
vietnam medical journal n02 - MAY - 2019
102
trong các nghiên cứu VNT với dược chất khác.
Từ kết quả giản đồ pha thu được, chúng tôi lựa
chọn công thức VNT meloxicam và đánh giá khả
năng giải phóng dược chất qua màng. Kết quả
cho thấy công thức VNT giải phóng dược chất tốt
nhất là: 0,3% meloxicam; 30% acid Oleic; 20%
isopropanol; 40% hỗn hợp chất diện hoạt
Tween80+ natrilaurylsulfat (HLB =16,7); Nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Gamal M. El Maghraby, 2012, "Microemulsions
as Transdermal Drug Delivery Systems", Current
Nanoscience, vol. 8, pp. 504-511.
2. M. Jayne Lawrence, Gareth D. Rees, 2012,
“Microemulsion-based media as novel drug delivery
systems”, Adva. Drug Del. Rev., vol.64, p. 175-193.
3. Yue Yuan, San-ming Li, Feng-kui Mo, Da-
fang Zhong, 2006, “Investigation of
microemulsion system for transdermal delivery of
meloxicam”, Int. J. Pharm., vol. 321, pp. 117–123.
4. Yue Yuan, San-ming Li, Feng-kui Mo, Da-fang
Zhong, 2007, “Physicochemical Properties and
Evaluation of Microemulsion Systems for
Transdermal Delivery of Meloxicam”, Chem. Res.
Chinese Uni., vol. 23, pp. 81-86.
ỨNG DỤNG KỸ THUẬT REALTIME PCR ĐỂ XÁC ĐỊNH NHANH
12 VI KHUẨN HỆ TIẾT NIỆU SINH DỤC
Nguyễn Thị Trang*, Nguyễn Minh Thu*
TÓM TẮT28
Bệnh lây truyền qua đường sinh dục là một nhóm
bệnh phổ biến, có tỷ lệ mắc cao. Bệnh không chỉ gây
nguy hại cho sức khỏe, đặc biệt là sức khỏe sinh sản
mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến kinh tế - xã hội.
Việc phát triển mạnh mẽ về khoa học công nghệ hiện
đại đã cho ra đời nhiều phương pháp hiện đại giúp
chẩn đoán nhanh và chính xác những bệnh lây qua
đường sinh dục. Nghiên cứu này được tiến hành theo
phương pháp mô tả cắt ngang, trên 300 người nam
giới nghi mắc nhiễm trùng sinh dục, tiết niệu được xét
nghiệm realtime PCR xác định 12 chủng khuẩn. Tỷ lệ
phát hiện có khuẩn đường sinh dục tiết niệu là 72,9%.
Vi khuẩn nhiễm phổ biến nhất là Gardnerella vaginalis
(45,7%). Tỷ lệ đơn nhiễm và đa nhiễm là tương
đương nhau (49% - 51%). G. vaginalis là căn nguyên
đơn nhiễm cũng là căn nguyên đồng nhiễm hay gặp
nhất. Bệnh nhân trong độ tuổi hoạt động tình dục (từ
20 - 29 tuổi) chiếm tỷ lệ lớn nhất trong nhóm nam giới
đến khám STD (42,7%) và cũng là nhóm có tỷ lệ
nhiễm khuẩn đường sinh dục - tiết niệu cao nhất
(43,9%).
Từ khóa:
Candida, nhiễm khuẩn, realtime PCR,
STD, tiết niệu sinh dục
SUMMARY
APPLICATION OF REALTIME-PCR FOR
DETECTION OF UROGENITAL INFECTIONS
Sexually transmitted diseases (STD) are a group of
diseases that are common disease. They are not only
affecting health, especially reproductive health but
also affecting the socio - economy. Grace of the
development of science and technology, now we have
many modern methods for quick and accurate
*Trường Đại học Y Hà Nội
Chịu trách nhiệm chính: Nguyễn Thị Trang
Email: trangnguyen@hmu.edu.vn
Ngày nhận bài: 2.3.2019
Ngày phản biện khoa học: 22.4.2019
Ngày duyệt bài: 26.4.2019
diagnosis STDs. A cross-sectional descriptive study,
300 men were consider genital infections. The
samples were tested by Realtime PCR for identifing 12
microorganism. As a result, the rate infected
microorganism is 72.9%. The most common infection
was Gardnerella vaginalis (45.7%). The rates of
mononucleosis and multiple infections were 49% and
51%. Gardnerella vaginalis is the most common cause
single infection and co-infection. Patients with age
from 20 to 29 is the biggest group of men who are
consider suffer from STD (42.7%) and also is the
biggest group infections STD (43.9%).
Keyword:
Candida, infections, Realtime -PCR,
STD, urogenital.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh lây truyền qua đường sinh dục (STD) là
một nhóm bệnh ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe
con người và gây ảnh hưởng rõ đến sức khỏe
sinh sản. Theo thống kê của Tổ chức Y tế thế
giới (WHO), hàng năm có ít nhất 1/10 người ở
độ tuổi hoạt động tình dục mắc một bệnh trong
nhóm STD. Ở Việt Nam, theo ước tính mỗi năm
có gần 1 triệu trường hợp mới mắc bệnh STD.
STD là nhóm bệnh lây truyền qua đường tình
dục của cả nam và nữ thông qua quan hệ tình
dục, bằng đường âm đạo, đường miệng hay hậu
môn. Nhóm bệnh này có triệu chứng lâm sàng
đa dạng và phương pháp điều trị cũng khác
nhau. Tuy nhiên phần lớn các bệnh STD không
biểu hiện triệu chứng do đó dễ trở thành bệnh
mạn tính, khó chữa, gây ra nhiều biến chứng
(Trần Hậu Khang, 2015). Nếu không được điều
trị kịp thời và triệt để bệnh STD sẽ để lại những
hậu quả nghiêm trọng đến sức khỏe con người,
đặc biệt là ở phụ nữ, nhất là phụ nữ trong quá
trình mang thai (WHO, 2016). Không chỉ ảnh
hưởng đến sức khỏe, tính mạng của người nhiễm
bệnh, bệnh STD còn gây nên những tổn hại về mặt