trong khi đó, xuất khẩu tăng về tỷ trọng hàng công nghiệp chế biến nhưng chủ yếu là gia công, với tỷ trọng nhóm hàng công nghiệp chế biến tăng từ 59,6% trong năm 2010 lên 60,2%. Nhóm hàng nhiên liệu khoáng sản cũng tăng nhẹ tỷ trọng từ 11,2% lên 11,7%. Riêng nhóm hàng nông, lâm, thủy sản giảm từ 21,2% xuống 20,3%. e) Tăng giá xuất nhập khẩu: Công và “tội” Đóng góp vào mức tăng mạnh kim ngạch xuất nhập khẩu năm nay, yếu tố giá thể hiện ở tất cả các mặt hàng có tính được về lượng. Ngoài gạo, cà phê, cao su, dầu thô, than được hưởng lợi nhờ giá thị trường thế giới tăng mạnh, một số mặt hàng khác là do hàm lượng chế biến trong sản phẩm xuất khẩu được nâng lên như thủy sản, hàng dệt may, sản phẩm gỗ, sản phẩm chất dẻo, dây và cáp điện... Trong khoảng 24 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu tăng cao hơn năm ngoái, đóng góp của nhân tố tăng giá chiếm 7,2 tỷ USD, trong đó nhóm nông sản, thủy sản tăng thêm được khoảng 3,3 tỷ USD, nhóm nhiên liệu khoáng sản khoảng 2,8 tỷ USD, nhóm công nghiệp chế biến khoảng 1,1 tỷ USD. Tuy nhiên, giá nhập khẩu nhiều mặt hàng cũng tăng rất mạnh, ảnh hưởng không nhỏ đến đầu vào của sản xuất kinh doanh trong nước. f) Điều chỉnh lớn với đối tác Trong dòng chảy chung của tăng trưởng xuất nhập khẩu năm nay, đã xuất hiện hai xu hướng tích cực được điều chỉnh về phía các đối tác thương mại của Việt Nam rất đáng ghi nhận trong năm nay. Thứ nhất là việc tiếp cận sâu hơn đối với các thị trường mới ở khu vực châu Phi. Thứ hai là cân bằng hơn đối với các đối tác thương mại chính. Mặc dù tổng kim ngạch xuất khẩu vào châu Phi của Việt Nam mới ở mức khoảng 3,1 tỷ USD trong năm nay, nhưng tốc độ tăng trưởng đã lên tới 131%, riêng Nam Phi tăng 250%. New Zealand cũng nằm trong số các thị trường xuất khẩu mới của Việt Nam, có mức tăng trưởng kim ngạch khá cao tới 29%. 18
- Thương mại Việt Nam Trong khi đó, tất cả các thị trường xuất khẩu chủ lực của ta đều ghi nhận mức tăng trưởng kim ngạch cao hơn bình quân chung. Các ví dụ điển hình là xuất khẩu vào Hàn Quốc tăng tới 64% trong khi nhập khẩu tăng 34%; sang Trung Quốc tăng 58% trong khi chiều ngược lại tăng 21%; Nhật Bản tăng 37% và 14%; EU là 48% và 18%... g) Lại biến động do vàng Hai động thái ngược chiều của Ngân hàng Nhà nước trong năm nay: để cho doanh nghiệp “thả phanh” xuất vàng, và nhanh chóng cấp quota nhập khẩu, đã tạo nên hình thái biến động rất lớn cho một giai đoạn giá vàng “điên đảo” cán cân thương mại. Đột biến xuất siêu lớn đến xuất siêu hơn 1,1 tỷ USD trong tháng 7, rồi nhanh chóng trở lại nhập siêu tới trên 1,5 tỷ USD trong tháng 9, dòng ngoại tệ vào ra lớn gắn với dấu hỏi về “chảy máu” vàng trong năm nay. Ở thị trường trong nước, giá vàng có điều chỉnh rất lớn, chỉ số giá vàng bình quân trong năm nay tăng 39% so với năm 2010. Trên thị trường, nhiều thời điểm giá mua vào và bán ra chênh lệch tới 4-5 triệu đồng/lượng là điều kiện để kim loại quý này xuất ngoại, hoặc nhập vào trong nước, tạo kênh kinh doanh siêu lợi nhuận cho giới đầu cơ. Tính đến cuối tháng 11, Việt Nam đã xuất khẩu trên 2,6 tỷ USD kim ngạch nhóm đá quý, kim loại quý và sản phẩm, trong khi nhập khẩu tương ứng gần 2,2 tỷ USD. h) Năm của nhiều chính sách kiểm soát nhập siêu Ngày 9/2, Tổng cục Hải quan đã ban hành “Tuyên ngôn phục vụ khách hàng” với những cam kết trước cộng đồng xã hội về việc đảm bảo tính chuyên nghiệp, minh bạch và hiệu quả trong quản lý nhà nước về hải quan đối với các hoạt động thương mại, đầu tư và du lịch quốc tế. Tuy nhiên, trong một năm mà nhiệm vụ kiểm soát nhập siêu đặt trên vai “người gác cửa” của thị trường Việt Nam này, nhiều chính sách vẫn hướng vào việc khuyến khích xuất khẩu và giảm nhập khẩu. 19
- Thương mại Việt Nam Ngày 23/5, Tổng cục Hải quan đã bổ sung 7 nhóm hàng vào danh mục quản lý rủi ro cần kiểm tra về giá tính thuế và sửa đổi, bổ sung mức giá mặt hàng xe ôtô, xe hai bánh gắn máy. Còn kể từ ngày 1/6, các mặt hàng rượu, mỹ phẩm, điện thoại di động (trừ hành lý mang theo người của khách nhập cảnh) chỉ được làm thủ tục nhập khẩu, thông quan tại ba cảng biển quốc tế là Hải Phòng, Đà Nẵng và Tp.HCM. Trong khi đó, ngày 19/7, Tổng cục Hải quan công nhận 9 doanh nghiệp được ưu tiên trong quản lý nhà nước về hải quan, thuốc các lĩnh vực xuất khẩu thủy sản, xuất khẩu gạo, xuất khẩu cà phê và kinh doanh dầu khí… Kết quả về cuối năm là kim ngạch nhập khẩu của nhóm hàng cần hạn chế (hàng tiêu dùng, ô tô từ 9 chỗ trở xuống, xe máy) tăng 2,5%, thấp hơn nhiều so với mức tăng trưởng chung 25%. Tỷ trọng của nhóm này trong kim ngạch nhập khẩu cũng giảm khoảng 1 điểm phần trăm, xuống mức 5,8%. i) Ngoại thương tác động mạnh đến thị trường ngoại hối Như đã nói ở phần đầu, nhập siêu trên 12,6 tỷ USD trong năm 2010, với 3 tháng cuối cùng liên tục vượt 1 tỷ USD đã tạo sức ép lớn đến thị trường ngoại hối. Chênh lệch quá lớn giữa thị trường chính thức và chợ đen, dự trữ ngoại hối thâm thủng nặng nề, đã buộc Ngân hàng Nhà nước phải phá giá đồng nội tệ. Ngày 11/2, Ngân hàng Nhà nước đã quyết định tăng giá USD/VND tới 9,3%, mức lớn nhất trong ghi nhận mấy năm gần đây, cùng với đó là thu hẹp biên độ xuống mức +/-1%. Nhưng “điềm báo” đầu năm ấy đã không thể hiện xu hướng cho cả một năm. Dù vẫn có nhiều thời điểm thăng trầm, nhưng về cơ bản, thị trường ngoại hối tương đối ổn định trong năm nay. Chỉ số giá USD bình quân chỉ tăng 8,47%, mức tăng của tháng 12/2011 so với cùng kỳ năm trước lại chỉ có 2,24%. Tác động ngược lại đến hoạt động ngoại quan, ước tính nguyên nhân điều chỉnh tỷ giá đã làm cho thu hải quan năm nay tăng khoảng 5 nghìn tỷ đồng. 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Thực trạng và giải pháp cho quan hệ thương mại Việt Nam với Nhật Bản - 5
10 p | 122 | 31
-
So sánh tham chiếu với hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ và các quy định của Tổ chức thương mại thế giới - Báo cáo nghiên cứu Công khai, minh bạch hóa ở Việt Nam: Phần 1
145 p | 130 | 26
-
So sánh tham chiếu với hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ và các quy định của Tổ chức thương mại thế giới - Báo cáo nghiên cứu Công khai, minh bạch hóa ở Việt Nam: Phần 2
109 p | 109 | 24
-
Quan hệ Thương mại Việt Mỹ và vấn đề xuất khẩu hàng Việt Nam sang Mỹ - 4
12 p | 115 | 19
-
Việt nam : tìm kiếm bình đẳng trong tăng trưởng
130 p | 85 | 17
-
Vai trò của người Hoa trong việc hình thành và phát triển các trung tâm thương mại ở Nam Bộ (Thế kỷ XVII-XIX)
12 p | 117 | 13
-
Óc Eo, một trung tâm văn hóa - thương mại ở Nam Đông Dương trong 6 thế kỷ đầu công nguyên
3 p | 110 | 12
-
Cơ hội và thách thức của Việt Nam khi tham gia AEC
4 p | 103 | 10
-
Mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và cán cân thương mại Việt Nam thời kỳ 1995 - 2004
12 p | 84 | 4
-
Vị thế thương mại của Pháp ở Việt Nam thời thuộc địa (1897-1945)
8 p | 70 | 3
-
Đồ gốm thương mại Việt Nam thế kỷ XIV - XVII
9 p | 28 | 3
-
Vị thế Nam Bộ trong quan hệ kinh tế thương mại Việt - Nhật
12 p | 50 | 2
-
Quan hệ thương mại Việt Nam Châu Á từ thế kỷ đến năm 1945 (Tiếp theo và hết)
7 p | 30 | 2
-
Quan hệ thương mại Việt Nam - Ấn Độ
8 p | 62 | 2
-
Lịch sử doanh nghiệp Việt Nam từ xưa đến nay (Tập 1): Phần 2
72 p | 28 | 2
-
Đặc điểm của thương mại Quảng Trị thế kỷ XVI – XIX
6 p | 21 | 2
-
Ebook Lịch sử công thương Việt Nam (1945-2010): Phần 2
452 p | 10 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn