
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN VĂN PHƢƠNG
PHÕNG, CHỐNG THAM NHŨNG THEO
TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH Ở CÁC TỈNH
ĐÔNG NAM BỘ HIỆN NAY
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGÀNH: HỒ CHÍ MINH HỌC
Mã số: 9310204
HÀ NỘI - 2025

Công trình đƣợc hoàn thành tại
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. Đỗ Xuân Tuất
2. TS. Lê Thị Hằng
Phản biện 1: ............................................................
...........................................................
Phản biện 2: ............................................................
...........................................................
Phản biện 3: ............................................................
...........................................................
Luận án sẽ đƣợc bảo vệ trƣớc Hội đồng chấm luận án cấp học viện
họp tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
vào hồi ...... giờ........ ngày....... tháng. ...... năm 20....
Có thể tìm hiểu luận án tại: Thƣ viện Quốc gia
và Thƣ viện Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tham nhũng là một hiện tượng tiêu cực trong xã hội có giai cấp, gắn liền với sự ra
đời, phát triển cũng như thực hiện quyền lực của nhà nước. Nó tồn tại ở mọi quốc gia
không phân biệt chế độ chính trị, một đảng hay đa đảng lãnh đạo. Tham nhũng tác động
tiêu cực đến mọi mặt của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, đạo đức.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhận thức được nguy cơ, tác hại to lớn của
tham nhũng. Người ví tham nhũng là “giặc nội xâm”, bởi nó không chỉ gây ra thiệt hại lớn
về kinh tế mà còn làm suy yếu năng lực lãnh đạo của Đảng và sự trong sạch, vững mạnh
của HTCT; trực tiếp đe dọa đến sự sống còn của Đảng và chế độ. Trong quá trình lãnh
đạo, chỉ đạo cách mạng, Hồ Chí Minh đã dành nhiều tâm sức, trí tuệ để bài trừ “quốc nạn”
tham nhũng. Cùng với quá trình vận động của cách mạng Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí
Minh về PCTN không ngừng được bổ sung, phát triển và hoàn thiện; là tài sản tinh thần
vô giá, nền tảng lý luận cách mạng, khoa học giúp cho Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra
đường lối, quan điểm đúng đắn trong công cuộc PCTN trước đây cũng như giai đoạn hiện
nay. Đồng thời, không chỉ trực tiếp góp phần xây dựng Đảng, HTCT nước ta trong sạch,
vững mạnh, mà còn giúp cho Đảng đào tạo, xây dựng được đội ngũ cán bộ, đảng viên có
đức, có tài đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng.
Các tỉnh Đông Nam Bộ (Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Tây Ninh) có vai trò,
vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an
ninh và đối ngoại của cả nước. Những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự đoàn kết,
năng động, sáng tạo của cấp ủy, chính quyền và Nhân dân, các tỉnh Đông Nam Bộ đã đạt
được nhiều thành tựu đáng tự hào trên các lĩnh vực; tiếp tục giữ vững vị thế là “vùng kinh
tế động lực quan trọng của cả nước, đóng góp khoảng 45% GDP và khoảng 50% trong
tổng giá trị sản xuất công nghiệp, kim ngạch xuất khẩu và ngân sách cả nước”.
Quán triệt quan điểm “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng,
tiêu cực với quyết tâm chính trị cao hơn, hành động mạnh mẽ hơn và hiệu quả hơn”của
Đảng. Đồng thời, nhận thức rõ nguy cơ, tác hại của tham nhũng, cấp ủy, chính quyền các
tỉnh Đông Nam Bộ luôn xác định PCTN, tiêu cực là một nhiệm vụ chính trị quan trọng
hàng đầu trong công tác xây dựng Đảng, HTCT. Dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy (Thành
ủy), UBND tỉnh (thành phố), công cuộc PCTN ở các tỉnh Đông Nam Bộ đã đạt được
những kết quả tích cực; nhiều vụ án, vụ việc tham nhũng lớn được phát hiện, xử lý đúng
pháp luật; những CB, ĐV, CC có hành vi tham nhũng, hoặc bao che, tiếp tay cho tham
nhũng kể cả cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu địa phương đều bị xử lý nghiêm minh, thể
hiện rõ quan điểm: “kiên quyết, kiên trì, không khoan nhượng, không nương tay, không
bỏ lọt tội phạm; đồng thời, không làm oan sai; rất nghiêm minh, nhưng cũng rất nhân văn,
nhân ái, có lý, có tình”.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, PCTN ở các tỉnh Đông Nam Bộ vẫn còn
những hạn chế nhất định; tình hình tham nhũng vẫn có những diễn biến hết sức phức tạp,
khó lường; tham nhũng tồn tại ở các cấp (tỉnh xã), nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, nhất là quản
lý đất đai, đầu tư công, tài chính, ngân hàng... Một số vụ án tham nhũng nghiêm trọng được
phát hiện trong thời gian gần đây cho thấy mức độ tinh vi, có tổ chức, thậm chí có yếu tố
“lợi ích nhóm” và sự móc nối giữa cán bộ, đảng viên với doanh nghiệp; nhiều vụ án, vụ việc

2
tham nhũng có tính chất, mức độ vi phạm lớn, trong đó có cả những “đại án” tham nhũng
đã diễn ra trên địa bàn. Đặc biệt, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có cả
người đứng đầu cấp ủy, chính quyền địa phương suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống dẫn đến tham nhũng, tiêu cực. Qua đó, không chỉ làm suy giảm năng lực lãnh đạo,
điều hành và làm mất đi sự trong sạch, vững mạnh của cấp ủy, chính quyền các cấp, mà còn
gây thiệt hại nghiêm trọng về kinh tế; tạo ra tâm lý e ngại, thiếu tin tưởng từ phía doanh
nghiệp, bạn bè quốc tế khi cân nhắc đầu tư vào các tỉnh Đông Nam Bộ.
Những hạn chế, yếu kém trên bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, có cả khách quan, lẫn
chủ quan. Trong đó, đặc biệt là cấp ủy, chính quyền, HTCT các tỉnh Đông Nam Bộ chưa
nghiên cứu, quán triệt đầy đủ, thấm nhuần nội dung, giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về
PCTN; do đó, chưa thấy được sự cần thiết phải quán triệt, vận dụng tư tưởng của Người
trong PCTN ở địa phương; chưa phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh vào giải quyết
các vấn đề PCTN trên địa bàn. Bên cạnh đó, hiện nay, mặc dù đã có một số công trình
nghiên cứu thể hiện dưới dạng đề tài, sách chuyên khảo, bài viết… nghiên cứu tư tưởng
Hồ Chí Minh về PCTN và vận dụng trong PCTN ở nước ta nói chung, ở một số địa
phương, ngành, lĩnh vực cụ thể nói riêng, nhưng chưa có công trình nghiên cứu về PCTN
theo tư tưởng Hồ Chí Minh ở các tỉnh Đông Nam Bộ. Chính sự thiếu vắng này đã tạo ra
một khoảng trống trong nghiên cứu khoa học, đặt ra yêu cầu cấp thiết phải có một đề tài đi
sâu nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về PCTN; trên cơ sở đó, vận dụng trong đánh giá
thực trạng, đề xuất quan điểm, giải pháp PCTN từ góc nhìn lý luận Hồ Chí Minh học. Qua
đó, góp phần bổ sung, phát triển lý luận về PCTN theo tư tưởng Hồ Chí Minh, giúp cho
cấp ủy, chính quyền các tỉnh Đông Nam Bộ có cơ sở khoa học trong việc đề ra các chủ
trương, biện pháp và tổ chức PCTN thời gian tới đạt kết quả cao hơn.
Trong thời gian tới, với tiềm năng, lợi thế lớn cùng vị trí chiến lược quan trọng, các
tỉnh Đông Nam Bộ sẽ tiếp tục nhận được sự quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước. Do
vậy, nhiều công trình, dự án trọng điểm quốc gia với nguồn vốn kinh phí rất lớn sẽ được
triển khai thực hiện ở các địa phương. Theo đó, nguy cơ xảy ra tham nhũng trong đội ngũ
CB, ĐV, CC sẽ ngày càng gia tăng. Mặt khác, Đông Nam Bộ cùng với cả nước đang triển
khai thực hiện cuộc “cách mạng” về đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của HTCT; kiện
toàn tổ chức, đội ngũ CB, ĐV, CC sau khi sáp nhập đơn vị hành chính cấp tỉnh, cấp xã, bỏ
cấp huyện. Do đó, rất dễ nảy sinh các hành vi tham nhũng, tiêu cực trong quản lý, sử
dụng, ngân sách, tài sản công, công tác cán bộ.. Do vậy, để ngăn chặn, đẩy lùi các hành vi
tham nhũng, tiêu cực trong đội ngũ CB, ĐV, CC, đòi hỏi các chủ thể, lực lượng ở các tỉnh
Đông Nam Bộ phải nêu cao quyết tâm chính trị; đồng thời, triển khai thực hiện những giải
pháp vừa mang tính căn cơ, bền vững, vừa mang tính đột phá. Trong đó, việc tiếp tục
nghiên cứu, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về PCTN là một trong những giải
pháp có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng.
Xuất phát từ những lý do trên, nghiên cứu sinh lựa chọn vấn đề: “Phòng, chống
tham nhũng theo tư tưởng Hồ Chí Minh ở các tỉnh Đông Nam Bộ hiện nay” làm đề tài
luận án tiến sĩ ngành Hồ Chí Minh học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu làm rõ nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về PCTN; khảo sát thực trạng

3
PCTN theo tư tưởng Hồ Chí Minh ở các tỉnh Đông Nam Bộ, chỉ rõ những vấn đề đặt ra;
trên cơ sở đó đề xuất quan điểm, giải pháp PCTN theo tư tưởng Hồ Chí Minh ở các tỉnh
Đông Nam Bộ trong thời gian tới.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên luận án có những nhiệm vụ nghiên cứu sau:
Một là, tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án, khái quát
những kết quả đã đạt được và vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu.
Hai là, hệ thống hóa, phân tích, làm rõ một số khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài
và nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về PCTN.
Ba là, tiến hành nghiên cứu, đánh giá thực trạng PCTN theo tư tưởng Hồ Chí Minh ở
các tỉnh Đông Nam Bộ từ năm 2013 đến nay, chỉ rõ một số vấn đề đặt ra.
Bốn là, dự báo các nhân tố tác động; xác định quan điểm và đề xuất giải pháp PCTN
theo tư tưởng Hồ Chí Minh ở các tỉnh Đông Nam Bộ trong thời gian tới.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Tư tưởng Hồ Chí Minh về PCTN và thực trạng PCTN ở các tỉnh Đông Nam Bộ hiện
nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Nghiên cứu làm rõ nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về PCTN; vận
dụng trong PCTN ở các tỉnh Đông Nam Bộ hiện nay.
- Về không gian: Nghiên cứu PCTN ở các tỉnh miền Đông Nam Bộ (tập trung nghiên
cứu chủ yếu ở khu vực công).
- Về thời gian: Từ năm 2013 đến nay (Năm 2013, Bộ Chính trị ban hành Quyết định
số 162-QĐ/TW thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN do Tổng Bí thư làm Trưởng
ban); quan điểm, giải pháp PCTN ở các tỉnh Đông Nam Bộ có giá trị đến năm 2030, tầm
nhìn 2045.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn
4.1.1. Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh;
đường lối, quan điểm, chỉ thị, nghị quyết, báo cáo sơ kết, tổng kết của Đảng Cộng sản Việt
Nam về PCTN.
4.1.2. Cơ sở thực tiễn
Luận án dựa trên thực tiễn PCTN dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy, UBND các
tỉnh Đông Nam Bộ theo tư tưởng Hồ Chí Minh từ năm 2013 đến nay.
4.2. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.2.1. Phương pháp luận
Đề tài dựa trên ph ương pháp chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩ a duy vật
lịch sử.
4.2.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, luận án sử dụng các
phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
Phương pháp khái quát hoá, logic, lịch sử, thống kê, so sánh được sử dụng chủ yếu ở

