
171
“TRỌNG TÀI” TRONG SMART CONTRACT VÀ CƠ CHẾ CÔNG NHẬN VÀ CHO
THI HÀNH THEO CÔNG ƯỚC NEW YORK 1958
Nguyễn Thị Hoa*
Trần Thị Bảo Nga **
Dẫn nhập
Chuỗi khối (Blockchain) đề cập đến các công nghệ lưu trữ và truyền thông tin cho phép tạo
thành các sổ đăng ký được sao chép và phân tán (sổ cái phân tán), không có cơ quan kiểm soát
trung tâm, được bảo mật nhờ mật mã và được cấu trúc bởi các khối theo các mốc thời gian1.
Công nghệ này xuất hiện vào năm 2008 với đồng tiền Bit-coin2. Công nghệ này có nhiều ưu
điểm và ba loại công dụng sau: Chức năng đầu tiên của chuỗi khối là chuyển tài sản (tiền điện
tử, cổ phiếu, v.v.) bằng Bitcoin; cách sử dụng thứ hai là sổ đăng ký giúp truy tìm hàng hóa hoặc
tài sản và chứng minh sự tồn tại, nguồn gốc của chúng vào một ngày nhất định; cách sử dụng
phức tạp thứ ba là hợp đồng thông minh (smart contract), một chương trình tự động thực hiện
đã được các bên liên quan xác thực trước. Lợi ích của chuỗi khối đáng được chú ý vì dữ liệu
được lưu trữ và trao đổi an toàn đồng thời kết hợp tiềm năng tự động hóa quy trình; bất kỳ mục
nhập nào trên chuỗi khối đều được đánh dấu thời gian và có khả năng tạo thành bằng chứng bất
biến về thông tin đã nhập.3 Đối mặt với sự phát triển của công nghệ này, Olivier Lasmoles chỉ
ra rằng “công nghệ này đang cách mạng hóa tất cả các hệ thống giao dịch và luồng thông tin,
điều tương tự cũng xảy ra đối với lĩnh vực pháp luật vì chuỗi khối có nhiều lợi thế về kinh tế
và pháp lý nhưng sẽ nhanh chóng gặp phải những khó khăn liên quan đến việc xây dựng các
quy định điều chỉnh pháp lý cần thiết.4
Tại Việt Nam, liên quan đến blockchain, tại Quyết định số 2117/QĐ-TTg ngày
16/12/2020 của Thủ tướng Chính phủ công bố Danh mục công nghệ ưu tiên nghiên cứu, phát
triển và ứng dụng phục vụ tích cực tham gia cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư tại Việt
Nam tại điểm d khoản 1 Điều 1 chỉ rõ rằng Blockchain là một trong những công nghệ kỹ thuật
số ưu tiên phát triển. Ngoài ra, trong trường hợp các chuỗi khối được sử dụng cho các hợp đồng
thông minh, thì ứng dụng này không phải chịu bất kỳ sự cấm đoán hoặc hạn chế nào về mặt
pháp lý trong ứng dụng. Hiện nay, hợp đồng thông minh đang được ứng dụng vào rất nhiều
lĩnh vực khác nhau như trong giao dịch tiền ảo; trong quản lý nhân sự về việc thanh toán tiền
lương; kiểm soát quyền sở hữu; bồi thường việc vi phạm bản quyền; xử lý thanh toán mật mã,
bảo mật và chống sự can thiệp của bên thứ ba…5. Với việc ứng dụng đa dạng của hợp đồng
thông minh thì trong quá trình thực hiện cũng không tránh khỏi các tranh chấp, nên trên thực tế
đã có một số cơ chế giải quyết tranh chấp không khác gì thủ tục trọng tài đã được xây dựng để
phục vụ cho hoạt động ứng dụng hợp đồng thông minh. Do đó, bài viết này sẽ đi vào nghiên
* Tiến sĩ Luật học, Giảng viên khoa Luật Quốc tế, Trường Đại học Luật TP. HCM, Email:
nthoa@hcmulaw.edu.vn
** Thạc sĩ Luật học, Giảng viên khoa Luật Quốc tế, Trường Đại học Luật TP. HCM.
1 Rapport n° 1092 - Rapport de Mme Valéria Faure-Muntian, MM. Claude de Ganay et Ronan Le Gleut établi au
nom de l’Office parlementaire d'évaluation des choix scientifiques et technologiques, sur les enjeux
technologiques des blockchains (chaînes de blocs), juin 2018, p.13, https://www.assemblee-
nationale.fr/dyn/15/rapports/ots/l15b1092_rapport-information.pdf, accès le 21.03.2022.
2 https://bitcoin.org/fr/vous-devez-savoir, truy cập ngày 09/02/2023.
3 C.F. Plisson, “la blockhain, un bouleversement économique, juridique voire sociétale” (2017), 54 I2D -
Information, données & documents 20, 21.
4 O.Lasmoles, “la difficile appréhension des blockchains par le droit”, (2018) De Boeck Supérieur 453, 455.
5 Nguyễn Trung Kiên, “Tổng quan ứng dụng công nghệ blockchain đối với các ngành/nghề”,
https://aita.gov.vn/tong-quan-ung-dung-cua-cong-nghe-blockchain-doi-voi-cac-nganhnghe, truy cập ngày
08/02/2023.

172
cứu cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài trong hợp đồng thông minh và khả năng thi
hành kết quả giải quyết tranh chấp đó theo Công ước New York 1958 về công nhận và cho thi
hành phán quyết trọng tài nước ngoài (sau đây gọi tắt là Công ước New York 1958). Tuy nhiên,
trước khi đi vào nghiên cứu về cơ chế trọng tài trong smart contract thì cần phải hiểu smart
contract được vận hành như thế nào?
1. Cơ chế vận hành của smart contract
Ban đầu, nhà khoa học máy tính Nick Szabo6 định nghĩa rằng "hợp đồng thông minh là
một giao thức của giao dịch được số hóa để thực hiện các điều khoản của hợp đồng". Sau đó
một định nghĩa mới xuất hiện: “hợp đồng thông minh là "một tập hợp các lời hứa cụ thể ở dạng
kỹ thuật số bao gồm các giao thức mà các bên trong hợp đồng cam kết thực hiện lời hứa của
họ”.7
Liên quan đến xác định hợp đồng thông minh với tư cách là hợp đồng ràng buộc về mặt
pháp lý, trong nghiên cứu của mình, Lennart Ante8 đã chỉ ra rằng có thể phân biệt các mức độ
khác nhau: hợp đồng thông minh có thể là (i) một mã máy tính đơn giản không đại diện cho bất
kỳ hợp đồng pháp lý nào mà chỉ thực thi logic được xác định trước; (ii) mã thông tin có các
thuộc tính nhất định của ngôn ngữ pháp lý, tức là một chương trình có logic được xác định
trước dựa trên các cấu trúc pháp lý sẽ hành động theo một cách nhất định; hoặc (iii) việc thực
hiện (một phần hợp đồng) thông qua mã thông tin trong đó mã giống với các quy tắc của ngôn
ngữ pháp lý. Ngoài ra, cũng có giải thích rằng “hợp đồng thông minh không phải là hợp đồng
pháp lý, mà chỉ đơn giản là mã tin học. Cụ thể, hợp đồng thông minh là các chương trình độc
lập, sau khi được lập trình, sẽ tự động thực hiện các điều kiện được xác định trước” 9.
Để có thể tự động thực hiện các điều kiện được xác định trước thì hợp đồng thông minh
được thiết lập theo cấu trúc “if…then” (nếu…thì). Ví dụ như để tiến hành phạt vi phạm do trễ
hạn thực thi hợp đồng thì hợp đồng thông minh có thể thiết kế theo hướng nếu sự kiện trễ hạn
trong việc thi hành hợp đồng xảy ra thì cơ chế phạt vi phạm sẽ tự động kích hoạt10 - ví dụ nếu
các bên đã thoả thuận phạt 8% giá trị nghĩa vụ bị vi phạm thì hợp đồng thông minh sẽ tự động
chuyển tiền mà các bên đã dự định đóng phạt cho bên bị hại.
Mặc dù hợp đồng thông minh được thiết lập trên nền tảng Blockchain được xem là khá
an toàn. Tuy nhiên, sai sót vẫn có thể xảy ra và trên thực tế đã xảy ra tình huống đó. Ví dụ như,
năm 2016, The DAO (tổ chức độc lập vận hành như một quỹ đầu tư tự động hoá về blockchain
Ethereum) đã phát hành các đồng tiền ảo để trao đổi thông qua hợp đồng thông minh. Bất chấp
việc kiểm tra đã được tiến hành trước bởi những người xây dựng hợp đồng thông minh của
DAO, một người tham gia giao dịch đã phát hiện ra một lỗi mã hoá và đã lấy đi các đồng tiền
ảo (ethers) với tổng trị giá 50 triệu đô la Mỹ11. Ngoài lỗi về hệ thống nêu trên, khi thiết lập hợp
đồng thông minh thì có thể cần đến thông tin được cung cấp từ bên thứ ba, ví dụ hợp đồng quy
định rằng nếu chuyến bay khởi hành trễ thì khách hàng được nhận bồi thường khoản A tiền.
Khi đó, thông tin về chuyến bay có thể được lấy từ chủ thể cung cấp dịch vụ bay - bên thứ ba
6 M. Kõlvart, M. Poola, A. Rull, “Smart Contracts” in T. Kerikmäe and A. Rull (eds), The Future of Law and
eTechnologies, Springer 2016, p. 133.
7 Lauslahti, Kristian, Mattila, Juri & Seppälä, Timo. “Smart Contracts – How will Blockchain Technology Affect
Contractual Practices?”, ETLA Reports No 68, 2017, p. 3, https://pub.etla.fi/ETLA-Raportit-Reports-68.pdf, truy
cập ngày 09/02/2023.
8 L. Ante, “Smart Contracts on the Blockchain - A Bibliometric Analysis and Review”, BRL Working Paper Series
No. 10, p.5:
file:///Users/macbook/Downloads/SmartContractsontheBlockchainABibliometricAnalysisandReviewWorkingPa
perV2.pdf; truy cập ngày 07/02/2023.
9 F. Gillioz, “Du contrat intelligent au contrat juridique intelligent”, Dalloz IP/IT 2019, p.16.
10 C. Vaysse, “La blockchain et le smart contract au service du formalisme du contrat administratif… les acheteurs
publics sur la sellette ?”, Réf : LPA 12 janv. 2021, n° 158e6, p. 9
11 Rodrigues Usha, “Law and the Blockchain”, Iowa Law Review, vol. 104, 2018, p.704.

173
và trong trường hợp thông tin này không chính xác cũng có thể dẫn đến hợp đồng thông minh
tự động thực hiện một cách không phù hợp với ý chí của các bên; hoặc khi mã hoá hợp đồng
thì chủ thể mã hoá không có kiến thức pháp lý dẫn đến chuyển tải không đúng ý chí của các
bên vào trong các mã của hợp đồng thông minh dẫn đến việc hợp đồng không được thực hiện
hoặc thực hiện không đúng với ý chí của các bên12…
Những ví dụ như trên cho thấy việc xảy ra lỗi trong quá trình xây dựng và ứng dụng
hợp đồng thông minh là không thể tránh khỏi. Khi đó, tranh chấp giữa các bên có thể nảy sinh
và cần đến một cơ chế giải quyết tranh chấp phù hợp.
2. Cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài trong ứng dụng smart contract
Biết được khả năng xảy ra các lỗi trong quá trình vận hành smart contract, Nakamoto
đã xây dựng lên một cơ chế giải quyết tranh chấp gọi là “cơ chế ký quỹ/escrow mechanism”13.
Ví dụ trong hợp đồng mua bán tiền ảo, người mua có thể, thay vì trực tiếp thanh toán cho người
bán, chuyển tiền “ký quỹ” cho một bên thứ ba. Nếu không có tranh chấp phát sinh đối với hợp
đồng mua bán thì tiền được giữ trong quỹ sẽ được mở khoá để chuyển cho bên bán. Trái lại,
nếu có tranh chấp xảy ra, thì chủ thể cung cấp dịch vụ “ký quỹ” sẽ quyết định cuối cùng là tiền
có được chuyển cho bên bán hay không14. Đương nhiên là trong tình huống này thì cả người
bán và người mua đều phải tin tưởng vào bên thứ ba rằng chủ thể này sẽ không ăn cắp tiền của
họ hoặc sẽ không có sự thông đồng với một trong hai bên.
Ngoài ra, trong hệ thống “bitcoin”, cơ chế ký quỹ này được thay bằng cơ chế “the multi-
signature address/địa chỉ đa chữ ký”.15 Theo đó, hệ thống này về cơ bản hoạt động giống như
một ổ khóa có hai lỗ khóa; nó chỉ có thể được mở nếu sử dụng hai khoá. Hai bên tham gia giao
dịch có thể sử dụng thiết bị này để lưu trữ tiền (ví dụ: thanh toán cho giá bán một số hàng hóa),
cho đến khi các nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch đó được thực hiện. Cả hai bên đều được cung
cấp một khóa kỹ thuật số cho địa chỉ; nếu không có tranh chấp phát sinh, họ có thể sử dụng hai
chìa khóa để mở khóa tiền, cùng nhau xác định điểm đến cuối cùng của chúng (thường là địa
chỉ của người bán). Tuy nhiên, trong trường hợp có tranh chấp, không bên nào có thể tự mình
truy cập vào các đồng tiền, nhưng một trong hai bên có thể yêu cầu một chủ thể phân xử tư
nhân xem xét các tình tiết của vụ việc và xác định ai trong số hai bên tranh chấp được hưởng
các khoản tiền đang tranh chấp. Những gì mà người phân xử được yêu cầu tiến hành là một
hình thức cơ bản của trọng tài, đánh giá các tình tiết của vụ việc và xác định bên nào sẽ thắng
thế. Người phân xử này được cung cấp khóa thứ ba; do đó, không giống như nhà cung cấp dịch
vụ ký quỹ, người đó không có quyền truy cập đơn phương vào các đồng tiền đang tranh chấp
(chỉ có thể được thu thập nếu hai khóa cùng được sử dụng). Tuy nhiên, người phân xử có thể
cung cấp chìa khóa của mình cho bên thắng kiện, do đó đảm bảo rằng bên tranh chấp có quyền
nhận tiền (người hiện sẽ có hai trong số ba chìa khóa) sẽ thực sự nhận được chúng. Vì vậy, một
địa chỉ đa chữ ký cho phép các bên tư nhân thiết lập một thủ tục giải quyết tranh chấp có khả
năng thực thi các kết quả của thủ tục này một cách hiệu quả.
Từ những cơ chế giải quyết tranh chấp nêu trên chúng ta thấy đều có sự can thiệp của
bên thứ ba - độc lập và khách quan để giải quyết tranh chấp cho các chủ thể liên quan nên có
thể thấy các cơ chế này khá tương đồng với thủ tục trọng tài. Cụ thể, liên quan đến thủ tục giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài thì chúng ta không còn lạ lẫm rằng “trọng tài là một thủ tục mà
thông qua đó các bên đồng ý đưa tranh chấp của mình đến một chủ thể không phải mang quyền
lực nhà nước được lựa chọn bởi các bên để đưa ra một quyết định giải quyết tranh chấp có hiệu
12 C. Müller, “Les "Smart Contracts" en droit des obligations suisse” in, Carron/Müller (eds), Blockchain et Smart
Contracts, 3e journée des droits de la consommation et de la distribution, Bâle/Neuchâtel, 2018, pp. 51-114.
13 Pietro Ortolani, "The impact of blockchain technologies and smart contracts on dispute resolution: arbitration
and court litigation at the crossroads", Unif. L. Rev., Vol. 24, 2019, 430–448.
14 Ibid.
15 Ibid.

174
lực rằng buộc các bên phù hợp với thủ tục xét xử một cách trung lập có trao cho mỗi bên cơ hội
được trình bày quan điểm của mình”16. Vậy câu hỏi đặt ra là quyết định trọng tài trong ứng
dụng smart contract nêu trên có được công nhận và cho thi hành theo Công ước New York 1958
hay không?
3. Vấn đề công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài trong ứng dụng smart
contract theo Công ước New York 1958
Liên quan đến việc thi hành phán một phán quyết trọng tài theo Công ước New York
1958 thì từ Điều 5 của Công ước có thể suy luận các điều kiện cơ bản để phán quyết trọng tài
được công nhận đó là cần phải có thoả thuận trọng tài có hiệu lực, thủ tục trọng tài phải phù
hợp với pháp luật do các bên lựa chọn hoặc luật của địa điểm trọng tài nếu không có sự lựa
chọn luật áp dụng của các bên, đối tượng giải quyết tranh chấp được phép đưa ra giải quyết
bằng trọng tài theo quy định của nước thi hành và phán quyết trọng tài không vi phạm trật tự
cộng cộng của nước thi hành.
Xác định hiệu lực của thoả thuận trọng tài. Như chúng ta đã biết thì điều kiện đầu
tiên để xem xét một thủ tục trọng tài hợp pháp là việc xác định sự tồn tại và tính hợp pháp của
thoả thuận trọng tài giữa các bên tranh chấp. Tuy nhiên, khi ứng dụng smart contract trong môi
trường mạng thì các chủ thể liên quan thường là ẩn danh17 nên rất khó để xác định các chủ thể
liên quan khi xác lập thoả thuận trọng tài có đầy đủ năng lực hành vi dân sự hay không để có
thể xác định hiệu lực của thoả thuận trọng tài. Tuy nhiên, trong tương lai, với sự phát triển của
khoa học công nghệ thì các bên có thể sử dụng dịch vụ xác thực định danh điện tử theo đó các
bên sẽ được chứng thực là có đầy đủ năng lực khi tham gia giao dịch. Tại Việt Nam, thì Chính
phủ Việt Nam cũng đã ban hàng Nghị định số 59/2022/NĐ-CP ngày 05/09/2022 quy định về
định danh và xác thực điện tử để phục vụ cho các giao dịch điện tử trong đó Điều 3 có quy định
“Xác thực điện tử” là hoạt động xác nhận, khẳng định thông tin gắn với chủ thể danh tính điện
tử thông qua việc khai thác, đối chiếu thông tin của chủ thể danh tính điện tử đó trong Cơ sở
dữ liệu quốc gia về dân cư, Cơ sở dữ liệu căn cước công dân, Cơ sở dữ liệu quốc gia về xuất
nhập cảnh, cơ sở dữ liệu khác và hệ thống định danh và xác thực điện tử hoặc xác thực tài
khoản định danh điện tử do hệ thống định danh và xác thực điện tử tạo lập qua tổ chức cung
cấp dịch vụ xác thực điện tử để khẳng định giá trị sử dụng của tài khoản định danh điện tử đó”
(khoản 8); và “Yếu tố xác thực là các thông tin chủ thể danh tính điện tử sử dụng hoặc sở hữu”
(khoản 9). Khi đó, việc xác định năng lực của các chủ thể liên quan có thể được khắc phục.
Hơn nữa, khó khăn trong việc xác định danh tính các bên không phải là không thể khắc phục
được vì các bên tham gia giao dịch hoàn toàn có thể tự công bố danh tính hoặc xác định đanh
tính trước khi tham gia giao dịch để đảm bảo quyền lợi cho mình về sau.
Xác định địa điểm trọng tài. Công ước New York 1958 áp dụng cho việc công nhận
và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài. Tuy nhiên, trong lĩnh vực ứng dụng blockchain
và smart contract thì được hiểu rằng các chủ thể liên quan đều được núp sau một “tên giả” hoặc
không định danh và các giao dịch diễn ra trên môi trường mạng nên rất khó để xác định phán
quyết trọng tài nêu trên có địa điểm ở đầu để xác định trọng tài là nước ngoài hay trong nước;
hoặc phán quyết đó có thuộc nước thành viên của Công ước hay không để có thể được hưởng
quy chế công nhận và cho thi hành theo Công ước.18
Do đó, để khắc phục tình trạng này thì các bên nên thoả thuận địa điểm trọng tài và
khẳng định rằng việc phiên xử trực tuyến cũng được xem là xét xử tại địa điểm mà các bên lựa
chọn. Cơ sở của đề xuất như vậy là vì về nguyên tắc tại khoản 8 Điều 3 Luật TTTM cho phép
16 Gary Born, International arbitration: law and practice, Kluwer Law International BV, 2012, phần [A].
17 Géraldine Goffaux Callebaut, “Blockchain et marché de l'art”, AJ contrat 2019, p.324.
18 Ritika Bansal, “Enforcement of awards from Blockchain arbitration in India”, Kluwer Arbitration Blog,
https://arbitrationblog.kluwerarbitration.com/2019/08/21/enforceability-of-awards-from-blockchain-arbitrations-
in-india/, truy cập ngày 08/02/2023.

175
các bên được lựa chọn địa điểm giải quyết tranh chấp và chỉ khi không có sự lựa chọn của các
bên thì việc xác định địa điểm theo luật mới được áp dụng. Từ có có thể suy luận rằng pháp
luật của chúng ta không cấm việc các bên hay tổ chức trọng tài quy định về cơ chế xác định địa
điểm trọng tài. Hoặc xét về khía cạnh pháp luật nước ngoài thì Luật của Anh có thể là một ví
dụ theo đó Điều 3 Luật Trọng tài của Anh quy định địa điểm trọng tài là “địa điểm về mặt pháp
lý được chỉ định bởi các bên; hoặc bởi cơ quan, chủ thể do các bên thoả thuận; hoặc bởi hội
đồng trọng tài do các bên trao quyền hoặc nếu không có sự trao quyền của các bên thì Hội
đồng trọng tài sẽ quyết định dựa trên các yếu tố liên quan đến thoả thuận trọng tài”. Nội dung
trên cũng cho thấy Luật của Anh cho phép các bên được lựa chọn địa điểm trọng tài và địa điểm
này là địa điểm về mặt pháp lý mà không quan trọng phiên xử thực tế diễn ra tại vị trí địa lý
nào. Quy định này rất phù hợp với cơ chế giải quyết tranh chấp trực tuyến của hệ thống smart
contract.
Về hình thức của phán quyết. Ngoài ra, theo Công ước New York 1958 thì muốn công
nhận phán quyết trọng tài thì tại Điều 4 quy định các bên phải cung cấp được bản chụp của
phán quyết trọng tài được hợp pháp hoá lãnh sự. Xét về khía cạnh này thì có thể có câu hỏi đặt
ra là phán quyết trọng trong smart contract có khả năng được chứng minh sự tồn tại hợp pháp
theo yêu cầu của Công ước hay không? Về vấn đề này thì việc phán quyết trọng tài không được
lập bằng văn bản cũng không phải là vấn đề khó khăn quá lớn mà không thể vượt qua. Điển
hình, tại Việt Nam, nếu xét dưới góc độ của pháp luật Việt Nam về hình thức thể hiện của phán
quyết thì Luật Giao dịch điện tử tại Điều 12 quy định rằng “trường hợp pháp luật yêu cầu thông
tin phải được thể hiện bằng văn bản thì thông điệp dữ liệu được xem là đáp ứng yêu cầu này
nếu thông tin chứa trọng thông điệp dữ liệu đó có thể truy cập và sử dụng để tham chiếu khi
cần thiết”. Do đó, việc phán quyết trọng tài được thể hiện dưới dạng thông điệp dữ liệu sẽ không
gặp khó khăn khi công nhận và cho thi hành. Do đó, về vấn đề này thì có quan điểm cho rằng
“trong tương lai gần, mỗi phán quyết trọng tài, mỗi quy trình tố tụng, mỗi nhiệm vụ đều có thể
có lưu trữ số hoá trong đó có thể được xác định, được đánh giá là có hiệu lực, được lưu trữ và
được chia sẻ. Đó chính là tiềm năng vô bờ bến của Blockchain”19.
Ngoài những vấn đề nêu trên thì thủ tục trọng tài trong smart contract sẽ có khả năng
cao để thoả mãn các yêu cầu của phán quyết trọng tài như các phán quyết trọng tài khác. Vì về
nguyên tắc thì thủ tục trọng tài là thủ tục mang bản chất tư và các bên được trao quyền tự do
rất lớn để thiết kế thủ tục trọng tài cho phù hợp với nhu cầu và tình huống cụ thể của mình. Do
đó, việc thủ tục trọng tài được tiến hành trực tuyến sẽ không phải là rào cản lớn để ảnh hưởng
đến khía cạnh công nhận và cho thi hành. Chính vì vậy mà đối với trọng tài theo cách của smart
contract như được phân tích ở trên thì người ta không chỉ quan tâm đến việc công nhận và cho
thi hành nó theo Công ước New York mà quan tâm đến vấn đề phát sinh từ thực trạng tự động
được thi hành của cơ chế trọng tài này.
Như đã phân tích ở trên thì trọng tài theo theo cơ chế “ký quỹ” hay “địa chỉ đa chữ ký”
trong smart contract có thể tự thi hành theo cơ chế “nếu…thì” của smart contract. Khi đó, sự
can thiệp hay kiểm soát của chủ thể thứ tư là cơ quan nhà nước trở nên khó khăn. Điều này sẽ
ảnh hưởng đến việc bảo vệ quyền của bên có nghĩa vụ thi hành phán quyết.20 Do đó, muốn kiểm
soát hoạt động trọng tài trong lĩnh vực smart contract nêu trên thì nhà nước cần có sự can thiệp
cả bằng công nghệ. Bên cạnh đó, trong thời gian chờ đợi sự can thiệp của công nghệ thì các bên
có thể tự bảo vệ mình bằng cách tự thoả thuận về hoãn thi hành smart contract trong thời gian
chờ đợi công nhận và cho thi hành. Ví dụ, về việc hoãn thi hành smart contract, có nghiên cứu
19 Mauricio Duarte, “Could Blockchain help the recognition of international arbitration awards?”, Kluwer
Arbitration Blog, https://arbitrationblog.kluwerarbitration.com/2018/04/20/blockchain-help-recognition-
international-arbitration-awards/, truy cập ngày 09/02/2023.
20 Pietro Ortolani, "The impact of blockchain technologies and smart contracts on dispute resolution: arbitration
and court litigation at the crossroads", Unif. L. Rev., Vol. 24, 2019, 430–448.