Tiziano Vecelli
lượt xem 8
download
Titian Titian tự hoạ, c.1567; Museo del Prado, Madrid Tên khai sinh Tiziano Vecelli Sinh khoảng 1488/1490 Pieve di Cadore .27 tháng 8 năm 1576 (aged Mất 84-86) Venice Quốc tịch Người Italia Lĩnh vực hoạt động Hội hoạ Đào tạo Giorgione Trào lưu Đỉnh cao Phục hưng Đức mẹ đồng trinh thăng Tác phẩm thiên Pesaro Altarpiece Venus of Urbino Xin xem các mục từ khác có tên tương tự ở Tiziano Vecelli (định hướng). Tiziano Vecelli hay Tiziano Vecellio, trong tiếng Việt còn có thể gọi là Ti xiêng (khoảng 1473/1490[1] – 27 tháng 8 năm 1576[2] thường được biết đến hơn với tên gọi Titian (phát âm / t ən/) là một...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tiziano Vecelli
- Tiziano Vecelli Mục từ "Tiziano" dẫn đến bài này. Xin đọc về các nghĩa khác tại Tiziano (định hướng). Titian Titian tự hoạ, c.1567; Museo del Prado, Madrid Tiziano Vecelli Tên khai sinh khoảng 1488/1490 Sinh Pieve di Cadore
- 27 tháng 8 năm 1576 (aged M ất 84-86) Venice Người Italia Quốc tịch Lĩnh vực hoạt Hội hoạ động Giorgione Đào tạo Đỉnh cao Phục hưng Trào lưu Đức mẹ đồng trinh thăng thiên Tác phẩm Pesaro Altarpiece Venus of Urbino Xin xem các mục từ khác có tên tương tự ở Tiziano Vecelli (định hướng). Tiziano Vecelli hay Tiziano Vecellio, trong tiếng Việt còn có thể gọi là Ti xiêng (khoảng 1473/1490[1] – 27 tháng 8 năm 1576[2] thường được biết đến hơn với tên gọi Titian (phát âm / t ən/) là một hoạ sĩ Italia, người lãnh đạo trường phái Venice thế kỷ 16 của phong trào Phục hưng Italia. Ông sinh
- ra tại Pieve di Cadore, gần Belluno (ở Veneto), thuộc Cộng hoà Venice. Trong cuộc đời của mình, ông thường được gọi là Da Cadore, theo nơi sinh của ông. Được những người đương thời công nhận là "Mặt trời giữa những ngôi sao nhỏ" (gợi nhớ lại những dòng cuối cùng trong cuốn Thần Khúc của Dante), Titian là một trong những hoạ sĩ Italia đa tài nhất, tinh thông cả về chân dung, phong cảnh và các chủ đề thần thoại và tôn giáo. Những phương pháp sáng tác của ông, đặc biệt trong việc áp dụng và sử dụng màu sắc, sẽ có ảnh hưởng sâu sắc không chỉ với những hoạ sĩ Italia thời Phục hưng, mà cả với những thế hệ tiếp sau của nghệ thuật phương Tây.[3] Trong cuộc đời khá dài của mình phong cách nghệ thuật của Titian đã thay đổi mạnh mẽ[4] nhưng ông vẫn giữ lại sự chú trọng đặc biệt với màu sắc. Dù những tác phẩm sau này của ông có thể không chứa đựng sự mạnh mẽ, màu sắc tươi sáng như những tác phẩm ban đầu, phong cách vẽ lỏng tay và những sự biến đổi màu sắc huyền ảo là chưa từng có trong lịch sử nghệ thuật phương Tây. Mục lục 1 Tiểu sử 1.1 Những năm tuổi trẻ o 1.2 Khôn lớn o 1.3 Danh vọng o
- 1.4 Những năm cuối cùng o 2 In ấn 3 Gia đình 4 Ngày nay 5 Xem thêm 6 Ghi chú 7 Tham khảo 8 Liên kết ngoài Tiểu sử Những năm tuổi trẻ Không ai chắc chắn về ngày sinh chính xác của Titian, khi đã già trong một bức thư gửi Philip II ông tuyên bố mình sinh năm 1474, nhưng dường như điều này không chính xác.[5] Các tác gia đương thời với ông đưa ra những con số về độ tuổi ông tương đương với ngày sinh trong khoảng từ năm 1473 tới sau năm 1482,[6] nhưng hầu hết các học giả hiện đại tin rằng một ngày gần năm 1490 dường như chính xác hơn; thời gian biểu của Metropolitan Museum of Art ủng hộ khoảng năm1488, tương tự là Getty Research Institute.[7] Ông là người con lớn nhất trong gia đình gồm bốn người con trai của Gregorio Vecelli, một uỷ viên hội đồng và quân nhân có danh tiếng, cùng vợ là Lucia. Cha ông là người trông nom lâu đài Pieve di Cadore và
- cũng quản lý các mỏ ở địa phương cho những người sở hữu chúng.[8] Nhiều người họ hàng, gồ m cả ông của Titian, là công chứng viên, và gia đình này khá có vị thế trong vùng, nơi nằm dưới sự cai quản của Venice. Bức chân dung sớm này (khoảng năm 1512) từ lâu đã bị tin tưởng một cách sai lầm là của Ariosto; dường như nó là một bức tự hoạ, và cấu trúc của nó đã được Rembrandt mượn cho những bức tự hoạ của mình. Khoảng 10 hay 12 tuổi ông cùng em trai Francesco (người có lẽ sau này mới đi theo) được gửi tới một người chú ở Venice để trở thành thợ học nghề với một hoạ sĩ. Hoạ sĩ không mấy tên tuổi, Sebastian Zuccato, mà những người con trai sẽ trở thành những nghệ nhân khảm nổi tiếng, và có thể là một người bạn của gia đình, đã thu xếp để hai anh em vào xưởng của hoạ sĩ Gentile Bellini già cả, từ đó sau này họ được chuyển cho em trai ông là Giovanni Bellini.[8] Ở thời ấy anh em nhà Bellini, đặc biệt là Giovanni, là những nghệ sĩ hàng đầu của thành phố. Tại đó ông đã lập ra một nhóm những thanh niên trẻ cùng độ tuổi mình, trong đó có Giovanni Palma da
- Serinalta, Lorenzo Lotto, Sebastiano Luciani, và Giorgio da Castelfranco, tên hiệu Giorgione. Francesco Vecellio, em trai ông, sau này cũng là một hoạ sĩ hơi có tiếng ở Venice. Một bức tranh tường về Hercules tại Cung điện Morosini được cho là một trong những tác phẩ m đầu tiên của ông; những tác phẩ m khác là cái gọi là Bellini-esque Gypsy Madonna tại Vienna,[9] và Visitation of Mary and Elizabeth (từ tu viện S. Andrea), hiện ở Accademia, Venice. Titian theo Giorgione như một người trợ lý, nhưng nhiều nhà phê bình đương thời đã thấy tác phẩm của ông có ấn tượng hơn, ví dụ như những bức tranh tường bên ngoài (hiện hầu như đã bị hư hỏng) mà họ làm cho Fondacio dei Tedeschi, và mối quan hệ của họ rõ ràng có một yếu tố lớn gây bất hoà. Sự phân biệt giữa tác phẩm của hai người trong thời kỳ này vẫn là một chủ đề gây tranh cãi của giới học thuật, và đã có việc gắn các tác phẩm của Giorgione cho Titian ở thế kỷ 20, và ít khi tác phẩm của Titian bị cho là của Giorgione. Một trong những tác phẩm sớm nhất được biết của Titian, Ecce Homo[10] của Scuola di San Rocco, từ lâu đã được coi là một tác phẩ m của Giorgione.[11] Hai nghệ sĩ bậc thầy trẻ tuổi cũng được công nhận là hai lãnh đạo của trường phái "arte moderna" (nghệ thuật hiện đại) của họ, có nghĩa bức hoạ uyển chuyển hơn, tự do thoát khỏi sự đối xứng và những khuôn mẫu tôn ti cấp bậc vốn vẫn được thấy trong các tác phẩm của Giovanni Bellini.
- Salome, hay Judith; tác phẩm tôn giáo này cũng được coi như một bức chân dung lý tưởng hoá về cái đẹp, một thể loại do Titian phát triển, được cho là thường sử dụng các cô gái điếm hạng sang Venice làm người mẫu. Năm 1507–1508 Giorgione được nhà nước đặt hàng thực hiện các bức tranh tường trên Fondaco dei Tedeschi được dựng lại. Titian và Morto da Feltre làm việc cùng với ông, và một số mảng bức tranh còn sót lại, có thể là bởi Giorgione. Một số công việc của họ được biết tới, một phần, qua những bản in khắc của Fontana. Sau cái chết sớm của Giorgione năm 1510, Titian tiếp tục vẽ các chủ đề theo phong cách Giorgionesque trong một số thời điể m, dù phong cách của ông đã phát triển thành thương hiệu riêng của mình, gồm cả cách vẽ bút đậm và diễn cảm. Tài năng của Titian trong lĩnh vực tranh tường được thể hiện trong những bức tranh ông vẽ năm 1511 tại Padua ở nhà thờ Carmelite và tại Scuola del Santo, một số bức trong số đó đã được bảo tồn, trong số đó có Meeting at the Golden Gate, và ba cảnh từ cuộc đời của St. Anthony of Padua, bức
- Murder of a Young Woman by Her Husband, A Child Testifying to Its Mother's Innocence, và The Saint Healing the Young Man with a Broken Limb. Từ Padua năm 1512, Titian quay trở lại Venice; và vào năm1513 ông nhận được giấy phép môi giới tại Fondaco dei Tedeschi (kho của nhà nước cho các thương nhân Đức), được gọi là La Sanseria hay Senseria (một sự ưu tiên thường được các nghệ sĩ đang lên hay đã nổi tiếng thèm muốn), và trở thành người giám sát các công việc của chính phủ, đặc biệt chịu trách nhiệ m hoàn thành các tác phẩ m còn chưa xong của Giovanni Bellini trong đại sảnh của đại hội đồng trong một cung điện kép. Ông đã lập ra một xưởng tại Grand Canal ở S. Samuele, địa điểm chính xác của nó hiện không được biết. Không phải mãi tới năm 1516, từ cái chết của Bellini, ông mới thực tế được hưởng lợi từ giấy phép của mình. Cùng lúc ông bắt đầu một thoả thuận đắt giá để sáng tác. Giấy phép mang lại cho ông một khoản tiền trợ cấp hàng năm ở mức cao là 20 crown và được miễn một số khoản thuế—đổi lại ông phải vẽ những chân dung của các Doges ở thời ông với giá ấn định tám crown mỗi bức. Số lượng tranh thực tế ông vẽ là năm bức. Khôn lớn
- Titian mất hai năm (1516–1518) để hoàn thành bức sơn dầu Assunta, mà kết cấu chuyển động ba tầng của nó cùng sự phối hợp màu sắc đã đưa ông trở thành hoạ sĩ nổi bật ở bắc Rome. Giorgione mất năm 1510 và hoạ sĩ Giovanni Bellini già cả mất năm 1516, khiến Titian trở thành không có đối thủ trong Trường phái Venice. Trong sáu mươi năm ông đã trở thành bậc thầy không thể tranh cãi của trường phái này, và nhà hoạ sĩ của Cộng hoà Serenissime. Ngay từ năm 1516 ông đã kế tục người thầy Giovanni Bellini để được nhận khoản trợ cấp từ Thượng viện.[12]
- Trong giai đoạn này (1516–1530), mà có thể được gọi là thời kỳ chín và đỉnh cao của ông, nhà hoạ sĩ đã chuyển từ phong cách kiểu Giorgionesque ban đầu, sang những chủ đề phức tạp và lớn hơn và lần đầu tiên thử nghiệm một phong cách kiểu công trình hoành tráng. Năm 1516 ông hoàn thành bệ thờ cao của nhà thờ Frari, kiệt tác nổi tiếng của ông, Đức mẹ đồng trinh thăng thiên, vẫn ở nguyên chỗ. Sự phi thường của tác phẩ m trong màu sắc, được thể hiện ở một tỷ lệ lớn hiế m thấy trước đó tại Italia, đã tạo ra một sự xúc động mạnh.[13] Signoria đã lưu ý, và quan sát rằng Titian đã sao lãng công việc của mình tại đại sảnh đại hội đồng. Cấu trúc hình tượng của Thăng thiên—cấu trúc thống nhất trong cùng thành phần hai hay ba cảnh được chồng lên ở những mức khác nhau, trái đất và thiên đường, thời gian và vô hạn — được tiếp nối trong một loạt các tác phẩ m như bàn thờ của San Domenico tại Ancona (1520), bàn thờ của Brescia (1522), và bàn thờ của San Niccolò (1523), tại Bảo tàng Vatican), mỗi lần đạt tới một ý niệm cao hơn và hoàn thiện hơn, cuối cùng đạt tới một thể thức cổ điển trong Pesaro Madonna, (thường được biết tới với tên gọi Madonna di Ca' Pesaro) (khoảng 1519–1526), cũng cho nhà thờ Frari. Đây có lẽ là tác phẩm được nghiên cứu nhiều nhất của ông, mà cách bố trí được phát triển một cách thận trọng của nó được đặt ra với sự thể hiện cao nhất của trật tự và tự do, tính sáng tạo và phong cách. Ở đây Titian đã đưa ra một quan niệ m mới về các nhóm người quyên cúng truyền thống và những nhân vật thần thánh di chuyển trong không gian, những cách bố trí và những cấp độ khkác nhau được đặt trong phạm vi kiến trúc.[14]
- Titian khi ấy đang ở đỉnh cao danh vọng, và tới năm 1521, sau khi sáng tác khuôn mặt St. Sebastian cho người đại diện giáo hoàng tại Brescia (một tác phẩ m có nhiều bản sao), những nhà sưu tập tranh nhau các tác phẩ m của ông. Trong giai đoạn này có một tác phẩm phi thường hơn, The Death of St. Peter Martyr (1530), trước kia tại Nhà thờ Dominican ở San Zanipolo, và đã bị phá huỷ bởi một quả đạn của Áo năm 1867. Chỉ những bản sao và bản khắc của bức tranh tiền Baroque này còn lại; nó phối hợp một sự bạo lực cực điể m và phong cảnh, chủ yếu gồ m một cây lớn, nhấn vào phong cảnh và dường như làm nổi bật bối cảnh theo cách thức làm hướng tới Baroque.[15] Đồng thời nghệ sĩ tiếp tục loạt tác phẩ m nhỏ Madonna của mình, mà ông đặt vào giữa những phong cảnh đẹp đẽ theo cách những bức đời thường hay mục đồng thơ mộng, bức Virgin with the Rabbit tại bảo tàng Louvre là phong cách kết thúc của những bức tranh này. Tác phẩm khác trong cùng giai đoạn, cũng tại Louvre, là Entombment. Đây cũng là giai đoạn của ba bức tranh cảnh thần thoại lớn và nổi tiếng cho camerino của Alfonso d'Este tại Ferrara, The Andrians và Worship of Venus tại Prado, và Bacchus and Ariadne (1520-23) tại London,[16] "...có lẽ là những tác phẩm nổi bật nhất của văn hoá tân ngoại giáo hay "Alexandrianism" của Thời kỳ Phục hưng, đã nhiều lần được phỏng theo nhưng không bao giờ vượt qua được thậm chí bởi cả chính Rubens."[17] Cuối cùng đây là giai đoạn khi nhà nghệ sĩ phối hợp những nhân vật bán thân và những bức tượng bán thân của những phụ nữ trẻ, có lẽ là những gái điếm hạng sang, như Flora của Uffizi, hay The Young Woman at Her Toilet tại Louvre.
- Chân dung Hoàng đế Charles V tại Mühlberg của Titian (1548) đã lập ra một thể loại mới, thể loại những bức chân dung cưỡi ngựa lớn. Cấu trúc dốc cả theo truyền thống điêu khắc cưỡi ngựa của La mã và trong những cách thể hiện thời trung cổ của một kỹ sị Thiên chúa giáo lý tưởng, nhưng nhân vật mệt mỏi và khuôn mặt có nét tinh nhanh lại không tuân theo những cách thể hiện đó. Năm 1525 ông cưới một quý bà tên là Cecilia, nhờ thế hợp pháp hoá cho đứa con đầu của họ, Pomponio, và hai đứa con tiếp theo, gồm cả người con được Titian yêu quý, Orazio, người sẽ trở thành trợ lý của ông. Khoảng năm 1526 bắt đầu quen biết, và nhanh chóng trở nên thân thiết với Pietro Aretino, nhân vật trơ tráo và có ảnh hưởng thường được đề cập một cách kỳ cục trong những cuốn biên niên sử thời kỳ ấy. Titian gửi một bức chân dung của mình cho Gonzaga, quận công Mantua. Tháng 8 năm 1530 vợ ông mất khi sinh cô con gái, Lavinia, và cùng với ba người con ông chuyển nhà, và thuyết phục em gái của mình là Orsa tới từ
- Cadore để giúp coi sóc nhà cửa. Căn nhà, hiện rất khó tìm, nằm tại Bin Grande, khi ấy là một khu ngoại ô danh tiếng, ở ngoài rìa Venice, trên bờ biển, với những khu vườn đẹp và nhìn thẳng ra Murano. Danh vọng Đại sứ Pháp tại Ottoman Porte Gabriel de Luetz d'Aramont, 1541-1542. Trong giai đoạn tiếp theo (1530–1550), Titian đã phát triển phong cách được khởi đầu bởi tác phẩ m Death of St. Peter Martyr gây ấn tượng của ông. Chính phủ Venice, không hài lòng với sự sao lãng của Titian với công việc tại cung điện kép, vào năm 1538 ra lệnh cho ông trả lại số tiền ông đã nhận, và Pordenone, đối thủ mới xuất hiện của ông, được chọn thay thế. Tuy nhiên, trong một năm Pordenone chết, và Titian, người khi ấy đang hăng say sáng tác bức tranh Trận Cadore trong đại sảnh, được gọi lại. Bức tranh cảnh trận đánh lớn này, đã mất cùng với rất nhiều tác phẩm lớn khác của các nghệ sĩ trường phái Venice bởi một trận hoả hoạn lớn phá huỷ toàn bộ những bức tranh cũ bên trong những căn phòng lớn của Cung điện Doge năm 1577. Nó thể hiện ở kích cỡ thực thời điể m khi vị tướng của Venice, D'Alviano tấn công quân địch với những con ngựa và binh lính đang lao qua một con suối, và là nỗ lực quan trọng nhất của người nghệ sĩ với một bức tranh hành động hỗn độn và anh hùng là đối thủ của bức Trận Constantine của Raphael và cũng có số phận không may mắn như bức Trận Cascina của Michelangelo và Trận Anghiari của Leonardo (cả hai đều chưa hoàn thành). Hiện chỉ có một bản sao tồi, chưa hoàn thành tại Uffizi, và một bức khắc tầm thường của
- Fontana. Bức Speech of the Marquis del Vasto (Madrid, 1541) chỉ bị lửa phá huỷ một phần. Nhưng đỉnh cao của giai đoạn này vẫn được thể hiện trong bức Presentation of the Blessed Virgin (Venice, 1539), một trong những bức sơn dầu nổi tiếng nhất của ông, và qua bức Ecce Homo (Viên, 1541). Dù đã mất, bức tranh vẫn có ảnh hưởng lớn với nghệ thuật Bologna và Rubens, cả trong cách xử lý các chi tiết và hiệu ứng chung của những con ngựa, các binh sĩ, các vệ sĩ, sự kích động mạnh mẽ của các đám đông ở dưới chân cầu thang, được soi sáng bởi những ánh đuốc với những ngọn cờ bay trên bầu trời. Cách xử lý màu sắc tuyệt mỹ của Titian được minh hoạ trong tác phẩm Danaë, một trong những bức tranh thần thoại, hay "poesie" ("thi ca") như hoạ sĩ gọi chúng, được thực hiện cho Philip II của Tây Ban Nha. Dù Michelangelo đã phán xét bức tranh này theo quan điểm hội hoạ, Titian và xưởng của mình đã tạo ra nhiều phiên bản cho những người bảo trợ khác. Kém thành công hơn là những bức tranh vòm tại Santa Maria della Salute (Death of Abel, Sacrifice of Abraham, David and Goliath). Những cảnh bạo lực này được chiêm ngưỡng từ phía dưới –như những bức tranh vòm nổi tiếng của Trần Nhà nguyện Sistine— theo trạng thái của chúng vốn ở những
- vị trí chiêm ngưỡng không dễ dàng. Tuy thế chúng lại được chiêm ngưỡng và bắt chước rất nhiều, Rubens và những người khác đã áp dụng hệ thống này cho bốn mươi bức tranh tường của ông (chỉ còn những bức phác hoạ) tại Nhà thờ Jesuit ở Antwerp. Cũng trong thời gian này, thời điể m ông tới thăm Roma, nghệ sĩ bắt đầu loạt tranh Venus (The Venus of Urbino of the Uffizi, Venus and Love tại cùng bảo tàng, Venus and the Organ-Player, Madrid), trong đó được ghi nhận hiệu ứng hay sự phản chiếu trực tiếp của cảm giác được tạo ra với nghệ sĩ khi tiếp xúc với tác phẩm điêu khắc cổ. Giorgione đã xử lý với chủ đề này trong bức tranh Dresden của ông, được Titian hoàn thành, nhưng ở đây một tấm vải màu tía thay thế cho một phong cảnh phía sau đã thay đổi, bởi màu sắc hài hoà của nó, toàn bộ nghĩa của cảnh. Ngay từ khi bắt đầu sự nghiệp Titian đã thể hiện mình là một bậc thầy về vẽ chân dung, trong những tác phẩm như La Bella (Eleanora de Gonzaga, Nữ công tước Urbino, tại Cung điện Pitti). Ông đã vẽ chân dung của các hoàng thân, hay Doges, những hồng y giáo chủ hay các thầy tu, và những nghệ sĩ hay các tác gia. "Theo Từ điển bách khoa Thiên chúa giáo ...không hoạ sĩ nào có được thành công như vậy trong việc lấy ra được từ mỗi gương mặt nhiều nét đặc điểm và cái đẹp như thế". Trong số các hoạ sĩ vẽ chân dung Titian được so sánh với Rembrandt và Velázquez, với sự thể hiện nội tâm của Rembrandt, và sự trong sáng, chắc chắn và rõ ràng của Velázquez. Những tính chất vừa được nêu trên thể hiện đầy đủ trong bức Chân dung Paul III của Naples, hay bản phác hoạ giáo hoàng và hai người cháu, Chân dung Aretino tại Cung điện Pitti, Eleanora của Bồ Đào Nha (Madrid), và loạt tranh Vua Charles V trong cùng bảo tàng, Charles V với một chú chó
- săn (1533), và đặc biệt là Charles V tại Mühlberg (1548), một bức tranh chân dung cưỡi ngựa với một sự hoà nhịp của các màu tía có lẽ là ne plus ultra của nghệ thuật hội hoạ. Năm 1532 sau khi vẽ một bức chân dung của hoàng đế Charles V tại Bologna ông được phong là Bá tước Palatine và một hiệp sĩ trong Golden Spur. Các con ông cũng được phong là các quý tộc của Đế chế, một danh dự đặc biệt dành cho một hoạ sĩ. Cưỡng hiếp Europa (1562) là một cấu trúc nhấn theo đường tréo được chiêm ngưỡng và sao chép bởi Rubens. Trái với sự trong sáng trong những tác phẩ m thời kỳ đầu của Titian, nó hầu như theo phong cách baroque với những đường mờ, màu sắc xoáy, và những nét bút mạnh mẽ. Về thành công trong nghề nghiệp và danh tiếng từ khoảng thời gian này vị thế của ông được coi ngang bằng chỉ với vị thế của Raphael, Michelangelo, và ở một thời điểm muộn hơn là Rubens. Năm 1540 ông nhận được một khoản trợ cấp từ D'Avalos, hầu tước del Vasto, và một khoản trợ cấp hàng
- năm 200 crown (sau này được tăng gấp đôi) từ Charles V lấy từ ngân khố của Milan. Một nguồn lợi khác, vì ông luôn quan tâm tới tiền bạc, là một hợp đồng có được năm 1542 để cung cấp ngũ cốc cho Cadore, nơi ông tới thăm hầu như hàng năm và nơi ông vừa thể hiện sự hào phóng vừa có ảnh hưởng. Titian có một ngôi nhà ưa thích tại Đối Manza gần đó (phía trước nhà thờ Castello Roganzuolo) từ đây (có thể được suy luận ra) ông đã thực hiện những quan sát những hình thức và hiệu ứng phong cảnh của mình. Cái gọi là sự tập luyện của Titian, luôn được thấy rõ trong những cuộc nghiên cứu của ông, được thực hiện tại Collontola, gần Belluno.[18] Ông tới thăm Rome năm 1546, và lĩnh hội được sự tự do của thành phố— người có được vinh dự đó ngay trước ông là Michelangelo năm 1537. Cùng lúc ấy ông có thể đã kế vị hoạ sĩ Sebastiano del Piombo trong chức vụ đầy lợi ộc của ông này với tư cách người giữ piombo hay con dấu của giáo hoàng, và ông đã được chuẩn bị để được phong giáo phẩ m linh thiêng cho mục đích này; nhưng việc đã không thày khi ông bị triệu tập đi khỏi Venice năm 1547 để vẽ Charles V và những người khác tại Augsburg. Ông tới đây một lần nữa năm 1550, và thực hiện bức chân dung Philip II để gửi tới Anh và đã được chứng minh là có ích trong việc cầu hôn Nữ hoàng Mary của Philip. Những năm cuối cùng
- Cái chết của Actaeon. Trong những tác phẩm sau này của Titian, các hình thức đã mất sự vững chắc và tan vào trong bố cục tươi tốt của sự mờ ám, màu sắc mờ và các hiệu ứng không khí rõ. Ngoài phong cách vẽ mạnh mẽ, Titian được cho là đã bôi sơn lên các đầu ngón tay để hoàn thành bức vẽ. Trong hai mươi nhăm năm cuối cuộc đời (1550–1576) nghệ sĩ chủ yếu làm việc cho Philip II như một hoạ sĩ vẽ chân dung. Ông trở nên tự phê bình, một người đam mê sự hoàn thiện không thể đạt tới, giữ một số bức trong xưởng của mình trong mười năm, không bao giờ buồn chán khi quay lại và sửa chữa chúng, luôn thêm những cách thể hiện mới để bức tranh thêm thuần khiết, súc tích và tinh vi. Ông cũng hoàn thiện nhiều bản copy các tác phẩ m ban đầu của ông do các học trò thực hiện, khơi nên nhiều vấn đề về sự quy kết và sự ưu tiên trong những phiên bản của các tác phẩm của ông, vốn cũng được copy và giả mạo nhiều bên ngoài xưởng của ông, trong cả cuộc đời ông và sau đó. Với Philip II ông đã vẽ một loạt tranh thần thoại lớn được gọi là "poesie", chủ yếu từ Ovid, được coi nằm trong những tác phẩm vĩ đại nhất của ông.[19] Nhờ sự điệu bộ kiểu cách của những người kế vị Philip, chúng sau này chủ
- yếu đã được cho đi như những món quà tặng và chỉ hai bức còn ở lại Prado. Titian cùng lúc ấy cũng sáng tác các tác phẩm tôn giáo cho Philip. Loạt tranh "poesie" bắt đầu với Venus và Adonis, bức tranh gốc nằm tại Prado, nhưng có nhiều phiên bản, và Danaë, cả hai đều được gửi tới Philip năm 1553.[20]Diana và Actaeon và Diana và Callisto, được gửi đi năm 1559, sau đó là Perseus và Andromeda (Bộ sưu tập Wallace, hiện đã bị hư hại) và Hãm hiếp Europa (Boston, Bảo tàng Isabella Stewart Gardner), được giao năm 1562. Cái chết của Actaeon được bắt đầu năm 1559 nhưng được thực hiện trong nhiều năm, và không bao giờ được hoàn thành hay chuyển giao. [21] Bức tranh khác rõ ràng vẫn còn ở xưởng khi ông mất, và ít nổi tiếng cho tới những thập kỷ gần đây, là bức tranh mạnh mẽ, thậm chí có ý "khước từ", Flaying of Marsyas (Kroměříž, Cộng hoà Séc)[22] Một kiệt tác bạo lực khác là bức Tarquin và Lucretia tại Bảo tàng Fitzwilliam, Cambridge.[23] Với mỗi vấn đề mà ông đã thực hiện thành công ông đều tạo ra một công thức mới và hoàn thiện hơn. Ông không bao giờ còn tạo được cảm xúc và tính bi kịch của Crowning with Thorns (Louvre), trong sự thể hiện thần thoại và thần thánh ông không bao giờ còn tạo được chất thơ của Pilgrims of Emmaus, trong khi về tính hùng vĩ và sự chói lọi anh hùng ông không bao giờ một lần nữa đạt tới điều gì lớn hơn The Doge Grimani adoring Faith (Venice, Doge's Palace), hay Trinity, tại Madrid. Mặt khác, từ quan điểm các trạng thái màu mạnh, những bức tranh động nhiều nhất của ông là những bức tranh sáng tác khi ông đã lớn tuổi, như loạt tranh poesie và Antiope tại Louvre. Ông thậm chí đã tìm cách giải quyết các vấn đề phối hợp màu tương phản trong những hiệu ứng kỳ quái buổi đêm (Martyrdom of St. Laurence, Nhà thờ dòng Tên, Venice; St. Jerome, Louvre).
- Titian đã hứa hôn cô con gái Lavinia, cô gái xinh đẹp mà ông rất yêu chiều và đã nhiều lẫn vẽ tranh, cho Cornelio Sarcinelli của Serravalle. Cô đã thay thế cho người cô Orsa, khi ấy đã mất, trong công việc chăm sóc nhà cửa, mà với khoản thu nhập to lớn Titian kiếm được ở thời điể m đó, đã khiến cô có một địa vị khá cao. Cuộc hôn nhân diễn ra năm 1554. Cô mất khi sinh con năm 1560. Như rất nhiều tác phẩm sau này của ông, bức tranh cuối cùng của Titian, Pietà, là một cảnh gây xúc động được đặt trong bối cảnh đêm. Nó rõ ràng được dự định cho nhà nguyện ngôi mộ của chính ông. Tới cuối năm 1555 ông đã ở trong Hội đồng Trent, và có một bức phác hoạ đã hoàn thành của nó tại Louvre. Người bạn của Titian là Aretino bất ngờ mất năm 1556, và một người bạn thân khác, nhà điêu khắc và kiến trúc Jacopo Sansovino, mất năm 1570. Tháng 9 năm 1565 Titian tới Cadore và thiết kế những phần trang trí cho nhà thờ tại Pieve, một phần do các học trò của ông đảm nhiệm. Một trong số đó là một Lễ biến hình, tác phẩm khác là một Lễ truyền tin (hiện tại S. Salvatore, Venice), được khắc Titianus fecit,
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn