
1
Tiểu luận Rừng và môi
trường

2
MỞ ĐẦU
Rừng là hệ sinh thái phức tạp. Ở đó xảy ra các quá trình vật lý, hoá học và sinh
học đa dạng. Sản phẩm ban đầu nhận biết được từ rừng đó là gỗ nhưng cây rừng cung
cấp nhiều lợi ích cho xã hội hơn so với sản phẩm đơn thuần chỉ là gỗ. Nó bao gồm săn
bắn, giải trí, cảnh quan, đa dạng sinh học, bảo tồn thiên nhiên, hấp thụ carbon và di
sản văn hóa. Mặc dù các loại hàng hoá và dịch vụ này không được thị trường hoá,
nhưng các nhà kinh tế trên thế giới thừa nhận rằng chúng tạo ra các giá trị đích thực
cho xã hội và do đó phải có biện pháp để nâng cao giá trị của rừng.
1. Giá trị dịch vụ môi trường rừng
Cho đến nay, trong khung phân tích TEV, lợi ích của rừng có thể được phân ra
các giá trị 'sử dụng' và 'phi sử dụng'. Các giá trị sử dụng liên quan đến lợi ích có tác
động trực tiếp hay gián tiếp đến đời sống con người như là một kết quả của việc sử
dụng nguồn lực theo một cách nào đó. Các giá trị phi sử dụng phát sinh từ hàm ý, con
người thu dụng tiện ích của rừng vì mục tiêu môi trường, coi rừng là tài nguyên môi
trường mà không đề cập đến tính “độc quyền” trong sử dụng của mỗi cá nhân (Dougla,
2004).
Theo Pear 1994, Natasha Land-Mill 2002, giá trị của rừng bao gồm: (i) Giá trị
sử dụng và (ii) giá trị phi sử dụng (chưa nhận thức là đã sử dụng) sử dụng. Giá trị sử
dụng có giá trị sử dụng trực tiếp (gỗ, củi, LSNG, …) và giá trị sử dụng gián tiếp hay
giá trị môi trường và dịch vụ môi trường (bảo vệ đất, điều tiết nước, khí hậu, đa dạng
sinh học, giải trí, …). Đối với giá trị chưa sử dụng được chia ra giá trị lưu truyền và
giá trị tồn tại.
Dougla (2004) đã dẫn ra những khái niệm về các giá trị của rừng như sau:
Giá trị sử dụng trực tiếp: Là các lợi ích sử dụng trực tiếp của rừng cung cấp ích
lợi trực tiếp đối với con người và có thể được phân chia thành sử dụng tiêu hao và
không tiêu hao. Giá trị sử dụng tiêu hao bao gồm sản xuất gỗ, thực phẩm và các lâm
sản ngoài gỗ khác. Giá trị sử dụng không tiêu hao bao gồm các hoạt động như giải trí
và các hình thái du lịch khác, hay thậm chí là xem phóng sự về hình ảnh thiên nhiên
rừng trên TV.
Giá trị sử dụng gián tiếp: Là các yếu tố đầu vào được sử dụng cho quá trình
sản xuất ra tổng giá trị kinh tế của rừng. Ví dụ, nấm cộng sinh trong đất mang lại giá

3
trị sử dụng gián tiếp qua thúc đẩy sinh trưởng của rừng. Việc tạo nơi cư trú cho động
vật hoang dã, luân chuyển carbon, hoặc tích tụ các chất dinh dưỡng cũng được coi là
lợi ích gián tiếp vì chúng góp phần vào quá trình của hệ sinh thái rừng trực tiếp sản
xuất ra hàng hoá và dịch vụ có ích lợi cho nền kinh tế, dịch vụ môi trường.
Giá trị phi sử dụng: Là các giá trị được đề cập đến với ý niệm là các nguồn lực có
thể được định giá thậm chí kể cả khi không sử dụng chúng, một cách trực tiếp cũng như
gián tiếp. Việc coi các giá trị phi sử dụng là các hàng hoá công cộng đơn thuần là phù
hợp (McConnell, 1983) và bởi chính bản chất của nó nên các cơ chế thị trường tư nhân
không thể cung cấp được loại hàng hoá này.
Để cung cấp luận cứ cho các nhà chính sách và ra quyết định trong những vấn
đề liên quan đến quản lý và phát triển rừng bền vững, nâng cao nhận thức của xã hội
về lợi ích của tài nguyên rừng đã có rất nhiều nghiên cứu điển hình về một số “giá
trị” của rừng.
Các nhà khoa học Trung Quốc đã khẳng định vai trò của rừng trong việc giữ
đất và nước là lớn hơn nhiều so với giá trị kinh tế trực tiếp mà nó mang lại. Trần Huệ
Tuyền và Trần Văn Đại (1993) đã nghiên cứu khả năng giữ nước của rừng vùng đầu
nguồn hồ Tùng Hoa – Côn Minh (Trung Quốc) cho thấy diện tích rừng đầu nguồn
60.000 ha, với độ tàn che 30% hàng năm giữ được khoảng 8,3 triệu mét khối nước.
Giá trị của rừng trong hạn chế xói mòn là rất đáng kể. Xói mòn đất ở nơi phát
rừng làm rẫy cao gấp 10 lần ở những khu vực có rừng tự nhiên. Song song với quá
trình xói mòn là sự tích tụ chất lắng đọng tại các vùng lòng chảo gây ra thiệt hại cho
các công trình thuỷ lợi, ước tính khoảng 4USD/ha/năm (Cruz, Francisco and
Coway,1988, Philippine) và các hồ nhân tạo ước tính lên tới 6 tỷ USD/năm
(Mahmood, 1987). Trong khi đó, nếu được rừng bảo vệ, lợi ích về chống xói mòn,
rửa trôi, kiểm soát dòng chảy có thể lên tới 80 USD/ha/năm (Cruz, Francisco and
Coway, 1988, Philippine).
Nghiên cứu về rừng đầu nguồn ở lưu vực sông ở Vân Nam – Trung Quốc liên
quan đến khả năng giữ đất, nước và phân bón của rừng cho thấy giá trị này là khoảng
4.450,5 NDT (khoảng 8.455.855 VND, tỷ giá 1 NDT = 1.900 VND) chiếm 87.9%
trong khi đó giá trị trực tiếp (than củi, gỗ) là 528.5 NDT (khoảng 1.384.245 VND)
chiếm 12,1% (Chương Gia Binh, 2003).
Đánh giá trị của rừng Tapean rộng 1.824 ha tại xã Poey, huyện O Chum, tỉnh
Natanakiri, Cam Pu Chia cho thấy giá trị của lâm sản ngoài gỗ khoảng 625 -3.925

4
USD/hộ gia đình/năm, giá trị của gỗ, củi là 711 USD/ha/năm; lợi ích từ việc bảo về
nguồn nước là 75.59 USD/ha/năm; giá trị của đa dạng sinh học là 300 - 511
USD/ha/năm và gá trị của chức năng tích trữ các bon khoảng 6.86 USD/ha/năm
(Camillie Bann, 2003).
Với sự ra đời của Nghị định thư Kyoto, vai trò của rừng đã được khẳng định.
Đó là khả năng hấp thụ khí các bon níc (CO2) của rừng nhờ khả năng quang hợp. Giá
trị hấp thụ CO2 của các khu rừng tự nhiên nhiệt đới thì khoảng từ 500 – 2.000
USD/ha và giá trị này với rừng ôn đới được ước tính ở mức từ 100 – 300 USD
(Zhang 2000). Giá kinh tế về giá trị hấp thụ CO2 ở rừng Amazon được ước tính là
1.625USD/ha/năm, trong đó rừng nguyên sinh là 4.000 – 4.400 USD/ha/năm, rừng
thứ sinh là 1.000 – 3.000 USD/ha/năm và rừng thưa là 600 – 1.000 USD/ha/năm
(Camille Bann và Bruce Aylward, 1994)
Ở vùng cát, các nghiên cứu đều khẳng định vai trò của các đai rừng trong
phòng hộ và cải thiện điều kiện canh tác. Một đai rừng có bề rộng 100 m có khả
năng cố định 104 – 223 m3 cát. Theo Zheng Haishui (1996), ở khoảng cách bằng 5 -
25 lần chiều cao đai rừng, tốc độ gió giảm 25 - 40%, vùng có hiệu quả phòng hộ nhất
là khoảng cách bằng 5 lần chiều cao, tốc độ gió giảm 46 - 69%. Thêm vào đó tiểu
khí hậu được cải thiện như nhiệt độ tăng 0,3 – 1,5OC vào mùa đông và giảm 1 - 2OC
vào mùa hè; lượng bốc hơi giảm từ 10-30%.
Ngoài các giá trị nêu trên, giá trị cảnh quan/giải trí của rừng là rất lớn. Ví dụ, trong
năm 1996, người Bristish Clumbia chi tiêu khoảng 1,9 tỷ USD cho các hoạt động du lịch
sinh thái, đóng góp cho ngành thuế của địa phương là 116 triệu USD (Canada
Environment, 1996). Theo David W Pearce và Corin G T Pearce (2001) thì cơ chế chi trả
cho dịch vụ giải trí và du lịch ở Châu âu và Bắc Mỹ được xác định theo mức "Bằng lòng
chi trả - WTP (Willingness To Pay) với mức giá từ 1-3USD/người/lần. Liên quan đến giá
trị này Elsser (1999) cho rằng giá trị giải trí của rừng ở Đức được xác định là khoảng 2.2
tỷ USD/năm.
Natasha Land-Mill (2002) đã thu thập và tổng hợp trên 200 kết quả nghiên
cứu về giá trị của rừng. Số liệu trung bình về cơ cấu giá trị môi trường của rừng là:
Hấp thụ các bon chiếm 27%; Bảo tồn ĐDSH chiếm 25%; Bảo vệ đầu nguồn chiếm
21%; Vẻ đẹp cảnh quan chiếm 17% và giá trị khác chiếm 10%.
Các nhà khoa học đã ước lượng giá trị dịch vụ do hệ sinh thái rừng trên toàn
Trái đất là khoảng 33.000 tỷ USD/năm. Riêng ở Bristish Clubia, rừng đã giúp cho các

5
cộng đồng địa phương tránh được chi phí xây dựng các nhà máy lọc nước, ước tính
khoảng 7 triệu USD/nhà máy và 300.000 USD vận hành mỗi năm (The World Bank
Research observe, vol 13, no 1 (page 13-35), February, 1998).
Kết quả nghiên cứu tổng giá trị rừng trồng vùng Đông dương của Dougla
(2004) đã cho biết cơ cấu tổng giá trị của những loài cây bản địa, trong đó: Gỗ chiếm
32%; Carbon 20%; Xói mòn đất 23%; giá trị phi sử dụng 22%; Du lịch 1% và Lâm
sản ngoài gỗ 2%. Nhưng, đối với cây mọc nhanh (cây nguyên liệu), Bạch đàn: Gỗ
chiếm 53%; Carbon 27; và xói mòn đất 20%.
Nhật Bản, Hội đồng các Nhà khoa học (2001) đã lượng hoá giá trị bằng tiền
tất cả các chức năng của hệ thống rừng liên quan đến cuộc sống của con người: Hấp
thụ CO2 khoảng 1,239 tỷ tỷ Yên; Nguồn cho năng lượng hoá thạch khoảng 226,1 tỷ
Yên; Phòng chống xói mòn đất 28,25 tỷ tỷ yên; Phòng chống sạt lở đất 8,44 tỷ tỷ
Yên; Giảm lũ lụt 6,47 tỷ tỷ Yên; Điều hoà nguồn nước 8,7 tỷ tỷ Yên; Làm sạch
nguồn nước 14,6 tỷ tỷ Yên; và Du lịch cảnh quan 2,25 tỷ tỷ Yên. (Japanese Forestry
Agency, 2005)
Ở nước ta, giá trị của rừng mới chỉ được biết đến như là nơi cung cấp các lâm
sản hơn là các giá trị về môi trường. Các nghiên cứu cụ thể về giá trị dịch vụ môi
trường của rừng hầu như rất ít và chưa có hệ thống. Tuy vậy, một số nghiên cứu
cũng đã làm rõ vai trò của rừng trong hạn chế xói mòn, điều tiết nước.
Tác dụng của rừng về hạn chế xói mòn và điều tiết nguồn nước là khá rõ. Các
nghiên cứu về dòng chảy mặt và xói mòn đất của Bùi Ngạnh, Vũ Văn Mễ và Nguyễn
Danh Mô (1972-1984), Nguyễn Ngọc Lung và Võ Đại Hải (1996) cho thấy dòng
chảy mặt ở rừng tự nhiên hỗn loài, tàn che 0,7 – 0,8 là nhỏ nhất, khoảng 84 m3/năm.
Ngược lại ở đất sau khai thác thành bãi chăn thả dòng chảy mặt là cao nhất, khoảng
2230 m3/năm. Liên quan đến dòng chảy mặt các tác giả cũng đã phân tích phân phối
lượng nước mưa qua tán rừng. Số liệu nghiên cứu cho thấy lượng nước mưa bị tán
rừng ngăn cản chiếm từ 5,7 - 11,6% tuỳ thuộc loại rừng, lượng nước men thân cây là
từ 1,1 - 3,5%, lượng nước tạo dòng chảy mặt là 1,7 – 1,8% và lượng nước tạo dòng
ngầm và các dạng khác là 88,2 - 92,5%. Khả năng giữ đất của rừng là rất rõ, thể hiện
qua lượng đất mất hàng năm. Đối với nơi trồng cây nông nghiệp, Thái Phiên và
Nguyễn Tử Siêm (1998) cho rằng ở nơi đất trống (thường có cỏ tự nhiên) hoặc trồng
cây theo phương thức bình thường không áp dụng các biện pháp bảo vệ đất thì lượng
đất mất hàng năm từ 7 – 23 tấn/ha, có nơi lên đến 50 – 170 tấn/ha tuỳ loại cây trồng,

