
CHƯƠNG IV: ORACLE VÀ CẤU HÌNH MẠNG
I. SERVICE VÀ NHỮNG CHỨC NĂNG PHỤC VỤ CỦA ORACLE.
Oracle xây dựng rất nhiều loại service để hỗ trợ và phục vụ cho các thao tác
kết nối cũng như truy xuất cơ sở dữ liệu. Một Service thường có hai thao tác
chính mà bạn cần quan tâm là START và STOP. Khi một Service được
START nó sẽ ở trạng thái sẵn sàng phục vụ cho mọi yêu cầu gửi đến theo cách
thức mà ứng dụng quy định. Khi STOP một Service cũng đồng nghĩa với các
dịch vụ hay ứng dụng mà bạn yêu cầu phục vụ không còn có sẵn nữa.
Chương trình listener của Oracle là một Service dễ hình dung nhất.
II. TỔNG QUAN VỀ CÁC CẤU HÌNH VÀ KẾT NỐI CỦA ORACLE.
Do cơ sở dữ liệu và các ứng dụng của Oracle hoạt động theo mô hình mạng
client/server nên hầu hết các cấu hình cần thiết lập cần phải ăn khớp nhau giữa
client với server.
Muốn cơ sở dữ liệu trên máy Server chấp nhận kết nối máy client cần phải
được cấu hình thiết lập các thông số cho Net Service Name các thông số mà
Net Service Name nắm giữ phải phù hợp với những thông số thiết lặp trong tập
tin LISTENER.ORA do chương trình kiểm soát. Các thông số này chủ yếu bao
gồm địa chỉ mạng của máy Server và các giao thức dùng để kết nối. Trong quá
trình kết nối máy client sẽ gửi thêm thông tin về định danh của cơ sở dữ liệu
trên máy chủ để LISTENER biết cách gửi những yêu cầu của bạn đến đúng
Service của cơ sở dữ liệu mà bạn cần truy xuất.
Tập tin LISTENER.ORA dùng lưu những thông tin quy định cách ứng xử và
kiểm soát kết nối của Services listener, các thông tin này bao gồm địa chỉ mạng

nơi listener muốn tiếp nhận kết nối( thường là địa chỉ máy Server), giao thức
mà Listener dùng để liên lạc và hiểu được máy Client, cổng giao tiếp( dành cho
giao thức TCP/IP), định danh SID của cơ sở dữ liệu cần LISTENER phục vụ (
hay chuyển giao các yêu cầu truy xuất từ phía client đưa đến). Tập tin này
thường được ORACLE đặt tại thư mục ORACL_HOME\Net80\Admin \ trên
máy server.
Để kết nối với Server máy Client dùng Net Service Name là một chuỗi thông
tin được lấy từ tập tin TNSNAMES.ORA( trên máy client cục bộ tập tin này
thường được ORACLE lưu trong thư mục ORACLE_HOME\Net80\Admin)
hoặc trên một máy Server khác(Oracle Names Server) trong trường hợp bạn có
nhiều cơ sở dữ liệu và cần truy xuất trên mạng diện rộng với quy mô cơ sở dữ
liệu phân tán lớn. Khi cấu hình máy client ( hay Server đóng vai trò client)
chúng ta cần phải quan tâm đến những thông số máy kết nối này.
Tổng quát ta có hai cách thiết lập cấu hình cho Net Services Name ở máy
Client là:
Cấu hình quản lý cục bộ.
Địa chỉ mạng và giao thức quy định kết nối được đặt trong tập tin
TNSNAMES. ORA hoặc chỉ dùng tập tin WINNT\ SYSTEM32\ DRIVER\
ETC\ HOST duy nhất của Window NT.
Công cụ của Oracle giúp bạn thực hiện công việc này là Oracle Net8 Easy
Config hay Net 8 Assistance.
Cấu hình quản lý tập trung.

Tất cả tên Net Service Name và địa chỉ kết nối với Server được đặt trên một
máy chủ khác(ONS- Oracle Name Server). Máy client chỉ cần quan tâm đến
địa chỉ máy ONS các thông tin khác về Server chứa cơ sở dữ liệu sẽ được ONS
cho biết. Công cụ hỗ trợ cấu hình này của Oracle là Oracle Net8 Assistance.
III. NET8 VÀ “NỀN GIAO TIẾP MẠNG TRONG SUỐT”.
Khái niệm “trong suốt” thường để chỉ những phần mềm trung gian giúp ta
thực hiện một thao tác nào đó mà không cần biết đến cơ chế hoạt động hay sự
hiện diện của thành phần trung gian. Oracle cung cấp mô hình hoạt động và
giao tiếp mạng tương tự như vậy. Tất cả các lời gọi kết nối đều với mạng đều
do TNS( Transaparent Network Subtrate) hay “Nền giao tiếp mạng trong suốt”
quản lý và chuyển tải. Kỹ thuật và nền tảng của TNS được xây dựng bên trong
Net8 cung cấp một cách giao tiếp duy nhất cho tất cả các giao thức mạng hiện
nay đang được sử dụng rộng rãi như: TCP/IP, IPX, Pies…
Với TNS mọi ứng dụng ngang hàng đều có thể kết nối được với nhau một
cách tự nhiên. Trong kiến trúc mạng ngang hàng gồm hai hay nhiều máy tính (
mỗi máy tính được xem như là một node hay là một nút mạng) có thể giao tiếp
trực tiếp với nhau không cần thông qua một thiết bị trung gian nào khác. Với
hệ thống ngang hàng mỗi node đều có thể đóng vai trò là một client hoặc một
server.
IV. CÁC TẦNG GIAO TIẾP.
Khái niệm xử lý các tiến trình phân tán mà ta đã nêu trước đây dựa vào khả
năng của nhiều máy tính tách biệt nhau có thể giao tiếp và tương tác với nhau
thông qua những tầng giao tiếp được thiết kế khác nhau về mặt vật lý.

Các tầng giao tiếp này được thiết kế theo mô hình hệ thống mở (Open System
Interconnection gọi tắt là OSI). Trong mô hình OSI, giao tiếp giữa các máy tính
khác biệt nhau được thực hiện thông qua việc phân chia trách nhiệm trong việc
chuyển và xử lý một gói thông tin xuyên qua nhiều tầng tách rời.
Phía máy client thông tin từ tầng cao nhất sẽ được phân tích và chuyển dần
xuống các tầng dưới. Tầng vật lý cuối cùng sẽ chuyển thông tin qua mạng đến
máy server. Tại máy server gói thông tin sẽ được phân tích và chuyển xuống
thông qua các tầng giao tiếp theo hướng ngược lại.
Điều hấp dẫn của tiếp cận OSI chính là ở chỗ nó hứa hẹn giải pháp cho vấn đề
truyền thông giữa các máy tính không giống nhau. Hai hệ thống dù khác nhau
như thế nào đi nữa, điều có thể truyền thông với nhau một cách hiệu quả nếu
chúng đảm bảo những điều kiện sau đây:
Chúng cài đặt một tập các chức năng truyền thông
Các chức năng đó được tổ chức thành một tập các tầng. Các tầng đồng mức
phải cung cấp các chức năng như nhau
Các tầng đồng mức phải sử dụng một giao thức chung.
Để đảm bảo những điều trên cần phải có các chuẩn. Các chuẩn phải xác định
các chức năng và dịch vụ được cung cấp bởi một tầng. Theo cách tiếp cận OSI,
trong mỗi tầng của một hệ thống có một hoặc nhiều thực thể(entity) hoạt động.
Một(N) entity (thực thể của tầng N) cài đặt các chức năng của tầng N và giao
thức truyền thông với các(N) entity trong các hệ thống khác. Một tiến trình
trong một hệ đa xử lý là một ví dụ của thực thể. Hay đơn giản hơn, một thực
thể có thể là một trình con(subroutine). Mỗi thực thể truyền thông với các thực

thể ở các tầng trên và dưới nó thông qua một giao diện. Giao diện này gồm một
hoặc nhiều điểm truy cập dịch vụ(Service Access Point-viết tắt là SAP). (N-1)
entity cung cấp dịch vụ cho một (N) entity thông qua việc gọi các hàm nguyên
thuỷ( primitive). Hàm nguyên thuỷ chỉ rỏ các chức năng thực hiện và được
dùng để chuyển dữ liệu và thông tin điều khiển. Lời gọi trình con chính là một
dạng cài đặt cụ thể của một hàm nguyên thuỷ.
Bốn hàm nguyên thuỷ được dùng để định nghĩa tương tác giữa các tầng kề
nhau, đó là:
Request(yêu cầu): Là hàm nguyên thuỷ mà Service User( người sử dụng
dịch vụ) dùng để gọi một chức năng.
Indication(chỉ báo): là hàm nguyên thuỷ mà Service Provider( người cung
cấp dịch vụ) dùng để:
Gọi một chức năng hoặc chỉ bảo một chức năng đã được gọi ở một điểm truy
cập dịch vụ(SAP)
Respone( trả lời): Là hàm nguyên thủy mà Service User dùng để hoàn tất
một chức năng đã được gọi từ trước bởi một hàm nguyên thủy Indication ở
SAP đó.
Confirm(xác nhận): Là hàm nguyên thủy mà Service Provider dùng để hoàn
tất một chức năng đã được gọi từ trước bởi một hàm nguyên thủy Request
tại SAP đó.
Mô hình tham chiếu OSI 7 tầng:
Tầng vật lý.