
Ngày nhận bài: 12-07-2024 / Ngày chấp nhận đăng bài: 29-08-2024 / Ngày đăng bài: 31-08-2024
*Tác giả liên hệ: Phạm Thái Hưng. Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam.
E-mail: phamthaihung@ump.edu.vn
© 2024 Bản quyền thuộc về Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh.
https://www.tapchiyhoctphcm.vn139
ISSN: 1859-1779 Nghiên cứu Y học
Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh;27(3):139-145
https://doi.org/10.32895/hcjm.m.2024.03.19
Ứng dụng chụp cắt lớp vi tính trong khảo sát thể tích
tuyến thượng thận ở người trưởng thành
Phạm Thái Hưng1,2,*, Lê Ngô Gia Thảo1, Võ Thị Thúy Hằng1, Võ Ngọc Huy Thông1
1Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam
2Bệnh viện Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh cơ sở 2, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam
Tóm tắt
Mục tiêu: Xác định giá trị bình thường của thể tích tuyến thượng thận (TTT) hai bên và đánh giá mối tương quan giữa
thể tích TTT với tuổi, giới tính, chiều cao, cân nặng và chỉ số khối cơ thể (BMI) ở người Việt Nam trưởng thành.
Đối tượng - Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả được thực hiện trên 239 đối tượng trưởng thành,
gồm 118 nam và 121 nữ. Trên hình chụp cắt lớp vi tính (CLVT), bờ ngoài TTT được vẽ trên các lát cắt mặt phẳng trục. Dựa
trên tổng số lát cắt thu được, phần mềm máy trạm có thể tính thể tích TTT tự động hóa. Phân tích mối tương quan đơn
biến và đa biến giữa thể tích TTT với tuổi, giới tính, chiều cao, cân nặng và BMI.
Kết quả: Thể tích trung bình của TTT bên phải, bên trái và tổng hai bên lần lượt là 3,6 ± 1,0 cm3; 4,6 ± 1,1 cm3 và 8,2 ±
2,0 cm3. Thể tích trung bình TTT bên trái lớn hơn bên phải, ở nam lớn hơn nữ. Thể tích TTT tăng theo chiều cao, cân
nặng và BMI, giảm theo tuổi. Thể tích TTT có mối tương quan độc lập với tuổi, giới tính và BMI.
Kết luận: Nghiên cứu cung cấp giá trị thể tích TTT bình thường ở người Việt Nam trưởng thành, góp phần phục vụ cho
chẩn đoán và điều trị bệnh lý TTT.
Từ khóa: tuyến thượng thận; chụp cắt lớp vi tính; thể tích.
Abstract
EVALUATION OF ADRENAL GLAND VOLUME IN THE VIETNAMESE
ADULT POPULATION USING COMPUTED TOMOGRAPHY
Pham Thai Hung, Le Ngo Gia Thao, Vo Thi Thuy Hang, Vo Ngoc Huy Thong
Objective: To determine the normal values of bilateral adrenal gland volume (AGV) and to assess the correlation
between AGV and age, gender, height, weight, and body mass index (BMI) in Vietnamese adults.

Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh * Tập 27 * Số 2* 2024
140 | https://www.tapchiyhoctphcm.vn https://doi.org/10.32895/hcjm.m.2024.03.19
Methods: A descriptive cross-sectional study was conducted on 239 adult subjects, including 118 men and 121 women.
On computed tomography images, the outer border of the adrenal gland (AG) was traced on axial plane slices. Based
on the total number of depicted slices, workstation software can automatically calculate AGV. Univariate and
multivariate correlations between AGV and age, gender, height, weight, and BMI were analyzed.
Results: The mean volumes of the right, left, and total AGs were 3.6 ± 1.0 cm³, 4.6 ± 1.1 cm³, and 8.2 ± 2.0 cm³,
respectively. The mean volume of the left AG was larger than that of the right AG, and it was larger in men than in
women. AG volume increased with height, weight, and BMI and decreased with age. AG volume was independently
correlated with age, gender, and BMI.
Conclusion: The study provides normal AG volume values for Vietnamese adults, contributing to the diagnosis and
treatment of AG-related diseases.
Keywords: adrenal gland; computed tomography; volume.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tuyến thượng thận (TTT) là một cặp cơ quan nằm sau phúc
mạc, ở vùng hố trên thận hai bên, đảm nhiệm nhiều chức năng
nội tiết quan trọng của cơ thể. Hiện nay, nhiều phương tiện
chẩn đoán hình ảnh có thể được sử dụng để khảo sát TTT, chụp
cắt lớp vi tính (CLVT) có nhiều ưu điểm hơn các phương tiện
khác vì độ phổ biến cao, thời gian ghi hình nhanh, khả năng
tạo ra hình ảnh có độ phân giải không gian, cho phép khảo sát
và đo đạc chính xác kích thước TTT. Bên cạnh phương pháp
đo bề dày TTT phổ biến trước đây, nhiều tác giả đã tiến hành
đo thể tích TTT trên hình chụp CLVT bằng cách sử dụng phần
mềm đo thể tích cơ quan. Phép đo thể tích TTT được chứng
minh có tính lặp lại cao hơn so với phép đo bề dày, do TTT có
hình dạng thay đổi và phức tạp [1].
Thể tích TTT thay đổi có ý nghĩa trong một số bệnh lý như
trầm cảm, đái tháo đường, sốc nhiễm trùng,….[1–3]. Ngoài
ra, thể tích TTT được đề xuất sử dụng thay cho việc đo nồng
độ cortisol tự do trong nước tiểu trong 24 giờ, nhằm đánh giá
hoạt động của trục hạ đồi - tuyến yên - tuyến thượng thận,
hoặc sử dụng như một yếu tố độc lập để tiên lượng tử vong
trong 28 ngày ở bệnh nhân sốc nhiễm trùng tại khoa hồi sức
tích cực [3].
Cho đến nay, tại Việt Nam chưa có nghiên cứu nào thực
hiện phép đo thể tích TTT trên hình chụp CLVT. Do đó,
nghiên cứu này được thực hiện nhằm xác định giá trị bình
thường của thể tích TTT, đồng thời khảo sát mối tương quan
giữa thể tích TTT với tuổi, giới tính, chiều cao, cân nặng và
chỉ số khối cơ thể (Body mass index - BMI) ở người Việt
Nam trưởng thành.
2. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện tại bệnh viện Đại học Y Dược
Thành phố Hồ Chí Minh (TP HCM) từ tháng 10/2022 đến
tháng 10/2023 trên 239 bệnh nhân từ 18 tuổi trở lên, bao gồm
118 nam và 121 nữ.
2.1.1. Tiêu chuẩn chọn mẫu
Bệnh nhân được chụp CLVT bụng chậu có tiêm thuốc thì
tĩnh mạch cửa, với các chỉ định không liên quan đến bệnh lý
TTT.
2.1.2. Tiêu chuẩn loại
Chúng tôi loại trừ khỏi nghiên cứu các trường hợp sau đây:
sốc nhiễm trùng, tăng huyết áp, đái tháo đường, trầm cảm,
bệnh lý rối loạn nội tiết, bệnh ác tính đã biết, bệnh nhân sau
phẫu thuật, đang điều trị liệu pháp steroid kéo dài hoặc nội
tiết tố ngoại sinh, các trường hợp có tổn thương choán chỗ ở
TTT, có xảo ảnh hoặc chất lượng hình chụp CLVT kém gây
hạn chế khảo sát TTT [1,4].
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang mô tả hồi cứu.
2.2.2. Phương pháp thực hiện
Tất cả dữ liệu hình ảnh CLVT của bệnh nhân được thu

Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh * Tập 27 * Số 3 * 2024
https://doi.org/10.32895/hcjm.m.2024.03.19 https://www.tapchiyhoctphcm.vn| 141 nhận trên máy chụp CLVT 128 dãy đầu thu vật lý (Siemens
Healthcare GmbH Siemensstraße 1, 91301 Forchheim,
Germany), sử dụng thuốc cản quang tan trong nước
300mg/mL, 100mL tiêm tĩnh mạch bằng máy bơm thuốc tự
động, kim 18G - 20G, với liều tiêm 1,5 mL/kg, tốc độ tiêm
2,5 - 3 mL/giây. Thông số quét: hiệu điện thế 80 - 120 kV,
cường độ dòng điện điều biến tự động. Hình ảnh của thì tĩnh
mạch cửa ở thời điểm 70 giây sau tiêm được chọn để khảo
sát TTT hai bên.
Thực hiện đo lần lượt thể tích TTT bên phải và bên trái
trên mỗi bệnh nhân. Quá trình xử lý hình ảnh được thực hiện
trên máy trạm (Syngo.via VB30), dựng hình trên mặt phẳng
trục và tái tạo lát cắt đồng thể tích với độ dày lát cắt là 1 mm,
khoảng cách lát cắt là 0,8 mm; cửa sổ nhu mô có độ rộng cửa
sổ 360 HU, trung tâm cửa sổ 60 HU, sử dụng các công cụ
phóng đại hình ảnh để xác định chính xác bờ ngoài TTT. Sau
khi bộc lộ rõ hình ảnh TTT, nghiên cứu viên sử dụng công
cụ đo thể tích “Region Growing” để vẽ bờ ngoài của TTT
trên mỗi lát cắt của mặt phẳng trục theo hướng đầu chân cách
nhau 3 - 4 lát cắt (Hình 1A). Để tiết kiệm thời gian, những
lát cắt nằm giữa hai lát cắt được vẽ sẽ được phần mềm vẽ tự
động và nghiên cứu viên kiểm tra lại. Đường bờ được hiệu
chỉnh khi chức năng vẽ tự động không chính xác. Khi hoàn
thành giai đoạn vẽ, phần mềm sẽ xác lập toàn bộ khu vực
chứa TTT (Hình 1B).
Sau đó, công cụ “Threshold” được sử dụng để lựa chọn
vùng quan tâm (Region of interest - ROI) dựa theo đậm độ, và
chúng tôi sử dụng ngưỡng đậm độ >0 HU để loại bỏ mỡ lân
cận cho khu vực đã vẽ và chỉ bao gồm mô TTT vào vùng ROI
(Hình 1C). Nhờ công cụ này, nghiên cứu viên có thể vẽ bờ
ngoài vượt nhẹ ra mô mỡ lân cận thay vì vẽ sát đường bờ thực
sự của tuyến thượng thận vốn không đều, thao tác này giúp tiết
kiệm nhiều thời gian vẽ trên mỗi lát cắt. ROI sau đó cũng được
kiểm tra trên hình mặt phẳng trán, mặt phẳng dọc giữa và tái
tạo thể tích TTT trong không gian ba chiều (Hình 2). Thể tích
TTT (cm3) được tính toán tự động và bằng tổng tất cả thể tích
các điểm ảnh (voxel) trong vùng ROI (Hình 1D).
Hình 1. Đo thể tích tuyến thượng thận bằng phương pháp bán tự động. (A) Vẽ bờ ngoài TTT trên các lát cắt mặt phẳng trục (B) Xác
đinh khu vực cần đo thể tích (C) Lựa chọn ngưỡng giới hạn đậm độ >0 HU nhằm loại bỏ mỡ quanh TTT và xác lập vùng ROI (D) Tính
toán thể tích tự động hóa

Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh * Tập 27 * Số 2* 2024
142 | https://www.tapchiyhoctphcm.vn https://doi.org/10.32895/hcjm.m.2024.03.19
Hình 2. Xác định thể tích tuyến thượng thận hai bên trên. (A) mặt phẳng trục, (B) mặt phẳng trán, (C) mặt phẳng đứng dọc và (D) tái
tạo không gian ba chiều
2.2.3. Phân tích thống kê
Phần mềm thống kê Stata 14.2 được sử dụng. Các kết quả
thống kê mô tả của tuổi, giới tính, chiều cao, cân nặng, BMI
và thể tích TTT được trình bày dưới dạng giá trị trung bình
± độ lệch chuẩn. Thể tích trung bình TTT hai bên và giữa hai
giới nam và nữ được so sánh bằng phép kiểm T-test không
bắt cặp (trường hợp dữ liệu phân phối bình thường) hoặc
phép kiểm Mann-Whitney U (trường hợp dữ liệu phân phối
không bình thường).
Kiểm định tương quan Pearson (trường hợp dữ liệu phân
phối bình thường) hoặc Spearman (trường hợp dữ liệu phân
phối không bình thường) được sử dụng để đánh giá mối
tương quan giữa thể tích TTT trung bình với tuổi, chiều cao,
cân nặng và BMI. Mức độ tương quan được đánh giá theo
Cohen [5]: <0,1: không tương quan tuyến tính; 0,1 - 0,3: quy
mô tác động nhỏ; 0,3 - 0,5: quy mô tác động trung bình; >0,5:
quy mô tác động lớn.
Mô hình hồi quy tuyến tính đa biến và kiểm tra hiện tượng
đa cộng tuyến bằng hệ số phóng đại phương sai (Variance
Inflation Factors - VIF) được xây dựng để đánh giá sự tác
động lẫn nhau giữa các yếu tố tuổi, giới tính, chiều cao, cân
nặng và BMI trong mối tương quan với thể tích TTT trung
bình, các yếu tố trên được xem là có tương quan tuyến tính
với nhau, hay có hiện tượng cộng tuyến khi VIF >10.
Tất cả kiểm định được xem là có ý nghĩa thống kê khi giá
trị p <0,05.
3. KẾT QUẢ
Các đặc điểm chung của 239 bệnh nhân: Tuổi, chiều cao,
cân nặng và BMI trong dân số nghiên cứu là các biến định
lượng liên tục có phân phối bình thường. Giá trị của các biến
số được trình bày trong Bảng 1.
Bảng 1. Đặc điểm chung của dân số nghiên cứu
n = 239 Trung
bình
Độ
lệch
chuẩn
Giá trị
nhỏ
nhất
Giá trị
lớn
nhất
Tuổi 47,63 16,54 20 98
Chiều cao (cm) 160,99
7,88 140 180
Cân nặng (kg) 57,58 10,71 28 92
BMI (kg/cm2) 22,11 3,23 13,70 33,10
Giới tính (Nam/Nữ) 118/121

Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh * Tập 27 * Số 3 * 2024
https://doi.org/10.32895/hcjm.m.2024.03.19 https://www.tapchiyhoctphcm.vn| 143 Thể tích trung bình của TTT bên phải, bên trái và tổng hai
bên là các biến định lượng liên tục có phân phối bình thường.
Thể tích trung bình của TTT bên phải là 3,66 ± 1,02 cm3,
bên trái là 4,58 ± 1,13 cm3 và tổng thể tích trung bình của
TTT hai bên là 8,24 ± 2,00 cm3 (Bảng 2). Phép kiểm T-test
không bắt cặp cho phép chúng tôi kết luận thể tích TTT bên
trái lớn hơn bên phải (p <0,05).
Bảng 2. Thể tích tuyến thượng thận từng bên (n=239)
Trung
bình
Độ
lệch
chuẩn
Giá trị
nhỏ
nhất
Giá trị
lớn
nhất
Giá trị
p
Thể
tích
(cm3)
Bên
phải 3,66 1,02 1,42 6,63
<0,001
Bên
trái 4,58 1,13 2,25 9,55
Tổng
hai
bên
8,24 2,00 4,41 15,84
Dựa vào phép kiểm T-test không bắt cặp, chúng tôi ghi
nhận thể tích trung bình của TTT ở nam giới lớn hơn nữ giới
(p <0,05) (Bảng 3).
Bảng 3. Thể tích tuyến thượng thận theo giới tính (n=239)
Giới
tính
Số
lượng
Thể tích (cm3)
Trung
bình Độ lệch chuẩn Giá trị p
Nam
Nữ
118
121
8,72
7,77
2,13
1,69 <0,001
Chúng tôi sử dụng kiểm định tương quan Pearson để đánh
giá mối tương quan giữa thể tích trung bình TTT và tuổi,
chiều cao, cân nặng và BMI, và ghi nhận có mối tương quan
thuận, mức độ trung bình giữa tổng thể tích TTT với chiều
cao (r = 0,41; p <0,05) và BMI (r = 0,37; p <0,05), mối tương
quan thuận, mức độ mạnh giữa tổng thể tích TTT với cân
nặng (r = 0,53; p <0,05), và mối tương quan nghịch, mức độ
trung bình giữa tổng thể tích TTT với tuổi (r = -0,31; p <0,05)
(Bảng 4).
Kết quả của mô hình hồi quy đa biến giữa thể tích tuyến
thượng thận và ba yếu tố tuổi, giới tính và BMI:
Tổng số quan sát: 239.
Giá trị của mô hình hồi quy: F (3, 235)=30,07; p <0,05.
R bình phương tổng thể: R - squared = 0,28.
Hằng số của phương trình hồi quy: 5,52.
Bảng 4. Mối tương quan giữa thể tích tuyến thượng thận và một
số yếu tố (n = 239)
Thể tích
TTT
bên phải
Thể tích
TTT
bên trái
Tổng thể
tích TTT
hai bên
Tuổi
Hệ số tương quan
Pearson
Giá trị p
-0,24
< 0,001
-0,33
< 0,001
-0,31
< 0,001
Chiều cao
Hệ số tương quan
Pearson
Giá trị p
0,40
< 0,001
0,37
< 0,001
0,41
< 0,001
Cân nặng
Hệ số tương quan
Pearson
Giá trị p
0,56
< 0,001
0,43
< 0,001
0,53
< 0,001
BMI
Hệ số tương quan
Pearson
Giá trị p
0,43
< 0,001
0,27
< 0,001
0,37
< 0,001
Bảng 5. Phân tích tương quan đa biến giữa thể tích tuyến
thượng thận và các yếu tố
Yếu tố Hệ số hồi quy
(β)
Sai số chuẩn
(SE) Giá trị p
Tuổi -0,04 0,01 < 0,001
Giới tính -0,85 0,22 < 0,001
BMI 0,22 0,03 < 0,001
Phương trình hồi quy đa biến (ε: sai số dư):
Thể tích TTT = 5,52 - 0,04 * tuổi + 0,22 * BMI - 0,86 * giới tính + ε
Khi xây dựng mô hình hồi quy đa biến trong nhóm gồm
ba yếu tố tuổi, giới tính và BMI, chúng tôi ghi nhận giá trị
R - squared = 0,28 đồng nghĩa với việc ba yếu tố này giải
thích được 28% sự biến thiên của thể tích TTT. Kết quả phân
tích hiện tượng đa cộng tuyến cho thấy cả ba yếu tố đều có
giá trị VIF <10, đồng thời hệ số hồi quy của các yếu tố đều
có ý nghĩa thống kê (p <0,05), và chúng tôi kết luận tuổi, giới
tính và BMI ảnh hưởng độc lập đến thể tích TTT (Bảng 5):
Cụ thể, tuổi có mối tương quan nghịch với thể tích TTT, khi
bệnh nhân tăng thêm 1 tuổi, tổng thể tích TTT giảm đi
0,04cm3. Ngược lại, khi BMI bệnh nhân tăng 1 kg/cm2 thì
tổng thể tích TTT tăng thêm 0,22 cm3. Hệ số hồi quy của giới
tính (quy ước mã hóa giới nữ là 1, giới nam là 0) là -0,85 cho
phép kết luận thể tích TTT ở nam giới lớn hơn nữ giới.

