intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Urani - Nguyên tố phóng xạ

Chia sẻ: Nguyen Nhi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:5

207
lượt xem
44
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Năm 1789, nhà hóa học người Đức Claprot (M.Klaproth) phát hiện ra một nguyên tố mới và để nhớ hành tinh Thiên Vương (Uranus) vừa được nhà thiên văn học người Anh Hơcsen (Herchel) tìm ra năm 1781. Ông đã đặt tên cho nguyên tố mới là Urani. Nhưng thật ra thì ông đã nhầm vì ông mới điều chế được Uranidioxyt (UO2) chứ chưa phải kim loại Urani. Mãi tới năm 1842, nhà hóa học Pháp Peligo ( E.Peligo) mới thực hiện điều chế ra bột kim loại màu đen của Urani khi dùng kim loại kali để...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Urani - Nguyên tố phóng xạ

  1. Urani - Nguyên tố phóng xạ Năm 1789, nhà hóa học người Đức Claprot (M.Klaproth) phát hiện ra một nguyên tố mới và để nhớ hành tinh Thiên Vương (Uranus) vừa được nhà thiên văn học người Anh Hơcsen (Herchel) tìm ra năm 1781. Ông đã đặt tên cho nguyên tố mới là Urani. Nhưng thật ra thì ông đã nhầm vì ông mới điều chế được Uranidioxyt (UO2) chứ chưa phải kim loại Urani. Mãi tới năm 1842, nhà hóa học Pháp Peligo ( E.Peligo) mới thực hiện điều chế ra bột kim loại màu đen của Urani khi dùng kim loại kali để khử muối Cloura khan của Urani đã được đun nóng. Urani là nguyên tố nằm ở ô 92 trong bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học, có bề ngoài màu trắng bạc, tỷ trọng 18,5-19, xấp xỉ như vàng, bằng 80% của chì; tương đối mềm, dễ dàng tiến hành gia công cơ khí; trong không khí có thể bị oxy hóa chầm chậm chuyển thành màu đen. Điều khác biệt với các kim loại khác là có tính phóng xạ - có thể tự động phóng ra những tia xạ mắt thường không thể nhận ra, cho nên nó là kim loại hiếm có tính chất phóng xạ. Tính phóng xạ do Becoren (H.Bequerel) tìm ra khi nghiên cứu hiện tượng phát lân quang của hợp chất Urani. Urani thiên nhiên là do mấy loại đồng vị phóng xạ của Urani hợp thành như: 238U, 235U, 234U,…
  2. Một thời gian dài sau khi được phát hiện, Urani chưa được ứng dụng nhiều trong cuộc sống. Lịch sử khảo cổ cho biết, thời cổ La Mã hợp chất urani đã được dùng trong chế tạo thủy tinh màu. Ngoài ra, không có thêm một ứng dụng nào từ Urani nữa! Tới thế kỉ XIX, người ta bắt đầu nghiên cứu những tính chất và ứng dụng của Urani, xác định nó là chất nhuộm màu vàng rất đẹp cho thủy tinh và sành sứ. Năm 1896, sau khi Becoren phát hiện ra tính phóng xạ của Urani, rồi vào năm 1903, Marie Curi và chồng là Pierre Curi phát hiện ra Radi có tính phóng xạ còn mạnh hơn mấy trăm vạn lần của Urani. Điều này làm người ta hứng thú nghiên cứu tính phóng xạ của Urani, và theo đó phương hướng sản xuất các muối Urani ở các nhà máy đã chuyển sang sản xuất Urani và Radi cũng cùng chứa trong khoáng Urani; muối Urani chỉ được xem là sản phảm phụ. Vấn đề ở chỗ trong khoáng Urani, hàm lượng Radi chỉ không quá 1 phần 100 vạn. Phải dùng tới 800 tấn nước, 400 tấn khoáng vật, cùng hàng ngàn tấn hóa chất mới có thể tách ra được …1 gam hợp chất Radi! Vì vậy, nghiên cứu sử dụng Urani đã được chú ý hơn. Trải qua 37 năm, tới năm 1939, loài người đã có phát hiện trọng đại trong lịch sử khoa học: các nhà khoa học Đức Hari (O.Hahn) và Stratman (F.Strassmann) đã tìm ra sự phân hạch của Urani dưới tác dụng của những nơtron chậm. Một năm sau, các nhà vật lý Xô viết G.N. Flerop và K.A.Petrogiac dã chứng minh rằng hạt nhân của Urani có thể tự phân chia. Những phát minh đó đã mở đầu cho kỷ nguyên chinh phục năng lượng nguyên tử. Dùng phương pháp nhân tạo, oanh kích hạt nhân nguyên tử Urani sẽ xảy ra phản ứng phân rã liên tục mà phóng ra năng lượng cực lớn. Năng lượng đó gọi là năng lượng hạt nhân hoặc năng lượng nguyên tử. Từ năm 1942 việc sản xuất Urani tăng mạnh đặc biệt trong 20 – 30 năm gần đây...
  3. Năng lượng phóng ra từ phản ứng dây chuyền của sự phân rã hạt nhân nguyên tử so với năng lượng phóng ra từ các phản ứng hóa học thông th ường thì gấp hàng trăm vạn lần. Một gam hạt nhân Urani khi phát sinh phân hạch có thể tạo ra năng lượng 20000 kWh; 50 gam hạt nhân Urani khi phân hạch tỏa ra năng l ượng tương đương với nhiệt năng sản ra khi đốt cháy hơn 10 000 kilogam than đá! Năng lượng hạt nhân của 1kg Urani là đủ để máy bay bay với tốc độ 1300 Km/giờ, bay được 10 000 kilomet, tức là bay quanh Trái Đất được 2,5 vòng!
  4. Trong điều kiện thích hợp tốc độ phản ứng phân rã hạt nhân là cực kì nhanh. Nếu để phát triển tự nhiên, không có khống chế, chỉ trong vòng thời gian từ 1/100 000 đến 1/1 000 000 của giây là một mảnh urani có thể phân rã hết, tạo nên vụ nổ cực lớn – vụ nổ hạt nhân. Urani là “thuốc nổ” của bom nguyên tử, trong bom nguyên tử Urani được chia thành hai mảnh nhỏ hình bán cầu, đặt cách nhau một chút, lúc bình thường thì không có phản ứng gì. Khi cần cho bom nổ, dùng thuốc nổ thông thường dẫn lửa, làm cho mảnh Urani gồm hai mảnh bán cầu nhanh chóng khớp chặt vào nhau làm một, số nơtron đột ngột tăng lên, lập tức sản sinh phản ứng dây chuyền, chỉ trong vòng thời gian cực kì ngắn, quả bom nguyên tử sẽ tạo ra vụ nổ cực lớn giải phóng ra năng lượng khủng khiếp, nhiệt độ cao tới vài triệu độ và áp lực tới vài tỷ atôtphe. Nếu 1kg Urani phát sinh phản ứng phân r ã, phóng ra 79,4 ngàn tỷ nhiệt luợng tương đương với sức tàn phá của 18 000 tấn thuốc nổ cực mạnh TNT! Lợi dụng tính chất năng lượng hạt nhân, chính quyền Hoa Kỳ chế tạo ra 3 quả bom nguyên tử, trong đó 2 quả đã ném xuống hai hòn đảo Hirosima và Nagasaki của Nhật Bản, giết chết hàng trăm ngàn người dân… Nhưng vụ nổ hạt nhân có thể dùng để kiến thiết, như thuốc nổ thông thường dùng trong khai thác hầm mỏ, xây dựng đê điều, đường xá… 1 kg thuốc nổ hạt nhân có thể trong tích tắc, năng l ượng sản sinh ra tương đương với sức lực của 25000 lao động trong vòng một năm. Theo thống kê, năm 1954 là năm thế giới có trạm phát điện nguyên tử đầu tiên đưa và vận hành, cho tới cuối năm 2006, toàn thế giới đã có 34 nước với 560 trạm phát điện nguyên tử, tạo ra 5780 tỷ kWh chiếm ¼ tổng lượng điện toàn thế giới làm ra. Trong đó, nước Mỹ có số trạm phát điện lớn nhất: 201. Tỷ trọng về điện nguyên tử trong tổng số lượng điện phát ra ở Pháp là lớn nhất cứ mỗi 10 kWh điện có trong đó 7 kWh là điện phát từ trạm điện nguyên tử. Các nhà khoa học cho biết, phần đồng vị chủ yếu của Urani thi ên nhiên là 238U (còn đồng vị 235U trong tạo năng lượng nguyên tử rất ít) - chiếm tới 95%, rất cần
  5. cho sự phát triển bình thường của cây trồng. Nó làm tăng hàm lượng đường trong cây cà rốt, củ cải đường và một số cây ăn quả, bởi vì làm vi sinh vật trong đất được phát triển mạnh. Động vật cũng rất cần Urani. Người ta cho chuột ăn lượng nhỏ Urani trong vòng một năm, thấy không có hậu quả có hại mà chuột tăng khối lượng lên gấp đôi! Hóa ra, Urani giúp cơ thể sống đồng hóa dễ dàng photpho, nitơ, kali,…Dùng muối Urani có thể chữa được một số bệnh như bệnh đái đường, da liễu, các khối u…Nhiều hợp kim có chứa urani có những tính năng quý giá nh ư Thép – Urani chịu được nước cường toan, axít có tính oxi hóa mạnh…Urani còn là chất xúc tác trong các phản ứng hóa học như xúc tác UO2 (urani dioxit), UC(UraniCacbua)… Nhiên liệu hạt nhân có phải là nguồn năng lượng từ khoáng vật như than đá, dầu mỏ, khí thiên nhiên …dùng chẳng bao lâu thì cạn kiệt? Hiện nay nguồn nguyên liệu chủ chủ yếu cho sản xuất nguyên tử là Urani, ngoài ra còn có kim loại hiếm có tính phóng xạ khác như: Thoiri (Th), có lượng chứa trong vỏ Trái Đất ít hơn một chút so với Thiếc (Sn) còn nhiều hơn vonfram, Molipden… nhưng giá trị khai thác còn quá ít. Còn Urani trong vỏ Trái Đất, nó chỉ chiếm 2,5.10-4 % về khối lượng trong đó 238U chiếm 99,28%. Còn 235U là nguyên liệu của lò phản ứn hạt nhân, chỉ chiếm hàm lượng vô cùng nhỏ trong vỏ Trái Đất. Nhưng trong nước biển có tàng chứa mấy tỷ tấn Urani, tức là hơn rất nhiều so với lượng Urani khoáng vật trên lục địa. Nếu như có thể tách lấy Urani từ trong nước biển để chúng ta sử dụng thì năng lượng nguyên tử mà con người tạo ra sẽ tương đương với hàng vạn tỷ tấn than tiêu chuẩn, và theo định mức tiêu thụ trung bình về năng lượng hiện nay trên toàn thế giới, là đủ cho loài người sử dụng trong vài vạn năm nữa!
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2