Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh 53<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Determination of Riemerella anatipestifer and Escherichia coli suspected to cause a<br />
syndrome including shaking head and trembling, greenish diarrhea on duck farms<br />
in Long An<br />
<br />
<br />
Hien T. Le1∗ , Quan N. Kha1 , Khuong M. Chu1 , Cuong V. Nguyen2 ,<br />
Ngoc H. Le1 , & Hoa T. K. Ho1<br />
1<br />
Faculty of Animal Science and Veterinary Medicine, Nong Lam University, Ho Chi Minh City, Vietnam<br />
2<br />
Long An Provincial Department of Animal Husbandry and Veterinary Medicine, Long An, Vietnam<br />
<br />
<br />
<br />
ARTICLE INFO ABSTRACT<br />
<br />
Research Paper In Long An province and other places, ducks at 3-8 weeks of age<br />
often experience a syndrome including greenish diarrhea, eye and<br />
Received: August 16, 2017 nose discharge, shaking head and trembling which is considered to<br />
Revised: October 24, 2017 be related to Riemerella anatipestifer and Escherichia coli. There is<br />
Accepted: November 10, 2017 not any research to prove this hypothesis. For that reason, this study<br />
was as the first step to explore the causes of this syndrome. In to-<br />
Keywords tal, 70 swab samples from disease and nondisease ducks and 27 pool<br />
water from 27 duck farms were collected to identify R. anatipestifer<br />
and E. coli using PCR. There were 2 PCR (16S rDNA-PCR and<br />
Diarrhea<br />
gyrB -PCR) used to detect R. anatipestifer while one PCR for gene<br />
Riemerella anatipestifer phoA was used to detect E. coli The result showed that R. anatipes-<br />
Shaking head tifer was found on both disease and non-disease ducks. However, the<br />
Trembling 2 PCRs to detect R. anatipestifer did not agree well. The fact that<br />
these bacteria were found on 22% farms (disease and non-disease<br />
ones) means it is complicated to confirm them in causing the men-<br />
∗<br />
Corresponding author tioned disease. In addition, E. coli was also found in both types of<br />
duck and from all pool water. These isolates were kept for further<br />
Le Thanh Hien studies to identify their virulence. The result reveals that there may<br />
Email: hien.lethanh@hcmuaf.edu.vn be the cooperation between many factors in causing this disease.<br />
Cited as: Le, H. T., Kha, Q. N., Chu, K. M., Nguyen, C. V., Le, N. H., & Ho, H. T. K. (2018).<br />
Determination of Riemerella anatipestifer and Escherichia coli suspected to cause a syndrome<br />
including shaking head and trembling, greenish diarrhea on duck farms in Long An. The Journal<br />
of Agriculture and Development 17(5), 53-59.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
www.jad.hcmuaf.edu.vn Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển 17(5)<br />
54 Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Xác định Riemerella anatipestifer và Escherichia coli nghi ngờ gây hội chứng co giật<br />
và tiêu chảy trên vịt ở các cơ sở chăn nuôi ở Long An<br />
<br />
<br />
Lê Thanh Hiền1∗ , Kha Ngọc Quân1 , Chu Minh Khương1 , Nguyễn Văn Cường2 ,<br />
Lê Hữu Ngọc1 & Hồ Thị Kim Hoa1<br />
1<br />
Khoa Chăn Nuôi Thú Y, Trường Đại Học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh<br />
2<br />
Chi Cục Chăn Nuôi Thú Y Long An, Long An<br />
<br />
<br />
<br />
THÔNG TIN BÀI BÁO TÓM TẮT<br />
Bài báo khoa học Tại Long An và nhiều địa phương, vịt khoảng 3 đến 8 tuần tuổi<br />
thường mắc bệnh có biểu hiện tiêu chảy có hoặc không có màu<br />
Ngày nhận: 16/08/2017 xanh lá, chảy nước mắt và nước mũi, run đầu và cổ được cho là<br />
Ngày chỉnh sửa: 24/10/2017 liên quan đến Riemerella anatipestifer và Escherichia coli. Nghiên<br />
Ngày chấp nhận: 10/11/2017 cứu này được thực hiện như bước đầu tiên để tìm hiểu về nguyên<br />
nhân vi khuẩn có thể liên quan các triệu chứng bệnh kể trên.<br />
Các mẫu ngoáy hầu họng vịt khỏe và vịt có biểu hiện bệnh (70<br />
Từ khóa mẫu) và 27 mẫu nước ao từ 27 trại vịt được thu thập để tìm vi<br />
khuẩn R. anatipestifer và E. coli bằng PCR. Hai quy trình PCR,<br />
16S rDNA-PCR và gyrB -PCR, được dùng tìm R. anatipestifer, và<br />
Co giật<br />
PCR gene phoA dùng cho E. coli. Kết quả là R. anatipestifer đã<br />
Riemerella anatipestifer<br />
được phát hiện trên cả vịt có và không có biểu hiện bệnh, và trong<br />
Tiêu chảy một số mẫu nước ao. Tuy nhiên, hai phản ứng PCR xác định R.<br />
Vịt anatipestifer cho kết quả khác nhau. Bên cạnh đó E.coli cũng phát<br />
hiện trên mẫu bệnh lẫn không bệnh và tất cả các nước ao. Các<br />
chủng này được lưu lại cho các bước tiếp theo trong việc xác định<br />
∗<br />
Tác giả liên hệ độc lực. Kết quả cho thấy tình trạng nhiễm trùng trên đàn vịt<br />
phức tạp, có vẻ còn có sự bội nhiễm nhiều vi khuẩn khác trên vịt,<br />
Lê Thanh Hiền và chưa xác định được nguyên nhân nguyên phát.<br />
Email: hien.lethanh@hcmuaf.edu.vn<br />
<br />
<br />
<br />
1. Đặt Vấn Đề trong số có biểu hiện rõ là 80 – 100%; vịt không<br />
chết bị di chứng (còi, giảm năng suất thịt/trứng);<br />
Tại đồng bằng sông Cửu Long, nuôi vịt trên phòng/ trị kháng sinh không hiệu quả. Cho đến<br />
trên cạn kết hợp ao là phương thức chăn nuôi nay, nghiên cứu về nguyên nhân gây bệnh này<br />
phổ biến ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. tại Long An vẫn còn hạn chế. Với các triệu chứng<br />
Điều này dẫn đến khó khăn trong việc kiểm soát hay biểu hiện nói trên, nhiễm trùng do Duck cir-<br />
dịch bệnh. Trong nhiều năm gần đây, đàn vịt ở covirus, R. anatipestifer và E. coli được nghi vấn<br />
các trại tại Long An và các tỉnh đồng bằng sông trước tiên (Bui & ctv., 2016). Tuy nhiên, với đặc<br />
Cửu Long thường bị bệnh với các biểu hiện tiêu tính chăn nuôi vịt ở ao hồ như ở đồng bằng sông<br />
chảy có hoặc không có màu xanh lá, chảy nước Cửu Long, không loại trừ có sự nhiễm trùng ghép<br />
mắt và nước mũi, run đầu và cổ. Trong nhiều của các vi sinh vật gây bệnh trên các hệ cơ quan<br />
trường hợp, vịt bệnh có biểu hiện triệu chứng khác nhau. Mục tiêu của nghiên cứu là kiểm tra<br />
thần kinh, dễ lật ngửa, 2 chân đạp mái chèo. Một sự hiện diện của R. anatipestifer và E. coli trong<br />
số đặc điểm về bệnh có thể kể đến gồm: bệnh thể mẫu ngoáy hầu họng và nước ao ở các trại vịt có<br />
hiện trên cả vả vịt thịt và vịt đẻ; thời điểm biểu hay không có bệnh ở Long An bằng kỹ thuật PCR<br />
hiện khoảng 35-50 ngày (5-8 tuần) tuổi và hậu bị để xem chúng có thể hiện diện trên các trường hợp<br />
(qua thời điểm này, rất ít biểu hiện bệnh); gần biểu hiện hội chứng co giật và tiêu chảy (trong<br />
như 100% đàn vịt có bệnh; khoảng 20% số vịt đó co giật bao gồm đầu – cổ, chân, hay có thể lật<br />
trong đàn có các triệu chứng kể trên; tỉ lệ chết ngửa chân đạp mái chèo; tiêu chảy có thể có phân<br />
<br />
<br />
Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển 17(5) www.jad.hcmuaf.edu.vn<br />
Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh 55<br />
<br />
<br />
<br />
xanh) ở các cơ sở chăn nuôi vịt tại Long An. trình PCR trên gene alkaline phosphate (phoA)<br />
đặc hiệu cho E. coli được thực hiện đối với các<br />
2. Vật Liệu và Phương Pháp Nghiên Cứu các mẫu canh tăng sinh của các mẫu ngoáy hầu<br />
họng và nước ao.<br />
2.1. Mẫu và phương pháp thu thập mẫu Trình tự nucleotide của các mồi PCR được<br />
trình bày trong Bảng 1. GoTaq@Green Master<br />
Các mẫu được thu thập từ 27 trại nuôi vịt gia Mix (Promega, M1123) được sử dụng cho tất<br />
đình ở ba huyện: Cần Đước, Cần Giuộc, Tân Trụ cả các phản ứng PCR. Chu trình nhiệt của ba<br />
- tại tỉnh Long An (Tân Trụ - 6 trại; Cần Giuộc PCR như sau: tiền biến tính 940 C/5 phút; 35<br />
– 11 trại; Cần Đước - 10 trại). Tại thời điểm lấy chu kỳ gồm biến tính ở 940 C/1 phút, bắt cặp ở<br />
mẫu, vịt ở những trại đó có độ tuổi từ khoảng 3 550 C/1phút, và kéo dài ở 720 C/60 giây; và kéo<br />
đến 8 tuần tuổi. Đàn vịt lúc đó có thể có hoặc dài cuối cùng ở 720 C/10 phút. Điện di các sản<br />
không có biểu hiện lâm sàng của bệnh. Tại mỗi phẩm PCR bằng gel agarose 0,8% có chứa ethid-<br />
trại, 2 hay 3 mẫu tăm-bông ngoáy dịch hầu họng ium bromide, và kiểm tra DNA trên gel dưới đèn<br />
được lấy từ các vịt có hay không có biểu hiện UV.<br />
bệnh. Mẫu tăm bông được bảo quản trong ống<br />
nghiệm chứa 2 mL Tryptone soya broth (TSB; 2.3. Xử lý số liệu<br />
Himedia, M011-500G). Một mẫu nước ao vịt ở<br />
mỗi trại cũng được thu thập. Mẫu nước được chứa Kết quả tỉ lệ dương tính trên các nhóm mẫu<br />
trong bình 500 mL sạch. Tất cả các mẫu được bảo cho từng vi khuẩn được tính. Chỉ số chênh OR<br />
quản trong thùng đá duy trì nhiệt độ 2-80 C và vận được đánh giá mối liên hệ giữa bệnh và sự hiện<br />
chuyển về phòng thí nghiệm để xét nghiệm trong diện của vi khuẩn. Đối với hai phương pháp PCR<br />
vòng < 5 giờ. Tổng cộng có 70 mẫu dịch ngoáy dùng để xác định R. anatipestifer, chỉ số kappa<br />
hầu họng (54 mẫu từ vịt khỏe mạnh và 16 mẫu được dùng để đánh giá mức tương đồng của hai<br />
từ vịt có các dấu hiệu bệnh), và 27 mẫu nước ao xét nghiệm về mặt thống kê (Trần Thị Dân và<br />
được thu thập. Ngay khi được vận chuyển đến Lê Thanh Hiền, 2007) bằng phần mềm MS Excel<br />
phòng thí nghiệm, 1 mL mẫu nước ao được cho 2013.<br />
vào ống nghiệm chứa 5 mL canh TSB. Các ống<br />
canh chứa tăm bông ngoáy hầu họng và nước ao 3. Kết Quả và Thảo Luận<br />
được ủ trong vòng 48 giờ ở 370 C trong bình đèn<br />
cầy (candle jar). Mẫu đã tăng sinh được ly trích 3.1. Sự thống nhất kết quả phát hiện R.<br />
DNA để dùng cho các phản ứng PCR. anatipestifer của hai quy trình PCR<br />
<br />
2.2. Kiểm tra sự lưu hành R. anatipestifer và Trong 27 trại khảo sát, 8 trại có 20% vịt có<br />
E.coli trong trại bằng các quy trình PCR các biểu hiện bệnh và 19 trại vịt bình thường.<br />
Tổng cộng mẫu bao gồm: 27 mẫu nước hồ được<br />
Việc phân lập và định danh vi khuẩn R. thu thập (mỗi trại một mẫu); 70 mẫu ngoáy hầu<br />
anatipestifer theo các phương pháp truyền thống họng, trong đó 16 mẫu được lấy từ vịt có các biểu<br />
được nhận định là khá khó khăn (Kardos & ctv., hiện của bệnh và 54 mẫu được lấy từ vịt khỏe<br />
2007), đồng thời hiện nay chưa có một quy trình mạnh. Kết quả xét nghiệm các mẫu này bằng hai<br />
PCR chẩn đoán R. anatipestifer được công bố quy trình PCR phát hiện R. anatipestifer không<br />
nào có tính đặc hiệu cao (Christensen, 2013). Với giống nhau (Bảng 2). Phương pháp gyrB -PCR<br />
mong muốn xác định sự hiện diện của vi khuẩn cho kết quả dương tính với 24 mẫu ngoáy hầu<br />
này trong các đàn vịt nuôi ở Long An, ngoài cố họng (8 mẫu từ vịt bệnh và 16 mẫu từ vịt khỏe),<br />
gắng phân lập vi khuẩn từ vịt bệnh, hai quy trình và một mẫu nước ao. Trong khi đó, 16S rDNA-<br />
PCR khác nhau được sử dụng để phát hiện R. PCR cho kết quả 18 mẫu dương tính (5 mẫu từ<br />
anatipestifer trong các mẫu canh tăng sinh của vịt bệnh, 10 mẫu từ vịt khỏe) và 3 mẫu nước ao.<br />
các mẫu ngoáy hầu họng và nước ao tại các trại Chỉ có 9 mẫu ngoáy hầu họng cùng dương tính<br />
vịt. Một quy trình PCR có mục tiêu là gene gyrB với cả hai PCR. Chỉ số kappa = 0,275 (95% độ<br />
(Wang & ctv., 2012), và một quy trình PCR gene tin cậy từ 0,055 đến 0,494), mức tương đồng dạng<br />
16S rDNA do Qu & ctv. thiết kế và được sử dụng “vừa”.<br />
bởi Wei & ctv. (2013). Ngoài ra, để khảo sát<br />
Chẩn đoán R. anatipestifer khá khó khăn vì<br />
khả năng hiện diện E. coli ở các trại, một quy<br />
dựa vào triệu chứng lâm sàng có thể nhầm lẫn<br />
<br />
<br />
www.jad.hcmuaf.edu.vn Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển 17(5)<br />
Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
www.jad.hcmuaf.edu.vn<br />
Bảng 2. So sánh kết quả hai phản ứng PCR để phát hiện R. anatipestifer<br />
Mẫu ngoáy hầu họng Mẫu nước hồ của trại<br />
Mẫu Tổng<br />
Vịt có dấu hiệu Vịt không có dấu hiệu Trại có dấu hiệu Trại không có dấu hiệu<br />
lâm sàng lâm sàng lâm sàng lâm sàng<br />
Tổng 16 54 70 8 19<br />
Dương tính 8 16 24 0 1<br />
(GyrB -PCR) (50,0%) (29,6%) (34,3%) (0%) (5,2%)<br />
Dương tính 5 10 15 3 0<br />
(16S rDNA-PCR) (31,3%) (18,5%) (21,4%) (37,5%) (0%)<br />
Bảng 1. PCR và các đoạn mồi dùng xác định sự hiện diện của R. anatipestifer và E. coli trong nghiên cứu này1<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển 17(5)<br />
PCR và gene mục tiêu Mồi Trình tự của mồi (50 - 30 ) Kích thước sản phẩm (bp)<br />
gyrBP1 AGAGCGAGAAGAAAAAACCT 194<br />
R. anatipestifer, gene gyrB<br />
gyrBP2 CTCCCATAAGCATAGAGAAGA<br />
190F GTATTGAAAGCTCTGGCGG 654<br />
R. anatipestifer, gene 16S rDNA<br />
843R TCGCTTAGTCTCTGAACCC<br />
Pho-F GTGACAAAAGCCCGGACACCAGAAATGCCT 903<br />
E. coli gene phoA<br />
Pho-R TACACTGTCATTACGTTGCGGATTTGGCGT<br />
1<br />
M = C:A, Y = C:T; all 1:1<br />
56<br />
Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh 57<br />
<br />
<br />
<br />
với các bệnh khác có các bệnh tích tương tự, ví Nếu coi như một trong hai PCR dương tính một<br />
dụ như colibacillosis, salmonellosis, và chlamydio- mẫu thì trại có sự hiện diện của R. anatipestifer<br />
sis (Christensen, 2013; Glisson & ctv., 2013). Sự thì chỉ số OR = 2,18 (0,28 - 26,89), điều này cho<br />
phát triển chậm của R. anatipestifer và/hoặc sự thấy hiện diện vi khuẩn R. anatipestifer có liên<br />
đồng nhiễm với các vi khuẩn khác ở thủy cầm có quan đến bệnh nhưng không có ý nghĩa thống kê<br />
thể là nguyên nhân làm phân lập R. anatipestifer (P = 0,349).<br />
bị thất bại. Bên cạnh đó, xác định các đặc điểm Vi khuẩn R. anatipestifer cũng được tìm thấy<br />
kiểu hình của R. anatipestifer thường cho kết quả trong mẫu nước ao. Vi khuẩn được phát hiện<br />
trái nhau (Christensen & Bisgaard, 2010), do đó trong một mẫu nước với gyrB -PCR và trong 3<br />
phương pháp phân lập, định danh không được ưu mẫu với 16S rDNA-PCR. Điều này cho thấy rằng<br />
tiên. Vì vậy, nhiều nhà khoa học đã phát triển các nước hồ là môi trường quan trọng trong việc lây<br />
quy trình PCR trên những gene mục tiêu khác lan R. anatipestifer và các mầm bệnh khác giữa<br />
nhau nhằm phát hiện vi khuẩn này. Tuy nhiên, các thủy cầm trong đàn và các đàn khác trong<br />
các kết quả dương tính giả của nhiều quy trình khu vực xung quanh.<br />
đã được đề cập (Christensen & Bisgaard, 2010;<br />
Tỉ lệ phát hiện R. anatipestifer ở vịt tại ba<br />
Wang & ctv., 2012; Rubbenstroth & ctv., 2013).<br />
huyện khảo sát được trình bày trong Bảng 4. Tại<br />
Hơn thế nữa, PCR đi kèm với enzyme cắt giới<br />
6 trại ở Tân Trụ, không phát hiện vi khuẩn từ các<br />
hạn để xác định tính đặc hiệu hơn cho vi khuẩn<br />
mẫu ngoáy họng, nhưng có một mẫu nước dương<br />
cũng dường như không khả quan (Rubbenstroth<br />
& ctv., 2013). tính với gyrB -PCR. Ở hai huyện Cần Giuộc và<br />
Cần Đước, vi khuẩn được tìm thấy từ vịt và nước<br />
Do đó, với mong muốn có được kết quả có mức<br />
ao. Ba huyện này đều nằm ở vùng thấp và tập<br />
tin cậy cao trong việc xác định hiện diện của R.<br />
trung nhiều vịt. Năm 2015, số lượng trại nuôi vịt<br />
anatipestifer trong các trại, 2 quy trình PCR với<br />
ở Tân Trụ, Cần Giuộc, Cần Đước theo thứ tự là<br />
các gene mục tiêu được sử dụng. Kết quả cho<br />
259, 128 và 217 trại, với số lượng vịt là 473.128;<br />
thấy tỉ lệ phát hiện R. anatipestifer của gyrB -<br />
119.222 và 11.4871 vịt (Chi cục thú y tỉnh Long<br />
PCR cao hơn 16S rDNA-PCR. Tuy nhiên, ở giai<br />
An, 2015, số liệu thu thập qua giao tiếp cá nhân).<br />
đoạn nghiên cứu, chưa thể so sánh mức độ tin<br />
cậy của mỗi phản ứng về sự hiện diện của R. 3.2. Phát hiện E. coli trong mẫu ngoáy hầu<br />
anatipestifer trong các trại vịt. Mặc dù vậy, có 9 họng và nước ao<br />
mẫu ngoáy hầu họng cho kết quả dương tính với<br />
cả hai PCR, điều này xác nhận có sự lưu hành Colibacillosis gây ra bởi E. coli là bệnh được<br />
của vi khuẩn trong các trại vịt. báo cáo phổ biến nhất gây ra thiệt hại kinh tế<br />
Để tiện hơn cho việc đánh giá và thảo luận, kết nghiêm trọng trong sản xuất gia cầm (Nolan &<br />
quả của các trại dương tính với R. anatipestifer ctv., 2013). Để kiểm tra sự hiện diện của E. coli,<br />
được trình bày trong Bảng 3 theo hai cách: trại canh tăng sinh của các mẫu ngoáy họng vịt và<br />
được xem là dương tính với R. anatipestifer khi nước ao được phân tích bằng quy trình PCR trên<br />
có ít nhất một mẫu (mẫu ngoáy hầu họng hoặc gene mã hóa cho alkaline phosphate ở E. coli (Wei<br />
mẫu nước) dương tính với một trong hai PCR, & ctv., 2013). Một sản phẩm PCR được giải trình<br />
hoặc dương tính với cả hai PCR. tự nucleotide và xác nhận tính đặc hiệu bằng<br />
Trại nhiễm R. anatipestifer được phát hiện BLAST. E. coli được phát hiện từ 64 trong số<br />
bằng gyrB -PCR (51,9%) cao hơn 16S rDNA- 70 mẫu ngoáy hầu họng (91,4%). Vi khuẩn được<br />
PCR (37%) (Bảng 3). Kết quả này tương tự với phát hiện từ tất cả 27 mẫu nước ao. Do kinh<br />
kết quả trình bày trong Bảng 2, tỉ lệ gyrB -PCR phí giới hạn, nghiên cứu dừng lại ở giai đoạn tìm<br />
phát hiện vi khuẩn từ mẫu ngoáy họng là 34,3% hiểu sự hiện diện của E. coli trên niêm mạc hầu<br />
(24 trong 70 mẫu) trong khi của 16S rDNA-PCR họng và trong nước ao. Tuy nhiên, các mẫu canh<br />
phát hiện vi khuẩn từ 21,4% mẫu (15 trong 70 tăng sinh và gốc vi khuẩn phân lập trên EMB<br />
0<br />
mẫu). Nếu kết hợp kết quả của hai PCR, vi khuẩn được giữ lại (trong glycerin, ở -20 C) để sau này<br />
được tìm thấy ở 6 trong số 27 trại (22,2%), trong có thể nghiên cứu các dạng độc lực và xác định<br />
đó có 2 (trong số 8) trại có vịt biểu hiện các triệu chủng.<br />
chứng bệnh và 4 trong số 19 trại không có biểu<br />
hiện bệnh. Kết quả xác định có sự lưu hành của vi<br />
khuẩn trong đàn vịt không thấy biểu hiện bệnh.<br />
<br />
<br />
www.jad.hcmuaf.edu.vn Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển 17(5)<br />
Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
www.jad.hcmuaf.edu.vn<br />
Bảng 4. Tỉ lệ phát hiện R. anatipestifer tại 3 huyện bằng các quy trình PCR<br />
Mẫu ngoáy hầu họng (70) Số trại (27) Mẫu nước ao của trại (27)<br />
Huyện (số trại)<br />
Dương tính Dương tính Dương tính Dương tính Số mẫu<br />
Số mẫu với một PCR với cả hai PCR Số trại với một PCR với cả hai PCR dương tính<br />
1 1 (gyrB -PCR)<br />
Tân Trụ (6) 12 0 0 6 (16,6%) 0 (16,7%)<br />
15 2 9 2 0<br />
Cần Giuộc (11) 26 (57,7%) (7.7%) 11 (81,8%) (18.2%)<br />
14 7 7 4 3 (16S rDNA-PCR)<br />
Cần Đước (10) 32 (43,8%) (21.8%) 10 (70,0%) (40%) (30,0%)<br />
Bảng 3. Phát hiện R. anatipestifer tại 27 trại vịt ở Long An bằng các quy trình PCR<br />
Số trại Nước ao của trại<br />
Tổng<br />
Có vịt Không có vịt Có vịt Không có vịt<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển 17(5)<br />
biểu hiện bệnh biểu hiện bệnh biểu hiện bệnh biểu hiện bệnh<br />
Số trại 8 19 8 19 27<br />
4 10 0 1 14<br />
Có mẫu dương tính với gyrB -PCR (50%) (52,6%) (5,3%) (51,9%)<br />
4 6 3 0 10<br />
Có mẫu dương tính với 16S rDNA-PCR (50%) (31.6%) (37.5%) (37,0%)<br />
6 11 3 1 17<br />
Có mẫu dương tính với một PCR (75%) (57,9%) (37,5%) (5,3%) (63,0%)<br />
2 4 0 0 6<br />
Có ít nhất một mẫu dương tính với cả hai RA PCRs (25%) (21,1%) (22,2%)<br />
58<br />
Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh 59<br />
<br />
<br />
<br />
4. Kết Luận Glisson, J. R., Charles, L. H., & Jens, P. C. (2013). Fowl<br />
Cholera. In Swayne, D. E., Glisson, J. R., McDougald,<br />
L. R., Nolan, L. K., Suarez, D. L., & Nair, V. L. (Eds).<br />
Nghiên cứu này là bước đầu trong nổ lực tìm Diseases of Poultry (13rd ed., 807-823). New Jersey,<br />
ra nguyên nhân gây bệnh phổ biến trên vịt ở các USA: Wiley-Blackwell.<br />
trại với đặc điểm co giật kết hợp tiêu chảy. Vi<br />
Kardos, G., Nagy, J., Antal, M., Bistyák, A., Tenk, M.,<br />
khuẩn R. anatipestifer được phát hiện đang lưu<br />
& Kiss, I. (2007). Development of a novel PCR assay<br />
hành trong các đàn vịt bệnh nhiều hơn. Có thể specific for Riemerella anatipestifer. Letters in Applied<br />
do khó khăn trong chẩn đoán, cũng như số lượng Microbiology 44(2), 145-148.<br />
mẫu hạn chế, chưa thấy rõ mối liên quan của vi<br />
Nolan, L. K., John, H. B., Jean-Pierre, V., Tahseen, A.,<br />
khuẩn này với bệnh. Ngoài ra, với cách nuôi vịt & Catherine, M. L. (2013). Colibacillosis. In Swayne,<br />
hiện nay ở các trại, việc kiểm soát vệ sinh và an D. E., Glisson, J. R., McDougald, L. R., Nolan, L.<br />
toàn sinh học trong môi trường chăn nuôi đặc K., Suarez, D. L., & Nair, V. L. (Eds). Diseases of<br />
Poultry (13nd ed., 751-805). New Jersey, USA: Wiley-<br />
biệt là ao nuôi là rất khó khăn. Từ đó, khả năng<br />
Blackwell.<br />
bội nhiễm các mầm bệnh khác nhau trong đàn<br />
vịt là điều khó tránh khỏi, làm khó khăn trong Rubbenstroth, D., Ryll, M., Knobloch, J. K. M., Kohler,<br />
việc xác định nguyên nhân nhiễm trùng là nguyên B., & Rautenschlein, S. (2013). Evaluation of different<br />
diagnostic tools for the detection and identification of<br />
phát hay thứ phát. Riemerella anatipestifer. Avian Pathology 42(1), 17-<br />
26.<br />
Tài Liệu Tham Khảo (References)<br />
Wang, X. P., Zhu, D. K., Wang, M. S., Cheng, A. C.,<br />
Jia, R. Y., Chen, S., Chen, X. Y., & Tang, T. (2012).<br />
Bui, D. H., Do, D. T., Nguyen, T. T., Nguyen, N. T. T., Development and application of specific polymerase<br />
Le, H. T., & Nguyen, N. T. P. (2016). Determination chain reaction assay targeting the gyrB gene for rapid<br />
of duck circovirus (DuCV) and Riemerella anatipes- detection of Riemerella anatipestifer. Poultry Science<br />
tifer (RA) in several cases of septicemia disease from 91(10), 2450-2453.<br />
duck flocks by PCR technique. Journal of Veterinary<br />
Science and Technology 6, 14-21. Wei, B., Cha, S. Y., Kang, M., Park, I. J., Moon, O. K.,<br />
Park, C. K., & Jang, H. K. (2013). Development and<br />
Christensen, H., & Bisgaard, M. (2010). Phylogenetic re- application of a multiplex PCR assay for rapid detec-<br />
lationships of Riemerella anatipestifer serovars and re- tion of 4 major bacterial pathogens in ducks. Poultry<br />
lated taxa and an evaluation of specific PCR tests re- Science 92(5), 1164-1170.<br />
ported for R. anatipestifer. Journal of Applied Micro-<br />
biology 108(5), 1612-1089.<br />
<br />
Christensen, J. P. (2013). Overview of Riemerella<br />
anatipestifer infection in poultry. Veteri-<br />
nary manual. Retrieved July 12, 2013, from<br />
https://www.msdvetmanual.com/poultry/riemerella-<br />
anatipestifer-infection/overview-of-riemerella-<br />
anatipestifer-infection-in-poultry.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
www.jad.hcmuaf.edu.vn Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển 17(5)<br />