intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận: Phương pháp dạy học tích cực trong bộ môn Toán ở Trung học cơ sở

Chia sẻ: Tran Quang | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:29

166
lượt xem
22
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài nhằm thấy được hai mặt ưu và nhược điểm của thầy và trò trong việt áp dụng phương pháp mới vào dạy và học. Từ đó rút ra những kinh nghiệm trong việc giảng dạy sau này, đồng thời mỗi người sẽ có những đóng góp riêng để cho môn học càng ngày đạt chất lượng cao.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận: Phương pháp dạy học tích cực trong bộ môn Toán ở Trung học cơ sở

  1. A.  PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Dân tộc ta vốn có truyền thống hiếu học, truyền thống đó đã tạo nên  những nét đẹp của nền văn hóa Việt Nam và trong xã hội mới, tinh thần  ấy  ngày càng được nhân lên. Những thành tựu của nền giáo dục của Việt Nam   trong thế  kỷ  qua là hết sức to lớn, là cơ  sở  là điều kiện để  thực hiện thành  công sự  nghiệp  công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Xã hội ngày càng  phát triển thì người ta ngày càng chú trọng, càng quan tâm hơn và đòi hỏi  nhiều hơn  ở giáo dục. Ngày nay giáo dục được xem như  là “quốc sách hàng  đầu” giáo dục trở thành một lực lường sản xuất trực tiếp, tham gia vào việc   cung  ứng những con người có đủ  phẩm chất tài năng để  xây dựng và phát   triển giáo dục nói chung và giáo dục ở THPT nói riêng. Vấn đề  phát huy tính tích cực của học sinh đã được đạt ra  ở  nước ta  vào   những   năm   1960.   Phát   huy   tính   tích   cực   trong   dạy   và   học   là   những  phương pháp nhằm cải cách, nhằm tạo ra những người lào động, sáng tạo,  làm chủ  đất nước. Nhưng đến nay sự  chuyển hóa về  phương pháp dạy và  học ở trường THCS và các phương pháp đào tạo ở các trường sư phạm chưa   được phổ  biến vẫn còn là cách dạy thông báo kiến thức, định sẵn, cách học  thụ động , sách vở. Tuy nhiên ngày nay ở nhiều trường cũng suất hiện nhiều  tiết dạy tốt của một số  giáo viên giỏi, theo hướng tổ  chức cho học sinh tự  hoạt động, tụ  chiếm lĩnh kiến thức mới. Tình trạng chung vẫn là Thầy độc  trò chép hay giảng giải xen kẻ, vấn đáp tái hiện...Nếu cứ tiếp tục như vậy thì  cách dạy và học sẽ  không đáp ứng được yêu mới cầu của xã hội, sự  nghiệp  công ngiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, sự  thach thức nguy cơ tụt haaujtreen  đường tiến vào thế  kỷ  XXI bằng cạnh tranh trí tuệ  đang đòi hỏi sự  đổi mới   Giao dục, trong đó có sự đổi căn bản vè phương pháp dạy và học. Đây không   phải vấn đề  riêng của nước ta mà đang được mọi quốc gia quan tâm đến  chiến lược phát triển của nguồn lực con người phục vụ các mục tiêu kinh tế ­  1
  2. xã hội và đó cũng là lý do mà tôi chọn đề tài: “phương pháp dạy học tích cực   trong bộ môn toán ở Trung học cơ sở”
  3. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích Tôi chọn đề  tài này viws mục dích nghiên cứu, tìm hiểu phươn pháp  phát huy dạy và hocjtichs cực trong bộ  môn toán  ở  Trường THCS. Qua đó   chúng ta sẽ  thấy được hai mặt  ưu và nhược điểm của thầy và trò trong việt   áp dụng phương pháp mới vào dạy và học. Từ  đó rút ra những kinh nghiệm  trong việc giảng dạy sau này, đòng thòi mỗi người sẽ  có những đóng góp   riêng để cho môn học càng ngày đạt chất lượng cao. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Tìm hiểu bản chất của các phương pháp dạy và học theo hướng tích  cực. Tham khảo các tài liệu để đưa ra những tình huống đế  có các biện pháp   và phương pháp tích cực để đạt được hiệu quả cao hơn. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Tìm hiểu phương pháp dạy học tích cực môn toán ở THCS trong những   thời gian qua. Tìm hiểu các phương pháp dạy học tích cực trong môn toán trung học  cơ sở ở các tài liệu liên quan. 4. Phương pháp nghiên cứu Bài viết có thể  sử dụng các phương pháp: phương pháp logic, phương  pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, dối chiếu, quy nạp ... để  nội dung của  bài tìm hiểu đạt kết quả cao hơn.  5. Ý nghĩa đề tài Đề tài khẳng định cho chúng ta rằng cần có các giải pháp  phường pháp   dạy cho phù hợp vói sự phát triển của xã hội, đet phát tính tự học tự tìm hiểu   và tự lĩnh hội kiến thức. 3
  4. B. NỘI DUNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA DẠY HỌC TÍCH CỰC TRONG TOÁN HỌC 1.1.  Định nghĩa phương pháp dạy học tích cực 1.1.1. Tích cực của nhận thức Tính tích cực Tính tích cực: là một phẩm chất vốn có của con người trong đời sống  xã hội. Khác với động vật, con người không chỉ  tiêu thụ  những gì có sẵn   trong thiên nhiên mà còn chủ  động, sản xuất ra những của cải vật chất cần   cho sự tồn tại của xã hội, sáng tạo ra nền văn hóa ở mỗi thời đại. Hình thành  và phát triển tính tích cực xã hội đã là củng cố  một trong những nhiệm vụ  chủ  yếu của giáo dục nhằm đào tạo những con người năng động, thích  ứng  và góp phần phát triển cộng đồng. Có thể xem tính tích cực như là điều kiện  đồng thời là một kết quả của sự phát triển nhân cách trong quá trình giáo dục.  Tính tích cực học tập  Tính tích cực của con người biểu hiện trong hoạt động, đặc biệt trong   những hoạt động chủ  động của chủ  thể. Học tập là hoạt động chủ  đạocủa  lứa tuổi đi học. Tính tích cực trong học tập – về thực chất – là tính tích cực   nhận thức ,đặc trưng  ở  khát vọng hiểu biết, cố  gắng trí tuệ  và nghị  lực cao  trong quá trình chiếm lĩnh tri thức. Tính tích cực trong nhận thức trong học   tập liên quan trước hết với động cơ học tập. Động cơ  đúng tạo ra hứng thú.   Hứng thú là tiền đề  của tự  giác. Hứng thú và tự  giác là hai yếu tố  tâm lí tạo  nên tính tích cực. Tính tích cực sản sinh nếp tư duy độc lập. Suy nghĩ độc lập   là mầm móng của sáng tạo. Ngược lại, phong cách học tập tích cực độc lập   sáng tạo sẽ phát triển tự giác, hứng thú bồi dưỡng động cơ học tập. Tính tích   cực biểu hiện  ở những khẩu hiệu như: hăng hái trả  lời các câu hỏi của giáo   viên, bổ  sung các câu trả  lời của bạn, thích phát biểu ý kến của mình trước 
  5. vấn đề  nêu ra; hay nêu thắc mắc đòi hỏi giải thích cặn kẽ  những vấn đề  chưa rõ ; chủ  động vận dụng kiến thức kĩ năng đã họcđể  nhận thức vấn đề  mới; tập trung chú ý vào vấn đề  đang học kiên trì hoàn thành các bài tập,  không nản chí trước những tình huống khó khăn… Tính tích cực đạt cấp độ  từ thấp đến cao như:    Bắt chước: gắng sức làm theo các mẫu hành động của thầy, của   bạn… Tìm tòi: độc lập giải quyết vấn đề  nêu ra, tìm kiếm những cách giải  quyết khác nhau về vấn đề…  Sáng tạo: tìm ra cách giải quyết mới, độc đáo, hữu hiệu… 1.1.2. Phương pháp dạy học tích cực Phương pháp dạy học tích cực Phương pháp tích cực là một thuật ngữ  rút gọn, được dùng  ở  nhiều nước, để  chỉ  những phương pháp giáo dục, dạy  học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ  động, sáng tạo của người học.  “Tích cực” trong phương pháp dạy học được dùng với nghĩa là hoạt động,  chủ   động,trái  nghĩa với  không hoạt  động, thụ   động chứ  không dùng theo   nghĩa trái với nghĩa tiêu cực. Phương pháp tích cực hướng tới việc hoạt động   hóa, tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học, nghĩa là tập trung vào  việc phát huy tính tích cực của người học chứ không phải tập trung vào việc  phát huy tính tích cực của người dạy, đành rằng để  dạy học theo phương  pháp tích cực thì giáo viên phải nổ  lực nhiều hơn so với kiểu dạy theo kiểu   thụ  động. Muốn đổi mới cách học phải đổi mới cách dạy. Rõ ràng là cách  dạy chỉ  đạo cách học nhưng ngược lại, thói quen học tập của trò có  ảnh  hưởng tới cách dạy của giáo viên. Có trường hợp học sinh đòi hỏi cách dạy   tích cực hoạt động của giáo viên nhưng giáo viên chưa đáp  ứng được. Cũng  có trường hợp giáo viên hăng háu áp dụng phương pháp dạy học tích cực   nhưng thất bại vì học sinh chưa nắm vững, vẫn quen lối học tập thụ động.   Vì vậy giáo viên phải kiên trì dùng cách hoạt động để dần dần xây dựng cho  5
  6. học sinh phương pháp học tập chủ  động một cách vừa sức từ  thấp lên cao.  Trong đổi mới phương pháp phải có sự hợp tác giữa thầy và trò, sự phối hợp   hoạt động dạy với hoạt động học thì mới thành công. Theo tinh thần đó,   người ta còn dùng thuật ngữ  “Dạy học tích cực” phân biệt với “Dạy và học  thụ  động”. Thuật ngữ rút gọn “phương pháp tích cực” hàm chứa cả  phương   pháp dạy và học.
  7. 1.2.  Những dấu hiệu đặc trưng của phương pháp dạ học tích cực 1.2.1. Dạy học thông qua tổ chức các hoạt động học tập Dạy học thông qua tổ chức các hoạt động học tập của học sinh. Trong   phương pháp tích cực, người học – đối tượng của hoạt động “dạy”, đồng   thời là chue thể của “hoạt động học”­ được cuốn hút vào các hoạt động học  tập do giáo viên tổ chức và chỉ đạo, thông qua đó tự lực khám phá những điều  mình chưa rõ chứ  không phải thụ động tiếp thu những tri thức đã được giáo   viên sắp đặt. Được đặt vào những tình huống thực tế, người học trực tiếp   quan sát, thảo luận làm thí nghiệm, giải quyết vấn đề  đặt ra theo hướng suy  nghĩ của riêng mình, từ  đó vừa nắm được kiến thức mới, vừa nắm được   phương pháp “làm ra” kiến thức, kĩ năng đó, không rập khuôn theo những  khuôn mẫu sẵn có, được bộc lộ và phát huy tiềm năng sáng tạo. Dạy học theo   cách này thì giáo viên không chỉ  đơn giản truyền đạt tri thức mà còn hướng   dẫn hành động. Chương trình dạy học phải giup cho từng học sinh biết hành   động và tích cực tham gia các chương trình hành động của cộng đồng. 1.2.2. Dạy học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học   Phương pháp tích cực xem việc rèn luyện phương pháp học tập cho  học sinh không chỉ  là một biện pháp nâng cao hiệu quả  dạy học mà còn là  một mục tieu dạy học.  Trong xã hội hiện đại đang biến đổi nhanh với sự  bùng nổ  thông tin,   khoa học,kĩ thuật công nghệ  thông tin phát triển như  vũ bão thì không thể  nhồi nhét vào đầu óc trẻ  phương pháp học ngay từ bậc tiểu học và càng lên  bậc học cao hơn càng phải được chú trọng. Trong phương pháp học thì cốt lõi  là phương pháp tự học. Nếu rèn luyện cho người học có được phương pháp,  kĩ năng, thói quen, ý chí tự học thì sẽ tạo cho họ lòng ham học, khơi dạy nội  lực vốn có trong mỗi con người, kết quả học tập sẽ được nhân lên gấp bội.  Vì vậy, ngày nay người ta nhấn mạnh mặt hoạt động học trong quá trình dạy   học , nổ lực tạo sự chuyển biến từ học tập thụ động sang tự học chủ động ,   7
  8. đặt vấn đề phát triển tự học ngay trong trường phổ thông, không chỉ tự học ở  nhà sau bài lên lớp mà còn tự học có sự hướng dẫn của giáo viên. 1.2.3.  Tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học nhóm  Trong một lớp học mà trình độ  kiến thức, tư  duy của học sinh không  thể  đồng đều tuyệt đối khi áp dụng phương pháp tích cực buộc phải chấp   nhận sự phân hóa về cường độ, tiến độ hoàn thành nhiệm vụ học tâp, nhất là  khi bài học được thiết kế thành một chuỗi công tác độc lập. Áp dụng phương   pháp dạy học tích cực ở trình độ càng cao thì sự phân hóa này càng lớn. Việc  sử  dụng các phương tiện công nghệ  thông tin trong nhà trường sẽ  đáp  ứng  yêu cầu cá thể  hoạt động học tập theo nhu cầu và khả  năng của mỗi học   sinh. Tuy nhiên, trong học tập, không phải mọi tri thức, kĩ năng, thái độ  đều  được hình thành bằng những hoạt động độc lập của cá nhân. Lớp học là môi  trường giao tiếp thầy – trò, trò – trò, tạo nên mối quan hệ hợp tác giữa các cá   nhân trên con đường chiếm lĩnh nội dung học tập. Thông qua thảo luận, tranh  luận trong tập thể, ý kiến mỗi cá nhân được bộc lộ, khẳng định hay bác bỏ,   qua đó người học nâng mình lên một trình độ  mới. Bài học vận dụng được   vốn hiểu biết và kinh nghiệm của mỗi học sinh và của cả lớp chứ không phải   chỉ  dựa trên vốn hiểu biết và kinh nghiệm của giáo viên. Trong nhà trường,  phương pháp học tập theo nhóm được tổ  chức  ở  cấp nhóm, tổ, lớp hoặc   trường. Được sử  dụng phổ  biến trong dạy học là hoạt động hợp tác trong   nhóm nhỏ 4­6 người. Học tập theo nhóm làm tăng hiệu quả  học tập, nhất là  lúc giải quyết những vấn đề gây cấn, lúc xuất hiện thực sự nhu cầu phối hợp  giữa cá nhân để hoàn thành nhiệm vụ chung.  Trong hoạt động theo nhóm nhỏ sẽ không thể có hiện tượng ỷ lại; tính  cách năng lực của mỗi thành viên được bộc lộ, uốn nắn, phát triển tình bạn, ý  thức tổ chức, tinh thần tương trợ. Mô hình hợp tác trong xã hội đưa vào đời   sống học đường sẽ  làm cho các thành viên quan tâm dần với sự  phân công   hợp tác trong lao động xã hội. Trong nền kinh tế thị trường đã xuất hiện nhu  
  9. cầu hợp tác xuyên quốc gia, liên quốc gia, năng lực hợp tác phải trở  thành  một mục tiêu giáo dục mà nhà trường phải chuẩn bị cho học sinh. 1.2.4. Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò  Trong hoạt động học, việc đánh giá học sinh không chỉ nhằm mục đích   nhận định thực trạng và điều chỉnh hoạt động học của trò mà còn đồng thời  tạo điều khiện nhận định thực trạng và điều chỉnh hoạt động dạy của thầy.  Trước   đây   quan   niệm   giáo   viên   giữ   độc   quyền   đánh   giá   học   sinh.   Trong  phương pháp tích cực, giáo viên phải hướng dẫn học sinh phát triển kĩ năng  tự đánh giá tự điều chỉnh cách học. Liên quan điều này, giáo viên cần tạo điều  kiện thuận lợi để  học sinh được tự  đánh giá lẫn nhau. Tự  đánh giá đúng và   điều chỉnh hoạt động kịp thời là một năng lực rất cần cho sự thành đạt trong   cuộc sống mà nhà trường phải trang bị  cho học sinh. Theo hướng phát triển  của phương pháp tích cực để đào tạo những con người năng động, sớm thích  nghi với đời sống xã hội thì việc kiểm tra, đánh giá không thể dừng lại ở yêu   cầu tái hiện các kiến thức, lặp lại các kĩ năng đã học, phải khuyến khích trí   thông minh, óc sáng tạo trong việc giải quyết những tình huống thực tế. Với   sự  trợ  giúp của cá thiết bị  kĩ thuật, kiểm tra đánh giá sẽ  không còn là công  việc nặng nhọc đối với giáo viên, mà lại cho nhiều thông tin kịp thời hơn để  linh hoạt điều chỉnh hoạt động dạy, chỉ  đạo hoạt động học. Từ  dạy và học   thụ thụ động sang dạy và học tích cực, giáo viên không còn đóng vai trò đơn  thuần là người truyền đạt kiến thức, giáo viên trở  thành người thiết kế, tổ  chức, hướng dẫn các hoạt động độc lập hoặc theo nhóm nhỏ  để  học sinh tự  lực chiếm lĩnh nội dung học tập, chủ  động đạt các mục tiêu kiến thức, kĩ  năng, thái độ  theo yêu cầu của chương trình. Trên lớp học sinh hoạt động là  chính, giáo viên có vẽ  nhàn nhã hơn nhưng trước đó khi soạn giáo án, giáo  viên đã phải đầu tư công sức, thời gian rất nhiều so với kiểu dạy và học thụ  động, mới có thể  thực hiện bài lên lớp với vai trò là người gợi mở, xúc tác,  động viên, cố  vấn, trọng tài trong hoạt động tìm tòi hào hứng tranh luận sôi   9
  10. nổi của học sinh. Giáo viên phải có trình độ chuyên môn sâu rộng, có trình độ  sư  phạm lành nghề  mới có thể  tổ  chức hướng dẫn các hoạt động của học   sinh mà nhiều khi diễn biến ngoài tầm dự kiến của giáo viên. 1.3. Các phương pháp dạy học tích cực trong toán học ở trung học cơ sở 1.3.1. Dạy học đặt và giải quyết vấn đề Dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề là PPDH trong đó giáo viên tạo   ra những tình huống có vấn đề, điều khiển học sinh phát hiện vấn đề, hoạt  động tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo để giải quyết vấn đề và thông qua   đó chiếm lĩnh tri thức, rèn luyện kĩ năng và đạt được những mục đích học tập   khác. Đặc trưng cơ bản của dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề  là "tình   huống gợi vấn đề" vì "Tư  duy chỉ  bắt đầu khi xuất hiện tình huống có vấn  đề". Tình huống có vấn đề (tình huống gợi vấn đề) là một tình huống gợi ra  cho học sinh những khó khăn về lí luận hay thực hành mà họ thấy cần có khả  năng vượt qua, nhưng không phải ngay tức khắc bằng một thuật giải, mà  phải trải qua quá trình tích cực suy nghĩ, hoạt động để  biến đổi đối tượng  hoạt động hoặc điều chỉnh kiến thức sẵn có.  Quy trình thực hiện Bước 1. Phát hiện hoặc thâm nhập vấn đề Phát hiện vấn đề từ một tình huống gợi vấn đề Giải thích và chính xác hóa tình huống (khi cần thiết) để hiểu đúng vấn   đề được đặt ra Phát biểu vấn đề và đặt mục tiêu giải quyết vấn đề đó Bước 2: Tìm giải pháp Tìm cách giải quyết vấn đề, thường được thực hiện theo các điều sau: Phân tích vấn đề: làm rõ mối liên hệ  giữa cái đã biết và cái cần tìm   (dựa vào những tri thức đã học, liên tưởng tới kiến thức thích hợp)
  11. Hướng dẫn  học sinh  tìm chiến lược giải quyết vấn đề  thông qua đề  xuất và thực hiện hướng giải quyết vấn đề. Cần thu thập, tổ  chức dữ liệu,  huy động tri thức; sử dụng những phương pháp, kĩ thuật nhận thức, tìm đoán  suy luận như  hướng đích, quy lạ  về  quen, đặc biệt hóa, chuyển qua những  trường hợp suy biến, tương tự hóa, khái quát hóa, xem xét những mối liên hệ  phụ thuộc, suy xuôi, suy ngược tiến, suy ngược lùi,... Phương hướng đề xuất  có thể được điều chỉnh khi cần thiết. Kết quả của việc đề xuất và thực hiện   hướng giải quyết vấn đề là hình thành được một giải pháp. Kiểm tra tính đúng đắn của giải pháp: Nếu giải pháp đúng thì kết thúc  ngay, nếu không đúng thì lặp lại từ  khâu phân tích vấn đề  cho đến khi tìm  được giải pháp đúng. Sau khi đã tìm ra một giải pháp, có thể tiếp tục tìm thêm  những giải pháp khác, so sánh chúng với nhau để tìm ra giải pháp hợp lí nhất. Bước 3. Trình bày giải pháp Học sinh trình bày lại toàn bộ  từ  việc phát biểu vấn đề  tới giải pháp.  Nếu vấn đề là một đề bài cho sẵn thì có thể không cần phát biểu lại vấn đề. Bước 4. Nghiên cứu sâu giải pháp Tìm hiểu những khả năng ứng dụng kết quả Đề  xuất những vấn đề  mới có liên quan nhờ  xét tương tự, khái quát  hóa, lật ngược vấn đề,... và giải quyết nếu có thể. Ưu điểm Phương pháp này góp phần tích cực vào việc rèn luyện tư duy phê phán,   tư  duy sáng tạo cho  học sinh. Trên cơ  sở  sử  dụng vốn kiến thức và kinh  nghiệm đã có  học sinh  sẽ  xem xét, đánh giá, thấy được vấn đề  cần giải   quyết. Đây là phương pháp phát triển được khả  năng tìm tòi, xem xét dưới  nhiều góc độ  khác nhau. Trong khi phát hiện và giải quyết vấn đề, học sinh  sẽ  huy động được tri thức và khả  năng cá nhân, khả  năng hợp tác, trao đổi,  thảo luận với bạn bè để tìm ra cách giải quyết vấn đề tốt nhất. 11
  12. Thông qua việc giải quyết vấn đề, học sinh được lĩnh hội tri thức, kĩ  năng và phương pháp nhận thực ("giải quyết vấn đề" không còn chỉ  thuộc   phạm trù phương pháp mà đã trở  thành một mục đích dạy học, được cụ  thể  hóa thành một mục tiêu là phát triển năng lực giải quyết vấn đề, một năng  lực có vị trí hàng đầu để  con người thích  ứng được với sự  phát triển của xã  hội)  Hạn chế Phương pháp này đòi hỏi giáo viên phải đầu tư nhiều thời gian và công  sức, phải có năng lực sư  phạm tốt mới suy nghĩ để  tạo ra được nhiều tình   huống gợi vấn đề và hướng dẫn tìm tòi để phát hiện và giải quyết vấn đề. Việc tổ  chức tiết học hoặc một phần của tiết học theo phương pháp  phát hiện và giải quyết vấn đề đòi hỏi phải có nhiều thời gian hơn so với các   phương pháp thông thường. Hơn nữa, theo Lecne: "Chỉ có một số  tri thức và  phương pháp hoạt động nhất định, được lựa chọn khéo léo và có cơ  sở  mới   trở thành đối tượng của dạy học nêu vấn đề". Một số lưu ý Lecne khẳng định rằng: "Số tri thức và kĩ năng được học sinh thu lượm  trong quá trình dạy học nêu vấn đề  sẽ  giúp hình thành những cấu trúc đặc  biệt của tư  duy. Nhờ  những tri thức đó, tất cả  những tri thức khác mà   học  sinh đã lĩnh hội không phải trực tiếp bằng những PPDH nêu vấn đề, sẽ được   chủ  thể  chỉnh đốn lại, cấu trúc lại". Do đó, không nên yêu cầu  học sinh  tự  khám phá tất cả các tri thức quy định trong chương trình. Cho học sinh phát hiện và giải quyết vấn đề  đối với một bộ  phận nội  dung học tập, có thể  có sự  giúp đỡ  của giáo viên với mức độ  nhiều ít khác  nhau. Học sinh được học không chỉ  ở  kết quả mà điều quan trọng hơn là cả  quá trình phát hiện và giải quyết vấn đề. Học sinh chỉnh đốn lại, cấu trúc lại cách nhìn đối với bộ  phận tri thức   còn lại mà họ đã lĩnh hội không phải bằng con đường phát hiện và giải quyết 
  13. vấn đề, thậm chí có thể  cũng không    phải nghe  giáo viên  thuyết trình phát  hiện và giải quyết vấn đề. Tỉ  trọng các vấn đề  người học phát hiện và giải  quyết vấn đề  so với chương trình tùy thuộc vào đặc điểm của môn học, vào   đối tượng học sinh và hoàn cảnh cụ thể. Tuy nhiên, phương hướng chung là:  Tỉ  trọng phần nội dung được dạy theo cách để  phát hiện và giải quyết vấn   đề không choán hết toàn bộ môn học những cũng phải đủ để người học biết   cách thức, có kĩ năng giải quyết vấn đề  và có khả  năng cấu trúc lại tri thức,  biết nhìn toàn bộ nội dung còn lại dưới dạng đang trong quá trình hình thành  và phát triển theo cách phát hiện và giải quyết vấn đề. Các vấn đề/ tình huống đưa ra để  học sinh xử  lí, giải quyết cần thoả  mãn các yêu cầu sau: Phù hợp với chủ đề bài học Phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh Vấn đề tình huống phải gần gũi với cuộc sống thực của học sinh Vấn đề tình huống có thể diễn tả bằng kênh chữ hoặc kênh hình, hoặc  kết hợp cả  hai kênh chữ  và kênh hình hay qua tiểu phẩm đóng vai của học  sinh Vấn đề tình huống cần có độ dài vừa phải Vấn đề  tình huống phải chứa đựng những mâu thuẫn cần giải quyết,  gợi ra cho học sinh nhiều hướng suy nghĩ, nhiều cách giải quyết vấn đề. Tổ chức cho học sinh giải quyết, xử lí vấn đề, tình huống cần chú ý: Các nhóm học sinh có thể giải quyết cùng một vấn đề, tình huống hoặc  các vấn đề, tình huống khác nhau, tuỳ theo mục đích của hoạt động. Học sinh cần xác định rõ vấn đề trước khi đi vào giải quyết vấn đề. Cần sử  dụng phương pháp động não để  học sinh liệt kê các cách giải  quyết có thể có. Cách giải quyết tối  ưu đối với mỗi  học sinh  có thể  giống hoặc khác  nhau. 13
  14. Giáo viên  cần tìm hiểu đúng cách tạo tình huống gợi vấn đề  và tận  dụng các cơ hội để tạo ra tình huống đó, đồng thời tạo điều kiện để  học sinh  tự lực giải quyết vấn đề. Một số cách thông dụng để tạo tình huống gợi vấn  đề là: Dự đoán nhớ nhận xét trực quan, thực hành hoặc hoạt động thực tiễn Lật ngược vấn đề Xét tương tự Khái quát hóa Khai thác kiến thức cũ, đặt vấn đề dẫn đến kiến thức mới Giải bài tập mà chưa biết thuật giải trực tiếp Tìm sai lầm trong lời giải Phát hiện nguyên nhân sai lầm và sửa chữa sai lầm, Trong dạy học, các cơ hội như vậy rất nhiều, do đó PPDH phát hiện và   giải quyết vấn đề  có khả  năng được áp dụng rộng rãi trong dạy học nhằm   phát huy tính chủ động, sáng tạo của học sinh. Dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề  có thể  áp dụng trong các giai  đoạn của quá trình dạy học: hình thành kiến thức mới, củng cố kiến thức và   kĩ năng, vận dụng kiến thức. Phương pháp này cần hướng tới mọi đối tượng   học sinh chứ không chỉ áp dụng riêng cho học sinh khá giỏi.
  15. 1.3.2. Phương pháp vấn đáp  Bản chất Phương pháp vấn đáp tìm tòi là quá trình tương tác giữa giáo viên và  học sinh, được thực hiện thông qua hệ thống câu hỏi và câu trả lời tương ứng   về một chủ đề nhất định được giáo viên đặt ra. Đây là phương pháp giáo dục mà giáo viên không trực tiếp đư ra những  kiến thức hoàn chỉnh mà chỉ hướng dẫn học sinh tư duy từng bước để các em   tự tìm ra kiến thức mới phải học. Căn cứ vào tính chất hoạt động nhận thức  của học sinh, người ta phân biệt các loại hình vấn đáp gồm: vấn đáp tái hiện;  vấn đáp giải thích minh họa; vấn đáp tìm tòi. Vấn đáp tái hiện: được thực hiện khi những câu hỏi giáo viên đặt ra chỉ  yêu cầu học sinh nhắc lại kiến thức đã biết. Loại vấn đáp này chỉ  nên sử  dụng hạn chế  khi cần đặt mối liên hệ  giữa kiến thức đã học với kiến thức   sắp học hoặc khi củng cố kiến thức vừa mới học. Vấn đáp gải thich minh họa: được thực hiện khi những câu hỏi của  giáo viên đưa ra có kèm theo các ví dụ  minh họa (bằng lời hoặc bằng hình  ảnh   trực   quan),   nhằm   giúp   học   sinh   dễ   hiểu,   dễ   ghi   nhớ.   Việc   áp   dụng  phương pháp nayfcos giá trị sư phạm cao hơn nhưng khó khăn hơn và đòi hỏi   nhiều công sức của giáo viên hơn khi chuẩn bị  hệ  thống các câu hỏi thích  hợp. Vấn đáp tìm tòi (hay vấn đáp tái hiện) : là loại vấn đáp mà giáo viên sử  dụng hệ thống câu hỏi để  kích thích sự  tranh luận, trao đổi ý kiến giữa giáo   viên với học sinh, giữa học sinh với học sinh. Yhoong qua dó học sinh dẫn  dắt tiếp cận kiến thức mới.  Trong vấn đáp tìm tòi, trật tự logic các câu hỏi phải nhằm dẫn dắc học   sinh từng bước phát hiện ra bản chắt sự  vật, quy luật của hiện tượng, kích  thích tính tích cực tìm tòi và lòng ham muốn hiểu biết của học sinh. 15
  16. Sự thành công của phương pháp vấn đáp phụ thuộc vào nhiều việc xây  dựng được hệ  thống câu hỏi gợi mở  thích hợp (tất nhiên là phụ  thuộc vào  nghệ thuật giao tiếp, ứng xử và dẫn dắt của giáo viên ) Quy trình thực hiện Trước giờ học: Bước 1: xác định mục tiêu bài học và đối tượng dạy học. Xác định các   đơn vị  kiến thức kỹ  năng cơ  bản trong bài học và tmf cách diễn đặt các nội   dung này dưới dạng câu hỏi gợi ý, dấn dắt học sinh. Bước 2: dự kiến nội dung các câu hỏi, hình thức hỏi, thời điểm đặt câu   hỏi (đặt câu hỏi ở chỗ nào? ), trình tự của các câu hỏi (câu hỏi trước phải làm  nền cho các câu hỏi tiếp sau hoặc định hướng suy nghỉ để học sinh giải quyết  vấn đề). Dự kiến nội dung các câu trả  lời của học sinh, trong đó có dự  kiến   những “lỗ hổng” về mặt kiến thức và dự kiến về các câu nhận xết hoặc trả  lời của giáo viên đối với học sinh. Dự kiến những câu hỏi phụ để tùy tình hình từng đối tượng cụ thể mà   tiếp tục gọi ý, dẫn dắc học sinh. Trong giờ học Giáo viên sử dụng câu hỏi dự kiến ( phù hợp vói trình độ nhận thức của  từng đối tượng học sinh) trong tiến trình bài dạy và chú ý thu thập thông tin   phản hồi từ phía học sinh.  Quy trình đặt câu hỏi trên lớp gồm các bước sau đây: Thư nhất là đặt câu hỏi. Thứ hai là dừng lại để học sinh có thời gian xem xét câu hỏi và suy nghỉ  câu trả lời. Thứ ba là gọi học sinh và nghe câu trả lời. Thứ tư là cho ý kiến đánh giá về câu trả lời. Có thể  tạo điều kiện cho học sinh khác nhận xét, đánh giá câu trả  lời  của học sinh. Trên cơ sở những câu trả lời và ý kiến của học sinh khác, giáo 
  17. viên có thể đặt ra những câu hỏi, vấn đề  làm cho học sinh hiểu sâu sắc kiến  thức hơn hoặc dẫn dắt sang kiến thức mới. Sau giờ học Gióa viên chú ý rút kinh nghiệm về  tính rõ ràng, chính xác và trật tự  logic của hệ thống câu hỏi đã được sử dung trong giờ dạy. Ưu điểm: Vấn đáp là cách thức tốt để kích thích tư duy độc lập của học sinh, dạy   học sinh cách tụ  suy nghĩ đúng đắn. Bằng cách này học sinh hiểu nội dung   học tập tốt hơn cách học vẹt thuộc lòng. Gợi mở  vấn đáp giúp lôi cuốn học sinh tham gia vào bài học, làm cho  không khí lớp học sôi nỗi, sinh động, kích thích hứng thú học tập và lòng tự  tun của học sinh, rèn luyện cho học sinh năng lực diễn đạt sự  hiểu biết của  mình và hiểu ý diễn đạt của người khác. Tạo môi trường để  học sinh gúp đỡ  nhau trong học tập, học sinh kém  có điều kiện học tập các bạn trong nhóm, có điều kiện tiến bộ trong quá trình  hoàn thành các nhiệm vụ được giao. Giúp giáo viên duy trì sự chú ý của học sinh, giúp kiểm soát hành vi của   học sinh và quản lý lớp học. Hạn chế: Hạn chế  lớn nhất của phương pháp vấn đáp là khó soạn thảo và sử  dung hệ  thống câu hỏi gợi mở  và dẫn dắt học sinh theo một chủ  đề  nhất  quán. Vì vậy đòi hỏi giáo viên phải có sự  chuẩn bị  rất công phu, nếu không   kiến thức mà học sinh thu nhận được qua trao đổi sẽ thiếu tính hệ thống, tản  mạn, thặm chí vụn vặt. Nếu giáo viên chuẩn bị  hệ  thống câu hỏi không tốt, sẽ  dẫn đến việc  đặt câu hỏi không  rỏ  ràng, không rỏ  mục đích, đặt câu hỏi mà học sinh dễ  dàng trả  lời có hoặc không. Hiện nay nhiều giáo viên gặp khó khăn khi xây   dựng hệ  thống câu hỏi do không nắm chắc trình độ  của học sinh, vì vậy   17
  18. thường ngay sau khi đặt câu hỏi là nêu ngay gợi ý câu trả lời khiên shocj sinh  rơi vào trạng thái bị  động, không thực sự  làm việc, chỉ   ỷ  lại vào gợi ý của   thầy, cô giáo. Một số lưu ý Phương   pháp   vấn   đáp   thường   được   sử   dụng   phhoois   hợp   với   các   phương pháp khác nhằm làm cho học sinh tích cực,hứng thú và học tập hiệu   quả hơn. Khi soạn các câu hỏi giáo viên cần lưu ý các yêu cầu sau đây: Thứ  nhất: câu hỏi phải có nội dung chính xác, rõ ràng, sát với mục   đích , yêu cầu của học sinh, không làm cho người học có thể hiểu theo nhiều   cách khác nhau. Thứ hai: câu hỏi phải sát với từng loại đối tượng học sinh. Nhĩa là phải  có nhiều câu hỏi ở các mức độ khác nhau, không quá dễ cũng không quá khó.  Giáo viên có kinh nghiệm thường tạo ra cho học sinh thấy các câu hỏi đều có  tầm quan trọng và có độ khó như nhau Thứ  tư: cùng một nội dung học tập với cùng một mục đích như  nhau,   giáo viên có thể  sử  dụng nhiều dạng câu hỏi với nhiều hình thức hỏi khác  nhau. Bên cạnh những câu hỏi chính càn chuẩn bị những câu hỏi phụ, để tùy  tình hình thực tế mà gợi ý, dẫn dắt tiếp. Xét chất lượng câu hỏi về mặt yêu cầu nâng lực nhận thức nhười ta có  thể phân biệt hai loại chính: Loại có yều cầu thấp, đòi hỏi khả  năng tái hiện kiến thức, nhớ  lại và   trình bày lại điều đã học: “nhận dạng” các khái niệm, định lý, quy tắc... “nhận dạng một khái niệm” là phát hiện xem một đối tượng cho trước  có các đặt trưng của một khái niệm nào đó hay không. “Nhận dạng một định lý” là xem xét một tình huống cho trước có ăn  khớp với một định lý nào đó hay không.
  19. Loại câu hỏi này sử dụng khi học sinh sắp được giới thiệu tà liệu mới,  đang luyện tập, thực hành, đang ôn tập những điều đã học... 1.3.3. Phương pháp luyện tập và thực hành  Bản chất Luyện tập và thực hành củng cố, bổ  sung, làm vững chắc thêm các  kiến thức lí thuyết. Trong luyện tập, người ta nhấn mạnh tới việc lặp lại với   mục đích học thuộc những "đoạn thông tin": đoạn văn, thơ, bài hát, kí hiệu,   quy tắc, định lí, công thức,... đã học và làm cho việc sử  dụng kĩ năng được   thực hiện một cách tự động, thành thục. Trong thực hành, người ta không chỉ  nhấn mạnh vào việc học thuộc mà còn nhằm áp dụng hay sử dụng một cách   thông minh cách tri thức để thực hiện các nhiệm vụ  khác nhau. Vì thế, trong   dạy học, bên cạnh việc cho học sinh luyện tập một số  chi tiết cụ thể,  giáo  viên cũng cần lưu ý cho học sinh thực hành phát triển các kĩ năng.  Quy trình thực hiện Bước 1. Xác định tài liệu cho luyện tập và thực hành Bước này bao gồm việc tập trung chú ý của học sinh về một kĩ năng cụ  thể hoặc những sự kiện cần luyện tập hoặc thực hành. Bước 2. Giới thiệu mô hình luyện tập hoặc thực hành Khuôn mẫu để  học sinh bắt chước hoặc làm theo được giáo viên giới  thiệu, có thể thông qua ví dụ cụ thể. Bước 3. Thực hành hoặc luyện tập sơ bộ Học sinh tìm hiểu về tài liệu để luyện tập hoặc thực hàng. Học sinh có  thể tự thử kĩ năng của mình và có thể đặt câu hỏi về những kĩ năng đó. Việc  nhắc lại sơ  bộ  có thể  được tiến hành trong hoạt động của cả  lớp với sự  hướng dẫn của giáo viên. Nếu luyện tập hay thực hành một kĩ năng tự động   thì mỗi bước cần có lời chỉ  dẫn cụ  thể. Bài tập loại này cần được tiếp tục  cho tới khi nào  học sinh  biết chính xác họ  phải làm gì và nhận rõ mức độ  hoàn thành mà các em cần đạt được. 19
  20. Bước 4. Thực hành đa dạng Giáo viên đưa ra các bài tập đòi hỏi học sinh phải sử dụng nhiều kiến  thức, định lí, công thức, ... Các bài tập càng đa dạng thì học sinh càng có cơ  hội rèn luyện kĩ năng, vận dụng các kiến thức khác nhau để giải quyết nhiệm  vụ đặt ra. Bước 5. Bài tập cá nhân Học sinh có thể luyện tập, thực hành những bài tập có trong SGK hoặc  SBT hoặc các bài tập tham khảo khác nhằm phát triển kĩ năng giải quyết vấn   đề và rèn luyện tư duy.  Những yêu cầu cơ bản Luyện tập phải nhằm mục đích, yêu cầu nhất định. Luyện tập phải tiến hành theo một trình tự  chặt chẽ. Lúc đầu đơn  giản, có làm mẫu, có chỉ dẫn, sau tăng dần tính phức tạp của hành động và sự  tự lực luyện tập. Phải nắm lý thuyết rồi mới luyện tập và qua luyện tập để  hiểu sâu  hơn lý thuyết. Luyện tập phải đảm bảo mức độ  khó khăn vừa sức đối với những  hoàn cảnh khác nhau và theo nhiều phương án. Ưu điểm Đây là phương pháp có hiệu quả  để  mở  rộng sự  liên tưởng và phát  triển các kĩ năng Luyện tập và thực hành có hiệu quả trong việc củng cố trí nhớ, tinh lọc   và trau chuốt các kĩ năng đã học, tạo cơ  sở  cho việc xây dựng kĩ năng nhận   thức ở mức độ cao hơn. Đây là phương pháp dễ thực hiện và được thực hiện trong hầu hết các  giờ học như môn Toán, Thể dục, Âm nhạc,...  Hạn chế
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
9=>0