BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… ……/…… HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN THỊ THANH THÚY

XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI TỈNH QUẢNG BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2021

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… ……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN THỊ THANH THÚY

XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI TỈNH QUẢNG BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính

Mã số: 8 38 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. NGUYỄN QUANG THÁI

THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2021

LỜI CAM ĐOAN

Tôi tên Nguyễn Thị Thanh Thúy, tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ

chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính là công trình nghiên cứu

khoa học độc lập, do tôi thực hiện. Các số liệu, kết quả được nêu trong luận

văn có nguồn gốc rõ ràng, xác thực và luận văn này chưa được ai công bố

trong bất kỳ một công trình nghiên cứu nào khác. Tôi hoàn toàn chịu trách

nhiệm về lời cam đoan của mình.

Thừa Thiên Huế, ngày tháng năm 2021

Học viên

Nguyễn Thị Thanh Thúy

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành chương trình đào tạo thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật

Hành chính tại Học viện Hành chính Quốc gia, bên cạnh sự nổ lực của

bản thân, tôi đã nhận được sự động viên, hướng dẫn, giảng dạy và nhiều

ý kiến đóng góp quý báu của các thầy giáo, cô giáo Khoa sau đại học –

Học viện Hành chính Quốc gia cũng như gia đình, bạn bè trong suốt quá

trình học tập nghiên cứu và hoàn thành luận văn.

Tôi chân thành cảm ơn các anh, chị lãnh đạo, đồng nghiệp tại các cơ

quan Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình đã tạo điều kiện thuận lợi cho

tôi hoàn thành khóa học.Đặc biệt, tôi vô cùng biết ơn TS. Nguyễn Quang

Thái đã giành nhiều thời gian hướng dẫn nhiệt tình trong suốt quá trình

nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.

Xin chân thành cảm ơn và mong nhận được sự đóng góp ý kiến của

quý thầy cô giáo và bạn bè để luận văn này hoàn thiện hơn.

Trân trọng cảm ơn

Học viên

Nguyễn Thị Thanh Thúy

MỤC LỤC

Trang bìa

Lời cam đoan

Lời cảm ơn

Mục lục

Danh mục viết tắt

Danh mục các bảng biểu

MỞ ĐẦU .......................................................................................... 1

CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH

CHÍNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ..... 10

1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của xử phạt vi phạm hành chính trong

lĩnh vực thi hành án dân sự ....................................................................... 10

1.1.1. Khái niệm ................................................................................................... 10

1.1.2. Đặc điểm của xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành

án dân sự ......................................................................................... 14

1.1.3. Vai trò của xử phạt vi phạm hành chính trong lịnh vực thi hành án

dân sự ............................................................................................. 16

1.1.4. Cơ sở pháp lý về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi

hành án dân sự ................................................................................. 18

1.2. Nội dung pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh

vực thi hành án dân sự ................................................................... 19

1.2.1. Đối tượng và nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi

hành án dân sự ..................................................................................................... 19

1.2.2. Thẩm quyền, mức xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án

dân sự ................................................................................................................... 23

1.2.3. Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính trongthi hành án dân sự .................. 26

1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc xử phạt vi phạm hành chính trong

lĩnh vực thi hành án dân sự ....................................................................... 34

1.3.1.Yếu tố pháp luật .......................................................................................... 34

1.3.2.Yếu tố chính trị ............................................................................................ 35

1.3.3. Yếu tố con người ........................................................................................ 36

1.3.4. Điều kiện phương tiện để thực thi nhiệm vụ .............................................. 37

Tiểu kết chương 1 ........................................................................................ 38

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH

TRONG LĨNH VỰC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI TỈNH QUẢNG

BÌNH ........................................................................................................... 39

2.1. Tình hình tổ chức, hoạt động của các cơ quan thi hành án dân sự

tỉnh Quảng Bình ......................................................................................... 39

2.1.1. Khái quát chung về tổ chức, hoạt động của các cơ quan thi hành án dân

sự tỉnh Quảng Bình .............................................................................................. 39

2.1.2 Thực trạng tổ chức, hoạt động của các cơ quan thi hành án dân sự tỉnh

Quảng Bình có liên quan trực tiếp đến xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh

vực thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh ............................................................. 41

2.2. Kết quả đạt được trong hoạt động xử phạt vi phạm hành chính trong

lĩnh vực thi hành án dân sự tại tỉnh Quảng Bình .................................... 43

2.2.1. Kết quả xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự tại

tỉnh Quảng Bình ................................................................................................... 43

2.2.2. Kết quả thực hiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực

thi hành án dân sự ................................................................................................ 54

2.3. Hạn chế và nguyên nhân của hạn chế trong xử phạt vi phạm hành

chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự tại tỉnh Quảng Bình ................. 56

2.3.1. Về đối tượng và nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi

hành án dân sự ..................................................................................................... 57

2.3.2. Về thẩm quyền, mức xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành

án dân sự .............................................................................................................. 63

2.3.3. Về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự ... 70

Tiểu kết chương 2 ........................................................................................ 74

CHƯƠNG 3. QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM XỬ PHẠT VI

PHẠMHÀNH CHÍNH TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI TỈNH

QUẢNG BÌNH ................................................................................ 75

3.1. Quan điểm ............................................................................................ 75

3.1.1. Bảo đảm quán triệt đường lối, chủ trương của Đảng ............................... 75

3.1.2. Bảo đảm yêu cầu của cải cách tư pháp, cải cách hành chính ................... 76

3.1.3. Bảo đảm nguyên tắc pháp chế trong quá trình thực hiện xử phạt vi phạm

hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự ..................................................... 78

3.1.4. Bảo đảm quyền khiếu nại trong quá trình thực hiện xử phạt vi phạm hành

chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự .............................................................. 79

3.2. Giải pháp .............................................................................................. 79

3.2.1. Giải pháp chung ......................................................................................... 80

3.2.2. Giải pháp cụ thể đối với các cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình .. 88

Tiểu kết chương 3 ............................................................................ 95

KẾT LUẬN ..................................................................................... 96

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Nguyên Nghĩa Ký hiệu

Hội đồng nhân dân HĐND

Thi hành án dân sự THADS

Ủy ban nhân dân UBND

Vi phạm hành chính VPHC

Xử lý vi phạm hành chính XLVPHC

Xử phạt vi phạm hành chính XPVPHC

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1: Số lượng Chấp hành viên các cơ quan thi hành án dân sự tỉnh

Quảng Bình tính đến ngày 30/10/2020 ......................................................... 43

Bảng 2.2: Kết quả thi hành án dân thi hành án dân sự về việc của các cơ quan

thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình giai đoạn từ 2016- 2020 ....................... 45

Bảng 2.3: Kết quả thi hành án dân sự về tiền của các cơ quan thi hành án dân

sựtỉnh Quảng Bình giai đoạn từ 2016 - 2020 ................................................ 45

Bảng 2.4.Số liệu quyết định xử phạt vi phạm hành chính của các cơ quan thi

hành án dân sự tỉnh Quảng Bình từ năm 2016 đến 2020 ............................... 52

Bảng 2.5. Kết quả thi hành án dân sự về việc của các cơ quan Thi hành án dân

sự tỉnh Hà Tĩnh giai đoạn từ 2016- 2020 ...................................................... 53

Bảng 2.6 Kết quả thi hành án dân sự về việc của các cơ quan ...................... 53

Thi hành án dân sự tỉnh Hà Tĩnh giai đoạn từ 2016- 2020 ............................ 53

Bảng 2.7. Số liệu quyết định xử phạt vi phạm hành chính của các cơ quan thi

hành án dân sự tỉnh Hà Tĩnh từ năm 2016 đến 2020 ..................................... 54

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của Đề tài

Hoạt động thi hành án có một ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc

giữ vững kỷ cương phép nước, củng cố pháp chế và trật tự pháp luật xã hội

chủ nghĩa, đảm bảo cho quyền lực tư pháp được thực thi trên thực tế. Để đảm

bảo tính nghiêm minh của pháp luật và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa,

ngoài chức năng của cơ quan Công an, Viện kiểm sát, Tòa án thì cơ quan

THADS giữ một vai trò đặc biệt và là một mắt xích không thể thiếu của quá

trình tố tụng.

Hiến pháp 2013 khẳng định: "Các bản án và quyết định của Tòa án

nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức

kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn

trọng; những người và đơn vị hữu quan nghiêm chỉnh chấp hành". Đảng và

Nhà nước ta chủ trương phải tiếp tục tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong công

tác thi hành án dân sự, nâng cao hiệu quả công tác thi hành án, giải quyết căn

bản tình trạng án tồn đọng; nâng cao vai trò trách nhiệm của các cơ quan thi

hành án.

Thực tiễn cho thấy, tổ chức thi hành án dân sự đối với các bản án, quyết

định của Tòa án là hoạt động phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực trong đời

sống xã hội; làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ về tài

sản của các bên đương sự. Để bảo vệ tài sản, trốn tránh nghĩa vụ thi hành án,

các đối tượng thi hành án thường không chấp hành giấy triệu tập của Chấp

hành viên hoặc thực hiện hành vi phân tán, làm hư hỏng tài sản thuộc diện kê

biên, phá huỷ niêm niêm phong, thậm chí còn có hành vi dùng vũ khí chống

đối gây thương tích cho Chấp hành viên, công chức thi hành án và lực lượng

tham gia giải quyết việc thi hành án; làm ảnh hưởng đến an ninh chính trị, trật

1

tự an toàn xã hội ở địa phương phương nói chung; cơ quan, đơn vị thi hành án

dân sự nói riêng; dẫn đến tình trạng các bản án, quyết định của Tòa án rất khó

có khả năng thi hành trên thực tế; làm giảm lòng tin của nhân dân vào cơ quan

thực thi pháp luật.

Xuất phát từ vai trò và tầm quan trọng của công tác tổ chức thi hành án

dân sự, nên thời gian qua, Tổng cục THADS, các cơ quan THADS địa

phương đã quan tâm, chú trọng đến việc áp dụng các chế tài xử phạt vi phạm

hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự, xem đây là một công cụ hữu

hiệu góp phần đấu tranh, ngăn chặn và phòng ngừa các hành vi vi phạm pháp

luật trong quá trình tổ chức thi hành án dân sự.

Quảng Bình nằm ở Bắc Trung Bộ, Việt Nam, với diện tích tự nhiên là 8.065 km2, dân số năm 2019 là 895.430 người.1 Là tỉnh có nhiều thuận lợi để

kết nối các địa phương khác của Việt Nam và thế giới; với tiềm năng phát

triển về du lịch nên tình hình tội phạm xảy ra trên địa bàn tỉnh ngày càng

phức tạp. So với các tỉnh, thành phố lớn trong toàn quốc Quảng Bìnhcó số

lượng việc phải thi hành án không lớn nhưng số án hình sự cho vay nặng lãi,

tín dụng ngân hàng, án ma túy…ngày càng tăng cả về số việc và giá trị. Thời

gian qua công tác tổ chức THADS trên địa bàn tỉnh đã thu được những kết

quả nhất định, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của công dân, tổ

chức liên quan đến quá trình THADS.Tuy nhiên, so với yêu cầu thì công tác

này vẫn còn có những hạn chế, bất cập, chưa đáp ứng được đòi hỏi của công

tác THADS trong tình hình mới;nhiều bản án, quyết định còn chậm được thi

hành hoặc thi hành kéo dài, mà nguyên nhân chủ yếu là do ý thức chấp hành

pháp luật của một bộ phận những người phải thi hành án và người có quyền

1 Cổng thông tin điện tử Quảng Bình, Tổng quan về Quảng Bình; https://www.quangbinh.gov.vn/3cms/tong- quan-ve-quang-binh.htm;

lợi, nghĩa vụ liên quan trong các hoạt động thi hành án dân sự còn chưa cao;

2

tình trạng chống đối cơ quan thi hành án bằng nhiều hình thức vẫn còn xảy ra;

Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính đã quy định nhưng quá trình thực

hiện còn nhiều bất cậpmột số cơ quan THADS hoặc Chấp hành viên chưa

thực sự phát huy vai trò trách nhiệm trong việc xử phạt các hành vi vi phạm

trong hoạt động thi hành án dân sự; hoặc có xử lý nhưng không triệt để, nhiều

hành vi chống đối nhưng Chấp hành viên không tiến hành xử phạt vì sau xử

phạt khó thu được tiền phạt, trong khi pháp luật chưa quy định cụ thể thủ tục

cưỡng chế tiền phạt. Do đó,việc xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động

thi hành án dân sự trên thực tế vẫn chưa thực sự đi vào đời sống xã hội, chưa

đáp ứng được mục tiêu đặt ra là răn đe, phòng ngừa vi phạm để từ đó nâng

cao hiệu lực quản lý Nhà nước. Bên cạnh đó, hệ thống văn bản pháp luật về

lĩnh vực này còn thiếu hoàn thiện; các chế tài xử phạt vi phạm hành chính

chưa nghiêm, chế tài còn quá nhẹ, tính phòng ngừa răn đe còn hết sức hạn

chế; các quy định còn nhiều bất cập dẫn đến việc đối tượng thi hành án coi

thường pháp luật.

Bên cạnh đó, hiện nay, công tác THADS đang ngày càng được chú

trọng, đang dần được xã hội hóa. Trong đó, số lượng các vụ việc THADS cần

giải quyết ngày càng tăng, mức độ phức tạp ngày càng cao. Cùng với đó, các

VPHC trong THADS xảy ra ngày càng nhiều, đa dạng và phức tạp hơn. Bởi

vậy, yêu cầu xây dựng và hoàn thiện pháp luật về XPVPHC trong THADS

càng ngày càng trở nên cấp thiết.

Thực trạng trên cho thấy cần thiết phải nghiên cứu một cách toàn diện

cả về lý luận, pháp lý và thực tiễn công tác xử phạt vi phạm hành chính trong

lĩnh vực THADS, nhằm làm rõ những bất cập, hạn chế, từ đó đưa ra những

giải pháp để điều chỉnh cho phù hợp. Với tính cấp thiết đó, tác giả chọn đề tài

“Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự tại tỉnh

Quảng Bình” làm luận văn thạc sĩ của mình.

3

2.Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn

Thời gian qua đã có nhiều công trình, đề tài khoa học nghiên cứu, khai

thác dưới nhiều gốc độ khác nhau về hoạt động xử phạt hành chính nói chung

và trong một số lĩnh vực cụ thể khác nhau nói riêng. Có thể kể đến một số

công trình sau:

- Bùi Tiến Đạt, (2008) “Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính –

Lý luận và thực tiễn”, Luận văn thạc sĩ - Khoa Luật Trường Đại học quốc

gia Hà Nội.

- Nguyễn Quang Thái (2008), Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt

động thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Luật học – Học

viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.

- Đặng Đình Quyền (2012), Hiệu quả áp dụng pháp luật thi hành án

dân sự ở Việt Nam, Luận án Tiến sỹ Luật học tại Học viện Chính trị - Hành

chính quốc gia Hồ Chí Minh.

- Nguyễn Hoàng Giang (2010), Áp dụng pháp luật thi hành án dân sự

của cơ quan Thi hành án ở thành phố Hà Nội hiện nay,Luận văn Thạc sĩ Luật

học tại Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.

- Đinh Quang Thành (2014), Địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành

viên Trung cấp – Từ thực tiễn các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Quảng

Binh,Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính tại

Học viện Hành chính Quốc gia.

- Nguyễn Văn Tuấn (2014), Quyền khiếu nại về thi hành án dân sự - Từ

thực tiễn các cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình, Luận văn Thạc sỹ

chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính tại Học viện Hành chính

Quốc gia.

4

- Lê Ngọc Nguyên Phương (2017), “Xử phạt vi phạm hành chính đối

với các hành vi lấn chiếm trái phép hè phố đô thị”, Khóa luận tốt nghiệp cử

nhân luật, Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh.

- Nhật Tân (11.4.2019), “Một số khó khăn, vướng mắc, hạn chế trong

thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính”, Trang thông tin điện tử Sở tư pháp

Quảng Bình

- Các Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam của Khoa Luật –

ĐHQGHN, Trường Đại học Luật Hà Nội đề cập về trách nhiệm hành chính.

Và một số bài viết khác như: Nguyễn Nhật Khanh, 2020, Hoàn thiện

pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự;

http://lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=210595; Lê Đăng Khoa

–Hà Khắc Thắng, 2020, Một số khó khăn, vướng mắc trong xử phạt vi phạm

hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự và giải pháp, kiến nghị, Tạp chí

Khoa học kiểm sát số 06/2020; Vũ Công An, 2016, Xử phạt vi phạm hành

chính trong thi hành án dân sự, quan điểm nào thuyết phục;

https://thads.moj.gov.vn/noidung/tintuc/lists/nghiencuutraodoi/view_det

ail.aspx?itemid=789; Đình Khoa, 2017, Xử phạt hành chính trong lĩnh

vực thi hành án dân sự Chấp hành viên…ngại phạt;

http://www.nguoibaovequyenloi.com/User/ThongTin_ChiTiet.aspx?MaT

T=311201752923190773&MaMT=23; Thục Quyên, 2018, Xử phạt vi

phạm hành chính trong thi hành án dân sự: Cần sửa đổi một số quy định để

tăng tính răn đe; https://baophapluat.vn/tu-van-365/xu-phat-vi-pham-hanh-

chinh-trong-thi-hanh-an-dan-su-can-sua-doi-mot-so-quy-dinh-de-tang-tinh-

ran-de-410741.html;

Đối với vấn đề này, các công trình khoa học trên thực hiện đã lâu hoặc

chỉ đề cập đến một vấn đề hoặc một lĩnh vực cụ thể khác. Đối với nội dung xử

phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự, tác giả chưa tìm

5

thấy có công trình nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện nào. Do đó, việc nghiên

cứu đề tài luận văn này vừa là sự kế thừa, phát triển các công trình trên nhưng

cũng là cách tiếp cận mới về mặt khoa học và có ý nghĩa về mặt thực tiễn.

Tuy vậy, các bài viết, công trình nghiên cứu của các tác giả trên thật sự có ý

nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn, là nguồn tài liệu tham khảo phong phú và

có giá trị lớn đối với luận văn của tác giả.

3. Mục tiêu và nhiệm vụ của Luận văn

3.1. Mục tiêu

Luận văn trình bày, làm rõ những quy định của pháp luật về các hành vi

vi phạm và hình thức xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân

sự; phân tích, đánh giá thực tiễn công tác xử phạt vi phạm hành chính trong

lĩnh vực thi hành án dân sự tại tỉnh Quảng Bình, từ đó, chỉ ra những khó khăn,

vướng mắc và nguyên nhân, để đề xuất định hướng nhằm hoàn thiện quy định

pháp luật về thi hành án dân sự bằng các biện pháp xử phạt vi phạm hành

chính và một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác trong lĩnh vực này.

3.2. Nhiệm vụ

Để thực hiện được các mục tiêu trên, luận văn cần thực hiện các nhiệm

vụ cụ thể sau:

+ Làm rõ những cơ sở lý luận về thi hành án dân sự và xử phạt vi

phạm hành chính trong lĩnh vực THADS;

+ Phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành

về xử phạt vi phạm hành chính đối với các hành vi vi phạm hành chính trong

lĩnh vực thi hành án dân sự;

+ Đánh giá đúng đắn và toàn diện về thực trạng áp dụng các quy định

của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực THADS trong

thời gian qua ở nước ta nói chung và trên địa bàn tỉnh Quảng Bình nói riêng;

6

xác định những khó khăn, vướng mắc, bất cập trong quá trình thực hiện; cũng

như nguyên nhân của thực trạng đó;

+ Đề xuất những giải pháp mang tính định hướng, giải pháp hoàn thiện

các quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi

hành án dân sự; đồng thời trình bày quan điểm, giải pháp nâng cao hiệu quả

áp dụng tại địa bàn tỉnh Quảng Bình.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ luật học, tác giả tập trung nghiên cứu

cơ sở lý luận và các quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính

trong lĩnh vực thi hành án dân sự.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu và đánh giá thực thực trạng áp dụng ở Cục thi

hành án dân sự tỉnh Quảng Bình từ năm 2016 đến năm 2020; có mở rộng so

sánh với một số địa phương lân cận về lĩnh vực này.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện

chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, chủ

trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, của Ngành về xử phạt

vi phạm hành chính trong lĩnh thi hành án dân sự.

5.2. Phương pháp nghiên cứu:

Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn sử dụng một số phương

pháp nghiên cứu như: phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh. Cụ

thể là thực hiện sưu tầm số liệu thực tế và tổng hợp các thông tin qua các bài

7

viết, tạp chí, văn bản báo cáo, văn bản pháp luật liên quan đến lĩnh vực này,

từ đó dùng phương pháp so sánh, đối chiếu để phân tích, làm rõ những nội

dung có liên quan. Thông qua các phương pháp được sử dụng, luận văn

nghiên cứu các quy định pháp luật hiện hành về thi hành án dân sự bằng biện

pháp xử phạt vi phạm hành chính và thực tiễn áp dụng, nhằm làm rõ những

điểm còn bất cập, khó khăn, vướng mắc, từ đó đề xuất định hướng và những

giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về lĩnh vực này.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn:

- Luận văn đã đưa ra và luận giải được một số quan điểm cơ bản về

khái niệm thi hành án dân sự và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực

THADS; tìm hiểu vai trò, đặc điểm của xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh

vực THADS; góp phần bổ sung, làm phong phú thêm cho hoạt động nghiên

cứu khoa học về pháp luật thi hành án dân sự nói chung và xử phạt vi phạm

hành chính trong lĩnh vực THADS nói riêng.

- Từ việc đánh giá thực trạng pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính

trong lĩnh vực thi hành án dân sự hiện hành; cũng như thông qua đánh giá

thực tiễn áp dụng tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình; luận văn đã chỉ

ra được những điểm bất cập cần sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện hệ thống

pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực này.

7. Kết cấu luận văn

Ngoài phần Mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo,

luận văn được kết cấu thành 03 chương. Cụ thể:

Chương 1: Cơ sở lý luận về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực

thi hành án dân sự.

8

Chương 2: Thực trạng xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi

hành án dân sự tại tỉnh Quảng Bình.

Chương 3: Quan điểm, giải pháp đảm bảo xử phạt vi phạm hành chính

trong lĩnh vực thi hành án dân sự tại tỉnh Quảng Bình.

9

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH CHÍNH

TRONG LĨNH VỰC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của xử phạt vi phạm hành chính

trong lĩnh vực thi hành án dân sự

1.1.1. Khái niệm

Trước khi phân tích khái niệm về xử phạt vi phạm hành chính

trong lĩnh vực Thi hành án dân sự, chúng ta cần làm rõ một số khái niệm

có liên quan.

Khái niệm Thi hành án dân sự:

Pháp luật thi hành án dân sự là một bộ phận cấu thành của hệ thống

pháp luật nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Theo đại từ điển tiếng Việt, “thi hành” là “thực hiện điều đã chính thức

quyết định”. Còn theo từ điển luật học thì,“thi hành án” là giai đoạn kết thúc

trình tự tố tụng, là khâu cuối cùng kết thúc một vụ án được xét xử nhằm làm cho phán quyết của Tòa án nhất định có hiệu lực pháp luật.2

Thi hành án có thể được hiểu là thực hiện bản án, quyết định của Tòa

án trên thực tế. Bản án, quyết định của Tòa án được hiểu là văn bản pháp lý

của Tòa án nhân danhnhà nước tuyên tại phiên tòa, giải quyết các vấn đề

trong vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, hành chính, kinh

doanh thương mại, phá sản. Việc thực hiện bản án, quyết định của Tòa án có

hiệu quả, một mặt bảo đảm thực hiện quyền tư pháp của nhà nước, thể hiện sự

2 Khái niệm thi hành án dân sự và quan hệ pháp luật thi hành án dân sự; https://unilaw.vn/vn/binh-luan/goc- luat-su/khai-niem-phap-luat-thi-hanh-an-dan-su-va-quan-he-phap-luat-thi-hanh-an-dan-su.html;

tôn trọng của xã hội và công dân đối với phán quyết của cơ quan nhân danh

10

nhà nước là Tòa án. Mặt khác, nó là biện pháp hữu hiệu để khôi phục các

quyền, lợi ích hợp pháp của nhà nước, tổ chức và công dân bị xâm hại. Để các

bản án và quyết định của Tòa án được bảo đảm thực hiện trong cuộc sống thì phải thông qua hoạt động thi hành án.

Hiện nay, dưới góc độ lý luận, thi hành án dân sự còn có hai quan điểm

khác nhau về nghĩa hẹp và nghĩa rộng của khái niệm “dân sự”.

Quan điểm thứ nhất cho rằng, khái niệm dân sự trong thi hành án dân

sự được hiểu là những bản án, quyết định liên quan đến quan hệ tài sản và

nhân thân phi tài sản, những bản án, quyết định về giải quyết tranh chấp đối

với các loại hợp đồng dân sự, hôn nhân và gia đình và một số loại án khác có

tính chất dân sự.

Quan điểm thứ hai cho rằng, khái niệm dân sự ở đây phải được hiểu theo

nghĩa rộng, đó không chỉ bao gồm các bản án, quyết định về giải quyết tranh

chấp đối với các loại hợp đồng dân sự, hôn nhân và gia đình và một số loại án

khác có tính chất dân sự của Tòa án, mà còn bao gồm các bản án, quyết định

khác do pháp luật quy định.

Tác giả đồng tình với quan điểm thứ hai này, vì với phạm vi của thi hành

án dân sự, cần hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm bản án, quyết định về dân sự,

kinh tế, lao động, hôn nhân và gia đình; tài sản trong bản án, quyết định hình

sự về bồi thường thiệt hại; tài sản và quyền tài sản trong bản án, quyết định

hành chính; …Và theo quy định của pháp luật hiện hành thì,những loại vụ,

việc nêu trên dù có tính chất khác nhau, được giải quyết theo các trình tự tố

tụng khác nhau, nhưng đến giai đoạn thi hành án vẫn được áp dụng theo trình

tự thủ tục thi hành án dân sự.

11

Từ sự phân tích ở trên, có thể đưa ra khái niệm thi hành án dân sự

như sau:

Thi hành án dân sự là hoạt động tư pháp do Cơ quan thi hành án, Chấp

hành viên tiến hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định để đưa bản

án, quyết định dân sự của Tòa án hoặc các quyết định khác theo quy định

của pháp luật được thực hiện trên thực tế, nhằm bảo đảm lợi ích nhà nước,

quyền và lợi ích hợp pháp của các công dân, tổ chức, bảo vệ pháp luật xã hội

chủ nghĩa.

- Khái niệm xử phạt vi phạm hành chính:

Chúng ta thấy rằng, vi phạm hành chính là loại vi phạm pháp luật xảy ra

khá phổ biến trong đời sống xã hội. Tuy mức độ nguy hiểm cho xã hội của nó

thấp hơn so với tội phạm, nhưng vi phạm hành chính là hành vi gây thiệt hại

hoặc đe dọa gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, tập thể, lợi ích của cá

nhân, cũng như lợi ích chung của toàn thể cộng đồng và là nguyên nhân dẫn

đến tình trạng phạm tội nảy sinh trên các lĩnh vực của đời sống xã hội nếu

như không được ngăn chặn và xử lý kịp thời.

Cơ sở của việc xử phạt vi phạm hành chính là phải có vi phạm hành

chính. Hay nói cách khác, xác định đúng vi phạm hành chính thì mới có có

thể thực hiện việc xử phạt vi phạm hành chính một cách chính xác. Do vậy,

việc nghiên cứu khái niệm vi phạm hành chính có ý nghĩa quan trọng, chỉ khi

định nghĩa đúng về vi phạm hành chính thì mới có thể xác định được từng vi

phạm hành chính cụ thể trong từng lĩnh vực quản lý nhà nước, để từ đó có thể

áp dụng chính xác chế tài xử phạt, nhằm lập lại trật tự quản lý nhà nước đã bị

xâm hại, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức có

liên quan.

12

Qua nhiều thời kỳ lịch sử, đã có rất nhiều nhà nghiên cứu, công trình

nghiên cứu về khái niệm vi phạm hành chính, xử phạt vi phạm hànhchính, tại

khoản 2 Điều 2 Luật XLVPHC quy định: Xử phạt vi phạm hành chính là việc

người có thẩm quyền xử phạt áp dụng hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục

hậu quả đối với cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm hành chính theo

quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính.

- Khái niệm xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án

dân sự

Mặc dù, khái niệm về vi phạm hành chính và xử phạt vi phạm hành

chính được sử dụng khá nhiều và áp dụng rộng rãi trong các vi phạm pháp

luật. Thế nhưng, vi phạm hành chính và xử phạt vi phạm hành chính trong

lĩnh vực thi hành án dân sự thì vẫn chưa được định nghĩa một cách rõ ràng.

Dù không quy định cụ thể, nhưng dựa vào các phân tích trên, ta có thể

rút ra khái niệm vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự và xử

phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự như sau: Xử phạt

vi phạm hành chính trong THADS là việc người có thẩm quyền xử phạt áp

dụng hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với cá nhân, tổ chức

thực hiện hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực THADS theo quy định

của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính. Trong hoạt động THADS, xử

phạt vi phạm hành chính là một trong những chế định quan trọng của pháp

luật nhằm đấu tranh phòng và chống các vi phạm hành chính, giữ vững an

ninh, trật tự an toàn xã hội, góp phần đưa các bản án, quyết định có hiệu lực

của Toàn án được thực thi trên thực tế, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp

của cá nhân và tổ chức.

13

1.1.2. Đặc điểm của xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi

hành án dân sự

Từ khái niệm xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án

dân sự, ta có thể thấy xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực này có các

đặc điểm cụ thể như sau:

- Thứ nhất, xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực THADS là

quyền được Nhà nước giao cho các chủ thể có thẩm quyền trong quá trình tổ

chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án. Bởi lẽ, trong quá trình tổ

chức THA, giữa các bên đương sự thường phát sinh tranh chấp, đối tượng

phải thi hành án thường đưa ra các lý do, lý lẽ để trì hoãn. Mặc dù đã được cơ

quan THA tiến hành hòa giải, thuyết phục, động viên nhưng không thành;

không những thế họ còn thực hiện các hành vi chống đối, cản trở nhằm không

thực hiện nghĩa vụ THA,trong trường hợp này cơ quan THADS cần tiến hành

xử phạt vi phạm hành chính để răn đe, giáo dục, phòng ngừa.

- Thứ hai, để việc tổ chức thi hành bản án, quyết định của Tòa án đạt

hiệu quả cao trên thực tế, thì một trong những yếu tố quan trọng trong thực thi

nhiệm vụlà cơ quan, người có thẩm quyền phải áp dụng các chế tài xử phạt vi

phạm hành chính nếu có vi phạm xảy ra.

- Thứ ba, hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự

chỉ bị xử lý khi còn thời hiệu xử phạt.

- Thứ tư, mỗi hành vi vi phạm sẽ được áp dụng hình thức xử phạt cụ thể

theo luật định.

- Thứ năm, một hành vi chỉ được xem là vi phạm hành chính trong lĩnh

vực thi hành án dân sự và bị xử phạt vi phạm hành chính khi có đủ 4 yếu tố

cấu thành của vi phạm hành chính, đó là yếu tố khách quan, yếu tố chủ quan,

yếu tố chủ thể và yếu tố khách thể của vi phạm hành chính.

14

+ Mặt khách quan của vi phạm hành chính trong lĩnh THADS

Yếu tố khách quan của vi phạm hành chính trong lĩnh THADS là những

biểu hiện bên ngoài của hành vi vi phạm trong lĩnh vực THADS, như: thời

gian thực hiện hành vi vi phạm, công cụ, phương tiện vi phạm, hậu quả và

mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm với hậu quả mà hành vi đó gây ra

cho nhà nước, tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động thi hành án. Trong

các dấu hiệu của mặt khách quan, dấu hiệu hành vi vi phạm pháp luật là dấu

hiệu bắt buộc.

Cụ thể, những hành vi vi phạm quy tắc quản lý nhà nước trong lĩnh vực

THADS được quy định tại chương 5 Nghị định 82/2020/NĐ-CP, như: Không

cung cấp thông tin, không giao giấy tờ liên quan đến tài sản bị xử lý để thi

hành án theo yêu cầu của người có thẩm quyền thi hành án mà không có lý do

chính đáng; Không thông báo cho cơ quan thi hành án dân sự khi có thay đổi

về địa chỉ, nơi cư trú; Có lời nói, hành động lăng mạ, xúc phạm người thi

hành công vụ trong thi hành án dân sự; Gây rối trật tự nơi thi hành án hoặc có

hành vi khác gây trở ngại cho hoạt động thi hành án dân sự mà chưa đến mức

truy cứu trách nhiệm hình sự...

+ Mặt chủ quan của vi phạm hành chính trong lĩnh vực THADS

Mặt chủ quan của vi phạm hành chính trong lĩnh vực THADS là những

gì thể hiện bên trong của chủ thể khi có hành vi vi phạm pháp luật. Dấu hiệu

bắt buộc trong mặt chủ quan của vi phạm hành chính trong lĩnh vực này là

dấu hiệu lỗi của chủ thể vi phạm, ngoài ra còn có dấu hiệu mục đích và động

cơ vi phạm. Dấu hiệu lỗi này được thể hiện dưới dạng vô ý hoặc cố ý.

Lỗi cố ý trong vi phạm hành chính trong lĩnh vực THADS là thái độ

tâm lý của con người khi thực hiện hành vi trái pháp luật hành chính trong

15

lĩnh vực thi hành án dân sự, người đó nhận thức được những hành vi pháp

luật cấm không được làm nhưng vẫn cố ý thực hiện.

Lỗi vô ý là lỗi của chủ thể thực hiện hành vi vi phạm khi đang trong

trạng thái có đầy đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình

nhưng đã vô tình, thiếu thận trọng mà không nhận thức được điều đó, mặc dù

họ có khả năng và điều kiện xử sự theo quy định của pháp luật.

+ Khách thể của vi phạm hành chính trong lĩnh vực THADS

Là các quan hệ xã hội hình thành trong quá trình tổ chức hoạt động thi

hành án, được pháp luật bảo vệ và bị hành vi vi phạm hành chính xâm hại

đến. Cụ thể trong lĩnh vực này, khách thể của xử phạt vi phạm hành chính

được Luật thi hành án dân sự và Nghị định số 82/2020/NĐ-CP về xử phạt vi

phạm hành chính quy định và bảo vệ, là các quy tắc, trật tự quản lý nhà nước

về THADS; danh dự, nhân phẩm của người thi hành công vụ trong thi hành

án dân sự …, được quy định cụ thể tại chương 5 Nghị định 82/2020/NĐ-CP.

+ Chủ thể của vi phạm hành chính trong lĩnh vực THADS

Theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Nghị định số 82/2020/NĐ-CP thì,

chủ thể vi phạm hành chính trong lĩnh vực THADS, gồm có: Cá nhân, tổ chức

Việt Nam; cá nhân, tổ chức nước ngoài có hành vi vi phạm hành chính trong

lĩnh vực THADS. Chủ thể thực hiện hành vi VPHC trong lĩnh vực THADS sẽ

bị xử phạt hành chính khi đảm bảo các yếu tố về độ tuổi, năng lực pháp luật

theo quy định.

1.1.3. Vai trò của xử phạt vi phạm hành chính trong lịnh vực thi

hành án dân sự

Xử phạt vi phạm hành chính có vai trò quan trọng và to lớn, nó là

phương tiện, công cụ không thể thiếu để duy trì, bảo vệ trật tự xã hội, trật tự

16

quản lý nhà nước. Vai trò của xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi

hành án dân sự được thể hiện ở các khía cạnh sau:

Thứ nhất, đảm bảo giữ vững kỷ cương pháp chế trong quản lý nhà nước

về thi hành án dân sự. Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án

dân sự là tổng thể các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành nhằm điều

chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực thi hành án dân sự, bao gồm

các hình thức xử phạt và các biện pháp xử lý khác. Như vậy, Nhà nước sử

dụng xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực này như một phương tiện để

thực hiện quyền lực của mình trong hoạt động thi hành án dân sự. Nhờ có

những quy định chặt chẽ của xử phạt mà các đối tượng tham gia hoạt động thi

hành án dân sự thực hiện một cách nghiêm túc, đúng đường lối, chủ trương,

của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước.

Thứ hai, xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự

là một trong những chế định quan trọng của pháp luật nhằm đấu tranh phòng

và chống các vi phạm hành chính, giữ vững an ninh, trật tự an toàn xã hội,

góp phần đưa các bản án, quyết định có hiệu lực của Tòa án được thực thi trên

thực tế, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

Thứ ba, xử phạt vi phạm hành chính là công cụ bổ trợ cho công tác

quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi hành án dân sự; đồng thời là tiền đề cho

việc áp dụng các chế tài nghiêm khắc, nhất là chế tài về hình sự.

Thứ tư, xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự

còn góp phần giáo dục ý thức cho các chủ thể cũng như các đối tượng tham

gia hoạt động thi hành án về ý thức chấp hành pháp luật và hệ quả của việc

không chấp hành pháp luật, bởi với các quy định chặt chẽ buộc các cá nhân,

tổ chức phải tự giác chấp hành nếu không sẽ bị xử lý theo quy định của pháp

luật. Đồng thời, nó cũng là các biện pháp ngăn chặn hữu hiệu các hành vi vi

17

phạm pháp luật thi hành án dân sự, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật thi

hành án trong lĩnh vực này.

1.1.4. Cơ sở pháp lý về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực

thi hành án dân sự

Việc thực hiện xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án

dân sự được thưc hiện dựa trên các cơ sở pháp lý sau:

- Hiến pháp 2013: Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam được thông

qua tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khoá XIII là kết tinh trí tuệ của toàn Đảng, toàn

dân, toàn quân ta; thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân Việt Nam thời kỳ

đổi mới toàn diện đất nước. Một trong những nội dung cơ bản của Hiến pháp

là bảo vệ quyền con người, quyền công dân, đảm bảo pháp luật được thực thi.

Trên cơ sở đó, chức năng, thẩm quyền, vai trò của một trong các cơ quan tư

pháp là cơ quan thi hành án dân sự được thiết lập và được cụ thể hóa tại Luật

thi hành án dân sự Việt Nam. Đây là một trong những cơ quan có thẩm quyền

đảm bảo cho hoạt động chấp hành pháp luật được thực hiện trong thực tiễn,

đảm bảo tính thượng tôn pháp luật.

- Pháp luật xử phạt vi phạm hành chính và các văn bản hướng dẫn thi

hành: là hệ thống quy định pháp luật quy định về căn cứ, trình tự, thủ tục,

thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự.

Đây là các quy định pháp luật là cơ sở pháp lý để cơ quan thi hành án dân sự

thực hiện việc áp dụng pháp luật mà cụ thể là xử phạt vi phạm hành chính

trong lĩnh vực thi hành án dân sự.

- Pháp luật Thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành là hệ

thống các quy định về cơ cấu, tổ chức và chức năng của cơ quan thi hành án

dân sự các cấp, quy định về các vi phạm trong lĩnh vực thi hành án dân sự,

trong đó có quy định về chức năng, thẩm quyền được xử phạt vi phạm hành

18

chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự. Với các quy định này, cơ quan thi

hành án dân sự sẽ có cơ sở pháp lý khi thực hiện xử phạt vi phạm hành chính

trong lĩnh vực thi hành án dân sự.

1.2. Nội dung pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh

vực thi hành án dân sự

1.2.1.Đối tượng và nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính trong

lĩnh vực thi hành án dân sự

- Đối tượng xử phạt

Điều 2 và các Điều 64, 65 Nghị định 82/2020/NĐ-CP quy định đối

tượng bị xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự là cá

nhân, tổ chức Việt Nam; cá nhân, tổ chức nước ngoài có hành vi vi phạm

hành chính trong lĩnh vực này.

Các trường hợp không bị xử phạt vi phạm hành chính bao gồm: Các

hành vi vi phạm trong tình thế cấp thiết, do phòng vệ chính đáng, do sự kiện

bất ngờ, do sự kiện bất khả kháng hoặc đối tượng thực hiện hành vi vi phạm

không có năng lực trách nhiệm hành chính hay do chưa đủ tuổi bị xử phạt vi

phạm hành chính

Theo đó, cá nhân là đối tượng bị xử phạt vi phạm hành chính phải là

người thực hiện hành vi khi không phải đang mắc bệnh tâm thần hoặc mắc

bệnh khác làm mất khả năng điều khiển hành vi của mình và đủ độ tuổi do

pháp luật quy định.

Theo quy định tại Khoản 1 Điều 5 Luật Xử lý vi phạm hành chính, thì:

+ Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi bị xử phạt vi phạm hành chính

về vi phạm hành chính do cố ý; người từ đủ 16 tuổi trở lên bị xử phạt vi phạm

hành chính về mọi vi phạm hành chính.

19

+ Người thuộc lực lượng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân vi

phạm hành chính thì bị xử lý như đối với công dân khác, trường hợp cần áp

dụng hình thức phạt tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề hoặc

đình chỉ hoạt động có thời hạn liên quan đến quốc phòng, an ninh thì người

xử phạt đề nghị cơ quan, đơn vị Quân đội nhân dân, Công an nhân dân có

thẩm quyền xử lý.

Tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính về mọi vi phạm hành chính do

mình gây ra. Năng lực pháp luật của tổ chức xuất hiện khi tổ chức được thành

lập hợp pháp. Khi tổ chức bị giải thể hoặc bị buộc ngừng hoạt động thì năng

lực pháp luật của tổ chức cũng chấm dứt.

Riêng đối với cá nhân, tổ chức nước ngoài vi phạm hành chính trong

phạm vi lãnh thổ, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục

địa của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; trên tàu bay mang quốc

tịch Việt Nam, tàu biển mang cờ quốc tịch Việt Nam thì bị xử phạt vi phạm

hành chính theo quy định của pháp luật Việt Nam, trừ trường hợp điều ước

quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy

định khác.

Theo quy định tại Nghị định số 82/2020/NĐ-CP, có 02 nhóm hành vi

VPHC trong lĩnh vực THADS, được quy định tại 02 điều luật 64 và 65, đó là

nhóm hành vi vi phạm quy định trong lĩnh vực thi hành án dân sự và nhóm

hành vi phạm quy định của thừa phát lại trong lĩnh vực thi hành án dân sự.

Như vậy, cá nhân, tổ chức có đầy đủ năng lực pháp luật, nếu thực hiện một

hoặc nhiều hành vi vi phạm hành chính sau đây, sẽ là đối tượng bị xem xét xử

phạt vi phạm hành chính.

Đối tượng được nhà nước trao quyền xử phạt vi phạm hành chính trong

lĩnh vực THADS là Chấp hành viên, Chi cục trưởng Chi cục THADS cấp

20

huyện, Cục trưởng Cục THADS tỉnh, Tổng cục trưởng Tổng cục THADS và Thanh tra Bộ Tư pháp. 3

- Hành vi vi phạm hành chính quy định trong lĩnh vực thi hành án

dân sự gồm:

+ Đã nhận giấy báo, giấy triệu tập lần thứ hai nhưng không có mặt để

thực hiện việc thi hành án mà không có lý do chính đáng.

+ Cố tình không thực hiện quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm

thời của Tòa án hoặc bản án, quyết định phải thi hành ngay.

+ Không thực hiện công việc phải làm hoặc không chấm dứt thực hiện

công việc không được làm theo bản án, quyết định.

+ Có điều kiện thi hành án nhưng cố tình trì hoãn việc thực hiện nghĩa

vụ thi hành án.

+ Tẩu tán hoặc làm hư hỏng tài sản để không thực hiện nghĩa vụ thi

hành án hoặc để trốn tránh việc kê biên tài sản.

+ Không thực hiện yêu cầu của Chấp hành viên về việc cung cấp thông

tin, giao giấy tờ liên quan đến tài sản bị xử lý để thi hành án mà không có lý

do chính đáng.

+ Sử dụng trái phép, tiêu dùng, chuyển nhượng, đánh tráo, cất giấu

hoặc thay đổi tình trạng tài sản đã kê biên nhưng chưa tới mức bị truy cứu

trách nhiệm hình sự.

+ Chống đối, cản trở hay xúi giục người khác chống đối, cản trở; có lời

nói, hành động lăng mạ, xúc phạm người thi hành công vụ trong thi hành án;

3 Hà Thanh, 2017; Thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính trong thi hành án dân sự; https://thads.moj.gov.vn/noidung/tintuc/lists/nghiencuutraodoi/view_detail.aspx?itemid=834;

21

gây rối trật tự nơi thi hành án hoặc có hành vi vi phạm khác gây trở ngại cho

hoạt động thi hành án dân sự nhưng chưa tới mức bị truy cứu trách nhiệm

hình sự.

+ Phá hủy niêm phong hoặc hủy hoại tài sản đã kê biên nhưng chưa tới

mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

+ Không chấp hành quyết định của Chấp hành viên về việc khấu trừ tài

khoản, trừ vào thu nhập, thu hồi giấy tờ có giá của người phải thi hành án.

- Nguyên tắc xử phạt

Nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính là những nội dung cơ bản,

quan trọng chi phối mọi hoạt động trong quá trình xử phạt vi phạm hành

chính và được quy định tại Khoản 1 Điều 3 Luật Xử lý vi phạm hành chính.

Qua thực tế thi hành pháp luật xử lý vi phạm hành chính, các nguyên tắc định

tại Khoản 1 Điều 3 Luật Xử lý vi phạm hành chính. Bên cạnh đó cũng có

những nguyên tắc được bổ sung mới nhằm khắc phục những thiếu sót trong

quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong các văn bản pháp luật trước

đây. Việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực THADS được tuân theo

những nguyên tắc sau:

Thứ nhất, mọi vi phạm hành chính phải được phát hiện, ngăn chặn kịp

thời và phải bị xử lý nghiêm minh, mọi hậu quả do vi phạm hành chính gây

raphải được khắc phục theo đúng quy định của pháp luật.

Thứ hai, việc xử phạt vi phạm hành chính phải căn cứ vào tính chất,

mức độ, hậu quả vi phạm, đối tượng vi phạm và tình tiết giảm nhẹ, tình tiết

tăng nặng.

Thứ ba, chỉ xử phạt vi phạm hành chính khi có hành vi vi phạm hành

chính do pháp luật quy định. Nguyên tắc này cũng đưa ra 03 trường hợp cụ

22

thể sau: một hành vi vi phạm hành chính chỉ bị xử phạt một lần; nhiều người

cùng thực hiện một hành vi vi phạm hành chính thì mỗi người vi phạm đều bị

xử phạt về hành vi vi phạm hành chính đó; một người thực hiện nhiều hành vi

vi phạm hành chính hoặc vi phạm hành chính nhiều lần thì bị xử phạt về từng

hành vi vi phạm.

Thứ tư, bảo đảm công bằng, công khai, khách quan, tôn trọng quyền

giải trình của cá nhân, tổ chức.

Thứ năm, người có thẩm quyền xử phạt, người có thẩm quyền áp dụng

biện pháp xử lý hành chính có trách nhiệm chứng minh hành vi vi phạm bằng

việc áp dụng các biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ việc một cách

khách quan, toàn diện và đầy đủ; cá nhân, tổ chức bị xử phạt, cá nhân bị áp

dụng biện pháp xử lý hành chính có quyền tự mình hoặc thông qua người đại

diện hợp pháp chứng minh mình không vi phạm hành chính.

Thứ sáu, đối với cùng một hành vi vi phạm hành chính thì mức phạt

tiền đối với tổ chức bằng hai lần mức phạt tiền đối với cá nhân. Nguyên tắc

này để phân định mức phạt tiền giữa cá nhân và tổ chức vi phạm, phù hợp với

tính chất vi phạm.

1.2.2. Thẩm quyền, mức xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực

thi hành án dân sự

Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính được hiểu là phạm vi quyền

lực nhà nước được giao cho cá nhân, tổ chức để áp dụng các hình thức xử

phạt hành chính. Thẩm quyền xử phạt hành chính được xác định bởi những

quyền hạn, nhiệm vụ cụ thể trong việc áp dụng hình thức xử phạt. Để thực

hiện xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự, thì phải xác

định đúng thẩm quyền xử phạt vi phạm trong lĩnh vực này.

23

Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong THADS theo quy định

của Nghị định số Nghị định 82/2020/NĐ-CP gồm 02 loại cơ quan, là cơ quan

Thanh tra (Điều 46 Luật Xử lý vi phạm hành chính) và cơ quan THADS

(Điều 49 Luật Xử lý vi phạm hành chính), các thẩm quyền này được cụ thể

hóa tại Nghị định số 82/2020/NĐ-CP như sau:

1. Thẩm quyển của Chánh Thanh tra Bộ Tư pháp Điều 84 của Nghị

định số 82/2020/NĐ-CP quy định Chánh Thanh tra Bộ Tư pháp có quyền:

phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền đến 40.000.000 đồng đối với hành vi vi phạm

hành chính trong lĩnh vực THADS, tịch thu tang vật phương tiện vi phạm

hành chính và áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại khoản 3

Điều 3 của Nghị định số 82/2020/NĐ-CP.

2. Thẩm quyền của cơ quan THADS Trong hoạt động THADS thì cơ

quan THADS là cơ quan thường xuyên và trực tiếp phải xử lý những vi phạm

hành chính của người phải thi hành án và những người có quyền lợi, nghĩa vụ

liên quan khác. Thẩm quyền này được quy định tại Điều 163 Luật

THADS,Điều 68 Nghị định số 110/2013/NĐ-CP và Điều 85 Nghị định số

82/2020/NĐ-CP như sau:

Thứ nhất, Chấp hành viên THADS đang thi hành công vụ có quyền:

- Phạt cảnh cáo;

- Phạt tiền đến 500.000 đồng.

Thứ hai, Chi cục trưởng Chi cục THADS có quyền:

- Phạt cảnh cáo;

- Phạt tiền đến 2.500.000 đồng;

24

Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính có giá trị không

vượt quá mức tiền phạt 2.500.000 đồng (Đây là thẩm quyền mới được bổ

sung so với Nghị định 110/2013, SĐ, BS 2015).

Ngoài ra, có thể áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả, quy định tại các

điểm a, c, n khoản 3 Điều 3 Nghị định 82/2020/NĐ-CP

Thứ ba, Cục trưởng Cục THADS, Trưởng phòng Phòng Thi hành án

cấpquân khu có quyền:

- Phạt cảnh cáo;

- Phạt tiền đến 20.000.000 đồng;

- Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính có giá trị không

vượt quá 20.000.000 đồng;

Ngoài ra, có thể áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả quy định

tại điểm a và điểm i khoản 1 Điều 28 Luật Xử lý vi phạm hành chính; các

điểm a, c và n khoản 3 Điều 3 Nghị định 82/2020/NĐ-CP.

Thứ tư, Tổng cục trưởng Tổng cục THADS có quyền:

- Phạt cảnh cáo;

- Phạt tiền đến 40.000.000 đồng;

- Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính;

Và được áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại điểm a và

điểm i khoản 1 Điều 28 Luật Xử lý vi phạm hành chính; các điểm a, c và n

khoản 3 Điều 3 Nghị định 82/2020/NĐ-CP

Theo quy định tại Điều 54 của Luật XLVPHC thì: Người có thẩm

quyền XPVPHC có thể giao cho cấp phó thực hiện thẩm quyền xử phạt vi

phạm hành chính. Người được giao quyền không được giao quyền, ủy quyền

25

cho bất kỳ người nào khác. Điều đó có nghĩa là quy định này không hạn chế

số lượng người cấp phó được người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành

chính giao quyền XPVPHC thường xuyên tại cùng một điểm.

Tuy nhiên, để đảm bảo việc giao quyền phù hợp, tránh chồng chéo,

đúng nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính, trong văn bản giao quyền phải

xác định rõ phạm vi, nội dung, thời hạn giao quyền theo lĩnh vực công tác

được phân công. Trường hợp đã giao quyền xử phạt vi phạm hành chính

thường xuyên cho một cấp phó, nhưng cấp phó được giao quyền thường

xuyên vắng mặt trong một thời gian nhất định, thì để đảm bảo nguyên tắc

XPVPHC, người có thẩm quyền xử phạt có thể tự mình ban hành quyết định

XPVPHC. Người có thẩm quyền cũng có thể giao quyền xử phạt cho một cấp

phó khác trong một thời gian nhất định hoặc theo vụ việc. Văn bản giao

quyền sau phải thể hiện được nội dung quyết định giao quyền này chấm dứt hiệu lực hoặc thay thế quyết định giao quyền trước đó.

Việc giao quyền xử phạt vi phạm hành chính được thực hiện thường

xuyên hoặc theo vụ việc và phải được thể hiện bằng văn bản, trong đó xác

định rõ phạm vi, nội dung, thời hạn giao quyền.

Cấp phó được giao quyền xử phạt vi phạm hành chính phải chịu trách

nhiệm về quyết định xử phạt vi phạm hành chính của mình trước cấp trưởng

và trước pháp luật. Người được giao quyền không được giao quyền, ủy quyền

cho bất kỳ người nào khác.

1.2.3. Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính trongthi hành án dân sự

Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự

không được quy định riêng tại Nghị định 82/2020/NĐ-CP. Vì vậy, khi xử

phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực này, cần áp dụng các thủ tục quy định

tại Mục 1 Chương III Luật xử lý vi phạm hành chính, từ Điều 55 đến 68 và

26

các nội dung hướng dẫn tại Nghị định 81/2013/NĐ-CP, Nghị định

97/2017/NĐ-CP để thực hiện.

Việc xử phạt được tiến hành bỡi các bước sau:

Bước 1: Buộc chấm dứt hành vi vi phạm hành chính

Theo đó, khi người có thẩm quyền đang thi hành công vụ phát hiện có

hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự đang diễn ra, để

đảm bảo hiệu quả công tác quản lý nhà nước trong việc xử lý các hành vi có

lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy định của pháp luật về quản lý

nhà nước nhưng chưa đến mức xử lý hình sự, Luật Xử lý vi phạm hành chính

quy định khi phát hiện có hành vi vi phạm hành chính thì người thi hành công

vụ phải đình chỉ ngay hành vi vi phạm, sau đó xem xét đối chiếu giữa hành vi

vi phạm với điều, khoản, điểm của Nghị định quy định xử lý vi phạm hành

chính ở lĩnh vực chuyên ngành để xem xét áp dụng mức phạt tương

ứng.Trong trường hợp này, người có thẩm quyền có thể thực hiện bằng lời

nói, còi, hiệu lệnh, văn bản hoặc hình thức khác theo quy định của pháp luật.

Bước 2: Phân loại vi phạm thuộc hay không thuộc trường hợp phải lập

biên bản xử phạt:

Người có thẩm quyền khi phát hiện có hành vi vi phạm hành chính thì

phải xem xét tính chất, mức độ vi phạm, hậu quả của hành vi vi phạm; đồng

thời xác định căn cứ phát hiện hành vi vi phạm hành chính để xác định hành

vi đó thuộc trường hợp phải lập hoặc không lập biên bản, hồ sơ xử phạt vi

phạm hành chính. Cụ thể:

- Xử phạt vi phạm hành chính không lập biên bản:

Nếu quyết định hình thức xử phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền đến 250.000

đồng đối với cá nhân, 500.000 đồng đối với tổ chức thì người có thẩm quyền

27

xử phạt phải ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính tại chỗ, mà không cần

lập biên bản.

- Xử phạt vi phạm hành chính có lập biên bản, hồ sơ xử phạt vi phạm

hành chính:

Trường hợp vi phạm hành chính được phát hiện nhờ sử dụng phương

tiện, thiết bị kỹ thuật, nghiệp vụ thì phải lập biên bản.

Đối với những trường hợp phải lập biên bản vi phạm hành chính thì,

người có thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính chỉ có quyền lập biên

bản về những vi phạm thuộc phạm vi thi hành công vụ, nhiệm vụ được giao

và chịu trách nhiệm về việc lập biên bản.

Việc lập biên bản vi phạm hành chính được hướng dẫn bởi Điều 6 Nghị

định 81/2013/NĐ-CP và đã được sửa đổi bởi Khoản 7 Điều 1 Nghị định

97/2017/NĐ-CP; Đồng thời phải lập thành hồ sơ xử phạt vi phạm hành chính.

Hồ sơ bao gồm biên bản vi phạm hành chính, quyết định xử phạt hành chính,

các tài liệu, giấy tờ có liên quan và phải được đánh bút lục.

- Bước 3: Xác minh tình tiết của vụ việc vi phạm hành chính; Xác định

giá trị tang vật vi phạm hành chính (nếu có) để làm căn cứ xác định khung

tiền phạt, thẩm quyền xử phạt; Cho đương sự giải trình (nếu thuộc trường hợp

được giải trình).

Khi xem xét ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính, trong trường

hợp cần thiết người có thẩm quyền xử phạt có trách nhiệm xác minh tình tiết

của vụ việc vi phạm hành chính như: Có hay không có vi phạm hành chính;

Cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm hành chính, lỗi, nhân thân của cá

nhân vi phạm hành chính; Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ; Tính chất, mức độ

thiệt hại do vi phạm hành chính gây ra;..Trong trường hợp cần xác định giá trị

tang vật vi phạm hành chính để làm căn cứ xác định khung tiền phạt, thẩm

28

quyền xử phạt, người có thẩm quyền đang giải quyết vụ việc phải xác định giá

trị tang vật và phải chịu trách nhiệm về việc xác định đó.

Đối với hành vi vi phạm hành chính mà pháp luật quy định áp dụng

hình thức xử phạt tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời

hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn hoặc áp dụng mức phạt tiền tối đa

của khung tiền phạt đối với hành vi đó từ 15.000.000 đồng trở lên đối với cá

nhân, từ 30.000.000 đồng trở lên đối với tổ chức thì cá nhân, tổ chức vi phạm

có quyền giải trình trực tiếp hoặc bằng văn bản với người có thẩm quyền xử

phạt vi phạm hành chính.

- Bước 4: Ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính

Người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính phải ra quyết định

xử phạt vi phạm hành chính trong thời hạn luật định.

Lưu ý: Khi xem xét vụ vi phạm để quyết định xử phạt vi phạm hành

chính, nếu xét thấy hành vi vi phạm có dấu hiệu tội phạm, thì người có thẩm

quyền xử phạt phải chuyển ngay hồ sơ vụ vi phạm cho cơ quan tiến hành tố

tụng hình sự. Việc chuyển hồ sơ của người bị áp dụng biện pháp đưa vào

trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc có dấu hiệu tội phạm để truy cứu

trách nhiệm hình sự được hướng dẫn bởi Điều 8 Nghị định 02/2014/NĐ-CP.

- Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực THADS

Nghị định số 82/2020/NĐ-CP không quy định về thời hiệu xử phạt vi

phạm hành chính đối với hành vi VPHC trong lĩnh vực THADS. Vì vậy, khi

xử lý các loại hành vi này, cần căn cứ Điều 6 của Luật xử lý vi phạm hành

chính để xác định thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính, theo đó: Thời hiệu

xử phạt VPHC là 01 năm.

29

Thời điểm để tính thời hiệu xử phạt VPHC được quy định như sau:

Thời hiệu xử phạt VPHC đối với các hành vi VPHC trong lĩnh vực

THADS là 01 năm tính từ thời điểm chấm dứt hành vi vi phạm trong trường

hợp hành vi VPHC đã kết thúc hoặc từ thời điểm phát hiện hành vi vi phạm

trong trường hợp VPHC đang được thực hiện.

Trường hợp XPVPHC đối với cá nhân do cơ quan tiến hành tố tụng

chuyển đến thì thời hiệu được áp dụng theo quy định tại điểm a và điểm b

khoản 2 Điều 6 Luật XLVPHC. Thời gian cơ quan tiến hành tố tụng thụ lý,

xem xét được tính vào thời hiệu XPVPHC.

Bên cạnh đó, trong thời hạn nêu trên mà cá nhân, tổ chức cố tình trốn

tránh, cản trở việc xử phạt thì thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính được tính

lại kể từ thời điểm chấm dứt hành vi trốn tránh, cản trở việc xử phạt.

- Thời hạn ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính

Người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính phải ra quyết định

xử phạt vi phạm hành chính trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày lập biên bản vi

phạm hành chính. Đối với vụ việc có nhiều tình tiết phức tạp mà không thuộc

trường hợp giải trình hoặc đối với vụ việc thuộc trường hợp giải trình theo

quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 61 của Luật xử lý vi phạm hành chính

thì thời hạn ra quyết định xử phạt tối đa là 30 ngày, kể từ ngày lập biên bản.

Trường hợp vụ việc đặc biệt nghiêm trọng, có nhiều tình tiết phức tạp và

thuộc trường hợp giải trình mà cần có thêm thời gian để xác minh, thu thập

chứng cứ thì người có thẩm quyền đang giải quyết vụ việc phải báo cáo thủ

trưởng trực tiếp của mình (thủ trưởng trực tiếp của người có thẩm quyền đang

giải quyết vụ việc được hướng dẫn bởi khoản 13 Điều 1 Nghị định

97/2017/NĐ-CP) để xin gia hạn, thời hạn gia hạn không quá 30 ngày.

30

Cách tính thời gian, thời hạn, thời hiệu trong xử lý vi phạm hành chính

được quy định tại Điều 8 Luật xử lý vi phạm hành chính. Cụ thể:

+ Cách tính thời hạn, thời hiệu trong xử lý vi phạm hành chính được áp

dụng theo quy định của Bộ luật dân sự, trừ trường hợp trong Luật này có quy

định cụ thể thời gian theo ngày làm việc.

+ Thời gian ban đêm được tính từ 22 giờ ngày hôm trước đến 06 giờ

ngày hôm sau.

- Nội dung quyết định xử phạt vi phạm hành chính

Quyết định xử phạt vi phạm hành chính phải bao gồm các nội dung

chính sau đây: Địa danh, ngày, tháng, năm ra quyết định; Căn cứ pháp lý để

ban hành quyết định; Biên bản vi phạm hành chính, kết quả xác minh, văn

bản giải trình của cá nhân, tổ chức vi phạm hoặc biên bản họp giải trình và tài

liệu khác (nếu có); Họ, tên, chức vụ của người ra quyết định; Họ, tên, địa chỉ,

nghề nghiệp của người vi phạm hoặc tên, địa chỉ của tổ chức vi phạm; Hành

vi vi phạm hành chính; tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng; Điều, khoản của

văn bản pháp luật được áp dụng; Hình thức xử phạt chính; hình thức xử phạt

bổ sung, biện pháp khắc phục hậu quả (nếu có); Quyền khiếu nại, khởi kiện

đối với quyết định xử phạt vi phạm hành chính; Hiệu lực của quyết định, thời

hạn và nơi thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính, nơi nộp tiền phạt;

Họ tên, chữ ký của người ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính; Trách

nhiệm thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính và việc cưỡng chế

trong trường hợp cá nhân, tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính không tự

nguyện chấp hành.

Trường hợp ban hành một quyết định xử phạt vi phạm hành chính

chung đối với nhiều cá nhân, tổ chức cùng thực hiện một hành vi vi phạm

hoặc nhiều cá nhân, tổ chức thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính khác

31

nhau trong cùng một vụ vi phạm thì nội dung hành vi vi phạm, hình thức,

mức xử phạt đối với từng cá nhân, tổ chức phải xác định cụ thể, rõ ràng.

- Hình thức xử phạt

Hình thức xử phạt hành chính là các chế tài được nhà nước áp dụng để

giúp cho hoạt động quản lý hành chính được thực hiện có hiệu quả hơn, pháp

luật được tôn trọng và đảm bảo thực hiện. Trong xử phạt vi phạm hành chính

có hai nhóm hình thức là xử phạt chính và xử phạt bổ sung.

+ Hình thức xử phạt chính

Hình thức xử phạt chính là hình thức được áp dụng một cách độc lập,

nghĩa là đối với mỗi vi phạm hành chính có thể áp dụng một hình thức phạt

chính mà không nhất thiết phải áp dụng các hình thức phạt bổ sung kèm theo,

nhưng chỉ có thể áp dụng một hình thức phạt chính đối với một hành vi.

Theo quy định tại Chương V của Nghị định 82/2020/NĐ-CP, quy định

về hành vi VPHC, hình thức xử phạt, mức xử phạt và biện pháp khắc phục

hậu quả trong lĩnh vực THADS, thì chỉ có hai hình thức xử phạt chính là

“cảnh cáo” hoặc “phạt tiền”.

Cảnh cáo là hình thức phạt được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức khi

vi phạm hành chính nhỏ, lần đầu, có tình tiết giảm nhẹ. So với hình thức phạt

tiền thì cảnh cáo là hình thức xử phạt nhẹ hơn, mang ý nghĩa giáo dục nhiều

hơn là trừng phạt. Mục đích của hình thức xử phạt cảnh cáo không nhằm gây

ra thiệt hại về vật chất, kinh tế mà nhằm ngăn chặn, xử lý kịp thời các cá

nhân, tổ chức đã có hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực THDS, từ đó

giáo dục pháp luật đối với chủ thể vi phạm. Tại Điều 22 Luật Xử lý vi phạm

hành chính quy định: “Cảnh cáo được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức vi

phạm hành chính không nghiêm trọng, có tình tiết giảm nhẹ và theo quy định

thì bị áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo hoặc đối với mọi hành vi vi phạm

32

hành chính do người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện.

Cảnh cáo được thực hiện bằng văn bản”. Cảnh cáo là hình thức xử phạt mang

tính cưỡng chế nhà nước nhưng nó cũng mang nặng ý nghĩa giáo dục.

Tuy luật không nêu ra cụ thể, nhưng đối với cá nhân từ đủ 16 tuổi trở

lên hoặc tổ chức vi phạm hành chính thì áp dụng hình thức phạt cảnh cáo khi

có đủ các điều kiện:

Thứ nhất, hành vi vi phạm mà tổ chức, cá nhân thực hiện được văn bản

pháp luật quy định là có thể áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo. Nếu loại vi

phạm đó mà pháp luật quy định chỉ áp dụng hình thức phạt tiền, thì không

được áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo.

Thứ hai, việc áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo đối với tổ chức, cá

nhân vi phạm hành chính chỉ mới được thực hiện khi đó là vi phạm lần đầu và

có các tình tiết giảm nhẹ và đó là vi phạm nhỏ.

Phạt tiền là việc tước bỏ một khoản tiền của chủ thể để sung vào công

quỹ nhà nước, phạt tiền là hình thức xử phạt chính được quy định tại Điều 23

Luật Xử lý vi phạm hành chính. Việc lựa chọn, áp dụng mức phạt tiền đối với

người vi phạm phải trong khung phạt cụ thể được văn bản pháp luật quy định

cho loại vi phạm đã được thực hiện theo cách: khi phạt tiền, mức phạt cụ thể

đối với một hành vi vi phạm hành chính là mức trung bình của khung tiền

phạt được quy định đối với hành vi đó; nếu có tình tiết giảm nhẹ thì mức phạt

tiền có thể giảm xuống nhưng không được giảm quá mức tối thiểu của khung

tiền phạt; nếu có tình tiết tăng nặng thì mức phạt tiền có thể tăng lên nhưng

không được vượt quá mức tối đa của khung tiền phạt.

Việc lựa chọn áp dụng mức phạt tiền đối với người chưa thành niên vi

phạm hành chính có những nét đặc thù riêng biệt như sau: người từ đủ 14 tuổi

đến dưới 16 tuổi vi phạm hành chính thì bị phạt cảnh cáo, không phạt tiền.

33

Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi vi phạm hành chính thì có thể áp dụng

hình thức xử phạt vi phạm hành chính được quy định tại Điều 23 Luật Xử lý

vi phạm hành chính. Khi phạt tiền với họ thì mức phạt tiền không quá một

phần hai mức phạt đối với người thành niên. Trong trường hợp họ không có

tiền thì cha mẹ hoặc người giám hộ phải nộp thay. Khi quyết định xử phạt

một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính thì người có thẩm

quyền chỉ ra một quyết định xử phạt trong đó quyết định hình thức, mức xử

phạt đối với từng hành vi vi phạm, nếu các hình thức xử phạt là phạt tiền thì

được cộng lại thành mức phạt chung. Cá nhân, tổ chức vi phạm bị phạt tiền có

thể nộp phạt tiền tại chỗ hoặc tại kho bạc nhà nước theo đúng quy định của

pháp luật và được nhận biên lai thu tiền phạt.

1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc xử phạt vi phạm hành chính

trong lĩnh vực thi hành án dân sự

1.3.1.Yếu tố pháp luật

Trong thực tiễn, vị trí thượng tôn của pháp luật chỉ có thể đạt được khi

pháp luật được thực thi một cách nghiêm minh và được các tổ chức, cá nhân

tuân thủ một cách nghiêm túc, triệt để. Pháp luật nghiêm minh là điều kiện

tiên quyết để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, xây dựng một xã

hội trật tự, kỷ cương, ổn định, qua đó, góp phần quan trọng củng cố niềm tin

của nhân dân vào lẽ phải, lẽ công bằng, sự tiến bộ và tính ưu việt của chế độ.

Thi hành bản án, quyết định dân sự là khâu cuối của quá trình tố tụng, nhằm

hiện thực hóa những bản án, quyết định của Tòa án vào thực tiễn cuộc sống;

đảm bảo công lý được thực thi, có vị trí, ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ

tính nghiêm minh của pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công

dân, xây dựng một xã hội trật tự, kỷ cương và ổn định. Vì vậy, một hệ thống

34

pháp luật hoàn thiện, sát hợp với thực tiễn, sẽ là cơ sở pháp lý quan trọng đảm

bảo cho việc thi hành trên thực tế.

Những năm qua, Đảng và nhà nước ta đã rất quan tâm, chú trọng đến

công tác thi hành án dân sự; ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật điều

chỉnh các hoạt động trong lĩnh vực này; đặc biệt là các chế tài về xử phạt vi

phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự đã được quan tâm, nghiên

cứu, sửa đổi, bổ sung kịp thời nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Tuy nhiên,

vẫn còn có một số quy định chưa thực sự phù hợp, dẫn đến những bất cập,

vướng mắc khi áp dụng; làm hạn chế phần nào chất lượng công tác thi hành

án dân sự nói chung và trên địa bàn tỉnh Quảng Bình nói riêng.

1.3.2.Yếu tố chính trị

Yếu tố chính trị có ảnh hưởng mạnh mẽ tới hiệu quả của hoạt động thực

hiện pháp luật của các chủ thể pháp luật, đặc biệt là các cá nhân, cơ quan nhà

nước có thẩm quyền áp dụng pháp luật. Trong hoạt động thực hiện pháp luật,

ý thức thể hiện, trước hết, ở việc các chủ thể có chức năng áp dụng pháp luật

quán triệt, thấm nhuần nhiệm vụ chính trị của mình, lãnh đạo, chỉ đạo thường

xuyên, sâu sát quá trình thực hiện, áp dụng pháp luật, giữ nghiêm kỷ cương,

phép nước. Điều đó sẽ giúp cho hoạt động thực tiễn pháp luật thật sự đạt chất

lượng, hiệu quả cao, khơi dậy ý thức, trách nhiệm chính trị của các chủ thể

khác trong thực hiện pháp luật.

Muốn pháp luật được tôn trọng và thưc hiện nghiêm túc, mà cụ thể

trong trường hợp này là việc phòng, chống các hành vi vi phạm hành chính

trong lĩnh vực thi hành án dân sự đạt hiệu quả cao, thì cán bộ chấp hành viên

làm công tác thi hành án phải là những người đi trước, gương mẫu thực hiện

và có “năng lực tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối của đảng

pháp luật của nhà nước, công tâm, thạo việc, tận tụy với dân, biết phát huy

35

sức dân”. Khi ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính, cơ quan thi hành án,

người có thẩm quyền ra quyết định, ngoài yếu tố pháp luật cũng cần phải lưu

ý đến yếu tố chính trị của của địa phương tại thời điểm đó để đảm bảo vận

dụng linh hoạt, mềm dẻo và đạt hiệu quả cao, không nên quá cứng nhắc; có

những trường hợp để đảm bảo ổn định tình hình chính trị của địa phương, thì

cần phải cân nhắc, xem xét kỹ lưỡng trước khi ban hành quyết định xử phạt

hoặc không ra quyết định xử phạt.

Tuy nhiên, kết quả của hoạt động THADS, không chỉ đơn thuần phụ

thuộc vào ý chí chủ quan của Chấp hành viên, cơ quan THADS mà còn lệ

thuộc rất nhiều vào hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, vai trò của

cơ quan điều tra công an, chức năng kiểm tra, giám sát của Viện kiểm sát các

cấp, chất lượng xét xử của Tòa án. Một bản án không nghiêm minh, không

đúng pháp luật, chưa thấu tình đạt lý thì hậu quả giải quyết ở giai đoạn

THADS vô cùng khó khăn, phức tạp; ngoài ra hiệu quả hoạt động còn phụ

thuộc cả vào sự phối của các cấp, các ngành hữu quan, sự đồng tâm, hợp lực

của cả hệ thống chính trị tại địa phương, cần thiết phải thực hiện đồng bộ các

giải pháp, thì công tác THADS mới thực sự đem lại hiệu quả thiết thực, xứng

đáng với sự mong đợi của người dân cũng như toàn xã hội.

1.3.3. Yếu tố con người

Để bản án, quyết định của Tòa án được thực thi trên thực tế, công tác

THADS do những Chấp hành viên, cán bộ thi hành án tổ chức thực hiện,

đóng vai trò rất quan trọng, đặc biệt trong điều kiện kinh tế, xã hội phát triển,

các hoạt động sản xuất, kinh doanh, thương mại diễn ra ở hầu hết các lĩnh

vực, cũng chính vì thế mà các tranh chấp dân sự, kinh tế, lao động, thương

mại ngày càng gia tăng, tính chất vụ việc phức tạp. Vì vậy, để hoạt động

THADS không những đạt hiệu quả cao, góp phần trực tiếp, tích cực vào việc

36

bảo vệ quyền con người, quyền công dân mà còn góp phần quan trọng vào sự

nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và địa phương thì yếu tố con

người thực thi nhiệm vụ cũng rất quan trọng. Bởi, nếu cơ quan, thủ trưởng cơ

quan và người có thẩm quyền trong công tác THADS phát huy hết vai trò,

trách nhiệm của mình; nghiêm minh trong phát hiện và xử phạt các hành vi

VPHC trong lĩnh vực THADS, thì sẽ đấu tranh, phòng ngừa được các hành vi

vi phạm; góp phần tháo gỡ khó khăn, khơi thông, thúc đẩy phát triển sản xuất,

kinh doanh thông qua hoạt động thu hồi nợ, giảm nợ xấu và mở rộng tín dụng,

bảo vệ quyền chủ nợ và thu hồi nợ của các tổ chức tín dụng hay nâng cao an

sinh xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động thông qua

việc xử lý kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật.

1.3.4. Điều kiện phương tiện để thực thi nhiệm vụ

Do tính chất của hoạt động THADS trực tiếp liên quan đến quyền và lợi

ích của người được thi hành án, người phải thi hành án, người có quyền lợi

nghĩa vụ liên quan đến bản án, quyết định thi hành án, ở nhiều lĩnh vực khác

nhau, mỗi lĩnh vực đều có những quy định riêng, đặc thù riêng. Để xác minh,

truy tìm tài sản của người phải thi hành án là việc làm không đơn giản đối với

các Chấp hành viên, cơ quan THADS, chưa kể đến những khó khăn từ phía

các đương sự, do những đối tượng này không hợp tác với các Chấp hành viên,

cơ quan THADS (tẩu tán, che giấu tài sản nhằm trốn tránh nghĩa vụ thi hành

án, thậm chí là chống đối quyết liệt Chấp hành viên trong quá trình tác

nghiệp). Vì vậy, đảm bảo các điều kiện về cơ sở vật chất, công cụ phương tiện

phục vụ công tác này là vấn đề có ý nghĩa quan trọng, góp phần nâng cao hiệu

quả hoạt động thi hành án, xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực

THADS.

37

Điều kiện phương thiện thực thi nhiệm vụ ở đây không chỉ là đơn thuần

là cơ sở vật chất, trang thiết bị mà còn là điều kiện về cơ sở pháp lý, chế tài

hành chính để bảo vệ Chấp hành viên khi thực thi nhiệm vụ.

Tiểu kết chương 1

Qua chương này, tác giả đã lần lượt trình bày các khái niệm cụ thể về

THADS, vi phạm hành chính hay xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực

THADS để phần nào giúp người đọc hiểu rõ những vấn đề cốt lõi; mặt khác

việc tìm hiểu các khái niệm đó là bước đầu để tạo nền tảng cho quá trình

nghiên cứu tên đề tài. Bên cạnh đó, tác giả đã phân tích khá cụ thể, chi tiết

từng hành vi, yếu tố lỗi, tâm lý bên trong con người, độ tuổi hay những mối

quan hệ xã hội để cấu thành nên vi phạm hành chính qua đó giúp làm sáng tỏ,

nói lên tầm quan trọng, vai trò của hoạt động xử phạt trong lĩnh vực THADS.

Đồng thời thông qua việc phân tích các quy định của pháp luật hiện hành về

xử phạt VPHC trong lĩnh vực THADS, tác giả đã làm rõ được những bất cập,

vướng mắc trong thực tiễn áp dụng; đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt

động XPVPHC trong lĩnh vực này, để từ đó đề xuất giải pháp nhằm hoàn

thiện hệ thống pháp luật trong lĩnh vực này.

38

CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG

LĨNH VỰC THI HÀNH ÁN DÂN SỰTẠI TỈNH QUẢNG BÌNH

2.1. Tình hình tổ chức, hoạt động của các cơ quan thi hành án dân

sự tỉnh Quảng Bình

2.1.1. Khái quát chung về tổ chức, hoạt động của các cơ quan thi

hành án dân sự tỉnh Quảng Bình

Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình được thành lập theo Quyết

định số 2879/QĐ-BTP ngày 06/11/2009, Cục Thi hành án dân sự là cơ quan

thuộc Tổng cục Thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp, thực hiện nhiệm vụ thi

hành án dân sự theo quy định của pháp luật, thực hiện chức năng thi hành án

dân sự, có nhiệm vụ giúp Tổng cục Thi hành án dân sự quản lý một số mặt

công tác tổ chức cán bộ, cơ sở vật chất, kinh phí, phương tiện hoạt động các

nhiệm vụ, quyền hạn khác của các cơ quan Thi hành án dân sự trên địa bàn

tỉnh Quảng Bình theo quy định của pháp luật, phân cấp của Bộ trưởng Bộ Tư

pháp và Tổng cục Thi hành án dân sự; đồng thời, Cục Thi hành án dân sự tỉnh

Quảng Bình giúp Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình thực hiện trách nhiệm,

quyền hạn của mình theo quy định của pháp luật.

Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình có 04 Phòng chuyên môn trực

thuộc, gồm: Văn phòng Cục; phòng Nghiệp vụ và tổ chức thi hành án; phòng

Kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo; phòng Tổ chức cán bộ và 08 Chi cục

Thi hành án dân sự huyện, thị xã, thành phố trực thuộc, gồm: Chi cục Thi

hành án dân sự huyện Lệ Thủy, Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quảng

Ninh, Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đồng Hới, Chi cục Thi hành án

dân sự huyện Bố Trạch, Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quảng Trạch, Chi

cục Thi hành án dân sự thị xã Ba Đồn, Chi cục Thi hành án dân sự huyện

39

Tuyên Hóa, Chi cục Thi hành án dân sự huyện Minh Hóa. Các Chi cục Thi

hành án dân sự trực thuộc Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình, thực hiện

nhiệm vụ thi hành án và các nhiệm vụ quyền hạn khác theo quy định của pháp

luật; đồng thời, chịu sự chỉ đạo của Ủy ban nhân dân cùng cấp theo quy định

của pháp luật.

Cơ cấu biên chế của các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình:

Theo Quyết định số 474/QĐ-TCTHADS ngày 14/4/2017 của Tổng cục Thi

hành án dân sự - Bộ Tư pháp về việc giao biên chế công chức hành chính Nhà

nước năm 2017 đối với các cơ quan Thi hành án dân sự, thì các cơ quan Thi

hành án dân sự tỉnh Quảng Bình được giao tổng cộng 96 biên chế, trong đó tại

Cục Thi hành án dân sự tỉnh được giao 23, các Chi cục Thi hành án dân sự

huyện, thị xã, thành phố được giao 73 biên chế. Số biên chế đã thực hiện

(tính đến 30/10/2020) được 96 biên chế, trong đó: ở Cục Thi hành án dân sự

thực hiện được 23/23 biên chế, Chi cục Thi hành án dân sự huyện, thị xã,

thành phố trong tỉnh thực hiện được 73/73 biên chế. Cụ thể phân bổ như sau:

Ở cấp tỉnh: Tổng biên chế được giao là 23 biên chế, trong đó: về ngạch

công chức: có 10 Chấp hành viên (01 Chấp hành viên cao cấp, 08 Chấp hành

viên trung cấp và 01 Chấp hành viên sơ cấp); 05 Thẩm tra viên (02 Thẩm tra

viên chính, 03 Thẩm tra viên); 05 Thư ký thi hành án; 03 công chức khác (02

Kế toán, 01 Văn thư,). Xét về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ: 05 công chức có trình độ thạc sĩ Luật; 18 công chức có trình độ Cử nhân.4

Về cơ cấu chức danh lãnh đạo và công chức thừa hành nhiệm vụ: Lãnh

đạo Cục có 01 Cục trưởng và 03 Phó Cục trưởng. Các phòng chuyên môn:

Văn phòng Cục có 01 Chánh Văn phònglà Thẩm tra viên chính, 01 Phó chánh

Văn phòng là Thẩm tra viên, 01 thư ký thi hành án, 02 kế toán (01 kế toán

4 Báo cáo Tổng kết công tác thi hành án dân sự năm 2020 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình

nghiệp vụ, 01 kế toán hành chính) và 01 Văn thư trung cấp; Phòng Nghiệp vụ

40

và tổ chức thi hành án có 01 Trưởng phòng, 02 Phó trưởng phòng, 01 Chấp

hành viên trung cấp, 01 Chấp hành viên sơ cấp và 02 Thư ký thi hành án;

Phòng Kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo có 01 Trưởng phòng, 01 Phó

Trưởng phòng và 01 Thẩm tra viên; Phòng Tổ chức cán bộ có 01 Trưởng

phòng, 01 Phó trưởng phòng và 01 Thư ký thi hành án.

Ơ cấp huyện: Tổng số biên chế giao cho các Chi cục Thi hành án dân

sự là 73 biên chế, phân bổ cho 08 Chi cục. Cụ thể: Chi cục Thi hành án dân sự

huyện Lệ Thủy 10 biên chế, Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quảng Ninh

07 biên chế, Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đồng Hới 14 biên chế, Chi

cục Thi hành án dân sự huyện Bố Trạch 11 biên chế, Chi cục Thi hành án dân

sự huyện Quảng Trạch 08 biên chế, Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Ba Đồn

9 biên chế, Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tuyên Hóa 07 biên chế, Chi

cục Thi hành án dân sự huyện Minh Hóa 07 biên chế. Trong đó: về ngạch

công chức: có 33 Chấp hành viên (12 Chấp hành viên trung cấp và 21 Chấp

hành viên sơ cấp); 07 Thẩm tra viên; 11 Thư ký thi hành án và 01 Thư ký thi

hành án trung cấp; 09 công chức Kế toán (Kế toán viên: 5; Kế toán viên cao

đẳng: 1 và Kế toán viên trung cấp: 3) và 08 văn thư. Xét về trình độ chuyên

môn, nghiệp vụ: 05 công chức có trình độ thạc sĩ Luật; 66 công chức có trình

độ Cử nhân, 01 công chức có trình độ cao đẳng và 02 công chức có trình độ

trung cấp.

2.1.2 Thực trạng tổ chức, hoạt động của các cơ quan thi hành án dân

sự tỉnh Quảng Bình có liên quan trực tiếp đến xử phạt vi phạm hành chính

trong lĩnh vực thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh

Đặc thù các vụ việc thi hành án ở tỉnh Quảng Bình chủ yếu là các loại

việc liên quan đến án hình sự mà đương sự có hoàn cảnh khó khăn; các vụ án

dân sự về tranh chấp đất đai, tài sản, hợp đồng thương mại, tín dụng ngân

hàng, những năm gần đây án ma túy, cho vay nặng lãi, tổ chức đánh bạc với

41

số đối tượng phải thi hành án và người bị hại, người có quyền lợi liên quan

lên đến vài chục người; án lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tín dụng ngân hàng với

số tiền phải thi hành lên đến 1.000 tỷ đồng. Trong những năm qua, các cơ

quan Thi hành án dân sự của tỉnh Quảng Bình phải tổ chức thi hành với số

lượng lớn việc và tiền. Xác định, công tác chuyên môn nghiệp vụ là nhiệm vụ

hết sức quan trọng, vì vậy lãnh đạo các cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Quảng

Bình đã rất quan tâm chú trọng bố trí những cán bộ, chấp hành viên có năng

lực chuyên môn nghiệp vụ cao, có bản lĩnh chính trị vững vàng, tâm huyết để

đảm nhận nhiệm vụ. Cụ thể, ở cấp tỉnh, giao cho phòng Nghiệp vụ và tổ chức

thi hành án thực hiện công tác tổ chức thi hành các bản án, quyết định có hiệu

lực của Tòa án, với tổng biên chế là 07 người; trong đó có 04 Chấp hành viên

trung cấp, 01 chấp hành viên sơ cấp và 02 Thư ký.

Ở cấp huyện, giao cho 33 Chấp hành viên Chi cục THADS tổ chức thi

hành án với số lượng việc phải thi hành bình quân hàng năm trên 3.000 việc.

Trong quá trình tổ chức thi hành hành án nếu có phát sinh vướng mắc, khó

khăn thì thực hiện thủ tục xin ý kiến chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ của Cục

Thi hành án dân sự tỉnh hoặc trường hợp khi tổ chức thi hành án phát sinh vấn

đề phức tạp liên quan đến chính sách, dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà

nước; việc thi hành án có quan điểm khác nhau giữa các cơ quan nhà nước có

thẩm quyền hoặc có tình huống pháp lý mà pháp luật chưa quy định, quy định

chưa cụ thể hoặc pháp luật có mâu thuẫn, xung đột; việc thi hành án có nhiều

tài sản nằm trên các địa bàn của tỉnh; việc thi hành án liên quan đến tội phạm

về tham nhũng thuộc diện án trọng điểm mà Ban Chỉ đạo Trung ương về

phòng, chống tham nhũng hoặc Tỉnh ủy theo dõi chỉ đạo thì Cục THADS tỉnh

sẻ rút hồ sơ lên thi hành.

Trong quá trình tổ chức thi hành án, nếu phát hiện có hành vi vi phạm

hành chính trong lĩnh vực này thì những người có thẩm quyền sẽ trực tiếp ra

42

quyết định xử phạt hoặc lập hồ sơ báo cáo và đề nghị người có thẩm quyền ra

quyết định xử phạt theo quy định.

Tuy nhiên, hiện nay số lượng biên chế các chức danh tư pháp như chấp

hành viên trung cấp, chấp hành viên sơ cấp làm công tác nghiệp vụ, tổ chức

thi hành án ở các cơ quan thi hành án dân sự hai cấp của tỉnh Quảng Bình còn

thấp. Tính đến tháng 10/2020 toàn ngành Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình

có 01 chấp hành viên cao cấp; 20 chấp hành viên trung cấp và 22 chấp hành viên sơ cấpnên còn thiếu nhân lực để thực thi nhiệm vụ.5

Bảng 2.1: Số lượng Chấp hành viên các cơ quan thi hành án dân sự

tỉnh Quảng Bình tính đến ngày 30/10/2020

Ngạch Số lượng (người) Tuổi

22 Từ 32 – 60 Chấp hành viên sơ cấp

20 Từ 42 – 59 Chấp hành viên trung cấp

1 Trên 55 Chấp hành viên cao cấp

Nguồn: Báo cáo Tổng kết công tác thi hành án dân sự năm 2020 của

Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình.

2.2. Kết quả đạt được trong hoạt động xử phạt vi phạm hành chính

trong lĩnh vực thi hành án dân sự tại tỉnh Quảng Bình

2.2.1. Kết quả xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành

án dân sự tại tỉnh Quảng Bình

Trong những năm qua, dưới sự chỉ đạo của Tỉnh uỷ, UBND tỉnh và sự

chỉ đạo trực tiếp của Bộ Tư pháp, Tổng cục thi hành án dân sự, công tác thi

hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Quảng Bình đã đạt được được những kết quả 5 Báo cáo Tổng kết công tác thi hành án dân sự năm 2020 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình

43

quan trọng góp phần vào việc hoàn thành và ổn định tình hình an ninh, chính

trị trên địa bàn tỉnh. Hệ thống các cơ quan thi hành án dân sự trong tỉnh không

ngừng được củng cố, kiện toàn; đội ngũ cán bộ được tăng cường cả về số

lượng và chất lượng; cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho nhu cầu công

tác của cơ quan thi hành án dân sự trong toàn tỉnh ngày càng được hoàn thiện;

công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về thi hành án dân sự đã từng bước

được chú trọng; sự phối kết hợp giữa các cơ quan thi hành án dân sự với các

cơ quan liên quan trong công tác thi hành án dân sự được tăng cường; kết quả

công tác thi hành án dân sự có nhiều chuyển biến tích cực, tỉ lệ giải quyết thi

hành án dân sự tăng cả về số việc và số tiền, án tồn đọng giảm, nhiều vụ việc

phức tạp, tồn đọng kéo dài đã được giải quyết dứt điểm, bảo đảm các quyền

và lợi ích hợp pháp của nhà nước, tập thể và côn dâng theo quy định của pháp

luật; hiệu lực quản lý nhà nước ngày càng được củng cố tăng cường, góp phần

giữ vững an ninh, chính trị, trật tự an toàn, xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho

sự phát triển kinh tế-xã hội trên địa bàn tỉnh.

Một trong những kết quả quan trọng trong công tác THADS trong 5

năm qua đó là tạo sự chuyển biến tích cực về nhận thức của cấp ủy, chính

quyền các cấp, các ngành, đoàn thể và công dân về công tác THADS. Cơ chế

mới đã huy động sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, tạo nên sự gắn kết và

phối hợp ngày càng cao nhằm đẩy mạnh hiệu quả công tác THADS trên địa

bàn tỉnh. Có được kết quả đó là do lãnh đạo các cơ quan THADS đã tăng

cường công tác tham mưu với các cấp ủy, chính quyền về tầm quan trọng của

công tác THADS, tích cực cho ý kiến và đôn đốc, kiểm tra, tạo điều kiện

thuận lợi cho cán bộ, chấp hành viên thực thi nhiệm vụ. Nhiều UBND cấp xã

chủ động bố trí cán bộ phối hợp với cán bộ thi hành án cung cấp đầy đủ thông

tin về đương sự là người của địa phương, hỗ trợ chấp hành viên làm tốt công

tác hòa giải, thuyết phục đương sự tự nguyện thi hành án…

44

Bảng 2.2: Kết quả thi hành án dân thi hành án dân sự về việc của

các cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình giai đoạn từ 2016- 2020

Năm Côngtác Tổng số việc phải thi hành Tổng số việc có điều kiện thi hành Tổng số việc thi hành xong Tỷ lệ thi hành xong/số việc có điều kiện

2016 3.801 2.956 90% 3.261

2017 4.106 3.173 90% 3.504

2018 3.864 2.747 89% 3.059

2019 4.502 3.041 84% 3.584

2020 4.097 3.136 86% 3.624

Nguồn: Báo cáo Tổng kết công tác thi hành án dân sự

giai đoạn2016-2020 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình.

Bảng 2.3: Kết quả thi hành án dân sự về tiền của các cơ quan thi hành án

dân sựtỉnh Quảng Bình giai đoạn từ 2016 - 2020

Năm công tác Tổng số tiền phải thi hành (1.000đ) Tổng số tiền có điều kiện thi hành (1.000đ) Tổng số tiền thi hành xong (1.000đ) Tỷ lệ thi hành xong/số tiền có điều kiện

2016 293.827.542 132.677.038 46.378.753 35%

2017 448.658.740 150.643.167 70.132.314 46%

2018 325.473.141 182.918.501 113.829.414 62%

1.297.278.785 278.096.818 104.486.594 38% 2019

2.213.088.324 601.246.567 74.567.768 13% 2020

Nguồn: Báo cáo Tổng kết công tác thi hành án dân sự giai đoạn2016-

2020 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình.

45

Từ số liệu trên, có thể thấy rằng trong 05 năm qua, các cơ quan Thi

hành án dân sự tỉnh Quảng Bình đã luôn nỗ lực để hoàn thành chức năng

nhiệm vụ thi hành án, đảm bảo các bản án, quyết định có hiệu lực được thực

thi một cách nghiêm túc, đúng quy định; quyền và lợi ích hợp pháp của công

dân được quan tâm, bảo vệ. Tuy nhiên nếu so sánh kết quả thi hành án dân

THADS về việc với kết quả THADS về tiền của các cơ quan THADS tỉnh

Quảng Bình giai đoạn từ 2016- 2020 thì tỷ lệ thi hành xong đối với các việc

có điều kiện thi hành đạt tương đối cao (đạt 87.8%) so với tỷ lệ thi hành án về

tiền (38,8%).Các năm 2019, 2020, tỷ lệ thi hành xong/tổng số các việc và tiền

có điều kiện thi hành giảm so với những năm trước, đặc biệt là tỷ lệ thi hành

xong về tiền đạt thấp do tài sản kê biên là dây chuyền sản xuất nhà máy đã

đưa ra bán đấu giá nhưng chưa có người mua; song song với đó là số việc phải thi hành cũng tăng đáng kể ở những năm 2019, 2020.6

Gắn với việc ra quyết định thi hành án để tổ chức thi hành bản án,

quyết định của Tòa án có hiệu quả là việc thực hiện các chế tài có liên quan

để xử lý kịp thời các hành vi vi phạm trong quá trình thi hành án, mà chủ yếu

là các hành vi vi phạm hành chính, như: Đã nhận giấy báo, giấy triệu tập lần

thứ hai nhưng không có mặt để thực hiện việc thi hành án mà không có lý do

chính đáng; Cố tình không thực hiện quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp

tạm thời của Tòa án hoặc bản án, quyết định phải thi hành ngay; Không thực

hiện công việc phải làm hoặc không chấm dứt thực hiện công việc không

được làm theo bản án, quyết định; Có điều kiện thi hành án nhưng cố tình trì

hoãn việc thực hiện nghĩa vụ thi hành án; Tẩu tán hoặc làm hư hỏng tài sản để

không thực hiện nghĩa vụ thi hành án hoặc để trốn tránh việc kê biên tài sản;

6 Báo cáo Tổng kết công tác thi hành án dân sự giai đoạn 2016-2020 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình

Không thực hiện yêu cầu của Chấp hành viên về việc cung cấp thông tin, giao

46

giấy tờ liên quan đến tài sản bị xử lý để thi hành án mà không có lý do chính

đáng; Sử dụng trái phép, tiêu dùng, chuyển nhượng, đánh tráo, cất giấu hoặc

thay đổi tình trạng tài sản đã kê biên nhưng chưa tới mức bị truy cứu trách

nhiệm hình sự; Chống đối, cản trở hay xúi giục người khác chống đối, cản

trở; có lời nói, hành động lăng mạ, xúc phạm người thi hành công vụ trong thi

hành án; gây rối trật tự nơi thi hành án hoặc có hành vi vi phạm khác gây trở

ngại cho hoạt động thi hành án dân sự nhưng chưa tới mức bị truy cứu trách

nhiệm hình sự; Phá hủy niêm phong hoặc hủy hoại tài sản đã kê biên nhưng

chưa tới mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự; Không chấp hành quyết định

của Chấp hành viên về việc khấu trừ tài khoản, trừ vào thu nhập, thu hồi giấy

tờ có giá của người phải thi hành án.Theo đó Điều 162 Luật THADS đã quy

định cụ thể:

Thứ nhất: Hành vi được quy định tại khoản 1 Điều 162 “đã nhận giấy

báo, giấy triệu tập lần thứ hai nhưng không có mặt để thực hiện việc thi hành

án mà không có lý do chính đáng" có thể được hiểu như sau:Người phải thi

hành án mặc dù đã nhận giấy báo, giấy triệu tập đến lần thứ hai của cơ quan

có thẩm quyền nhưng không đến địa điểm ghi trong giấy báo, giấy triệu tập để

thực hiện việc thi hành án mà không có lý do chính đáng. Lý do chính đáng ở

đây có thể là những nguyên nhân khách quan, bất khả kháng đối với người

phải thi hành án...

Ví dụ: Người phải thi hành án đang trên đường đến địa điểm ghi trong

giấy báo thì bị tai nạn giao thông, bị ốm không thể đi được (có giấy xác nhận

của cơ quan y tế có thẩm quyền)

Thứ hai: Khoản 2 Điều 162 quy định: “Cố tình không thực hiện quyết

định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Toà án hoặc bản án, quyết định

phải thi hành ngay". Được hiểu là người phải thi hành án cố tình không thực

47

hiện quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời của Toà án hoặc bản

án như biện pháp niêm phong, cấm dịch chuyển tài sản, kê biên tài sản...;

hoặc người phải thi hành án không thực hiện quyết định phải thi hành ngay

theo quyết định thi hành án, đều được coi là những hành vi vi phạm hành

chính trong THADS.

Thứ ba: Người phải thi hành án không thực hiện công việc buộc phải

làm như phải tháo dỡ công trình trên đất người khác hoặc không chấm dứt

thực hiện công việc mà bản án, quyết định của Toà án tuyên không được

chẳng hạn như trong bản án, quyết định của Toà án tuyên một người phải

dừng ngay việc khai thác, sử dụng hay xây dựng công trình trên đất... nhưng

người đó đã không thực hiện (khoản 3 Điều 162).

Thứ tư: Trường hợp, người phải thi hành án có điều kiện thi hành án

nhưng không thực hiện nghĩa vụ thi hành án mà không có lý do chính đáng.

Thực tiễn công tác THADS cho thấy có nhiều vụ việc người phải thi hành án

cố ý không thi hành án và viện dẫn rất nhiều lý do khác nhau cho sự trì hoãn

đó. Tuy nhiên, khi chấp hành viên đi xác minh thì lại thấy rằng người đó có

đủ điều kiện thi hành và những lý do người đó đưa ra là hoàn toàn không

chính đáng. Trong những trường hợp đó, cần thiết phải áp dụng xử phạt để

đảm bảo sự tôn nghiêm của pháp luật (khoản 4 Điều 162 Luật THADS).

Ví dụ: Người phải thi hành án phải thi hành nghĩa vụ trả nhà theo bản

án, quyết định của Tòa án. Trong quá trình tổ chức thi hành án, người phải thi

hành án không tự nguyện thi hành án (trong thời gian tự nguyện 10 ngày) và

cố tình không thi hành án sau khi hết thời hạn tự nguyện với nhiều lý do như:

chưa đồng tình với Bản án, quyết định của Tòa án nên đang khiếu nại lên Tòa

phúc thẩm nhưng không có bằng chứng, giấy tờ gì chứng minh đang gửi đơn

48

khiếu nại lên Tòa phúc thẩm; gửi đơn kêu cứu đến các cơ quan chức năng có

thẩm quyền để nhằm kéo dài thời giant hi hành án.

Thứ năm:Khoản 5 Điều 162 quy địnhhành vi “tẩu tán hoặc làm hư hỏng

tài sản để không thực hiện nghĩa vụ thi hành án hoặc để trốn tránh việc kê

biên tài sản”. Tẩu tán tài sản là hành vi trốn tránh nghĩa vụ về tài sản. Tài sản

thuộc đối tượng đang tranh chấp mà được mang đi cầm cố, thể chấp, mua bán,

tặng cho thì được coi là tẩu tán tài sản. Tẩu tán và làm hư hỏng tài sản đều là

hành vi nhằm cản trở việc thi hành án hoặc để trốn tránh việc kê biên tài sản.

Thứ sáu: Khoản 6 Điều 162 quy định “không thực hiện yêu cầu của

Chấp hành viên về việc cung cấp thông tin, giao giấy tờ liên quan đến tài sản

bị xử lý để thi hành án mà không có lý do chính đáng”. Người phải thi hành

án không thực hiện yêu cầu của Chấp hành viên về việc giao các giấy tờ liên

quan đến tài sản xử lý để thi hành án mà không có lý do chính đáng như giấy

chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy đăng ký xe và các giấy tờ có liên quan

đến việc thi hành án.

Thứ bảy: Các hành vi quy định tại khoản 7,8, 9 của Điều 162 về sử

dụng trái phép, tiêu dùng, chuyển nhượng, đánh tráo, cất giấu hoặc thay đổi

tình trạng tài sản đã kê biên, chống đối, cản trở hay xúi giục người khác

chống đối, cản trở; có lời nói, hành động lăng mạ, xúc phạm người thi hành

công vụ trong thi hành án; gây rối trật tự nơi thi hành án hoặc có hành vi vi

phạm khác gây trở ngại cho hoạt động THADS, phá hủy niêm phong hoặc

hủy hoại tài sản đã kê biên nhưng chưa tới mức bị truy cứu trách nhiệm

hình sự. Đều là những hành vi vi phạm hành chính trong THADS. Vì tính

chất và mức độ chưa đủ để bị truy cứu trách nhiệm hình sự, do đó với các

hành vi trên bị xử phạt hành chính theo Luật THADS năm 2008 sửa đổi, bổ

sung năm 2014.

49

Khác các hành vi vi phạm hành chính thuộc các trường hợp nêu và

phân tích ở trên là chỉ áp dụng đối với người phải thi hành án, loại trường

hợpthứ bảy này không áp dụng phạt cảnh cáo chỉ áp dụng mức phạt tiền; đặc

biệt là đối tượng áp dụng được hiểu không chỉ còn là người phải thi hành án

mà đã được mở rộng ra những đối tượng khác, có thể là người có quyền lợi,

nghĩa vụ liên quan hay bất cứ cá nhân nào thực hiện những hành vi vi phạm

theo quy định của pháp luật.

Thứ tám: Khoản10 Điều 162 LTHADS quy định hành vi “không chấp

hành quyết định của Chấp hành viên về việc khấu trừ tài khoản, trừ vào thu

nhập, thu hồi giấy tờ có giá của người phải thi hành án”. Được hiểu là Chấp

hành viên ra quyết định khấu trừ tiền trong tài khoản của người phải thi hành

án. Số tiền khấu trừ không được vượt quá nghĩa vụ thi hành án và chi phí

cưỡng chế. Ngay sau khi nhận được quyết định về khấu trừ tiền trong tài

khoản của người phải thi hành án, cơ quan, tổ chức đang quản lý tài khoản

phải khấu trừ tiền để chuyển vào tài khoản của cơ quan THADS hoặc chuyển

cho người được thi hành án theo quyết định khấu trừ. Thu nhập của người

phải thi hành án gồm tiền lương, tiền công, tiền lương hưu, tiền trợ cấp mất

sức lao động và thu nhập hợp pháp khác. Khấu trừ vào thu nhập của người

phải thi hành án là một trong bốn biện pháp cưỡng chế thi hành nghĩa vụ trả

tiền được quy định tại khoản 2 Điều 71 và Điều 78 Luật THADS yêu cầu cơ

quan, tổ chức, người sử dụng lao động, bảo hểm xã hội nơi người phải thi

hành án nhận tiền lương, tiền công, tiền lương hưu, tiền trợ cấp mất sức lao

động và các thu nhập hợp pháp khác chuyển cho cơ quan thi hành án hoặc

người được thi hành án một phần hay toàn bộ thu nhập của người phải thi

hành án để thi hành nghĩa vụ trả tiền theo bản án, quyết định của các cơ quan

có thẩmquyền. Trường hợp phát hiện người phải thi hành án hoặc cơ quan, tổ

chức, cá nhân đang giữ giấy tờ có giá của người phải thi hành án thì Chấp

50

hành viên ra quyết định thu giữ giấy tờ đó để thi hành án.Người phải thi hành

án hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân giữ giấy tờ có giá của người phải thi hành

án phải chuyển giao giấy tờ đó cho cơ quan THADStheo quy định của pháp

luật. Do đó, nếu như người phải thi hành án hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân

không chấp hành quyết định của chấp hành viên về việc khấu trừ tài khoản,

trừ vào thu nhập, thu hồi giấy tờ có giá thì sẽ bị xử phạt hành chính theo quy

định của pháp luật.

Trong thi hành án dân sự trường hợp xử phạt thứ tám áp dụng đối với

cơ quan, tổ chức đang nắm giữ tài sản, giấy tờ có giá của người phải thi hành

án nhưng không thực hiện theo quyết định của Chấp hành viên thì cũng bị xử

phạt vi phạm hành chính.

Ví dụ: Trong quá trình tổ chức thi hành án Chấp hành viên xác minh

được người phải thi hành án có tiền trong tài khoản tại Ngân hàng A đủ để thi

hành nghĩa vụ thi hành án theo Bản án, quyết định của Tòa án. Chấp hành

viên đã áp dụng biện pháp đảm bảo thi hành án, ra quyết định phong tỏa tài

khoản và ra quyết định cưỡng chế khấu trừ tiền trong tài khoản của người

phải thi hành án, tuy nhiên Ngân hàng A không thực hiện theo quyết định của

Chấp hành viên đã cho người phải thi hành án rút tiền trong tài khoản nhằm

trốn tránh nghĩa vụ thi hành án.

Ngoài ra pháp luật cũng quy định các trường hợp không bị xử phạt vi

phạm hành chính bao gồm: Các hành vi vi phạm trong tình thế cấp thiết, do

phòng vệ chính đáng, do sự kiện bất ngờ, do sự kiện bất khả kháng hoặc đối

tượng thực hiện hành vi vi phạm không có năng lực trách nhiệm hành chính

hay do chưa đủ tuổi bị xử phạt vi phạm hành chính

Tại tỉnh Quảng Bình từ năm 2016 đến năm 2020, các cơ quan Thi hành

án dân sự hai cấp của tỉnh Quảng Bình đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành

51

chính đối với các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân

sự đối với 27 việc. Trong đó: Cấp huyện ra quyết định xử phạt 20 việc, với số

tiền 21.000.000đ; cấp tỉnh ra quyết định xử phạt 07 việc với số tiền

9.000.000đ; Đã thi hành xong 17/27 việc 9 (đạt tỷ lệ 62,9%), với số tiền thu được 13.000.000đ.7

Bảng 2.4. Số liệu quyết định xử phạt vi phạm hành chính của các cơ

quan thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình từ năm 2016 đến 2020

TT Năm công tác

1 2 3 4 5 2016 2017 2018 2019 2020

Tổng cộng Số vụ việc ra QĐ xử phạt hành chính 2 4 8 7 6 27 Số vụ việc đã thi hành xong 2 3 5 3 4 17

Nguồn: Báo cáo Tổng kết công tác thi hành án dân sự giai đoạn

2016-2020 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình.

Nếu so sánh với Hà Tĩnh là tỉnh lân cận trong cùng khu vực Miền

Trung, có điều kiện kinh tế, xã hội tương đồng; có số vụ việc phải thi hành án

hàng năm tương đương thì có thể thấy rằng, trong cùng kỳ báo cáo, mặc dù

tỉnh Hà Tĩnh có số lượng các việc và tiền phải thi hành cao hơn tỉnh Quảng

Bình, nhưng tỷ lệ các việc thi hành xong hàng năm của Hà Tĩnh đạt cao hơn

Quảng Bình. Cụ thể, ở Hà Tĩnh giai đoạn từ 2016- 2020kết quả thi hành án

dân sự về việc đạt tỷ lệ bình quân 90,6% (cao hơn Quảng Bình 2,8%) và kết

quả THADS về tiền đạt 59,2% (cao hơn Quảng Bình 20,4%). Trong đó, kết

7 Báo cáo Tổng kết công tác thi hành án dân sự giai đoạn 2016-2020 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình

quả thi hành xong của năm sau thường cao hơn năm trước.

52

Cùng với đó, trong 5 năm (từ 2016 đến 2020) Hà Tĩnh chỉ ban hành 18

quyết định xử phạt hành chính (thấp hơn Quảng Bình 09 quyết định), trong đó

số quyết định thi hành xong là 07 quyết định (đạt tỷ lệ 38,8%).

Số liệu có thể phản ánh qua các bảng biểu sau:

Bảng 2.5. Kết quả thi hành án dân sự về việc của các cơ quan Thi hành

án dân sự tỉnh Hà Tĩnh giai đoạn từ 2016- 2020

Năm côngtác

Tổng số việc phải thi hành 4.320 4.610 4.905 4.987 4.870 Tổng số việc có điều kiện thi hành 3.777 3.975 4.175 4.135 4.359 Tổng số việc thi hành xong 3.341 3.587 3.832 3.728 3.888 Tỷ lệ thi hành xong/số việc có điều kiện 89% 91% 93% 91% 89% 2016 2017 2018 2019 2020 Nguồn: Báo cáo Tổng kết công tác thi hành án dân sự giai đoạn

2016-2020 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Hà Tĩnh

Bảng 2.6 Kết quả thi hành án dân sự về việc của các cơ quan

Thi hành án dân sự tỉnh Hà Tĩnh giai đoạn từ 2016- 2020

Tổng số tiền phải thi hành (1.000đ) Tổng số tiền có điều kiện thi hành (1.000đ) Tổng số tiền thi hành xong (1.000đ) Năm công tác

Tỷ lệ thi hành xong/số tiền có điều kiện 12% 362.703.405 342.451.268 19.631.613 2016

450.148.207 98.089.484 68.603.257 73% 2017

73.567.893 348.658.419 445.166.560 2.058.857.012 48.873.364 286.164.419 72% 83%

316.974.259 171.309.956 82.240.222 56%

2018 2019 2020 Nguồn: Báo cáo Tổng kết công tác thi hành án dân sự giai đoạn 2016-2020 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Hà Tĩnh

53

Bảng 2.7: Số liệu quyết định xử phạt vi phạm hành chính của các cơ quan

thi hành án dân sự tỉnh Hà Tĩnh từ năm 2016 đến 2020

Số vụ việc ra QĐ xử Số vụ việc đã thi TT Năm công tác phạt hành chính hành xong

0 0 1 2016

2 2017 1 1

7 2 3 2018

7 4 4 2019

3 0 5 2020

Tổng cộng 18 7

Nguồn: Báo cáo Tổng kết công tác thi hành án dân sự giai đoạn2016-2020

của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Hà Tĩnh

Như vậy, có thể thấy rằng, tỷ lệ thi hành xong các quyết định xử phạt

hành chính của tỉnh Hà Tĩnh đạt thấp (chưa đến 50%) số quyết định xử phạt được ban hành và thấp thua tỉnh Quảng Bình (24,1%)8

2.2.2. Kết quả thực hiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính

trong lĩnh vực thi hành án dân sự

- Về đối tượng và nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh

vực thi hành án dân sự

Được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của lãnh đạo Cục, cùng với tinh

thần trách nhiệm cao của mỗi cán bộ, Chấp hành viên khi thi hành công vụ,

các đồng chí Chấp hành viên đã luôn kịp thời nắm bắt, phát hiện các hành vi

vi phạm của các đối tượng phải thi hành án, để có biện pháp xử lý kịp thời

8 Báo cáo Tổng kết công tác thi hành án dân sự giai đoạn 2016-2020 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Hà Tĩnh

như: trực tiếp ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong trường hợp

54

thuộc thẩm quyền hoặc lập hồ sơ, báo cáo, đề xuất người có thẩm quyền ra

quyết định xử phạt nếu thấy vụ việc không thuộc thẩm quyền của mình. Nhờ

làm tốt công tác phát hiện, xử phạt kịp thời, nghiêm minh các hành vi vi phạm

nên đã góp phần vào việc đưa các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu

lực pháp luật được đảm bảo thực thi trên thực tế; pháp luật được chấp hành

nghiêm minh; quyền, lợi ích hợp pháp của công dân được bảo vệ.

Trong số 27 quyết định xử phạt được ban hành, thì đối tượng bị xử phạt

chủ yếu là cá nhân.

Từ số liệu trên, có thể thấy đối tượng thực hiện hành vi vi phạm hành

chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự chủ yếu là cá nhân và hành vi vi phạm

bị xử phạt chủ yếu là không thi hành án.

Việc xử phạt vi phạm hành chính luôn tuân thủ nguyên tắc quan trọng

đó là nhanh chóng, công khai, khách quan, đúng thẩm quyền, công bằng,

đúng quy định của pháp luật, bảo đảm cho người vi phạm được xử lý phù hợp

với tính chất và mức độ vi phạm, có căn cứ và luôn xem xét đầy đủ các tình

tiết tăng nặng, giảm nhẹ, không làm oan, sai nhưng đồng thời bảo đảm xử lý

nghiêm minh; các vi phạm hành chính có tính chất, mức độ, tình tiết tăng

nặng, giảm nhẹ như nhau thì đều bị xử phạt với hình thức giống nhau.

- Về thẩm quyền, mức xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi

hành án dân sự

Thẩm quyền và mức xử phạt trong từng vụ việc cụ thể cũng được các

cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình đặc biệt lưu ý và đảm bảo thực

hiện đúng quy định của pháp luật. Khi phát hiện có hành vi vi phạm, chấp

hành viên đã nghiên cứu kỹ các tài liệu, chứng cứ, xem xét các tình tiết tăng

nặng, giảm nhẹ để quyết định áp dụng mức xử phạt tương ứng với tính chất,

mức độ của từng hành vi vi phạm; đồng thời từ đó phân định đúng thẩm

55

quyền xử phạt theo quy định của pháp luật. Đối với những vụ việc vượt quá

thẩm quyền, chấp hành viên đều lập hồ sơ, báo cáo đề xuất đến người có thẩm

quyền ra quyết định xử phạt kịp thời, đúng quy định.

Cụ thể: Năm 2019 Chi cục THADS huyện ra 02 quyết định cưỡng chế

thi hành nghĩa vụ buộc thực hiện công việc nhất định theo Điều 118 Luật

THADS, tuy nhiên người phải thi hành án không thực hiện, Chấp hành viên

đã lập hồ sơ đề nghị Cục trưởng Cục THADS tỉnh ra quyết định phạt tiền theo

đúng thẩm quyền.

- Về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự

Về cơ bản, khi lập hồ sơ và ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính

trong lĩnh vực thi hành án dân sự, cơ quan, người có thẩm quyền đều áp dụng

đầy đủ các thủ tục quy định tại Mục 1 Chương III Luật xử lý vi phạm hành

chínhvà các nội dung hướng dẫn tại Nghị định 81/2013/NĐ-CP, Nghị định

97/2017/NĐ-CP để thực hiện. Vì vậy, hầu hết các trường hợp bị xử phạt vi

phạm hành chính đều được thực hiện đầy đủ, đúng trình tự, thủ tục theo quy

định của pháp luật. Thể hiện từ việc xác định đối tượng vi phạm, hành vi vi

phạm, lập biên bản vi phạm hành chính, xác định các tình tiết tăng năng giảm

nhẹ, hình thức xử phạt, mức phạt tương ứng để ra quyết định xử phạt đảm bảo

có căn cứ, khách quan, chính xác.

2.3. Hạn chế và nguyên nhân của hạn chế trong xử phạt vi phạm

hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự tại tỉnh Quảng Bình

Bên cạnh những kết quả đạt được, cũng cần nhìn nhận một cách khách

quan rằng, trong 05 năm qua tại các cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Quảng

Bình, số lượng việc và tiền thi hành án còn tồn đọng chuyển sang năm sau

còn cao; tỷ lệ các quyết định xử phạt vi phạm hành chính đã thi hành xong

còn thấp (17/27 quyết định, chiếm 62,9%). Nguyên nhân một phần xuất phát

56

từ ý thức tuân thủ pháp luật của một số bộ phận nhân dân nói chung và một số

cơ quan, tổ chức, các nhà quản lý doanh nghiệp và cá nhân (kể cả chính

quyền địa phương) còn yếu kém. Mặt khác, là do chưa có sự phối hợp đồng

bộ, chặt chẽ giữa các cơ quan bảo vệ pháp luật, cũng như cơ quan hữu quan

trong quá trình thi hành án; cơ sở pháp lý về tổ chức và hoạt động thi hành án

dân sự chưa được hoàn thiện, hệ thống các văn bản pháp lý về thi hành án dân

sự chưa đầy đủ, chậm được bổ sung, sửa đổi kịp thời; pháp luật về xử phạt vi

phạm hành chính còn chưa cụ thể, gây cản trở và làm giảm hiệu quả công tác

thi hành án dân sự trên địa bàn.

Mặt khác, việc tổ chức thi hành các quyết định XPVPHC cũng chưa

thực sự nghiêm túc khiến cho tính răn đe, phòng ngừa hành vi vi phạm hành

chính không có hiệu quả.

Từ số liệu xử phạt vi phạm hành chính và kết quả thi hành các quyết

định xử phạt vi phạm hành chính trong 05 năm, từ 2016 đến 2020 tại tỉnh

Quảng Bình, có thể đánh giá chi tiết các tồn tại, hạn chế trên các mặt cụ thể

như sau:

2.3.1. Về đối tượng và nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính trong

lĩnh vực thi hành án dân sự

Luật xử phạt vi phạm hành chính năm 2012, Nghị định 110/2013/NĐ-

CP, sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 67/2015/NĐ-CP, Nghị định 82/2020/NĐ-

CP có quy định đối tượng xử phạt vi phạm trong lĩnh vực thi hành án dân sự

là cá nhân và tổ chức. Tuy nhiên, trong 05 năm qua, trên địa bàn tỉnh Quảng

Bình, các cơ quan thi hành án dân sự chưa tiến hành xử phạt vi phạm hành

chính với bất kỳ một tổ chức nào. Mặc dù trên thực tế, có không ít vụ việc

không thi hành án được, một phần do lỗi của tổ chức.

Ví dụ: Quyết định số 01/2018/QĐ-TBPS ngày 15/01/2018 của Tòa án

nhân dân tỉnh Quảng Bình tuyên xử: Tuyên bố phá sản Công ty Đường

57

Quảng Bình, có địa chỉ tại thôn Phương Hạ, xã Đại Trạch, huyện Bố Trạch,

tỉnh Quảng Bình; tên giao dịch quốc tế: QUANG BINH SUGAR COMPANY.

Chấm dứt mọi hoạt động của Công ty Đường Quảng Bình; đình chỉ mọi giao

dịch liên quan đến Công ty Đường Quảng Bình.Thực hiện thu hồi nợ đối với

những người còn mắc nợ Công ty Đường Quảng Bình tỉnh đến ngày

21/12/2017 theo danh sách con nợ tại Quyết định số 186/2006/QĐ-TLTS

ngày 04/07/2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình.

Quyết định số 53/2018/QĐ-TBPS ngày 24/04/2018 của Tòa án nhân

dân tỉnh Quảng Bình phê duyệt danh sách chủ nợ, dách sách người mắc nợ

Công ty Đường Quảng Bình gồm: 464 người mắc nợ do được Công ty Đường

Quảng Bình đầu tư trồng mía và trồng dứa được Tổ quản lý, thanh lý tài sản

Công ty Đường Quảng Bình rà soát thông qua tại biên bản cuộc họp ngày

30/03/2018, trong đó có 03 đơn vị tại địa bàn Đồng Hới được xác định đúng

là Công ty Hóa chất Đồng Hới, Trại giam Đồng Sơn, Tỉnh Đoàn Quảng Bình.

Số tiền phải thu hồi là 7.138.627.219đ.

Cục THADS tỉnh Quảng Bình đã ra Quyết định thi hành án số

124/QĐ-CTHADS ngày 25/05/2018 thực hiện thu hồi nợ đối với 464 người

mắc nợ do được Công ty Đường Quảng Bình với số tiền 7.138.627.219

đồng theo Quyết định số 53/2018/QĐ-TBPS ngày 24/04/2018 của Tòa án

nhân dân tỉnh Quảng Bình.

Quá trình tổ chức thi hành án Chấp hành viên đã thực hiện triệu tập

đương sự để thi hành án và trực tiếp xác minh điều kiện thi hành án đối với các

cá nhân tổ chức phải thi hành án phát sinh một số vướng mắc, khó khăn như:

Thứ nhất, Dự án trồng mía nguyên liệu cho Công ty Đường Quảng

Bình được mở rộng dần trên địa bàn tỉnh qua các năm, từ năm 1999 đến năm

2004 (thời điểm bắt đầu thực hiện các thủ tục phá sản) các hộ nông dân cư trú

58

hơn 50 xã thuộc 7/8 đơn vị cấp huyện trong tỉnh (trừ huyện Minh Hóa) đã

tham gia trồng mía nguyên liệu, tập trung chủ yếu trên địa bàn huyện Bố

Trạch, huyện Quảng Trạch. Trong đó có xã trồng và khai thác được 3-4 vụ, có

xã mới trồng được vụ đầu tiên thì Công ty Đường Quảng Bình thực hiện thủ

tục phá sản. Trong quá trình trồng, người dân chỉ nhận giống, phân bón từ đại

diện Thôn (người ký hợp đồng trực tiếp với Công ty Đường Quảng Bình) để

trồng, vụ mía những năm 2003 và 2004 thời tiết rất khắc nhiệt, hạn hán kéo

dài dẫn đến mía bị chết (mía khô), nhiều hộ nông dân phải thuê máy khoan,

đào giếng để tưới chống hạn nên tốn kém nhiều chi phí và công sức. Khi mía

đến kỳ thu hoạch vụ năm 2005, Công ty Đường Quảng Bình tự dừng thu mua

đột ngột và thực hiện các thủ tục phá sản thì mía trồng ra không bán được,

mặc dù theo Hợp đồng kinh tế Công ty có trách nhiệm bao tiêu toàn bộ mía

nguyên liệu cho người trồng, người dân lại phải thuê người đốt mía, máy đào

gốc để lấy đất canh tác loại cây trồng khác đam bảo cuộc sống.

Như vậy, Công ty Đường Quảng Bình đã vi phạm Hợp đồng đã ký kết

với người dân, Tổng công ty Mía đường đã không thực hiện đúng như cam

kết với UBND tỉnh về trách nhiệm bao tiêu sản phẩm cho người dân trồng

mía (Hợp đồng cam kết trách nhiệm số 789 HĐ/LC ngày 24/10/1997 giữa

UBND tỉnh Quảng Bình và Tổng công ty Mía Đường I (Công ty mẹ của Công

ty Đường Quảng Bình)

Thứ hai, khi thực hiện thủ tục phá sản, Công ty Đường Quảng Bình

không cử đại diện xuống các xã hoặc mời các hộ nông dân đến Công ty để

xác định lại khoản nợ thực tế.

Tổ quản lý thành lý tài sản xác định khoản nợ dựa trên sổ sách theo dõi

của Công ty Đường Quảng Bình tại thời điểm thực hiện thủ tục phá sản là

chưa chính xác, như trường hợp Trại giam Đồng Sơn và Tỉnh Đoàn Quảng

59

Bình. Theo nội dung Công văn số 658-CV/TĐTN-VP ngày 02/5/2019 của

Tỉnh Đoàn Quảng Bình thì đến năm 2004, Tỉnh Đoàn Quảng Bình đã hoàn

thành việc bàn giao toàn bộ dự án trồng mía với Công ty Đường Quảng Bình

về Trại giam Đồng Sơn tiếp tục thực hiện. Theo cam kết của các bên, Trại

giam Đồng Sơn trực tiếp trích nguồn kinh phí thu được để hoàn ứng, thanh

toán số tiền mua cây giống, phân bón mà Tỉnh Đoàn đã ứng của Công ty

Đường Quảng Bình. Vì vậy, khoản nợ của Công ty Đường Quảng Bình đối

với Tỉnh Đoàn Quảng Bình là không phù hợp, chưa phản ánh đúng thực tế

việc thực hiện hợp đồng kinh tế và triển khai dự án trồng mía giữa 02 bên.

Thứ ba, qua xác minh điều kiện thi hành án, có 54 người mắc nợ là cá

nhân đã chết trước khi TAND tỉnh ban hành Quyết định số 53/2018/QĐ-

TPPS ngày 24/4/2018, theo đó những người này trở thành người phải thi

hành án là chưa đúng với quy định pháp luật về nghĩa vụ dân sự, thừa kế và

tố tụng dân sự.

Quá trình tổ chức thi hành án xét thấy Quyết định của tuyên bố phá sản

của Tòa án tỉnh Quảng Bình tuyên không rõ, có sai sót, khó thi hành. Để bảo

vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên liên quan, giải quyết những vướng

mắc, bất cập của vụ việc và đảm bảo ổn định tình hình nhân dân tại các địa

bàn trong tỉnh, Cục THADS tỉnh đã xây dựng hồ sơ, kiến nghị Viện trưởng

VKSND cấp cao tại Đà Nẵng và Chánh án TAND cấp cao tại Đà Nẵng xem

xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, sửa Quyết định số 53/2018/QĐ-

TPPS ngày 24/4/2018 của TAND tỉnh, theo đó: Đưa các khoản nợ phải thu

đối với 464 tổ chức, cá nhân là “Người mắc nợ do đầu tư trồng mía và trồng

dứa” ra khỏi Danh sách người mắc nợ Công ty Đường Quảng Bình ban hành

kèm theo Quyết định số 53/2018/QĐ-TPPS ngày 24/4/2018 của TAND tỉnh.

Đến nay vụ việc đã Tòa án nhân dân tối cao xem xét lại.

60

Trong thi hành án dân sự, người phải thi hành án đa số là cá nhân do

đó, đối tượng vi phạm hành chính là cá nhân chiếm phần lớn, trên thực tế có

không ít vụ việc vi phạm cần phải ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành

chính nhằm răn đe, giáo dục đối tượng vừa phòng ngừa chung. Những đối

tượng này đều là những người không muốn chấp nhận việc phải thực hiện

các nghĩa vụ do bản án, quyết định của Tòa án quyết định và vì vậy bằng mọi

cách họ né tránh, chống đối hoặc không hợp tác, dẫn đến những khó khăn,

vướng mắc nhất định cho quá trình thi hành án.

Tuy nhiên, việc xử phạt vi phạm hành chính của các cơ quan thi hành

án dân sự tại tỉnh Quảng Bình đối với đối tượng là cá nhân chưa nhiều. Thực

tiễn công tác là một Chấp hành viên trực tiếp tổ chức thi hành án trong thực

hiện nhiệm vụ của mình với số lượng việc thi hành án được giao, nhìn chung

các đối tượng phải thi hành án hầu hết đều vi phạm hành chính nhưng Chấp

hành viên không ban hành quyết định xử phạt vì sau xử phạt khó thu được

tiền phạt trong khi tiền thi hành án vẫn chưa thu được.

Bên cạnh đó sự quản lý, chỉ đạo của lãnh đạo cấp trên và lãnh đạo quản

lý trực tiếp đối với lĩnh vực này còn nhiều hạn chế, có thể nói là “bỏ sót”,

chưa kiểm soát hết được những việc làm của Chấp hành viên, Chấp hành viên

chưa thực hiện hết thẩm quyền, trách nhiệm được giao trong tổ chức thi hành

án nhưng không bị xử lý kỷ luật, nhiều vụ việc án có điều kiện thi hành án

nhưng kéo dài nhiều năm thậm chí hàng chục năm nhưng vẫn không thi

hành được do người phải thi hành án đưa ra nhiều lý do để trì hoãn việc thi

hành án hoặc chống đối nhưng Chấp hành viên vẫn không ra quyết định xử

phạt hành chính theo quy định nhằm đủ điều kiện lập hồ sơ đề nghị truy

cứu trách nhiệm hình sự.

61

Ví dụ: Bản án số 09/2014/QĐST-KDTM ngày 16/9/2019 của Tòa án

nhân dân tỉnh Quảng Bình tuyên buộc ông Bùi Tuấn Anh và bà Định Thị

Hồng Hà (địa chỉ: số 3 Lê Lợi, Hải Đình, Đồng Hới) phải trả khoản nợ gốc

3.440.000.000 đồng cho Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng, tài sản

thế chấp là Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 17, tờ

bản đồ số 16 tại Hải Đình, Đồng Hới, Giấy chứng nhận số BB749268, UBND

thành phố Đồng Hới, cấp ngày 28/4/2010, mang tên ông Trần Đại Hùng và bà

Hồ Thị Hồng (đã ủy quyền cho Bùi Tuấn Anh và Đinh Thị Hồng Hà). Căn cứ

bản án đã có hiệu lực pháp luật và đơn yêu cầu thi hành án cơ quan THADS

đã ra Quyết định thi hành án số 34/QĐ-CTHADS ngày 09/12/2015 và phân

công Chấp hành viên tổ chức thi hành.

Quá trình tổ chức thi hành án Chấp hành viên đã tiến hành xác minh,

giải quyết nhiều lần và đã ra Quyết định cưỡng chế kê biên Quyền sử dụng

đất và tài sản gắn liền với đất số 02/QĐ-CCTHA ngày 07/12/2018, tuy nhiên

đến nay vẫn chưa tiến hành cưỡng chế, kê biên tài sản được với lý do người

phải thi hành án thường xuyên vắng mặt. Hành vi trên của ngưởi người phải

thi hành án vi phạm hành chính theo khoản 4 Điều 162 Luật THADS “có điều

kiện thi hành án nhưng cố tình trì hoãn việc thực hiện nghĩa vụ thi hành án”,

nhưng Chấp hành viên không tiến hành xử phạt vi phạm hành chính để đủ cơ

sở lập hồ sơ đề nghị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội không chấp hành án.

Khoản 1 Điều 3 của Luật XLVPHC quy định: Một hành vi VPHC chỉ

bị xử phạt một lần. Trong khi đó điểm b Khoản 1 Điều 10 của Luật quy định

tình tiết tăng nặng là “VPHC nhiều lần, tái phạm”. Quy định nguyên tắc

XPVPHC như trên là thiếu rõ ràng, thiếu thống nhất; gây ra lúng túng, vướng

mắc trong thực tiễn. Với những hành vi VPHC lặp lại nhiều lần, tại nhiều thời

điểm khác nhau thì áp dụng theo quy định tại điểm b Khoản 1 Điều 10 (coi đó

là tình tiết tăng nặng) hay xử phạt theo từng thời điểm xảy ra vi phạm theo

62

quy định tại Khoản 1 Điều 3 Luật XLVPHC. Liên quan đến nội dung này, đề

nghị cần nghiên cứu, quy định rõ ràng nguyên tắc XPVPHC để đáp ứng yêu

cầu thực tiễn.

2.3.2. Về thẩm quyền, mức xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh

vực thi hành án dân sự

Trong hoạt động THADS thì cơ quan THADS là cơ quan thường xuyên

và trực tiếp phải xử lý những VPHC của người phải thi hành án và những

người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác.

Bất cập lớn nhất hiện nay tại các cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Quảng

Bình là có rất nhiều hành vi thuộc thẩm quyền xử phạt của Chấp hành viên,

nhưng chấp hành viên không thể xử phạt được, vì mức phạt tiền vượt quá

thẩm quyền.

Theo đúng quy định thì chấp hành viên chỉ có thể xử phạt duy nhất đối

với một hành vi là đã nhận giấy báo, giấy triệu tập lần thứ hai của người có

thẩm quyền thi hành án nhưng không đến địa điểm ghi trong giấy báo, giấy

triệu tập mà không có lý do chính đánglà 500.000đồng. Trong khi đó có rất

nhiều hành vi vi phạm mà cơ quan THADS cấp huyện thường xuyên gặp phải

nhưng theo quy định thì lại không thuộc thẩm quyền xử phạt, ví dụ như các

hành vi: Không thực hiện công việc phải làm, không chấm dứt thực hiện công

việc không được làm theo bản án, quyết định; trì hoãn thực hiện nghĩa vụ thi

hành án…nên phần lớn các vụ việc, khi có vi phạm hành chính xảy ra, đều

phải chuyển thẩm quyền lên cấp trên (Cục trưởng, Chi cục trưởng). Trong

trường hợp này, để có căn cứ thực hiện các bước tiếp theo, chấp hành viên

phải lập hồ sơ đề nghị người có thẩm quyền của Cơ quan thi hành án dân sự

cấp trên ra quyết định xử phạt. Tuy nhiên, hồ sơ đề nghị xử phạt gồm những

giấy tờ gì, thủ tục ra sao thì pháp luật lại không quy định, dẫn đến tình trạng

63

mỗi nơi làm một kiểu, không thống nhất. Bởi thế, không ít trường hợp, chấp

hành viên vì muốn giải quyết xong việc dễ dàng bỏ qua những lỗi như không

cung cấp thông tin, không thực hiện quyết định khấu trừ thu nhập của người

có thẩm quyền…Và vì vậy người thi hành án càng chây ỳ, trốn tránh thực

hiện nghĩa vụ.

Về xác định thẩm quyền xử phạt còn nhiều mâu thuẫn. Theo quy định

tại Luật thi hành án dân sự, cụ thể là khoản 1 Điều 118 Luật thi hành án dân

sự quy định: “…Trường hợp thi hành nghĩa vụ phải thực hiện công việc nhất

định theo bản án, quyết định mà người phải thi hành án không thực hiện thì

Chấp hành viên quyết định phạt tiền và ấn định thời hạn 05 ngày làm việc, kể

từ ngày ra quyết định phạt tiền để người đó thực hiện nghĩa vụ thi hành

án…”. Điều 119 Luật thi hành án dân sự cũng quy định: “Người phải thi hành

án không tự nguyện chấm dứt việc thực hiện công việc mà theo bản án, quyết

định không được thực hiện thì Chấp hành viên ra quyết định phạt tiền đối với

người đó, trong trường hợp cần thiết có thể yêu cầu họ khôi phục hiện trạng

ban đầu. Trường hợp người đó vẫn không chấm dứt công việc không được

làm, không khôi phục lại hiện trạng ban đầu thì Chấp hành viên đề nghị cơ

quan có thẩm quyền truy cứu trách nhiệm hình sự về tội không chấp hành án”.

Như vậy, xét về mặt thẩm quyền xử phạt theo khoản 1 Điều 118 và Điều 119

của Luật thi hành án dân sự thì Chấp hành viên được giao quyền quyết định

phạt tiền, ra quyết định phạt tiền. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 1 Điều

49 Luật xử lý vi phạm hành chính thì: “…Chấp hành viên thi hành án dân sự

đang thi hành công vụ có quyền: a) Phạt cảnh cáo; b) Phạt tiền đến 500.000

đồng…”. Và theo quy định tại điểm a, khoản 3 Điều 52 Nghị định

110/2013/NĐ-CP thì “…Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối

với một trong các hành vi sau: a) Không thực hiện công việc phải làm, không

chấm dứt thực hiện công việc không được làm theo bản án, quyết định…”.

64

Đối chiếu giữa thẩm quyền xử phạt của Chấp hành viên với mức phạt về hành

vi không thực hiện công việc phải làm, không chấm dứt thực hiện công việc

không được làm theo bản án, quyết định là có sự mâu thuẫn. Luật thi hành án

dân sự giao quyền cho Chấp hành viên được quyền xử phạt nhưng Luật xử lý

vi phạm hành chính và Nghị định số 110/2013/NĐ-CP lại làm mất quyền xử

phạt của Chấp hành viên. Vì rằng, với mức phạt từ 3.000.000 đồng đến

5.000.000 đồng lại thuộc thẩm quyền của Cục trưởng Cục thi hành án dân sự.

Đây là sự mâu thuẫn trong quy định giữa Luật thi hành án dân sự với Luật xử

lý vi phạm hành chính và Nghị định số 110/2013/NĐ-CP của Chính phủ, gây

không ít khó khăn cho Chấp hành viên khi thực thi nhiệm vụ. Vì muốn xử

phạt được những hành vi vi phạm hành chính này Chấp hành viên phải lập hồ

sơ, văn bản đề nghị Cục trưởng Cục thi hành án dân sự ra quyết định xử phạt.

Và như vậy, việc thi hành án sẽ kéo dài không kịp thời và điều quan trọng là làm giảm vai trò, giảm thẩm quyền của Chấp hành viên9

Ví dụ: Bản án số 24/2013/TCDS-PT ngày 31/12/2013 của TAND tỉnh

Quảng Bình đã tuyên: "...Công nhận quyền sử dụng đất của hộ anh Võ Văn

Hải và chị Hoàng Thị Thuyên trên thửa đất số 128, tờ bản đồ giải thửa số 06

UBND thị trấn Kiến Giang lập năm 1992, cụ thể: Phần trước nhà hộ anh Võ

Văn Hải, chị Hoàng Thị Thuyên có mặt tiền tiếp giáp với đường từ Bưu điện

huyện Lệ Thủy đi cầu Phong Liên có chiều rộng 6,5m (tính từ chân móng

hành lang nhà anh Võ Văn Thuận và chị Nguyễn Thị Hậu sang phần đất của

hộ ông Hoàng Quảng Tiến. Phần diện tích đất của hộ anh Võ Văn Hải và chị

Hoàng Thị Thuyên phía trước tiếp giáp phần đất hộ anh Võ Văn Thuận, chị

Nguyễn Thị Hậu có diện tích là 76,82m; Phần diện tích đất của Hộ anh Võ

Văn Hải và chị Hoàng Thị Thuyên ở phía sau tiếp giáp phần trước (nói trên)

9 Lê Đăng Khoa-Hà Khắc Thắng,

và tiếp giáp phần nhà đất hộ anh Võ Văn Thuận, chị Nguyên Thị Hậu có diện

65

tích là 108,26m . Toàn bộ hình thể, kích thước và diện tích đất hộ anh Võ Văn

Hải, chị Hoàng Thị Thuyên được quyền sử dụng có diện tích 185,08m theo

kích thước và hình vẽ kèm theo bản án này là một phần không tách rời của

bán án.

Anh Võ Văn Thuận, chị Nguyên Thị Hậu có trách nhiệm tháo dỡ, di dời

các tài sản nằm trên phần đất của anh Võ Văn Hải và chị Hoàng Thị Thuyên”.

Bản án có hiệu lực thi hành, ông Võ Văn Hải và bà Hoàng Thị Thuyên

làm đơn yêu cầu thi hành án. Chi cục THADS huyện Lệ Thủy thụ lý ra quyết

định thi hành án số 167/QĐ-CCTHA ngày 10/3/2014 thi hành án đối với

khoản: ông Võ Văn Thuận, bà Nguyễn Thị Hậu có trách nhiệm tháo đỡ, di dời

các tài sản nằm trên đất của của ông Võ Văn Hải và chị Hoàng Thị Thuyên phần diện tích đất lấn chiếm 28,5m2.

Quá trình tổ chức thi hành án, người phải thi hành án ông Võ Văn

Thuận, bà Nguyễn Thị Hậu quyết liệt chống đối không thi hành. Do chưa thi

hành được, nên ông Võ Văn Hải, bà Hoàng Thị Thuyên có đơn khiếu nại

nhiều lần, nhiều cấp, yêu cầu cưỡng chế thi hành án. Việc thi hành án được

xác định là án trọng điểm, kéo dài nhiều năm chưa thi hành được, các cấp,

ngành địa phương cũng như Lãnh đạo Cục THADS tỉnh, Ban chỉ đạo THADS

hai cấp đã nhiều lần hòa giải nhưng không có kết quả.

Ngày 30/08/2018 Chi cục THADS huyện Lệ Thủy đã ra Quyết định

cưỡng chế số 01/QĐ-CCTHADS về việc cưỡng chế buộc thực hiện công việc

nhất định (theo Điều 118 Luật THADS) đối với ông Văn Thuận, bà Nguyễn

Thị Hậu phải tháo dỡ, di dời các tài sản nằm trên phần đất của anh Võ Văn

Hải và chị Hoàng Thị Thuyên. Điều 118 Luật THADS quy định “1. Trường

hợp thi hành nghĩa vụ phải thực hiện công việc nhất định theo bản án, quyết

định mà người phải thi hành án không thực hiện thì Chấp hành viên quyết

66

định phạt tiền và ấn định thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định

phạt tiền để người đó thực hiện nghĩa vụ thi hành án.

2. Hết thời hạn đã ấn định mà người phải thi hành án không thực hiện

nghĩa vụ thi hành án thì Chấp hành viên xử lý như sau:a) Trường hợp công

việc đó có thể giao cho người khác thực hiện thay thì Chấp hành viên giao

cho người có điều kiện thực hiện; chi phí thực hiện do người phải thi hành án

chịu;b) Trường hợp công việc đó phải do chính người phải thi hành án thực

hiện thì Chấp hành viên đề nghị cơ quan có thẩm quyền truy cứu trách nhiệm

hình sự về tội không chấp hành án”.

Tuy nhiên, tại Khoản 1 Điều 52 Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày

24/09/2013 của Chính phủ quy định về hành vi vi phạm do không thực hiện

công việc phải làm, không chấm dứt thực hiện công việc không được làm

theo bản án, quyết định với mức phạt là từ 3.000.000đ đến 5.000.000đ; với

mức phạt này Chấp hành viên, Chi cục trưởng Chi cục THADS không đủ

thẩm quyền xử phạt theo Điều 68 Nghị định số 110/2013/NĐ-CP mà phải

gửi toàn bộ hồ sơ đề nghị Cục trưởng Cục THADS tỉnh ra quyết định xử

phạt. Vụ việc kéo dài đến tháng 5/2019 Chi cục THADS huyện Lệ Thủy

mới huy động lực lượng với sự hỗ trợ của các ngành, sự bảo vệ của lực

lượng Công an đã cưỡng chế thành công vụ việc, đảm bảo quyền lợi cho

người được thi hành án.

Hoặc tại khoản 1 Điều 9 Nghị đinh 62/2015/NĐ-CPngày 18 tháng 7

năm 2015 hướng dẫn về Luật THADS thì, khi tiến hành xác minh, Chấp hành

viên yêu cầu người phải thi hành án kê khai trung thực, cung cấp đầy đủ

thông tin về tài sản, thu nhập, điều kiện thi hành án. Trường hợp người phải

thi hành án không kê khai hoặc phát hiện việc kê khai không trung thực thì

tùy theo mức độ vi phạm, Chấp hành viên có thể xử phạt hoặc đề nghị người

67

có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật. Nhưng

theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 64 Nghị định 82/2020/NĐ-CP thì,

hành vi không kê khai hoặc kê khai không đầy đủ, không chính xác tài sản,

thu nhập, điều kiện thi hành án khi người có thẩm quyền thi hành án yêu cầu,

sẽ bị phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng, mức phạt này không

thuộc thẩm quyền của Chấp hành viên. Như vậy, Luật và các văn bản hướng

dẫn đang có sự chồng chéo và khó thực hiện trên thực tế.

Việc chưa phân định rõ thẩm quyền xử lý đối với một số hành vi vi

phạm cũng làm hạn chế việc XPVPHC của cơ quan THADS. Đối với một số

hành vi như: Không cung cấp thông tin, không giao giấy tờ liên quan đến tài

sản bị xử lý để thi hành án theo yêu cầu của người có thẩm quyền; không

thông báo cho cơ quan thi hành án khi có thay đổi về địa chỉ và nơi cư trú;

không kê khai trung thực tài sản, điều kiện thi hành án… Các hành vi trên

thuộc thẩm quyền xử phạt của cả cơ quan THADS cấp huyện và cấp tỉnh, việc

định lượng mức độ vi phạm của hành vi, quyết định mức xử phạt và phân

định thẩm quyền xử phạt trên thực tế vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Theo thống

kê số liệu thi hành án hàng năm số việc phải thi hành án ở cấp huyện nhiều

hơn ở cấp tỉnh (chiếm 80-90%) do đó cần tăng thẩm quyền xử phạt cho Chấp

hành viên và Thủ trưởng cơ quan THADS cấp huyện.

Về xác định thẩm quyền lập biên bản làm căn cứ ra quyết định xử phạt

vi phạm hành chính. Theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 65 Nghị định số

110/2013/NĐ-CP quy định: “Thẩm tra viên, thư ký, chuyên viên cơ quan Thi

hành án dân sự lập biên bản vi phạm hành chính đối với các hành vi quy định

tại Chương V của Nghị định này”. Theo như quy định nêu trên, thì chỉ có

hoặc là Thẩm tra viên, hoặc là Thư ký hoặc là Chuyên viên mới có quyền lập

biên bản, còn Chấp hành viên thực hiện chức trách nhiệm vụ lại không được

giao quyền lập biên bản nhưng lại được quyền quyết định xử phạt. Xét về

68

thẩm quyền lập biên bản, Chấp hành viên là người được Nhà nước giao nhiệm

vụ thi hành các bản án, quyết định và cũng là người có thẩm quyền xử phạt

cảnh cáo hoặc phạt tiền đến 500.000 đồng, nhưng lại không được giao quyền

lập biên bản vi phạm hành chính. Bên cạnh đó, không phải lúc nào Chấp hành

viên thực thi nhiệm vụ cũng có Thư ký thi hành án đi cùng hoặc Chấp hành

viên không có thư ký giúp việc. Trong khi đó, căn cứ xử phạt vi phạm hành

chính phải là biên bản vi phạm hành chính. Vậy trong trường hợp Chấp hành

viên không có thư ký thi hành án và có thư ký thi hành án nhưng không đi

cùng thực hiện nhiệm vụ thì ai sẽ là người lập biên bản vi phạm hành chính?

Xét về hình thức biên bản: Biên bản vi phạm hành chính trong trường hợp

Thư ký thi hành án lập thì Thư ký chỉ ký tên, không có thẩm quyền đóng dấu.

Vậy trong trường hợp này Chấp hành viên hay người có thẩm quyền ký tên

đóng dấu như Chi cục trưởng, phó Chi chi cục trưởng, Thẩm tra viên ký xác

nhận hay không? Về nguyên tắc người ký xác nhận biên bản do Thư ký thi

hành án lập phải là người biết rõ có hành vi vi phạm hành chính. Vì vậy, nếu

không biết rõ về hành vi vi phạm hành chính thì không thể dễ dàng ký xác

nhận làm căn cứ xử phạt vi phạm hành chính. Xét về nội dung biên bản: Thư

ký chỉ là người giúp Chấp hành viên lập biên bản và thực hiện một số công

việc nhất định khác. Việc xác đinh hành vi vi phạm, lỗi,… của người vi phạm

hành chính phải thuộc về Chấp hành viên xác định. Vì vậy, không quy định

thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính đối với Chấp hành viên là một

“khoảng trống” pháp lý đối với việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh

vực thi hành án dân sự. Quy định nêu trên gây không ít bối rối, khó khăn cho

Chấp hành viên khi thực thi nhiệm vụ được giao.

69

2.3.3. Về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành

án dân sự

Về thủ tục và trình tự xử phạt vi phạm hành chính có khá nhiều thủ tục,

từ việc lập biên bản vi phạm hành chính, mời người làm chứng, chứng kiến,

ra quyết định xử phạt, thông báo quyết định xử phạt, thu tiền, nộp ngân sách

nhà nước,…trong khi mức phạt là không đáng kể và không dẫn tới một trách

nhiệm nào nghiêm khắc hơn đối với người bị xử phạt. Về tính hiệu quả của

quyết định xử phạt vi phạm hành chính thì việc xử phạt thật sự không có

tính khả thi, số tiền phải thi hành tăng dẫn đến người phải thi hành án sẽ

tiếp tục chống đối, cản trở việc thi hành án, không thực hiện quyết định xử

phạt vi phạm hành chính, trong khi việc tổ chức cưỡng chế để thi hành

quyết định xử phạt vi phạm hành chính lại không hề dễ dàng và chưa được

hướng dẫn cụ thể.

Công tác cưỡng chế thi hành quyết định XPVPHC tại địa bàn tỉnh

Quảng Bình thời gian qua cũng gặp nhiều khó khăn, hiệu quả đạt được thấp.

Nhiều vụ việc ra quyết định xử phạt đã qua nhiều năm nhưng vẫn chưa thi

hành được. Vấn đề ở đây là, mặc dù pháp luậtđã quy định về xử phạt vi phạm

hành chính,nhưng lại không quy định và hướng dẫn cụ thể về việc cưỡng chế

thi hành quyết định xử phạt trong trường hợp đối tượng không chấp hành

quyết định xử phạt của cơ quan thi hành án? Trình tự, thủ tục cưỡng chế như

thế nào? Các cơ quan có thẩm quyền thực hiện cưỡng chế?

Bên cạnh đó, một số chấp hành viên, người có thẩm quyền tổ chức thi

hành án còn e ngại khi tổ chức cưỡng chế vì thủ tục cưỡng chế rất phức tạp,

liên quan đến nhiều cơ quan, đơn vị. Mặt khác, cá nhân, tổ chức bị cưỡng chế

thường không hợp tác hoặc không đủ điều kiện, không có tài sản để kê biên,

thậm chí có nhiều vụ việc, tài sản cưỡng chế không đủ để bù đắp chi phí tổ

chức cưỡng chế thi hành án.

70

Như vậy, qua thực tiễn công tác có thể thấy: Xử phạt vi phạm hành

chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự là một trong những công tác quan

trọng, nhằm đấu tranh, phòng ngừa và xử lý các hành vi vi phạm của các cá

nhân, tổ chức trong quá trình THADS. Tuy nhiên, việc xử phạt vi phạm hành

chính trong hoạt động thi hành án dân sự trên thực tế vẫn chưa thực sự đi vào

đời sống xã hội, chưa đáp ứng được mục tiêu đặt ra là răn đe, phòng ngừa vi

phạm để từ đó nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước. Tình trạng người phải thi

hành án chống đối Chấp hành viên, cơ quan thi hành án xảy ra ngày càng

nhiều và có biểu hiện gia tăng tính tiêu cực nhất là trong cưỡng chế thi hành

án. Kết quả xử lý vi phạm hành chính trong THADS còn rất khiêm tốn, chưa

phản ánh được hết thực trạng vi phạm hành chính trong THADS hiện nay.

Thực tế cho thấy, các qui định về XPVPHC trong hoạt động THADS thời

gian qua vẫn chưa phát huy hiệu quả, việc phòng ngừa, xử lý vi phạm vẫn còn

nhiều hạn chế, nhiều hành vi vi phạm trong THADS diễn ra phổ biến nhưng

chưa được xử lý kịp thời. Người có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính của

cơ quan THADS còn “ngại” việc xử phạt vi phạm hành chính, chưa nêu cao

tinh thần trách nhiệm trong việc xử phạt. Cho đến nay, số lượng Chấp hành

viên, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự của các địa phương thực hiện

nhiệm vụ, quyền hạn xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thi hành án

chưa nhiều. Thực tiễn, khi phát hiện hành vi vi phạm hành chính trong hoạt

động thi hành án dân sự, một số người có thẩm quyền còn nhiều lúng túng khi

vận dụng các quy định của pháp luật để xử phạt. Trong khi đó, ý thức chấp

hành pháp luật của một bộ phận những người phải thi hành án và người có

quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong các hoạt động thi hành án dân sự còn chưa

cao; tình trạng chống đối cơ quan thi hành án bằng nhiều hình thức từ những

việc như cố tình không nhận giấy báo, giấy triệu tập của cơ quan thi hành án

… đến những hành vi nghiêm trọng hơn như phân tán hoặc làm hư hỏng tài

71

sản thuộc diện kê biên để không thực hiện nghĩa vụ thi hành án, thậm chí là

phá huỷ niêm niêm phong, huỷ hoại tài sản đã kê biên…thậm chí có hành vi

dùng vũ khí chống đối gây thương tích cho Chấp hành viên, công chức thi

hành án và lực lượng tham gia giải quyết việc thi hành án. Thực tế đó đã

chứng tỏ vi phạm hành chính trong lĩnh vực này không những chưa giảm mà

còn có xu hướng ngày càng nhiều hơn và phức tạp hơn.

Trên thực tế, các cơ quan thi hành án dân sự nói chung và thi hành án

dân sự của tỉnh Quảng Bình nói riêng vẫn chưa được trang bị đầy đủ các điều

kiện về cơ sở vật chất, các công cụ phương tiện hỗ trợ công tác tổ chức thi

hành án và xử lý các vi phạm trong lĩnh vực thi hành án dân sự; đặc biệt là

Chấp hành viên, cán bộ thi hành án người trực tiếp tác nghiệp tại cơ sở, trực

tiếp đối thoại, xác minh điều kiện thi hành án, cưỡng chế tài sản của người thi

hành án nhưng chưa được trang bị những công cụ, phương tiện hỗ trợ, bảo vệ

cần thiết khi thực thi nhiệm vụ. Các cơ quan Thi hành án dân sự chưa được

trang bị phương tiện đặc chủng để phục vụ các cuộc cưỡng chế có huy động

lực lượng hoặc thu giữ tài sản kịp thời khi phát hiện đương sự tẩu tán tài sản.

Từ các phân tích trên, có thể đánh giá các hạn chế trong kết quả xử phạt

vi phạm hành chính trên địa bàn tỉnh Quảng Bình những năm qua, xuất phát

từ nhiều nguyên nhân, trong đó có những nguyên nhân cơ bản sau:

- Thứ nhất, ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận tổ chức, cá

nhân trong quá trình thi hành án còn hạn chế; luôn đặt quyền lợi của mình lên

trên hết.

-Thứ hai, các văn bản pháp luật và hướng dẫn pháp luật về xử phạt vi

phạm hành chính trong lĩnh vực THADS chưa thật sự hoàn thiện, như: việc

quy định về thẩm quyền xử phạt trong một số trường hợp không còn phù hợp

với tình hình thực tế; các chế tài mang tính cưỡng chế chưa được quy định cụ

72

thể trong các văn bản pháp luật; các quy định về thời hạn ra quyết định xử;

hình thức xử phạt; biện pháp khắc phục hậu quả; các trường hợp giải trình vẫn

còn có sự bất cập, chưa đầy đủ và phù hợp. Ví dụ: Khoản 1 Điều 61 Luật

XLVPHC quy định những trường hợp giải trình như sau: “Đối với hành vi

VPHC mà pháp luật quy định áp dụng hình thức xử phạt tước quyền sử dụng

giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời

hạn hoặc áp dụng mức phạt tiền tối đa của khung tiền phạt đối với hành vi đó

từ 15.000.000 đồng trở lên đối với cá nhân, từ 30.000.000 đồng trở lên đối với

tổ chức thì cá nhân, tổ chức vi phạm có quyền giải trình trực tiếp hoặc bằng

văn bản với người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính”. Tuy nhiên,

Luật XLVPHC không quy định trường hợp cá nhân, tổ chức bị áp dụng biện

pháp tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính có quyền được giải

trình là điều bất cập lớn. Bởi, trong nhiều trường hợp, có nhiều tang vật,

phương tiện VPHC có giá trị lớn hơn gấp nhiều lần so với số tiền bị xử phạt là

15.000.000 đồng hay 30.000.000 đồng.

- Thứ ba, các quy định của pháp luật chưa tạo tiền đề, điều kiện cho

Chấp hành viên – những người trực tiếp thực hiện nhiệm vụ tổ chức thi hành

án, trực tiếp phát hiện các hành vi vi phạm và cũng là người trực tiếp chịu sự

phản ứng, chống đối từ các đối tượng thi hành án.

- Thứ tư, sự quan tâm, chỉ đạo của lãnh đạo các cấp và Thủ trưởng các

cơ quan THADS chưa sâu sát, đặc biệt là trong lĩnh vực xử phạt vi phạm hành

chính. Trong kế hoạch triển khai công tác và báo cáo công tác hàng năm chưa

triển khai và đánh giá đối với lĩnh vực này.

- Thứ năm, cơ sở cơ sở vật chất, công cụ phương tiện hỗ trợ công tác tổ

chức thi hành án và xử lý các vi phạm trong lĩnh vực thi hành án dân sự chưa

đảm bảo.

73

- Thứ sáu, các cơ quan, người có thẩm quyền chưa xử lý các hành vi vi

phạm một cách triệt để, nghiêm khắc; chưa có bất kỳ một vụ việc nào được

chuyển yêu cầu xử lý hình sự (mặc dù có những vụ việc có thể được đánh giá

là có dấu hiệu vi phạm hình sự), đã tạo cho các đối tượng có thái độ coi

thường pháp luật, coi thường quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.

Tiểu kết chương 2

Qua Chương 2, tác giả đã khái quát về tình hình tổ chức, hoạt động của

các cơ quan THADS tỉnh Quảng Bình có liên quan trực tiếp đến xử phạt vi

phạm hành chính trong lĩnh vực THADS trên địa bàn tỉnh; đồng thời đã đi sâu

vào phân tích, đánh giá tình hình vi phạm cũng như tình hình xử phạt vi phạm

hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Quảng Bình từ

năm 2016 đến năm 2020 bằng những số liệu cụ thể;chỉ ra những hạn chế và

nguyên nhân của hạn chế trong xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực

THADS tại tỉnh Quảng Bình; so sánh với một số tỉnh, thành khác để làm sáng

tỏ những bất cập, vướng mắc của pháp luật hiện hành quy định liên quan trực

tiếp đến việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự.

Từ đó làm cơ sở để giải quyết các vấn đề tại chương 3, cụ thể như: đưa ra một

số quan điểm, đề xuất, kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về xử

phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự và các giải pháp để

bảo đảm xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực này ở địa bàn tỉnh Quảng

Bình.

74

CHƯƠNG 3

QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM XỬ PHẠT

VI PHẠMHÀNH CHÍNH TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI

TỈNH QUẢNG BÌNH

3.1. Quan điểm

Từ thực tiễn công tác thi hành án dân sự tại các cơ quan Thi hành án

dân sự tỉnh Quảng Bình trong những năm qua và những đánh giá, nhận định

tình hình tại địa phương trong thời gian tới. Để công tác xử phạt vi phạm hành

chính trong lĩnh vực Thi hành án dân sự tại tỉnh Quảng Bình tiếp tục đảm bảo

thực hiện có hiệu quả, phát huy được những thành tựu và khắc phục những

hạn chế, hoàn thành tốt hơn nữa nhiệm vụ được giao, ngành Thi hành án dân

sự tỉnh Quảng Bình cần quán triệt thực hiện tốt các quan điểm sau:

3.1.1. Bảo đảm quán triệt đường lối, chủ trương của Đảng

Phải nhận thức, nắm vững đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng,

pháp luật của Nhà nước; tranh thủ sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, sự lãnh

đạo của Ngành trong xử phạt các trường hợp vi phạm hành chính về thi hành

án dân sự.

Để làm tốt công tác đấu tranh, phòng chống các hành vi vi phạm pháp

luật và giải quyết có hiệu quả các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực

này, cần phải nắm vững quan điểm của Đảng và Nhà nước, như: Chỉ thị số

05-CT/TW ngày 14/10/2006 về tăng cường công tác bảo đảm an ninh quốc

gia trong tình hình mới; Chỉ thị số 12-CT/TW ngày 03/5/2007 về tăng cường

sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật trong công tác xử

lý các vụ án và công tác bảo vệ Đảng; Chỉ thị số 48-CT/TW ngày 22/10/2010

về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm

trong tình hình mới; Nghị quyết số 28-NQ/TW (khóa XI) ngày 25/10/2013

75

của Ban chấp hành Trung ương Đảng về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong

tình hình mới”; Chỉ thị công tác hàng năm của Tổng cục trưởng Tổng cục thi

hành án dân sự. Trên cơ sở đó, cần tuân thủ các quan điểm sau:

- Việc đấu tranh, phòng, chống các hành vi vi phạm hành chính trong

lĩnh vực Thi hành án dân sự phải gắn liền với cuộc đấu tranh chống âm mưu

“diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, giữ vững độc lập chủ quyền, toàn vẹn

lãnh thổ của Tổ quốc.

- Quán triệt và thực hiện chính sách xử phạt kết hợp với giáo dục,

thuyết phục nhằm phân hóa đối tượng vi phạm để giúp họ thấy được trách

nhiệm, nghĩa vụ phải thực hiện các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu

lực pháp luật.

- Khi thực hiện xử phạt vi phạm hành chính các hành vi vi phạm trong

lĩnh vực thi hành án dân sự, cần phải kết hợp đồng bộ, toàn diện các yếu tố

chính trị, tư tưởng, pháp luật và nghiệp vụ; phải có sách lược mềm dẻo, linh

hoạt; vừa kiên quyết đấu tranh, vừa thuyết phục, cảm hóa; không nên quá

nguyên tắc cứng nhắc làm hạn chế hiệu quả thực hiện.

3.1.2. Bảo đảm yêu cầu của cải cách tư pháp, cải cách hành chính

Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến

lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đề ra mục tiêu “Xây dựng nền tư pháp

trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước

hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.

Thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp của Đảng, Ngành Thi hành án Quảng

Bình đã triển khai thực hiện nghiêm, hiệu quả các chương trình, nhiệm vụ

trọng tâm về cải cách tư pháp của Ban chỉ đạo cải cách tư pháp trung ương;

luôn xác định cải cách hành chính là nhiệm vụ quan trọng; quan tâm, chú

trọng xây dựng và hoàn thiện pháp luật, triển khai thi hành đồng bộ pháp

76

luật mới về tư pháp; góp phần xây dựng nền hành chính ngày càng trong

sạch, vững mạnh, minh bạch, chuyên nghiệp, hiện đại, hoạt động hiệu lực,

hiệu quả nên đã thường xuyên quán triệt Nghị quyết 30c/NQ-CP ngày

8/11/2011 của Chính phủ về chương trình tổng thể cải cách hành chính giai

đoạn 2011-2020, các quyết định, văn bản chỉ đạo của tỉnh, của Tổng cục thi

hành án dân sự về cải cách hành chính đến toàn thể cán bộ, công chức, viên

chức, người lao động.

Song song với đó là việc triển khai thực hiện nghiêm túc chủ trương

tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy cơ quan tinh gọn, hoạt động hiệu

lực, hiệu quả theo đúng tinh thần nêu trong Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày

25-10-2017 của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ sáu. Rà soát,

sắp xếp tổ chức bộ máy của các cơ quan, đơn vị, các phòng trực thuộc đảm

bảo phù hợp với việc cải cách thủ tục hành chính. Chú trọng phân định rành

mạch thẩm quyền quản lý hành chính của thủ trưởng cơ quan với trách nhiệm,

quyền hạn tư pháp của các cán bộ được giao thực hiện các hoạt động tư

pháp.Tiếp tục quán triệt thực hiện nghiêm túc các chủ trương, đường lối của

Đảng về công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong Văn kiện Đại hội

Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng. Lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực

hiện các đề án về phòng, chống tiêu cực trong hoạt động tư pháp; cập nhật

Quy chế làm việc đảm bảo phù hợp với quy định của Tổng cục và tình hình

thực tế tại các cơ quan, đơn vị; kịp thời sơ kết rút kinh nghiệm để tiếp tục

hoàn thiện cơ chế giải quyết phòng, chống tiêu cực trong từng cơ quan, đơn vị

trực thuộc.Bên cạnh đó, lãnh đạo Cục Thi hành án dân sự tỉnh cũng thường

xuyên kiểm tra công tác cải cách hành chính tại các phòng, đơn vị thuộc Cục.

Thông qua đó càng nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu đơn vị về thực

hiện công tác cải cách hành chính; đánh giá đúng tình hình thực hiện nhiệm

vụ cải cách hành chính của cơ quan, đơn vị, từ đó đề xuất, kiến nghị những

77

giải pháp nhằm thực hiện tốt nhất công tác này; góp phần phục vụ đắc lực cho

việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương.

3.1.3. Bảo đảm nguyên tắc pháp chế trong quá trình thực hiện xử

phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự

Đây là nguyên tắc pháp lí cơ bản nhất trong hoạt động của cơ quan, tổ

chức và công dân được quy định ở Điều 8 Hiến pháp năm 2013:“Nhà nước

được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lí xã hội bằng

Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ".

Nguyên tắc pháp chế đòi hỏi việc tổ chức và hoạt động của các cơ quan

nhà nước nói chung, Cơ quan thi hành án dân sự nói riêng trước hết phải dựa

trên cơ sở pháp luật và được tiến hành theo đúng quy định của pháp luật; mọi

cán bộ, công chức nhà nước phải nghiêm chỉnh tôn trọng pháp luật trong khi

thực thi nhiệm vụ. Bởi họ là đội ngũ đại diện cho nhà nước thực hiện các quy

định của pháp luật. Chính vì vậy, đội ngũ này phải tuân thủ nguyên tắc pháp

chế để thực hiện được tốt nhất chức năng của nhà nước và thực hiện pháp luật

trong đời sống.

Thực tiễn cho thấy, những năm qua các cơ quan nhà nước, cán bộ, công

chức nhà nước có vi phạm pháp luật ngày càng nhiều; còn có tình trạng

tùy tiện, lạm quyền, tham nhũng xẩy ra trong quá trình thực thi công vụ. Vì

vậy, lãnh đạo Cục thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình luôn quan tâm quán

triệt đến toàn thể cán bộ, công chức trong ngành nói chung và đặc biệt là đội

ngũ chấp hành viên, những người có thẩm quyền trong việc tổ chức hoạt động

thi hành án dân sự; xử phạt hành chính trong lĩnh vực thi hành án cần phải

tuân thủ triệt để nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa; thực hiện đúng và đầy

đủ các quy định của pháp luật, không lạm quyền, không nhũng nhiễu, hách

78

dịch, cửa quyền khi thi hành công vụ; đảm bảo tôn trọng và bảo vệ quyền và

lợi ích chính đáng của công dân.

3.1.4. Bảo đảm quyền khiếu nại trong quá trình thực hiện xử phạt vi

phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự

Đây cũng cần được xem là vấn đề quan trọng trong quá trình giải quyết

các hành vi vi phạm hành chính. Việc đảm bảo quyền khiếu nại của công dân

sẽ tạo cho công dân có niềm tin vào cơ quan thực thi pháp luật, vào đường lối,

chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Vì vậy, lãnh đạo

Cục thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình quán triệt khi có khiếu nại, khiếu

kiện về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự, cần

phải quan tâm giải quyết triệt để, kịp thời, dứt điểm; không để xảy ra tình

trạng khiếu nại, khiếu khiện bức xúc, kéo dài; phải tôn trọng và bảo vệ các

quyền tự do và dân chủ của công dân; tránh để xảy ra điểm nóng về an ninh

chính trị. Việc giải quyết khiếu nại phải thực hiện đảm bảo vừa đúng trình tự,

thủ tục theo quy định của pháp luật, vừa thấu tình, đạt lý. Tuyệt đối không cản

trở, gây khó khăn và hạn chế quyền khiếu nại của công dân. Theo đó, việc

tiếp nhận, thụ lý và phân loại đơn phải đảm bảo chính xác; giải quyết phải

toàn diện, đầy đủ các nội dung đương sự nêu trong đơn; đúng trình tự, thủ tục

và thời hạn luật định. Tuy nhiên, cũng không được vì dân chủ mà để đương sự

lợi dụng quyền khiếu nại để làm ảnh hưởng đến hoạt động xử phạt vi phạm

hành chính.

3.2. Giải pháp

Để tăng cường hiệu lực, hiệu quả thi hành pháp luật về xử phạt vi phạm

hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự nói chung đảm bảo về xử phạt vi

phạm hành chính tại các cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình nói

riêng, tôi xin đưa ra một số giải pháp, kiến nghị cụ thể sau:

79

3.2.1. Giải pháp chung

Có thể nói rằng, Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 được sửa

đổi bổ sung năm 2020; Nghị định 82/2020/NĐ-CP và một số văn bản hướng

dẫn thi hành đã đáp ứng được yêu cầu thực tế đặt ra; khắc phục những hạn

chế, bất cập trong quá trình thực hiện; góp phần bảo đảm trật tự, kỷ cương,

quản lý hành chính, an ninh, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp của công dân, tổ chức; đấu tranh phòng, chống có hiệu quả đối với

hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực Thi hành án dân sự nhằm thực

hiện tốt hơn trong công tác quản lý nhà nước về thi hành án dân sự tại địa

phương. Tuy nhiên, thông qua thực trạng áp dụng trên địa bàn tỉnh Quảng

Bình những năm qua, thấy còn bộc lộ những bất cập, cần được cấp có thẩm

quyền rà soát, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện cho phù hợp. Cụ thể:

Thứ nhất, về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực

thi hành án dân sự

Một số quy định về thẩm quyền xử phạt không còn phù hợp với thực

tiễn như thẩm quyền xử phạt tiền của một số chức danh còn thấp trong khi

mức phạt đối với đa số hành vi VPHC tương đối cao hay thẩm quyền tịch thu

tang vật, VPHC bị giới hạn bởi thẩm quyền phạt tiền dẫn đến tình trạng dồn

vụ việc lên cấp trên.

Bất cập lớn và phổ biến nhất hiện nay là thẩm quyền xử phạt của Chấp

hành viên ở mức quá thấp, trong khi trên thực tế, Chấp hành viên là người

trực tiếp thực thi công vụ, xử lý hồ sơ và tổ chức thi hành án. Nhiều vụ việc

khi phát hiện có vi phạm, nhưng vượt quá thẩm quyền giải quyết, chấp hành

viên đã làm ngơ cho qua để còn tập trung thực hiện các công việc khác, dẫn

đến tình trạng có vi phạm nhưng không bị xử lý.

80

Để khắc phục những bất cập, vướng mắc ở trên, cần tăng thẩm quyền

xử phạt cho Chấp hành viên lên mức 1.000.000 đồng; Bổ sung quy định

hướng dẫn cụ thể về các loại giấy tờ, thủ tục, hồ sơ đề nghị xử phạt hành

chính trong trường hợp Chấp hành viên chuyển cho người có thẩm quyền ra

quyết định xử phạt.

Đồng thời cần có văn bản quy định về điều kiện “mở” về thẩm quyền

xử phạt cho chấp hành viên khi thực thi công vụ.

Ngoài ra, Nghị định 82/2020/NĐ-CP cũng quy định thẩm quyền xử

phạt VPHC đối với hành vi không thực hiện công việc phải làm theo bản án.

Về quy định này, khi thực hiện còn nhiều phát sinh, mâu thuẫn chưa rõ về

thẩm quyền xử phạt, mức xử phạt. Cụ thể, theo quy định tại khoản 2 Điều 120

Luật thi hành án dân sự thì, chấp hành viên ra quyết định phạt tiền trong

trường hợp người phải thi hành án không giao người chưa thành niên cho

người được giao nuôi dưỡng. Tuy nhiên, theo Nghị định 82/2020/NĐ-CP, với

hành vi không thực hiện công việc phải làm theo bản án, quyết định thì thẩm

quyền xử phạt thuộc Cục trưởng.

Thứ hai, cần bổ sung các quy định hướng dẫn về cưỡng chế thi hành

quyết định xử phạt vi phạm hành chính, thủ tục cưỡng chế, cơ quan có

thẩm quyền thực hiện cưỡng chế

Trên thực tế, không chỉ riêng tại địa bàn Quảng Bình , mà tại nhiều địa

phương khác trên cả nước, có rất nhiều vụ việc đã ra quyết định xử phạt

VPHC, nhưng không thi hành được bởi bất cập của luật là chưa có quy định

về vấn đề cưỡng chế.

Thứ ba, cần bổ sung chế tài để xử lý những trường hợp không thi

hành án. Ví dụ: mặc dù Điều 314 Luật Tố tụng Hành chính năm 2015 có quy

định: Cơ quan, tổ chức, cá nhân phải thi hành án cố ý không chấp hành bản

81

án, quyết định, quyết định buộc thi hành án của Tòa án thì tùy từng trường

hợp mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt VPHC, hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự

theo quy định của pháp luật; Người lợi dụng chức vụ, quyền hạn cố ý cản trở

việc thi hành án thì tùy từng trường hợp mà bị xử phạt VPHC, xử lý kỷ luật

hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của luật; nếu gây thiệt hại thì

phải bồi thường theo quy định của pháp luật. Đây là quy định mang tính răn

đe nhưng chưa có cơ chế để thực hiện trên thực tế; pháp luật hiện hành chưa

có quy định hướng dẫn cụ thể việc thực hiện xử phạt VPHC, hành vi vi phạm

phải xử lý trong lĩnh vực này nên quy định trên chỉ mang tính hình thức,

không hiệu quả.

Có thể nói, với những vướng mắc, chồng chéo nêu trên cần có sự rà

soát Luật THADS và một số Luật, văn bản khác có liên quan để đảm bảo sự

thống nhất giữa các quy định, nâng cao hiệu quả công tác xử phạt VPHC

trong THADS.

Thứ tư, về thời hạn ra Quyết định XPVPHC:

Vấn đề này Nghị định 82/2020/NĐ-CP không quy định, nên thực hiện

theo quy định của Luật xử lý vi phạm hành chính. Theo đó, khoản 3 Điều 58

Luật xử lý vi phạm hành chính quy định: Trường hợp vi phạm hành chính

không thuộc thẩm quyền hoặc vượt quá thẩm quyền xử phạt của người lập

biên bản, thì biên bản phải được chuyển ngay đến người có thẩm quyền xử

phạt để tiến hành xử phạt”.

Thực tiễn cho thấy đây là trường hợp xảy ra khá phổ biến, vì thông

thường người đang thi hành công vụ là người trực tiếp phát hiện hành vi vi

phạm hành chính, chủ yếu là chấp hành viên, nhưng thẩm quyền của chấp

hành viên chỉ được xử phạt đến 500.000 đồng, nên rất nhiều vụ việc vượt quá

82

thẩm quyền, cần phải chuyển đến người có thẩm quyền xử phạt để tiến hành

xử phạt.

Tuy nhiên, khoản 1 Điều 66 Luật xử phạt vi phạm hành chính năm

2012 quy định: “Người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính phải ra

quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày lập

biên bản vi phạm hành chính. Đối với vụ việc có nhiều tình tiết phức tạp mà

không thuộc trường hợp giải trình hoặc đối với vụ việc không thuộc trường

hợp giải trình theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 61 Luật này thì thời

hạn ra quyết định xử phạt tối đa là 30 ngày, kể từ ngày lập biên bản”. Theo

quy định này, 07 ngày được hiểu là bao gồm cả ngày nghỉ hàng tuần và lễ, tết.

Như vậy thì công chức, viên chức không đủ thời gian tham mưu xử lý và trình

hồ sơ cho người có thẩm quyền để ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành

chính, nếu trường hợp ngày nghỉ và ngày lễ kéo dài liên tiếp nhau.

Vì vậy, kiến nghị sửa đổi khoản 1 Điều 66 Luật xử lý VPHC lại theo

hướng: “Người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính phải ra quyết định

xử phạt vi phạm hành chính trong thời hạn 07 ngày làm việc,kể từ ngày lập

biên bản vi phạm hành chính”. Ngoài ra, cần có văn bản giải thích cụm từ

“trường hợp đặc biệt nghiêm trọng” quy định tại khoản 1 Điều 66 Luật

XLVPHC được hiểu như thế nào, nhằm tránh tình trạng việc đánh giá từng vụ

việc có đặc biệt nghiêm trọng hay không tùy vào ý chí chủ quan của người áp

dụng.

Thứ năm, về trường hợp giải trình:

Để đảm bảo tính công bằng khi giải quyết các vụ việc VPHC, khoản 1

Điều 61 Luật XLVPHC năm 2012 nên được sửa đổi, bổ sung theo hướng: Đối

với những trường hợp cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính có tang vật,

phương tiện bị tịch thu mà giá trị tài sản từ 15.000.000 đồng trở lên đối với cá

83

nhân và 30.000.000 đồng trở lên đối với tổ chức thì cá nhân, tổ chức cũng có

quyền được giải trình.

Thứ sáu, về hình thức xử phạt chính:

Nghị định số 82/2020/NĐ-CP quy định vi phạm hành chính trong lĩnh

vực thi hành án dân sự áp dụng hai hình thức xử phạt chính là cảnh cáo và

phạt tiền. Trong đó, có hai hành vi vi phạm hành chính có thể áp dụng cảnh

cáo hoặc phạt tiền đối với hành vi: “Đã nhận giấy báo, giấy triệu tập lần thứ

hai của người có thẩm quyền thi hành án nhưng không đến địa điểm ghi trong

giấy báo, giấy triệu tập mà không có lý do chính đáng” và hành vi “thông báo

không đúng về thời hạn, hình thức của quyết định, giấy tờ, văn bản về thi

hành án dân sự cho đương sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo

quy định”. Cách quy định này có ưu điểm là tạo điều kiện cho người có thẩm

quyền chủ động trong quá trình thực hiện hoạt động quản lý nhà nước nhằm

áp dụng pháp luật phù hợp với từng hoàn cảnh, mục đích nhất định. Tuy

nhiên, nhược điểm của cách quy định này là trong một số trường hợp nhất

định, làm phát sinh sự chồng chéo trong việc áp dụng hình thức xử phạt cảnh

cáo với hình thức phạt tiền.

Hiện nay, Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định: “Cảnh

cáo được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức VPHC không nghiêm trọng, có

tình tiết giảm nhẹ và theo quy định thì bị áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo

hoặc đối với mọi hành vi vi phạm hành chính do người chưa thành niên từ đủ

14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện. Cảnh cáo được quyết định bằng văn bản”.

Quy định này cho thấy, đối với cá nhân từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi vi

phạm hành chính thì trong mọi trường hợp đều áp dụng hình thức xử phạt là

cảnh cáo. Do vậy, đối với nhóm đối tượng này chỉ cần đáp ứng điều kiện về

độ tuổi thì người có thẩm quyền sẽ đương nhiên áp dụng hình thức xử phạt

84

cảnh cáo mà không cần quan tâm điều kiện nào khác kèm theo. Trong khi đó,

đối với cá nhân từ đủ 16 tuổi trở lên và tổ chức vi phạm hành chính thì hình

thức xử phạt cảnh cáo chỉ được áp dụng khi có đầy đủ các điều kiện: vi phạm

hành chính không nghiêm trọng; có tình tiết giảm nhẹ; theo quy định thì bị áp

dụng hình thức xử phạt cảnh cáo. Do vậy, khi áp dụng hình thức xử phạt cảnh

cáo trong thực tế, người có thẩm quyền xử phạt phải bảo đảm vi phạm hành

chính đáp ứng đầy đủ cả ba điều kiện nêu trên. Nói cách khác, nếu thiếu một

trong ba điều kiện này thì không thể áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo.

Vậy người có thẩm quyền sẽ dựa vào tiêu chí nào để quyết định áp

dụng hình thức xử phạt cảnh cáo hay phạt tiền trong khi cùng một vi phạm

hành chính với tính chất, mức độ nguy hiểm giống nhau. Rõ ràng trong

trường hợp này, pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính nói chung và Nghị

định số 82/2020/NĐ-CP nói riêng, hoàn toàn không có quy định, mà việc áp

dụng cảnh cáo hay phạt tiền hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của người có thẩm

quyền xử phạt trên cơ sở “tùy nghi hành chính”. Cách quy định đã đồng nhất

cảnh cáo và phạt tiền, trong khi hậu quả pháp lý của hai hình thức xử phạt này

rất khác nhau. Hình thức xử phạt cảnh cáo mang ý nghĩa giáo dục, có mục

đích nhắc nhở chủ thể vi phạm tôn trọng và chấp hành các quy định pháp luật

về quản lý nhà nước. Trong khi đó, hình thức phạt tiền nhằm mục đích tước đi

một khoản lợi ích vật chất trực tiếp của chủ thể vi phạm, làm cho họ bị thiệt

hại về tài sản.Trong khi đó, việc xử phạt vi phạm hành chính phải tuân thủ

một nguyên tắc quan trọng đó là “bảo đảm công bằng”. Tuy nhiên, với bất cập

nêu trên, trong nhiều trường hợp, nội dung của nguyên tắc xử phạt quan trọng

này không được bảo đảm thực hiện, dẫn đến mục đích phân hóa trách nhiệm

hành chính không đạt được.

Để khắc phục bất cập này, cần sửa đổi Nghị định số 82/2020/NĐ-CP

theo hướng bỏ cách quy định một VPHC trong lĩnh vực THADS vừa có thể

85

phạt cảnh cáo, vừa có thể phạt tiền. Theo đó, nếu đánh giá VPHC là không

nghiêm trọng và không cần thiết phải áp dụng hình thức phạt tiền thì quy định

hành vi đó chỉ áp dụng hình thức xử phạt chính là cảnh cáo mà không kèm

theo hình thức phạt tiền.

Bên cạnh đó, cần sửa đổi Luật XLVPHC, theo hướng bỏ điều kiện

“VPHC có tình tiết giảm nhẹ” khi áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo đối với

chủ thể vi phạm là cá nhân từ đủ 16 tuổi trở lên, bởi trong trường hợp VPHC

chỉ bị phạt cảnh cáo nhưng người vi phạm không có tình tiết giảm nhẹ thì sẽ

khó khăn cho người áp dụng. Bởi, nếu xử phạt cảnh cáo mà không có tình tiết

giảm nhẹ thì không đáp ứng điều kiện áp dụng, ngược lại nếu vì thiếu tình tiết

giảm nhẹ mà bỏ qua việc xử phạt sẽ dẫn tới hệ quả là “bỏ lọt” vi phạm, điều

này hoàn toàn không phù hợp với nguyên tắc xử phạt VPHC.

Thứ bảy, về biện pháp khắc phục hậu quả “Buộc nộp lại số lợi bất

hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính”

Nghị định số 82/2020/NĐ-CP quy định, biện pháp “Buộc nộp lại số lợi

bất hợp pháp có được do thực hiện VPHC” được áp dụng đối với 06 hành vi

vi phạm của thừa phát lại trong lĩnh vực THADS. Tuy nhiên, đối với VPHC

của thừa phát lại trong lĩnh vực THADS, Nghị định này chưa có quy định

hướng dẫn cụ thể cách xác định “số lợi bất hợp pháp”, do đó gây ra khó

khăn,lúng túng cho chủ thể có thẩm quyền khi áp dụng biện pháp này trong

thực tế.

Để khắc phục bất cập này, cần sửa đổi Nghị định số chưa có quy định

hướng dẫn cụ thể cách xác định theo hướng bổ sung quy định về cách xác

định “số lợi bất hợp pháp” đối với VPHC do thừa phát lại thực hiện trong lĩnh

vực THADS làm cơ sở cho việc áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả “buộc

nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện VPHC”

86

Để công tác xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân

sự ngày càng hiệu quả, cần kiến nghị đề xuất một số nội dung:

- Đối với Bộ Tư pháp:

Kiến nghị Bộ trưởng Tư pháp đề nghị các cơ quan của Quốc hội, các

Đoàn đại biểu Quốc hội, Đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Mặt trận Tổ

quốc các cấp tiếp tục quan tâm, tăng cường giám sát theo thẩm quyền, theo

chuyên đề đối với công tác thi hành án dân sự; đề nghị Quốc hội bố trí ngân

sách trong kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021 - 2025 cho việc

triển khai các dự án đầu tư nhằm đáp ứng nhu cầu cần thiết về cơ sở vật chất,

trang thiết bị, trụ sở làm việc cho các cơ quan thi hành án dân sự, nhất là các

kho vật chứng.

- Đối với Tổng cục thi hành án dân sự:

Tổ chức các hội thảo chuyên đề về xử phạt vi phạm hành chính trong

lĩnh vực thi hành án dân sự để trao đổi kinh nghiệm, học hỏi những cách làm

hay; thành lập các đoàn kiểm tra, khảo sát thực tế tại các địa phương để nắm

bắt tình hình thực hiện cũng như hướng dẫn, chỉ đạo về chuyên môn nghiệp

vụ; kịp thời giải đáp, tháo gỡ những vướng mắc, bất cập hiện nay.

Tổ chức tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên sâu về xử phạt vi phạm

hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự; đặc biệt là kỹ năng lập hồ sơ xử

phạt vi phạm hành chính, kỹ năng kiểm tra tính pháp lý của các quyết định xử

phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực này. Đồng thời cần xem xét, bổ sung

biên chế, nhất là biên chế về chấp hành viên cho Cơ quan thi hành án dân sự

tỉnh Quảng Bình để đảm bảo nguồn nhân lực giải quyết số lượng lớn các vụ

việc phải thi hành án trên địa bàn tỉnh.

Nghiên cứu xây dựng và ban hành quy chế xử phạt vi phạm hành chính

trong nội bộ ngành nhằm thực hiện thống nhất trình tự, thủ tục xử phạt vi

87

phạm hành chính trong thi hành án dân sự, tạo niềm tin và cơ sở cho Chấp

hành hành viên khi quyết định xử phạt.

3.2.2. Giải pháp cụ thể đối với các cơ quan thi hành án dân sự tỉnh

Quảng Bình

Để phát huy những kết quả đạt được, đồng thời khắc phục những tồn

tại, hạn chế; bảo đảm xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án

dân sự, cũng như bảo đảm các quyết định xử phạt vi phạm hành chính được

ban hành phải được thực thi kịp thời, nghiêm túc tại tỉnh Quảng Bình, trong

thời gian tới các cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình cần tập trung

làm tốt một số giải pháp sau:

- Thứ nhất, tiếp tục triển khai thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Trung

ương 4 (khóa XI, khóa XII) về xây dựng Đảng và Chỉ thị số 05-CT/TW của

Bộ Chính trị về đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong

cách Hồ Chí Minh gắn với các quy định của Trung ương về tăng cường vai

trò nêu gương của cán bộ, đảng viên, người đứng đầu; ngăn chặn, đẩy lùi sự

suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn

biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ. Các cấp ủy Đảng, chính quyền, các cơ

quan, đơn vị chọn khâu đột phá là tổ chức thi hành đạt tỷ lệ cao các bản án,

quyết định có hiệu lực thi hành của Tòa án; giảm thiểu các vụ việc tồn đọng,

kéo dài và tăng cường xử phạt vi phạm hành chính đối với các hành vi vi

phạm; xây dựng khẩu hiệu hành động và xác định nội dung thực hiện những

vấn đề mới, khó từ thực tiễn để đề ra các giải pháp, quyết tâm thực hiện đến

cùng mục tiêu đề ra.

- Thứ hai, tăng cường công tác quản lý, điều hành, phân công, phân

nhiệm cụ thể; tăng cường đôn đốc, kiểm tra; kỷ cương, kỷ luật trong thi hành

nhiệm vụ; quan tâm đào tạo, kiện toàn tổ chức. Làm rõ vai trò, trách nhiệm

88

của chấp hành viên và những người có liên quan nếu để xảy ra trường hợp có

đối tượng vi phạm hành chính trong quá trình tổ chức thi hành ánmà không

lập hồ sơ xử phạt hoặc đề nghị xử phạt; đã ra quyết định xử phạt nhưng không

đôn đốc thi hành quyết định xử phạt; kiên quyết xử lý nghiêm các trường hợp

cán bộ, công chức sai phạm trong tổ chức thi hành án.

Đặc biệt, các đơn vị phải tranh thủ sự chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền

địa phương và tăng cường công tác phối hợp với các cơ quan có liên quan

trong công tác thi hành án và xử lý vi phạm trong hoạt động thi hành án.

Nâng cao hơn nữa hiệu quả mối quan hệ phối hợp với các cơ quan chức

năng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Hội sở của các tổ chức tín dụng,

các cơ quan, đơn vị chuyên môn, các cơ quan, đơn vị có liên quan khác; phát

huy tinh thần trách nhiệm, năng lực chuyên môn, tính chủ động của các thành

viên Tổ xử lý nợ xấu.

Kiểm tra công tác thi hành án tín dụng, ngân hàng; phối hợp giải quyết

khó khăn, vướng mắc trong quá trình tổ chức thi hành án và đặc biệt là phối

hợp trong công tác chỉ đạo các cơ quan thi hành án dân sự và các tổ chức tín

dụng trong công tác thi hành án dân sự đảm bảo kịp thời, hiệu quả, đúng quy

định pháp luật.

Nâng cao chất lượng thi hành án dân sự liên quan đến các khoản nợ của

tổ chức tín dụng và các khoản thu cho ngân sách nhà nước, bảo đảm đạt tỷ lệ

thi hành xong về tiền trên tổng số có điều kiện thi hành cao hơn những năm

trước; đặc biệt chú trọng việc thu hồi tiền, tài sản bị chiếm đoạt trong các vụ

án tham nhũng, kinh tế. Đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm mà

ngành Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình cần đề ra trong những năm tiếp

theo.

89

- Thứ ba, tổ chức, sắp xếp lại biên chế, ưu tiên bổ sung chấp hành viên

làm công tác nghiệp vụ và tổ chức thi hành án nhằm đảm bảo nhân sự để thực

hiện tốt công tác chuyên môn, nghiệp vụ. Hiện tại số lượng chấp hành viên

làm công tác nghiệp vụ cũng rất hạn chế, trong khi số lượng các vụ, việc phải

thi hành án hàng năm trên địa bàn tỉnh ngày càng tăng, nhiều vụ phải tiến

hành xác minh điều kiện thi hành án ở nhiều nơi, kiểm đếm, kê biên tài sản

các vụ việc lớn dây chuyền sản xuất, máy móc thiết bị, nhà xưỡng mất nhiều

thời gian có vụ việc kéo dài hàng tháng mới kê biên xong, tính chất vụ, việc

phức tạp, trong khi biên chế thực hiện chức năng, nhiệm vụ ít, không đáp ứng

được yêu cầu đặt ra.

- Thứ tư, trong quá trình tổ chức thi hành án, nếu phát hiện có trường

hợp vi phạm hành chính trong hoạt động thi hành án thì phải kiên quyết lập

hồ sơ xử lý nghiêm các đối tượng trốn tránh, chây ỳ, chống đối việc thực hiện

nghĩa vụ thi hành án; tuyệt đối không để xảy ra tình trạng có vi phạm nhưng

không xử lý hoặc có xử lý nhưng không triệt để.

- Thứ năm, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp

luật về THADS, nhất là pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh

vực THADS đảm bảo mọi người dân, cơ quan, tổ chức nghiêm chỉnh chấp

hành ý thức “sợ” bị phạt mới nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác THADS

trên địa bàn, bảo đảm tất cả các bản án, quyết định của Tòa án đều được thi

hành nghiêm minh.

Cán bộ, Chấp hành viên các cơ quan THADS tỉnh Quảng Bình cần tiếp

tục thực hiện tốt Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09/12/2003 của Ban Bí thư Trung

ương Đảng (Khóa IX) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác

phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ,

nhân dân; Quyết định số 486/QĐ-BTP ngày 03/03/2014 của Bộ trưởng Bộ Tư

90

pháp và Kế hoạch số 930/KH-TCTHADS của Tổng cục THADS về việc

tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật nói chung và pháp luật về THADS

nói riêng nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về ý thức tôn trọng và chấp hành

pháp luật của nhân dân, nhất là những người được thi hành án, người phải thi

hành án và các đối tượng có liên quan. Các cơ quan THADS phải xác định

công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật là một trong những nhiệm

vụ của mình. Vì vậy, cần phải thường xuyên đổi mới hình thức, phương pháp

phổ biến, giáo dục pháp luật phù hợp với từng đối tượng; các hoạt động tuyên

truyền, phổ biến giáo dục pháp luật phải được tiến hành thường xuyên, liên

tục, hướng về cơ sở; phải bám sát nội dung, yêu cầu theo quy định của Luật

phổ biến, giáo dục pháp luật và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi

hành.Do đó, quá trình đổi mới đất nước, xây dựng “nhà nước pháp quyền xã

hội chủ nghĩa” và một “xã hội công dân” bên cạnh việc xây dựng một hệ

thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ, phù hợp với sự phát triển của nền kinh

tế - xã hội, cần phải xây dựng một xã hội trong đó mọi người đều có ý thức

tôn trọng pháp luật, tự nguyện tuân thủ và nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật,

có tinh thần bảo vệ pháp luật, sống và làm việc theo pháp luật.

- Thứ sáu, Nâng cao trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng và

Ban Chỉ đạo THADS các cấp.

Quá trình hoạt động THADS tại các cơ quan THADS tỉnh Quảng Bình

cho thấy một phần các vụ việc có khiếu nại phát sinh của đương sự là do chưa

thỏa mãn với nội dung bản án, quyết định của Tòa án. Có thể nói, quá trình

tổ chức thi hành án phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng của các giai đoạn

trước đó như giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử. Nếu các bản án xét xử

không công minh, không khả thi, có nhiều sai sót, không áp dụng các biện

pháp khẩn cấp tạm thời,…thì đến giai đoạn THADS sẽ không được thực

91

hiện hiệu quả, vì vậy cần nâng cao chất lượng cũng như trách nhiệm của

các cơ quan này hơn nữa.

Tăng cường sự chỉ đạo của Ban Chỉ đạo THADS; sự phối hợp của các

cơ quan hữu quan trong THADS. Thực tiễn hoạt động THADS tại các cơ

quan THADS tỉnh Quảng Bình cho thấy, để đạt được kết quả khả quan, hoàn

thành tốt các chỉ tiêu nhiệm vụ được giao thì trước hết công tác chỉ đạo, phối

hợp của Ban Chỉ đạo THADS, sự quan tâm phối hợp của các cơ quan hữu

quan với cơ quan THADS là rất quan trọng. Mối quan hệ phối hợp ở đây phải

được xác định bao gồm quan hệ phối hợp trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo,

điều hành, quan hệ phối hợp trong hoạt động tác nghiệp nghiệp vụ, báo cáo

tổng hợp. Quan hệ phối hợp có tác dụng hỗ trợ tích cực cho các công việc

được tiến hành thuận lợi, là yếu tố rất quan trọng trong giải quyết đúng đắn

các vụ việc thi hành án, cũng như xử phạt vi phạm hành chính liên quan đến

các trường hợp là cơ quan, tổ chức.

- Thứ bảy, định kỳ 06 tháng và cuối năm công tác, cần lập Đoàn công

tác kiểm tra kết quả tổ chức thi hành án ở hai cấp, trong đó có kiểm tra

chuyên đề về các vụ việc không có khả năng thi hành để làm rõ nguyên nhân,

vướng mắc; từ đó làm rõ vai trò, trách nhiệm của chấp hành viên trong quá

trình thực thi nhiệm vụ. Những vụ việc đủ điều kiện để lập hồ sơ xử phạt vi

phạm hành chính thì đã ra quyết định xử phạt chưa hoặc đã báo cáo đề nghị

người có thẩm quyền ra quyết định xử phạt chưa? Đối với những vụ việc đã ra

quyết định xử phạt nhưng đến nay vẫn chưa thi hành xong thì lý do là gì? Cần

phải có biện pháp quyết liệt như thế nào hay là vướng mắc ở đâu để có biện

pháp tháo gỡ, nhằm đảm bảo các quyết định xử phạt được ban hành phải được

nghiêm túc thực hiện trên thực tế.

92

- Thứ tám, xây dựng chuyên đề về xử phạt vi phạm hành chính trong

lĩnh vực thi hành án dân sự để phân tích, đánh giá cụ thể những mặt làm được,

những mặt còn hạn chế, nguyên nhân của những hạn chế và tìm ra giải pháp

cụ thể, phù hợp để đảm bảo thực hiện có hiệu quả công tác xử phạt vi phạm

hành chính tại các cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình.

- Thứ chín, để đảm bảo các bản án, quyết định của Tòa án được thực thi

một cách kịp thời, hiệu quả trên thực tế; cũng như phát hiện chính xác các

trường hợp vi phạm hành chính trong lĩnh vực THADS, Chấp hành viên cần

tăng cường trực tiếp xác minh điều kiện THADS của cá nhân, tổ chức phải thi

hành án, để tự mình làm rõ tình trạng tài sản và điều kiện kinh tế, các nguồn

thu nhập của người phải THA nhằm buộc họ thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đã

được quyết định trong bản án, quyết định. Bởi, trực tiếp xác minh điều kiện

THA là biện pháp xác minh rất phổ biến, được áp dụng đối với hầu hết các vụ

việc THA. Trong nhiều trường hợp, trực tiếp xác minh điều kiện THADS đem

lại hiệu quả cao và nhanh hơn so với việc gửi văn bản yêu cầu cung cấp thông

tin về điều kiện THA; làm rõ người phải THA có tiền, tài sản hoặc các nguồn

thu nhập hợp pháp nào để bảo đảm THA hay không; Người phải THA có tự

kê khai trung thực và đầy đủ về tài sản, thu nhập, điều kiện THA của mình

hay không? Thông qua văn bản để yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên

quan cung cấp những thông tin về tài sản, tài khoản, các khoản thu nhập của

người phải THA.

Đối chiếu với quy định tại điểm b khoản 6 Điều 44 Luật THADS năm

2008, Điều 4 Thông tư liên tịch số 02/2014/TTLT-BTP-BTC-BLĐTBXH-

NHNNVN: Hướng dẫn việc cung cấp thông tin về tài khoản, thu nhập của

người phải THA và thực hiện phong tỏa, khấu trừ để THADS và Điều 3

TTLT số 03/2014/TTLT-BTP-NHNNVN: Hướng dẫn xác minh điều kiện

THA của Thừa phát lại tại các tổ chức tín dụng (đối với Thừa phát lại), để xác

93

định xem đối tượng phải thi hành ánđã cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời và

chính xác hay chưa? Có sự che dấu hoặc cố tình cung cấp sai lệch thông tin

nhằm trốn tránh nghĩa vụ thi hành án hay không để lập hồ sơ, ra quyết định

xử phạt vi phạm hành chính.

Từ kết quả xác minh, sẽ làm căn cứ chính xác để ra các quyết định xử

phạt vi phạm hành chính đối với đối tượng thi hành án nếu cố tình che dấu,

khai báo không trung thực về địa chỉ, tài sản…nhằm trốn tránh thực hiện

nghĩa vụ thi hành án. Trường hợp hành vi vi phạm cấu thành tội phạm thì lập

hồ sơ đề nghị Cơ quan điều tra xem xét xử lý theo trình tự tố tụng hình sự.

- Thứ mười, tăng cường công khai, minh bạch trong hoạt động của các

cơ quan thi hành án dân sự thuộc tỉnh và trách nhiệm giải trình của cán bộ,

công chức; hoàn thiện cơ chế giám sát của người dân, tổ chức đối với hoạt

động của cán bộ, công chức trong các cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Quảng

Bình.

94

Tiểu kết chương 3

Chương 3, tác giả đã tập trung làm rõ các quan điểm chỉ đạo, đường lối,

chủ trương của Đảngđối với công tác thi hành án dân sự; vấn đề về bảo đảm

yêu cầu của cải cách tư pháp, cải cách hành chính; bảo đảm nguyên tắc pháp

chế trong quá trình thực hiện xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi

hành án dân sự; cũng như bảo đảm nguyên tắc pháp chế trong quá trình thực

hiện xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự tại các cơ

quan thi hành án dân sự. Đồng thời, trên cơ sở phân tích thực trạng áp dụng

pháp luật, những nguyên nhân tồn tại, hạn chế trong công tác xử phạt vi phạm

hành chính ở lĩnh vực thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Quảng Bình những

năm qua, tác giả đã đưa ra các giải pháp, kiến nghị chung và giải pháp riêng

đối với các cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình nhằm đảm bảo việc

xử phạt vi phạm hành chính trong thời gian tới.

95

KẾT LUẬN

Bản án, quyết định của Tòa án nhân danh Nhà nước khi được chấp

hành nghiêm chỉnh sẽ có tác động trực tiếp đến lòng tin của nhân dân đối với

pháp luật. Vì vậy, hoạt động thi hành án có một ý nghĩa vô cùng quan trọng

trong việc giữ vững kỷ cương phép nước, củng cố pháp chế và trật tự pháp

luật xã hội chủ nghĩa, đảm bảo cho quyền lực tư pháp được thực thi trên thực

tế. Nhận thức được tầm quan trọng trong công tác này, Đảng và Nhà nước ta

đã đề ra mục tiêu trong những năm tới đây là phải: "Tiếp tục tạo sự chuyển

biến mạnh mẽ trong công tác thi hành án dân sự, nâng cao hiệu quả công tác

thi hành án, giải quyết căn bản tình trạng án tồn đọng. Đổi mới tổ chức và

hoạt động của hệ thống cơ quan thi hành án dân sự, nâng cao vai trò trách

nhiệm của các cơ quan thi hành án". Nhiều năm qua, Chính phủ đã xác định

công tác thi hành án dân sự là một trong những nhiệm vụ trọng tâm và đã đưa

ra nhiều giải pháp hiệu quả nhằm tạo sự chuyển biến cơ bản trong công tác

này. Do vậy, công tác thi hành án dân sự trong những năm qua đạt được một

số kết quả đáng khích lệ, mà kết quả nổi bật nhất theo đánh giá của Chính phủ

là: "Hệ thống cơ quan thi hành án dân sự được hình thành trong cả nước, công

tác thi hành án dân sự đã được triển khai và hoạt động có hiệu quả bước đầu".

Tuy nhiên, bên cạnh đó, công tác thi hành án dân sự nói chung và trên địa bàn

tỉnh Quảng Bình nói riêng hiện vẫn đang đứng trước những khó khăn, thử

thách to lớn với nhiều vấn đề tồn tại, bất cập đang đặt ra cần được giải quyết.

Hiệu quả công tác thi hành án dân sự chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu

nhiệm vụ, và sự quan tâm, mong mỏi của Đảng, Nhà nước và nhân dân; hoạt

động thi hành án chưa thật sự đảm bảo được tính công bằng và nghiêm minh

của pháp luật. Tồn tại lớn nhất trong công tác thi hành án dân sự những năm

qua là tình trạng án "tồn đọng" kéo dài, với số lượng lớn ngày càng tăng, song

chưa có biện pháp hữu hiệu để giải quyết. Đây là vấn đề rất bức xúc đặt ra

96

trong công tác thi hành án dân sự hiện nay. Thực trạng này, một phần xuất

phát từ nguyên nhân: ý thức tuân thủ pháp luật của một số bộ phận nhân dân

nói chung và một số cơ quan, tổ chức, các nhà quản lý doanh nghiệp và cá

nhân (kể cả chính quyền địa phương) còn yếu kém. Mặt khác, là do chưa có

sự phối hợp đồng bộ, chặt chẽ giữa các cơ quan bảo vệ pháp luật, cũng như cơ

quan hữu quan trong quá trình thi hành án; cơ sở pháp lý về tổ chức và hoạt

động thi hành án dân sự chưa được hoàn thiện, hệ thống các văn bản pháp lý

về thi hành án dân sự chưa đầy đủ, chậm được bổ sung, sửa đổi kịp thời; cơ

chế quản lý và cơ chế thi hành án hiện nay không hợp lý, gây cản trở và làm

giảm hiểu quả công tác thi hành án nói chung và thi hành án dân sự nói riêng.

Vì vậy, muốn giải quyết tình trạng "án tồn đọng", nâng cao hiệu quả thi hành

án dân sự cần phải nghiên cứu đề ra các giải pháp đồng bộ về nhiều mặt: Kinh

tế, pháp luật, chính sách xã hội, tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ và đặc biệt là

phải chú trọng hoàn thiện các chế tài xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh

vực thi hành án dân sự, đảm bảo các chế tài được áp dụng một cách có hiệu

quả trên thực tế và là công cụ hỗ trợ đắc lực cho công tác tổ chức thi hành án

dân sự, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, tăng cường, củng cố niềm tin của

nhân dân đối với các cơ quan thi hành án dân sự.

Trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ, tác giả đã vận dụng những kiến thức

lý luận đã được tiếp thu từ sách báo, quá trình học tập tại Học viện và tìm

hiểu thực tế tại địa phương. Tuy nhiên, do còn hạn chế về thời gian, điều kiện

nghiên cứu thực tế có những khó khăn nhất định, nội dung nghiên cứu và các

giải pháp nêu trên đòi hỏi phải có thời gian kiểm nghiệm. Vì vậy, những đóng

góp của luận văn không tránh khỏi những khiếm khuyết, hạn chế nhất định.

Tác giả luận văn mong nhận được những ý kiến đóng góp của các nhà khoa

học, các thầy cô giáo và bạn bè, đồng nghiệp để tiếp tục nghiên cứu, bổ sung,

hoàn thiện đề tài.

97

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Hiến pháp 2013.

2. Luật thi hành án dân sự 2008 sửa đổi bổ sung năm 2014.

3. Luật xử lý vi phạm hành chính 2012.

4. Luật xử lý vi phạm hành chính sửa đổi bổ sung năm 2020.

5. Nghị định số 97/2017/NĐ-CP ngày 18 tháng 8 năm 2017của Chính

phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 81/2013/NĐ-

CPngày 19 tháng 07 năm 2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số

điều và biện pháp thi hành Luật xử lý vi phạm hành chính.

6. Nghị định số 67/2015/NĐ-CP ngày 14 tháng 5 năm 2015 của Chính

phủ, sửa đổi, bổ sung một số điều củaNghị định 110/2013/NĐ-CP.

7. Nghị định số 81/2013/NĐ-CPngày 19 tháng 07 năm 2013 của

Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật xử lý

vi phạm hành chính.

8. Nghị định số 82/2020/NĐ-CP ngày 15 tháng 7 năm 2020 của Chính

phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp,

hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản

doanh nghiệp, hợp tác xã.

9. Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24 tháng 9 năm 2013 của

Chính phủquy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư

pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá

sản doanh nghiệp, hợp tác xã.

10. Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25-10-2017 Hội nghị lần thứ sáu

Ban chấp hành Trung ương khóa XII một số vấn đề tiếp tục đổi mới, sắp

xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực,

hiệu quả.

11. Bùi Tiến Đạt, (2008) “Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính – Lý luận và

thực tiễn”, Luận văn thạc sĩ - Khoa Luật Trường Đại học quốc gia Hà Nội.

12. Nguyễn Quang Thái (2008), Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động

thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Luật học – Học viện

Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.

13. Đặng Đình Quyền (2012), Hiệu quả áp dụng pháp luật thi hành án dân

sự ở Việt Nam, Luận án Tiến sỹ Luật học tại Học viện Chính trị - Hành chính

quốc gia Hồ Chí Minh.

14. Nguyễn Hoàng Giang (2010), Áp dụng pháp luật thi hành án dân sự của

cơ quan Thi hành án ở thành phố Hà Nội hiện nay,Luận văn Thạc sĩ Luật học

tại Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.

15. Đinh Quang Thành (2014), Địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành

viên Trung cấp – Từ thực tiễn các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Quảng

Binh,Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính tại

Học viện Hành chính Quốc gia.

16. Nguyễn Văn Tuấn (2014), Quyền khiếu nại về thi hành án dân sự - Từ

thực tiễn các cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình, Luận văn Thạc sỹ

chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính tại Học viện Hành chính

Quốc gia.

17. Lê Ngọc Nguyên Phương (2017), “Xử phạt vi phạm hành chính đối với

các hành vi lấn chiếm trái phép hè phố đô thị”, Khóa luận tốt nghiệp cử nhân

luật, Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh.

18. Nhật Tân (11.4.2019), “Một số khó khăn, vướng mắc, hạn chế trong thi

hành Luật Xử lý vi phạm hành chính”, Trang thông tin điện tử Sở tư pháp

Quảng Bình

19. Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình (2016-2020) Báo cáo Tổng kết

công tác thi hành án dân sự.

20. Cục Thi hành án dân sự tỉnh Hà Tĩnh (2016-2020) Báo cáo Tổng kết

công tác thi hành án dân sự.

21. Nguyễn Nhật Khanh, 2020, Hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm

hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự; Lê Đăng Khoa –Hà Khắc

Thắng, 2020, Một số khó khăn, vướng mắc trong xử phạt vi phạm hành chính

trong lĩnh vực thi hành án dân sự và giải pháp, kiến nghị, Tạp chí Khoa học

kiểm sát số 06/2020;

22. Cổng thông tin điện tử Quảng Bình, Tổng quan về Quảng Bình; Vũ

Công An, 2016, Xử phạt vi phạm hành chính trong thi hành án dân sự,

quan điểm nào thuyết phục; Đình Khoa, 2017, Xử phạt hành chính trong

lĩnh vực thi hành án dân sự Chấp hành viên…ngại phạt; Thục Quyên,

2018, Xử phạt vi phạm hành chính trong thi hành án dân sự: Cần sửa đổi một

số quy định để tăng tính răn đe;

23. Trang Web tham khảo

http://lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=210595;

https://www.quangbinh.gov.vn/3cms/tong-quan-ve-quang-binh.htm;

https://thads.moj.gov.vn/noidung/tintuc/lists/nghiencuutraodoi/view_

detail.aspx?itemid=789;

http://www.nguoibaovequyenloi.com/User/ThongTin_ChiTiet.aspx?

MaTT=311201752923190773&MaMT=23;

https://baophapluat.vn/tu-van-365/xu-phat-vi-pham-hanh-chinh-trong-thi-

hanh-an-dan-su-can-sua-doi-mot-so-quy-dinh-de-tang-tinh-ran-de-

410741.html;