Tiểu luận: Những giới hạn của kinh doanh chênh lệch giá (Arbitrage)
lượt xem 31
download
Tiểu luận: Những giới hạn của kinh doanh chênh lệch giá (Arbitrage) nhằm nêu lý thuyết nghiên cứu trước đây nghiên cứu về những hệ quả của vấn đề người đại diện quản lý tập đầu tư. Các nghiên cứu trước đây bao gồm Allen (1990) và Bhaattacharya, Pfleiderer (1985). Scharf stein và S tein (1990) mô hình tập hợp bởi các nhà quản lý quỹ hoạt động dựa trên những hợp đồng khuyến khích.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tiểu luận: Những giới hạn của kinh doanh chênh lệch giá (Arbitrage)
- BỘ GIÁO DỤC VÀ TẠO TRƯỜ NG ĐẠI HỌ C KINH TẾ H Ồ CHÍ MINH Chuyên đề NHỮNG GIỚI HẠN CỦA KINH DOANH CHÊNH LỆCH GIÁ (ARBITRAGE) SVTH: Nhóm 4 GVHD: Cô Trần Thị Hải Lý Lớp: Tài chính doanh nghiệp-Đêm 4 Khóa: 19 TP.Hồ Chí Minh - năm 2011
- MỤC LỤC I. GIỚI THIỆ U CHUNG ..............................................................................................................3 1. Khái niệm về arbitrage (kinh d oanh ch ênh lệch gi á) ...................................................................3 2. Vấn đề nghi ên cứu ...................................................................................................................3 3. Mục ti êu nghi ên cứu ................................................................................................................3 4. Các n ghi ên cứu trước đó ..........................................................................................................3 5. Phương pháp nghiên cứu ..........................................................................................................3 II. NỘI DUNG CHÍNH...............................................................................................................4 1. Mô hình đại diện của giới hạn arbit rage.....................................................................................4 2. Hiệu quả arbit rage và hiệu quả thị trường ..................................................................................8 3. Những t hảo luận về hi ệu quả arbit rage ....................................................................................10 4. Những kin h nghi ệm t ừ thực t ế ................................................................................................11 III. KẾT LUẬN..........................................................................................................................13
- I. GIỚ I THIỆU CH UNG 1. Khái niệm về arbitrage (kinh doanh chênh lệch giá) Một trong những khái niệm nền tảng trong tài ch ính là arbitrage, được định n ghĩa như là “sự mua và bán đồn g thời cùn g một loại chứn g khoán hoặ c c ác chứn g khoán r ất giống nha u ở hai thị trườn g khác nha u để đạt được lợi ích từ việc chênh lệch giá” ( Sharpe và Alexan der 1990). Về m ặt lý thuyết m à nói, những arbitrage nh ư vậy không đòi hỏi vốn và hoàn toàn không có r ủi ro. Khi m ột nhà arbitrage m ua một chứng khoán rẻ và bán ở mức đắt hơn, nhà arbitrage đó nhận chắc chắn đã được lợi nhuận từ trước và dòn g tiền ròng trong tươn g lai sẽ bằng không. Ar bitra ge đón g v ai trò quan trọng trong phân tích thị trườn g chứn g khoán bời vì tác độn g của nó là làm cho giá chứng khoán trở về giá trị nền tản g và giữ cho thị trườn g hiệu quả. 2. Vấn đề nghiên cứu Các hoạt độn g ar bitrage trên thực tế phức tạp hơn và nhà ar bitrage phải đối m ặt với nhữn g r ủi ro ngắn h ạn. Đặc biệt, vấn đề c àng trở nên ph ức tạp trong bối cảnh vấn đề đại diện khi mà nhà arbitrage đầu tư thông qua các quỹ được huy độn g từ n guồn vốn c ủa c ác nhà đầu tư khác nhau. 3. Mục tiêu nghiên cứu Mô tả hoạt động của thị trường ở đó nhà ar bitrage chuyên nghiệp đầu tư bằn g vốn của nhà đầu tư bên n goài v à nhà đầu tư bên n goài sử dụn g hi ệu quả của nh à ar bitrage để xá c định khả năn g sinh lợi c ủa họ. Ch ứng minh rằng hiệu quả của hoạt độn g arbitrage ch uyên n ghiệp có thể khôn g ho àn toàn hiệu quả trong việc làm cho giá chứn g khoán về giá trị nền tản g, đặc biệt là trong những tình huống n ghiêm t rọng. 4. Các nghiên cứu trước đó Đã có một số lý thuy ết nghiên cứu trước đây n ghiên cứu về những hệ quả của vấn đề người đại diện quản lý tập đầu tư. Các nghiên cứu trước đây bao gồm Allen (1990) và Bhaattacharya, Pfleiderer (1985). Scharf stein và S tein (1990) m ô h ình tập hợp bởi các nhà quản lý quỹ hoạt động dựa trên nhữn g hợp đồng kh uyến khích. Hai bài nghiên cứu gần đây, Allen và Gorton (1993); và Do w và Gorton (1994) cho thấy các nhà quản lý quỹ có thể tạo són g (m ua và bán thườn g x uyên) tài sản để gây nhầm lẫn cho nh à đầu tư như thế nào và hoạt độn g tạo són g làm cho thiếu h iệu quả trong x ác định giá trị thực của tài sản như thế n ào. T uy nhiên, ngh iên cứu này khôn g tập trung nh iều vào hành vi bóp méo trong của các nhà arbitrage mà tập trung vào tính giới hạn c ủa hiệu quả nh à ar bitrage trong việc đem giá về giá trị thực. 5. Phương phá p nghiên cứu
- Xây dựng mô hình thể hiện m ối tươn g quan giữa các yếu tố trong hoạt độn g ar bitra ge Quan sát kinh n ghiệm t hực tế II. NỘ I DUNG CHÍNH 1. Mô hình đại diện của giới hạn arbitrage Cấu trúc của mô hình này theo Shleifer và Vishny (1990). Mô hình tập trung vào thị trường tài sản cụ thể, ở đó có 3 loại đối tượn g tham gia: nhà đầu tư gây nhiễu (noise trader), nhà đầu tư chênh lệch giá (ar bitra geurs) và nhà đầu tư (investors) trong các quỹ ar bitra ge người m à khôn g tự thực hi ện m ua bán. Các nhà arbitrage ch ỉ có ch uyên m ôn giao dịch trong thị trường này, trong khi nhà đầu tư phân bổ quỹ giữa các nhà arbitrage trong thị trường này và cả thị trường khác. Giá trị thực là V, các nh à ar bitrage biết giá trị này trong khi nhà đầu tư thì không. Có 3 thời kì 1, 2 và 3. Ở thời điểm 3, giá trị V được biết không ch ỉ bởi nhà arbitrage mà còn nhà đầu tư gây nhiễu và do đó giá trị tươn g đươn g với giá trị đó. Bởi vì giá chắc chắn ở thời điểm t=3 là V, sẽ không có r ủi ro cơ bản t rong dài hạn trong hoạt độn g m ua bán này. Đối với thời điểm t=1,2 giá tài sản ở thời điểm t là Pt. Cụ thể, chúng tôi chỉ xem xét nhữn g nhà đầu tư gây nhiễu bi quan. Trong mỗi thời kỳ 1 và 2, nhà đầu tư gây nhiễu sẽ trải qua c ú sốc bi quan St từ hoạt độn g ar bitrage, nhu cầu cho tài sản được x ác định bởi: QN(t) = [ V- St]/P t (1) Ở t=1, thời điểm nhà đầu tư gây nhi ễu sốc đầu tiên S1, các nhà ar bitra ge biết điều này. Tuy nhiên, thời kì sốc thứ 2 của các nhà đầu tư gây nhiễu thì không chắc chắn. Đặc biệt, có một vài cơ hội mà S >S , n gh ĩa là nhà đầu tư nhận thức sai về giá nặng hơn trước khi biết 2 1 được nó ở t=3. De Long et al (1990) nhấn mạnh tầm quan t rọng của nhữn g rủi ro nhà đầu tư gây nhiễu như v ậy trong phân tích arbitrage. Cả nhà arbitrage và nhà đầu tư của họ hoàn toàn lý tính. Những nhà arbitrage trung tính với r ủi ro thực h iện hoạt động của mình chốn g lại sự lệch lạc giá do các nhà đầu tư gây nhiễu. Trong m ỗi thời kì, nhà arbitrage tích lũy nguồn lực bằn g sự quản lý c ủa m ình (bao gồm khả năng vay m ượn của họ) m ột Ft. Nhữn g n guồn lực đó là có giới hạn, bởi vì lý do được trình bày trong c ác phần tiếp theo. Chún g ta giả sử là F1 được cho m ột cách ngoại lệ và vấn đề là xác định cụ thể F2 bên dưới. Ở thời điểm t=2, giá của tài sản có thể hồi phục lại V, hoặc là không. Nếu nó hồi phục, nhà arbitrage đầu tư bằn g tiền mặt. Nếu nhà đầu tư gây nhiễu tiếp tục bị bố i rối, nh à ar bitra ge sau đó sẽ đầ u tư tất cả F2 v ào tài sản đan g ở dưới mức gía trị, bởi v ì ch ắc chắn giá của nó sẽ nâng lên V ở thời điểm t=3. Trong trường hợp này, nhu cầu nhà ar bitra ge cho tài sản là QA(2)=F2/P 2 và, bởi vì tổn g hợp nhu cầu ph ải bằn g với l ượng cun g nên giá được x ác định bởi: P2 =V- S2+F2 Ch úng ta giả sử là F2
- bởi vì họ có thể đầu tư nhiều hơn v ào tài sản đó. Theo đó, thể hi ện D1 là lượng đầu tư mà nhà arbitrage đầu tư vào tài sản ở t =1. Trong trườn g hợp n ày, QA(1) = D1/P 1 và P1 = V- S+D1 (3) Ch úng ta giả sử rằng, trong vùn g nhữn g giá trị thông số mà chúng ta tập trun g vào, nguồn ar bitrage không đủ để m an g giá về giá trị thực, nghĩa là F1
- Theo các giả thuy ết trên, nhà arbitrage m à từng có lợi nhuận tươn g đối ít sẽ m ất thị phần vào tay những nhà đầu tư có lợi nhuận tốt hơn. Hơn thế nữ a, bởi vì các nhà đầu tư ở trong cùn g một phân khúc có khả năng ưu thế tươn g đối bằn g nhau nên tất cả họ sẽ th u hút hoặc mất các nhà đầu tư m ột các đồn g thời, phụ thuộ c v ào hiệu quả chiến lược ar bitrage thông thường của họ. Cụ thể, tập hợp nguồn cun g của các nhà đầu tư cho các quỹ của các nhà arbitrage trong phân khúc cụ thể ở thời điểm t=2 là m ột hàm tăng của lợi nhuận của nhà arbitrage giữa thời điểm 1 v à 2 (điều này gọi là h iệu quả ar bitrage hay P BA). Gọi hàm này là G, và t hấy r ằn g lợi nh uận từ tài sản là P 2/P 1, n guồn cung quỹ của các nh à ar bitrage ở thời điểm t=2 được x ác định bởi: Nếu nh à ar bitrage làm tốt như nhữn g ch uẩn c ủa hiệu quả ar bitrage trên các thị trường khác, mà để đơn giản hóa, ch úng tôi giả sử lợi nhuận trở về 0, họ không làm lãi hay lỗ các quỹ qua việc quản lý. Tuy nhiên, họ được (lỗ) quỹ nế u họ hiệu quả vượt quá (thấp hơn) chuẩn đó. Bởi vì chất lượn g thông tin của nhà đầu tư cực kì kém, hiệu quả quá khứ của các nhà arbitrage quyết định hoàn toàn nguồn lực mà họ quản lý, khôn g quan tâm đến những cơ hội thật sự đan g có trên thị trường. Hiệu quả quá khứ c ủa các quỹ được quản lý ( được đo lường bằn g G’) là cách m à nhà đầu tư cố gắn g diễn giải cho hiệ u quả kém của nhà ar bitrage cho một trong 3 n guyên nh ân sau: 1) lỗi trong giai đoạn ngẫu nhiên, 2) sự xuống sâu mức bi quan của các nhà đầu tư gây nhiễu (không may mắn), 3) kém khả năn g. Sự giao độn g cao giữa khả năn g c ủa các nh à ar bitrage sẽ có khuynh h ướn g là nân g cao sự tươn g ứn g của các quỹ đầu tư đối với hiệu quả quá kh ứ. Mặt khác, nếu sự biến độn g trong mức bi quan c ủa nhà đầu tư gây nhiễu là tương đối lớn so với khả năn g dự báo biến độn g, điều n ày sẽ có khuynh hướng giảm tính tươn g ứn g vớ i hiệu quả quá khứ. Trong giới hạn, nếu khả năng là được biết và không có giao động giữa các nhà arbitrage, hi ệu quả k ém có thể bị suy đoán chỉ là c ú sốc của nhà đầu tư gây nhi ễu quá sâu mà nó chỉ nâng cao dự báo c ủa nhà đầu tư về lợi nh uận tương lai của nhà arbitrage. Hành vi có vẻ không đúng của nhà đầu tư là lấy tiền ra khỏi nhà arbitrage sau khi nh à đầu tư gây nhiễu bi quan sâu, n ghĩa là chính xác kh i lợi nh uận kỳ vọn g c ủa n gười đó là cao nhất, là một phản ứng hợp lý cho vi ệc có gắn g đổ cho khả năng (không thể quan sát) c ủa các nhà arbitrage và những cơ hội tươn g lai liên kết với nhữn g lợi nh uận quá khứ. Bởi vì k ết quả của ch úng tôi khôn g dựa trên hàm phi tuyến tính G, chúng tôi tập trun g và tuyến tính G, xá c định bởi: G(x) = ax + 1 – a, với a ≥1 (5) Với x là lợi nh uận gộp của nhà arbitrage. Tron g trườn g hợp n ày, côn g thức (4) tương đươn g: (6)
- Với hàm công thức này, nếu P2 =P1, ngh ĩa là nhà thu nh ập ròn g của nhà arbitrage bằng không, n gười này không ki ếm được cũng như làm lỗ quỹ qua việc quản lý. Cũng lưu ý rằng hệ số a càn g cao thì độ nhạy cảm của nguồn lực được quản lý và h iệu quả quá khứ càn g cao. Trong trườn g hợp a=1 tương ứng với nhà ar bitra ge không nhận được số tiền nào thêm khi anh ta lỗ một ít, trong khi đó n ếu a >1, các quỹ thật sự rút lui khi hiệu quả k ém. Tưởng tượn g m ột cơ chế phức tạp hơn với những hợp đồn g kh uyến khích mà nó sẽ cho phép nhà ar bitra ge thể hiện nhữn g cơ hội hoặ c khả năn g và thu hút các quỹ dựa trên không chỉ hiệu quả quá khứ. Chẳn g hạn như, nhà ar bitra ge người cảm thấy họ có cơ hội đầu tư tốt có thể cố gắng c un g cấp cho nhà đầu tư nh ữn g hợp đồng mà trả cho nhà ar bitra ge ở m ột m ức giá cố định dưới m ức chi phí biên và chia sẽ phần lời dư r a. Nghĩa là, nếu ở thời điểm nào đó, nhà arbitrage tin rằn g họ có thể tìm được lợi nhuận cao với m ột xác suất cao (nh ư sẽ diễn ra ở t=2 trong m ô hình của ch úng ta), họ có thể cố gắn g thu hút nàh đầu tư bằng cách đảm bảo không thể thua lỗ. Chúng ta khôn g xem xét nhữn g trườn g hợp riêng lẽ như vậy tron g m ô hình của chúng ta, bởi vì nhữn g trườn g hợp đó x uất hiện dường như không để cân bằn g các tình huốn g. Đầu tiên, với m ột khả năng giới hạn hoặc sự ác cảm với rủi ro, nhà arbitrage không sẳn sàng ho ặc khôn g thể sau khi sự sai lệch giá tồi tệ h ơn để bảo toàn (hoặc tăn g) các quỹ họ quản lý bằn g cách đảm bảo với nhà đầu tư chóng lại việc thua lỗ, hoặc giá dưới m ức chi phí biên. Thứ 2, những hợp đồn g này thì ít thu h út khi bản thân nhà ar bitrage ác cảm với rủi ro không chắc chắn về khả năng tạo lợi nhuận vượt trội của mình. Ch úng ta có thể mô hình sự co giãn n ày bằn g cách thêm yếu tố nhiễu vào lợi nhuận thời kỳ thứ 3. Tóm lại, dưới điều kiện phù hợp, v iệc sử dụng các hợp đồng kh uyến khích khôn g loại trừ nh ững tác độn g c ủa hiệu quả quá khứ lên t hị phần của các nhà ar bitrage. Thực tế, hầu hết các nhà quản lý tiền trong các quỹ hưu trí và quỹ tươn g hỗ lấy phí t ính trên tỷ lệ tài sản quản lý và hiếm khi nhận được phần trăm của phần vượt quá. Ch ẳn g hạn nh ư, theo tài liệu của Ippolito (1992) và Wart her (1995) nhà quản lý quỹ tương hỗ thua lỗ quỹ được quản lý khi hiệu quả nó thấp. Khá thú vị là, W arther (1995) cũn g chỉ ra rằn g quỹ chảy vào và ra các quỹ tương hỗ tác độn g tạm thời lên lợi nhuận c ủa chứn g khoán mà các quỹ đó giữ, thống nh ất với kết quả được thiết lập bên dưới. PBA là yếu tố quan trọng trong m ô hình của ch úng ta. T rong ar bitra ge truyền thốn g, vốn được phân bổ đến các nhà arbitrage dựa trên lợi nhuận kỳ vọng từ giao dịch của họ. T rái lại, theo PBA, vốn được phân bổ dựa trên lợi nhuận quá khứ và điều này k ém chính xác khi lợi nhuận kì vọng cao. Lúc đó, nh à arbitrage đối m ặt với sự r út lại quỹ và rất khôn g hiệu quả trong việc đánh bại sự sai lệch giá. Xem xét kĩ liên kết giữa lệch lạc giá lớn hơn và nhận thức lợi nhuận kỳ vọn g lớn hơn tron g phân bổ vốn cho ch úng ta thấy những k ết quả quan trọng. Để hoàn ch ỉnh mô hình, chúng ta cần thiết lập m ột vấn đề về lạc quan của nh à ar bitrage. Để đơn giản, ch úng ta gỉa sử r ằng nhà ar bitrage tối đa lợi nh uận kỳ vọng thời kỳ thứ 3. Bởi vì nhữn g nhà arbitrage là nh ững người n ắm giá t rên thị trườn g cho dịch vụ đầu tư và chi phí biên là cố định, lợi nh uận kì vọn g tối đa ở thời kì thứ 3 tương đương với tối đa kì vọng các
- quỹ được quản lý ở thời kì thứ 3. Để cụ thể, chún g ta kiểm tra mô hình cụ thể của sự không chắc chắn về S2. Chúng tôi giả sử rằng, với xác suất q, S2=S> S1, nghĩa là nhà đầu tư gây nhiễu lệch lạc giá nhiều hơn. Với một xác suất 1- q, nhà đầu tư gây nhiễu nhận ra giá trị thực của tài sản ở t=2, vì vậy S =0 v à P 2 = V. 2 Khi S2 = 0, nhà ar bitrage thanh lý ưu thế của mình một lần nữa ở t=2, và giữ tiền m ặt đến khi t=3. Trong trườn g hợp n ày, W = a( D1* V/P 1 + F1 – D1) + (1- a)F1. Trái lại khi S2 = S, nhà ar bitra ge ở quỹ thời kỳ thứ 3 được x ác định bởi W = ( V/P 2)*[a{D1*P 2/P 1) + F1 – D1 } + (1-a) F1]. Sau đó, nhà ar bitrage tối đa hóa: 2. Hiệu quả arbitrage v à hiệu quả thị trư ờng Khi phân tích mẫu hình giá cả trong mô hình, chúng tôi sẽ x ác định những mô hình so sánh chính. Mô hình thứ nhất là thị trườn g hi ệu quả, trong đó nhữn g nhà ar bitrage có thể tiếp cận tất cả những khoản vốn mà họ muốn. Trong trường hợp này, những nhà đầu tư thiếu thông tin n gay lập tức bị chống lại bởi các nhà ar bitra ge, p1 = p 2 = V. Đ iểm chính thay thế là điểm mà tại đó arbitrage có giới hạn, nhưn g PBA không hiệu quả, lúc đó các nhà ar bitrage có thể tăng lên F1. Trong trường hợp này, p 1 = V – S1 + F1 và p 2 = V – S + F1. Giá giảm với nhữn g cú sốc các nhà đầu tư thiếu thông tin trong từng giai đoạn. Trường hợp này ph ù hợp với hầu hết những mô hình n ghiên cứu trước đó về ar bitrage bị giới h ạn. Một điểm thú vị cuố i cùn g trong mô hình n ày đó là trườn g h ợp a = 1. Đây là trường h ợp các nhà ar bitra ge không thể lấy lại tiền đã mất, nhưng khôn g ch ịu m ất thêm nữa. Vấn đề tối ưu hóa cho các nhà ar bitrage được cho bởi công thức: (1-q)(V/p1 – 1) + q(p2/p1 – 1)( V/p2) ≥ 0 (8) Bất đẳn g thức xảy ra khi và chỉ khi D1 = F1, v à dấu “=” xảy r a khi D1 < F1. Phần đầu phương trình (8) cho thấy lợi ích của nhà ar bitra ge tăn g lên t ừ 1 đôla tăn g thêm khi đầu tư nếu thị trườn g phục hồ i tại t=2. Phần t hứ hai là giá giảm t ại t=2 trước khi hồ i ph ục tại t=3, và do vậy họ đã bỏ qua các lựa chọn đầu tư thêm t rong trường hợp này. Điều kiện (8) cho thấy một sự cân bằn g nếu r ủi ro giảm giá đủ lớn và đủ n ghiêm trọng, các nhà arbitrage lựa chọn giữ lại vốn cho đầu tư tại thời điểm 2. Mặt khác, bất đẳn g thức (8) xảy r a khi q thấp, p 1 thấp so với V ( S1 lớn), p2 không quá thấp so với p1 ( S không quá lớn so vớ i S1). Điều đó có n ghĩa là sự thay t hế ban đầ u rất lớn, giá cả được mong đợi sẽ phục hồi với xác suất cao hơn là giảm xuống sau đó. Nếu có giảm xuốn g cũng không thể quá nh iều. Trong nh ững trường hợp này, nhữn g nhà arbitrage chọn
- cách đầu tư hết tại t=1 hơn là giữ tiền lại đến t=2. Chún g tôi m ô tả trường hợp mà giá cả sai biệt lớn tại t=1, các nhà ar bitrage chọn đầu tư hết như là “tình huốn g n ghiêm t rọng”, và thảo luận nó với một vài chi t iết. Thảo luận n ày có thể được tóm tắt qua các tiền đề sau: Tiền đề 1: Với V, S1, S và a cho trước, tồn tại q* để q>q*, D1
- tăng cường, khi đó a tăn g lên, mức giảm giá trên một đơn vị tăn g lên trong S được nh iều hơn. Nếu ch úng ta n ghĩ là dp 2/dS như m ột biện pháp của các khả năn g ph ục hồ i của thị trường (từ bằng không cho một thị trường hiệu quả và đến -1 khi a = 0 v à khôn g có PBA), kh i đó tiền đề 4 cho rằng một thị trường do mất khả năng ph ục hồi của PBA trong hoàn cảnh khó khăn. Phân tích như vậy cho thấy rằng quá trình chênh lệch có thể kh á hi ệu quả trong v iệc tăng giá giá trị cơ bản trong tình hình tài chính khó khăn. 3. Nhữn g thả o luận về h iệu quả arbitrage Mặc dù có nhiều phản đố i, chúng tôi vẫn tin, đặc diệt là trong trường hợp PBA có ý nghĩa quan trọng cho giá cả. T ại nhiều quỹ ar bitra ge, các nhà đầu tư có quyền được thu hồi ít nhất một trong số các quỹ mà họ m uốn và có thể làm điều này nhanh chóng nếu hiệu quả hoạt độn g kém. Tùy theo m ức độ, vấn đề này được giảm nhẹ bằn g các hợp đồn g hạn chế rút tiền hoặc là tạm t hời (như là trườn g hợp của các quỹ đầu tư m à không cho phép các nh à đầu tư lấy tiền ra trong khoảng từ 1-3 năm) hoặc thườn g (như trường hợp của quỹ đầu tư đóng ). Tuy nhiên nhữn g h ợp đồng hạn chế n ày khiến nhà đầu tư bị m ắc k ẹt với 1 nhà quản lý quỹ tồi trong 1 thời gian dài, điều này giải thích tại sao chúng không phổ biến. Hơn n ữa, các chủ nợ yêu cầu trả ngay lập tức khi giá trị của tài sản cầm cố giảm xuống dưới m ức (hoặc thậm chí gần ) mức độ nợ, đặc biệt là nếu họ có thể nhận được tiền của họ trước khi cá c nhà đầu tư vốn chủ sở h ữu có thể r út vốn. Quỹ bị rút vốn bởi các ch ủ nợ có khả n ăng là ho ặc thậm ch í quan trọng hơn như là thanh lý nhanh chón g c ủa các đầu tư vốn ch ủ sở h ữu (ví dụ: Oran ge County, tháng 12 năm 1994). Vấn đề không kém phần quan t rọng, có thể có vấn đề bên trong một tổ chức arbitrage. Nếu người đứn g đầu tổ chức không chắc chắn về khả năng của nhân viên phụ trách 1 khoản đầu tư, khoản đầu tư thua lỗ, anh ta có thể bắt buộc thanh lý khoản đầu tư này t rước sự không chắc chắn c ủa nó. Tất cả nh ữn g điều này cho thấy khả năng của thanh lý trở nên quan trọng trong tình huống n gh iêm trọng. Mô hình của chúng ta cho thấy cách mà các nhà ar bitrage có thể bị buộc ph ải thanh lý khi giá biến độn g không theo ý của họ. Một trong nhữn g hiệu ứng mà mô hình của ch ún g ta không nắm bắt được là những nhà ar bitrage sợ r ủi ro có t hể chọn thanh lý t rong tình huống ngay cả khi họ khôn g phải làm vậy vì lo sợ r ằn g có thể có thêm nhiều bất lợi về biến động giá cả sẽ là gây ra sự r út vốn m ạnh của các quỹ sau đó. Khả năn g các nhà arbitrage sợ rủi ro tự nguy ện thanh lý khoản đầu tư của họ trong tình huốn g n ghiêm t rọng này thậm chí cao hơn nếu các nh à ar bitrage thuộc t rườn g phái Bayesians với kết quả không ch ính xác về sự phân phối lợi nhuận thật sự của chi ến lược ar bitrage. Trong trườn g hợp đó, một chuỗ i nh ữn g khoản lợi nh uận thấp có thể khiến cho các nhà arbitrage cập nh ật lại kết quả và từ bỏ chiến lược ban đầu của mình. Cuối c ùng, PBA giả thiết rằn g tất cả các nhà ar bitrage có cùng độ nhạy cảm của các quỹ quản lý đối với hiệu quả, và rằng tất cả các khoản đầu tư đều bị định giá sai n gay từ lúc bắt đầu. Trong thực tế, những nhà ar bitrage có độ nhạy cảm khác nhau. Một số có thể tiếp cận nguồn vốn độc lập với hiệ u quả trong quá khứ, và kết quả là có thể đầu tư nhi ều hơn khi giá khác xa so với giá c ơ bản.
- 4. Nhữn g kinh nghiệm từ thực tế Mô hình trong nghiên cứu này đối phó với trườn g hợp ar bitrage thuần túy, ở đó nhà arbitrage không cần ph ải gánh chịu bất kì rủi ro cơ bản dài hạn n ào. Trong đó thậm chí những arbitrage nh ư vậy phải đối phó với nh ữn g vấn đề về tính thanh khoản tạm t hời có thể xảy ra, trong hầu h ết các tình huốn g, nhà arbitrage cũng đối mặt với một vài r ủi ro nền tản g dài hạn. Trong phần này, chún g ta mô tả một vài ngụ ý có thể của cách tiếp cận ar bitrage chuyên nghi ệp đối với thị trường tài chính ở đó nh ững nhà ar bitrage gánh chịu m ột vài rủi ro nền tảng, bao gồm cả rủi ro hệ thống và r ủi ro không hệ thống. a. Thị trường nào thu h út nguồn lực Arbitrage? Kinh n ghiệm cho thấy rằng m ột phi vụ tốt c ủa hoạt độn g ar bitra ge chuyên nghiệp, ch ẳng hạn như của các quỹ phòn g ngừa r ủi ro, được tập trun g vào một vài thị trường chẳn g h ạn như thị trường trái phiếu và thị trườn g hố i đoái. Kh uynh hướn g thị t rườn g kh i m à đòn bẫy đặc biệt, bán ngắn hạn và phí dựa trên hiệu quả hoạt độn g c ũng phổ biến. T rái lại, có quá ít bằng chứn g c ủa nhữn g ho ạt độn g nh ư vậy trên thị trườn g ch ứn g khoán, cả bên trong và n go ài n ước Mỹ. Tại sao lại như vậy, thị trường nào thu hút ar bitra ge? Một phần của câu trả lời là khả năn g của nhà arbitrage trong việc xác định giá trị với mức độ tin cậy nhất định và nhanh chóng nhận ra nó. Hệ quả là, hầu như khôn g có rủi ro cơ bản của arbitrage. T rên thị trường n goạ i hối, v iệc tính toán tương đối giá trị khó khăn hơn, và nhà arbitrage trở nên r ủi ro hơn. Tuy nhiên, những nhà ar bitrage đưa vào giao dịch lớn, và xuất hiện cơ hội kiếm nhiều tiền nhất khi ngân h àng trun g ương cố gắn g duy trì tỷ giá phi thị trường, vì v ậy nó có thể cho thấy rằn g giá không bằn g với giá trị nền tảng và có thể kiếm lời nhanh chóng. Trái lại, trên thị trường cổ phiếu, cả giá trị tuyệt đối và giá trị tươn g đối của nhữn g chứn g khoán khác nhau rất khó tính toán. Hệ quả là, cơ hộ i ar bitrage khó xác định trên thị trường cổ ph iếu hơn trái ph iếu và thị trườn g n goại hối. Thảo luận trong n ghiên cứu này cho thấy rằng một lý do sâu x a hơn tại sao một vài thị trường th u h út arbitrage hơn c ác thị trườn g khác. Không giốn g như các nhà ar bitrage đa dạng và có ch uyên m ôn trong m ô hình truy ền thống, các nhà ar bitrage chuyên môn của m ô hình của chúng tôi có thể tránh nhữn g thị trườn g rất không ổn đinh nếu họ là nh ững người ác cảm với r ủi ro. Ở nhận xét này dường như bị ngược, bởi vì t ính biến động c ao thường đi kèm với giá sai lệch nhi ều hơn và do đó thu h út nhiều c ơ hội ar bitra ge hơn. Giả sử rằng tất cả là do tâm lý của nhà đầu tư gây nhiễu v à rằng hiệu quả vượt trội t rung bình của nhà ar bitrage liên quan đến một chuẩn, thường được gọi là alpha, là gần như tỷ lệ với độ lệch chuẩn của cú sốc cầu của nhà đầu tư gây nhiễu. Điều này có nghĩa là nếu nhà arbitrage ch uyển đến một thị trường với gấp đôi sự giao độn g của c ác nhà đầu tư gây nhiễu, n gười đó cũn g phải mong đợi gấp đôi alpha trên 1 đôla đầu tư. Ở những thị trường như vậy, bằng việc cắt giảm đầu tư đi m ột nữa, nhà arbitrage nhận được cùng alpha k ì vọng cùn g mức giao độn g như nhữn g thị trườn g khác. Người đó có t hể không phân biệt mua bán ở hai thị tường khác nh au bởi vì alpha trên mỗi đơn v ị r ủi ro là như nha u n ên n gười đó có thể điều chỉnh vị thế của mình để đạt được m ức rủi ro kì vọng. Điều này giả thuyết là vay mượn bên n goà i của các nhà arbitrage bị giới hạn
- không phải bởi tổn g giá trị tiền đầu tư mà bởi sự giao độn g của tiền đầu tư, mà nó có v ẻ chính đán g. T rong môi trườn g đơn giản, sự biến động của thị trường không phải là vấn đề đối với việc thu hút các nhà ar bitrage biên. b. Nhữn g sự dị thườn g Nghiên cứu gần đây trong tài chính đã x ác định một số dị thườn g, ở đó chi ến lược đầu tư đặc biệt có lợi nhuận kiếm được cao hơn nh ững chiến lược được điều chỉnh nhữn g rủi ro hệ thống. Điều dị thường như vậy, đã được đề cập, là giá trị cổ phiếu đó kiếm được lợi nh uận cao hơn những cổ phiếu h ấp dẫn, nhưng có nhiều cổ phiếu kh ác. Nghiên cứu này cung cấp một cách t iếp cận khác để hiểu nhữn g bất thường n ày so với trong lý thuyết thị trường hiệu quả chuẩn. Cách tiếp cận của thị trường hiệu quả đối với những dị thườn g này cho rằn g lợi nh uận cao hơn phải được đền bù bằn g r ủi ro hệ thống cao hơn và do đó mô hình định giá tài sản đã xem xét những dị thườn g này một cách t hiếu cụ thể. Nó có thể giải thích c ác dị thườn g bằng cách tìm ra hiệp phươn g sai giữa lợi nh uận kì vọn g c ủa các tập đầu tư dị thườn g và yếu tố nền tảng từ mô hình định giá tài sản vốn. Cách tiếp cận của thị trường hiệu quả được dựa trên giả thuyết rằng hầ u hết nhà đầu tư, cũng giống như nh à kinh tế, thấy cơ hội ar bitrage tồn tại và thực hiện chúng. L ợi nhuận v ượt qua được lo ại trừ bằng hành động của lượn g lớn các nhà đầu tư, với mỗi nhà đầu tư chỉ có có mội giới hạn rủi ro đố i với bất kì chứn g kho án nào. Lợi nhuận v ượt quá đố i v ới sự theo đuổi một chứng khoán cụ thể chỉ khi nó có t ươn g quan n ghịch v ới những biến độn g như là hữu dụn g biên c ủa sự tiêu th ụ hoặc tài sản. Như ch úng ta đã tranh luận trong nghiên cứu này, cách tiếp cận c ủa lý thuyết thị trường hiệu quả đố i với ar bitrage được dựa trên sự tiêu thụ không h ợp lý của đa dạn g các nhà arbitrage. Trong thực tế, n guồn lực ar bitrage tập trun g v ào m ột số ít nhà đầu tư mà có chuyên môn cao t rong trong giao dịch một vài tài sản, và không đa dạn g lắm. Kết quả là những nhà đầu tư này quan t âm về tổng rủi ro chứ khôn g phải chỉ r ủi ro hệ t hống. Bởi vì cân bằng của lợi nhuận v ượt quá được xác định bằn g chiến lược giao dịch của các nhà đầu tư này, xem r ủi ro hệ thống là chỉ m ột yếu tố tiềm năng trong việc xá c định giá khôn g phù hợp. Rủi ro không hệ thống cũn g cản trở các nhà arbitrage, cho dù nó rủi ro nền tảng hay r ủi ro không h ệ thống của các nhà đầu tư gây nhiễu. Bài nghiên cứu này cho thấy một cách tiếp cận khác để hi ểu về r ủi ro không hệ thống. Bước đầ u tiên để hi ểu n guồn của giao dịch nhiễu mà nó có thể tạo r a sự lệch lạ c giá đầu tiên. Cụ thể là, cần thiết phải ki ểm tra nhu cầu của các nhà đầu tư gây nhi ễu tiềm năng, có phải nhữn g nhu cầu đó gây r a tâm lý hoặc giới hạn sự nắm giữ m ột cách có tổ ch ức. Bước thứ 2 là đánh giá chi ph í của arbitrage trên thị trường, đặc biệt là tổng biến độn g của lợi nh uận arbitrage. T rong quá trình đầu tư gây nhiễu, sự biến độn g cổ phiếu sẽ cho thấy sai lệch giá lớn hơn và lợi nhuận trun g bình cao hơn để arbitrage cân bằng. (ch i phí khác của ar bitrage, chẳn g hạn như chi phí giao dịch, thì cũng quan trọng (Pontiff (1996)).
- KẾT LUẬN Nghiên cứu này m ô tả hoạt động của thị trường ở đó nhà ar bitra ge chuyên nghiệp đầu tư bằng vốn của nhà đầu tư bên n goài và nhà đầu tư sử dụn g hiệu quả của nhà ar bitra ge để xác định kh ả năng sinh lợi của họ. Nghi ên cứu chỉ ra rằn g hiệu quả của hoạt đôn g ar bitra ge chuy ên n ghi ệp như vậy có thể không hoàn toàn hiệu quả tron g việc làm cho giá ch ứng khoán về giá trị nền tảng, đặc biệt là trong nhữn g tình huống ngh iêm trọng. Tổng quát hơn, những nhà arbitrage ch uy ên n ghiệp có thể tránh những tình huống biến động ngh iêm t rọng. Mặc dù nhữn g tình huống đó có thể m ang lại lợi nh uận hấp dẫn, nh ữn g biến độn g đó cũn g làm nhà arbitrage đối m ặt với r ủi ro thua lỗ và ph ải thanh lý tập đầu tư của mình dưới sức ép của các nhà đầu tư trong quỹ. Sự tránh nh ữn g biến độn g này của các arbitrage cũng cho thấy cách tiếp cận khác để hiểu v ề lợi nh uận vượt m ức ổn định trong giá chứn g khoán.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tiểu luận "Quan điểm của Mác - Ănghen về vật chất"
19 p | 3185 | 533
-
TIỂU LUẬN VỀ ' MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG VÀ SỰ VẬN DỤNG THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG Ở VIỆT NAM'
33 p | 395 | 137
-
Tiểu luận: Liên kết hóa học và cấu tạo phân tử
37 p | 509 | 104
-
Tiểu luận: Tìm hiểu và xây dựng ứng dụng dựa trên công nghệ AJAX
22 p | 210 | 85
-
Tiểu luận Đầu tư quốc tế: Nguyên nhân thất bại của một số thương vụ M&A trên thế giới
14 p | 493 | 85
-
Bài tiểu luận: Chính sách đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Hàn Quốc và những điểm cần lưu ý đối với Việt Nam trong thu hút FDI từ Hàn Quốc
37 p | 591 | 62
-
.MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 2 3. Giới hạn của vấn đề 9 4. Phương pháp nghiên cứu 11 5. Đóng góp của luận văn 12 6. Cấu trúc của luận văn 12 TrangChương 1:VĂN HÓA, XÃ HỘI VÀ NHỮNG THÀNH TỰU CHỦYẾU CỦA TIỂU THUY
30 p | 823 | 50
-
Chuyên đề: Những giới hạn của kinh doanh chênh lệnh giá
19 p | 403 | 45
-
Tiểu luận: Tình hình chung của giáo dục đại học, giáo dục đại học ngoài công lập. Hãy phân tích: Tổ chức, quản lý?
40 p | 136 | 33
-
Tiểu luận: Tình hình và xu hướng phát triển FDI trên thế giới
36 p | 309 | 33
-
Tiểu luận: Quan điểm về con người của L. Phoi obac. Những giá trị và hạn chế
27 p | 181 | 31
-
Những khó khăn trong kinh doanh mặt hàng tín dụng hiện nay tại các Ngân hàng nhà nước và thương mại - 3
28 p | 110 | 29
-
Tiểu luận: Trình bày hệ thống tiền tệ thế giới sau chiến tranh thế giới thứ 2
10 p | 188 | 26
-
Tiểu luận: Sự mở rộng toàn cầu của Walmart
15 p | 162 | 17
-
Tiểu luận: Thuế đánh vào hoạt động đầu tư và tài sản
26 p | 124 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Toán học: Quan điểm Giải tích về các cách tiếp cận khái niệm Giới hạn và việc phát huy TTCNT của học sinh trong dạy học chủ đề Giới hạn ở bậc THPT
115 p | 71 | 11
-
Luận văn Thạc sĩ Sư phạm Toán: Tổ chức dạy học phân hóa cho học sinh lớp 11 trong chủ đề giới hạn
110 p | 37 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn