
Soạn bài "Sa hành đoản ca"

I.Tìm hiểu chung
1.Tác giả.
- CBQ ( 1809? – 1855 ), tự Chu Thần, hiệu Cúc Đường, Mẫn Hiên, người làng Phú Thị,
huyện Gia Lâm, Bắc Ninh ( nay là Long Biên, Hà Nội.
- Là một nhà thơ có tài năng và bản lĩnh
- Thơ văn ông bộc lộ thái độ phê phán mạnh mẽ chế độ phong kiến trì trệ, bảo thủ và
chứa đựng tư tưởng khai sáng, có tính chất tự phát, phản ánh nhu cầu đổi mới của xã hội
VN giai đoạn giữa TK XIX.
Thuở thiếu thời, CBQ nổi tiếng là thần đồng, lúc nhỏ học với cha, lớn lên học với các bậc
danh nho đương thời. Tương truyền lúc mới trên mười tuổi, CBQ đã làm đủ các thể văn
và tỏ ra xuất sắc.

Năm 1831, CBQ đỗ cử nhân, nhưng mấy lần vào kinh thi Hội đều bị phạm trường quy
nên bị đành hỏng.
Năm 1841 ông vào làm việc ở bộ Lễ tại kinh đô Huế. Một lần ông giữ chức sơ khảo
trường thi Huế, thấy một bài văn hay nhưng bị phạm huý, nên lấy muội đèn chữa hộ, việc
bại lộ ông bị kết án xử chém, sau được xét lại, giam ba năm nhưng rồi được tạm tha, cho
đi công cán ở Inđônêxia, lấy công chuộc tội.
Năm 1847, ông làm việc ở viện hàn lâm, chuyên sưu tầm, xếp thơ văn cho vua đọc.
Năm 1853 – 1854 các tỉnh Sơn Tây, Bắc Ninh bị hạn hán , nhân dân đói khổ, lòng người
bất mãn với chính quyền phong kiến, ông tổ chức cuộc khởi nghĩa ngay trên đất Mĩ
Lương, cuộc khởi nghĩa kéo dài được mấy tháng thì bị triều đình dẹp tan.
CBQ hi sinh, triều đình Tự Đức ra lệnh tru di tam tộc bà con nội ngoại của ông, sách vở
của ông bị đốt huỷ.

2.Bài thơ
a.Hoàn cảnh sáng tác.
CBQ thi đỗ cử nhân năm 1831, tại trường thi Hà Nội. Để thi tiến sĩ, cần vào kinh đô Huế.
Do vậy, ông đã nhiều lần đi Huế để thi Hội (nhưng đã không đỗ tiến sĩ). Hành trình từ Hà
Nội vào Huế qua nhiều tỉnh miền trung như Quảng Bình, Quảng Trị là vùng có nhiều bãi
cát trắng mênh mông.
Ta thấy hình ảnh những cồn cát miền Trung đã sớm đi vào thơ ca.
Miền trung, nhất là Quảng Bình, Quảng Trị, là dãi đất hẹp, có thể bằng mắt thường nhìn
thấy một phía là dãy Trường Sơn, một phía là biển đông. Không nghi ngờ gì nữa, hình
ảnh bãi cát dài, sóng biển và núi là những hình ảnh có thực đã gợi ý cho tác giả sáng tác
bài thơ.
- Hình ảnh con đường “cùng đồ” trong bài thơ có nghĩa bế tắc đường đời của một trí
thức.Con đường trí thức của nho sĩ thuở xưa không có gì khác hơn là học, thi, làm quan.
Một sự kiện nổi bật cho thấy, CBQ bất bình với học thuật, khoa cử nhà Nguyễn.

- Một phương diện nữa cũng cần chú ý là người VN nói chung và CBQ nói riêng ở giữa
TK XIX đã tiếp xúc với văn hoá phương Tây. Họ không thể không suy nghĩ và so sánh
về cái học của phương Đông và Tây.
b.Thể loại: Thể ca hành
Bài thơ theo cổ thể có phần tự do về kết cấu, vần, nhịp điệu. Bài thơ có tình cảm phóng
túng, lời dài mà đa dạng, không bị gò bó thì gọi là ca; nhịp điệu nhanh, gấp khẩn trương,
lưu loát mà không bị ngưng trệ thì gọi là hành, bài nào kiêm cả hai đặc điểm thì gọi là ca
hành.
II. Phân tích
1. Thời đại
- Thời đại Cao Bá Quát sống là xã hội không còn minh quân, xã hội chỉ sản sinh ra
phường danh lợi an phận, ngủ quên trong vinh hoa phú quý.