BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… ……/…… HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN THỊ THANH THÚY
XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI TỈNH QUẢNG BÌNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2021
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… ……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN THỊ THANH THÚY
XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI TỈNH QUẢNG BÌNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 8 38 01 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. NGUYỄN QUANG THÁI
THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên Nguyễn Thị Thanh Thúy, tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ
chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính là công trình nghiên cứu
khoa học độc lập, do tôi thực hiện. Các số liệu, kết quả được nêu trong luận
văn có nguồn gốc rõ ràng, xác thực và luận văn này chưa được ai công bố
trong bất kỳ một công trình nghiên cứu nào khác. Tôi hoàn toàn chịu trách
nhiệm về lời cam đoan của mình.
Thừa Thiên Huế, ngày tháng năm 2021
Học viên
Nguyễn Thị Thanh Thúy
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành chương trình đào tạo thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật
Hành chính tại Học viện Hành chính Quốc gia, bên cạnh sự nổ lực của
bản thân, tôi đã nhận được sự động viên, hướng dẫn, giảng dạy và nhiều
ý kiến đóng góp quý báu của các thầy giáo, cô giáo Khoa sau đại học –
Học viện Hành chính Quốc gia cũng như gia đình, bạn bè trong suốt quá
trình học tập nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Tôi chân thành cảm ơn các anh, chị lãnh đạo, đồng nghiệp tại các cơ
quan Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình đã tạo điều kiện thuận lợi cho
tôi hoàn thành khóa học.Đặc biệt, tôi vô cùng biết ơn TS. Nguyễn Quang
Thái đã giành nhiều thời gian hướng dẫn nhiệt tình trong suốt quá trình
nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn và mong nhận được sự đóng góp ý kiến của
quý thầy cô giáo và bạn bè để luận văn này hoàn thiện hơn.
Trân trọng cảm ơn
Học viên
Nguyễn Thị Thanh Thúy
MỤC LỤC
Trang bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục viết tắt
Danh mục các bảng biểu
MỞ ĐẦU .......................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH
CHÍNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ..... 10
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực thi hành án dân sự ....................................................................... 10
1.1.1. Khái niệm ................................................................................................... 10
1.1.2. Đặc điểm của xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành
án dân sự ......................................................................................... 14
1.1.3. Vai trò của xử phạt vi phạm hành chính trong lịnh vực thi hành án
dân sự ............................................................................................. 16
1.1.4. Cơ sở pháp lý về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi
hành án dân sự ................................................................................. 18
1.2. Nội dung pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực thi hành án dân sự ................................................................... 19
1.2.1. Đối tượng và nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi
hành án dân sự ..................................................................................................... 19
1.2.2. Thẩm quyền, mức xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án
dân sự ................................................................................................................... 23
1.2.3. Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính trongthi hành án dân sự .................. 26
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực thi hành án dân sự ....................................................................... 34
1.3.1.Yếu tố pháp luật .......................................................................................... 34
1.3.2.Yếu tố chính trị ............................................................................................ 35
1.3.3. Yếu tố con người ........................................................................................ 36
1.3.4. Điều kiện phương tiện để thực thi nhiệm vụ .............................................. 37
Tiểu kết chương 1 ........................................................................................ 38
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH
TRONG LĨNH VỰC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI TỈNH QUẢNG
BÌNH ........................................................................................................... 39
2.1. Tình hình tổ chức, hoạt động của các cơ quan thi hành án dân sự
tỉnh Quảng Bình ......................................................................................... 39
2.1.1. Khái quát chung về tổ chức, hoạt động của các cơ quan thi hành án dân
sự tỉnh Quảng Bình .............................................................................................. 39
2.1.2 Thực trạng tổ chức, hoạt động của các cơ quan thi hành án dân sự tỉnh
Quảng Bình có liên quan trực tiếp đến xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh ............................................................. 41
2.2. Kết quả đạt được trong hoạt động xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực thi hành án dân sự tại tỉnh Quảng Bình .................................... 43
2.2.1. Kết quả xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự tại
tỉnh Quảng Bình ................................................................................................... 43
2.2.2. Kết quả thực hiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
thi hành án dân sự ................................................................................................ 54
2.3. Hạn chế và nguyên nhân của hạn chế trong xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự tại tỉnh Quảng Bình ................. 56
2.3.1. Về đối tượng và nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi
hành án dân sự ..................................................................................................... 57
2.3.2. Về thẩm quyền, mức xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành
án dân sự .............................................................................................................. 63
2.3.3. Về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự ... 70
Tiểu kết chương 2 ........................................................................................ 74
CHƯƠNG 3. QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM XỬ PHẠT VI
PHẠMHÀNH CHÍNH TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI TỈNH
QUẢNG BÌNH ................................................................................ 75
3.1. Quan điểm ............................................................................................ 75
3.1.1. Bảo đảm quán triệt đường lối, chủ trương của Đảng ............................... 75
3.1.2. Bảo đảm yêu cầu của cải cách tư pháp, cải cách hành chính ................... 76
3.1.3. Bảo đảm nguyên tắc pháp chế trong quá trình thực hiện xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự ..................................................... 78
3.1.4. Bảo đảm quyền khiếu nại trong quá trình thực hiện xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự .............................................................. 79
3.2. Giải pháp .............................................................................................. 79
3.2.1. Giải pháp chung ......................................................................................... 80
3.2.2. Giải pháp cụ thể đối với các cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình .. 88
Tiểu kết chương 3 ............................................................................ 95
KẾT LUẬN ..................................................................................... 96
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Nguyên Nghĩa Ký hiệu
Hội đồng nhân dân HĐND
Thi hành án dân sự THADS
Ủy ban nhân dân UBND
Vi phạm hành chính VPHC
Xử lý vi phạm hành chính XLVPHC
Xử phạt vi phạm hành chính XPVPHC
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Số lượng Chấp hành viên các cơ quan thi hành án dân sự tỉnh
Quảng Bình tính đến ngày 30/10/2020 ......................................................... 43
Bảng 2.2: Kết quả thi hành án dân thi hành án dân sự về việc của các cơ quan
thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình giai đoạn từ 2016- 2020 ....................... 45
Bảng 2.3: Kết quả thi hành án dân sự về tiền của các cơ quan thi hành án dân
sựtỉnh Quảng Bình giai đoạn từ 2016 - 2020 ................................................ 45
Bảng 2.4.Số liệu quyết định xử phạt vi phạm hành chính của các cơ quan thi
hành án dân sự tỉnh Quảng Bình từ năm 2016 đến 2020 ............................... 52
Bảng 2.5. Kết quả thi hành án dân sự về việc của các cơ quan Thi hành án dân
sự tỉnh Hà Tĩnh giai đoạn từ 2016- 2020 ...................................................... 53
Bảng 2.6 Kết quả thi hành án dân sự về việc của các cơ quan ...................... 53
Thi hành án dân sự tỉnh Hà Tĩnh giai đoạn từ 2016- 2020 ............................ 53
Bảng 2.7. Số liệu quyết định xử phạt vi phạm hành chính của các cơ quan thi
hành án dân sự tỉnh Hà Tĩnh từ năm 2016 đến 2020 ..................................... 54
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của Đề tài
Hoạt động thi hành án có một ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc
giữ vững kỷ cương phép nước, củng cố pháp chế và trật tự pháp luật xã hội
chủ nghĩa, đảm bảo cho quyền lực tư pháp được thực thi trên thực tế. Để đảm
bảo tính nghiêm minh của pháp luật và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa,
ngoài chức năng của cơ quan Công an, Viện kiểm sát, Tòa án thì cơ quan
THADS giữ một vai trò đặc biệt và là một mắt xích không thể thiếu của quá
trình tố tụng.
Hiến pháp 2013 khẳng định: "Các bản án và quyết định của Tòa án
nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức
kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn
trọng; những người và đơn vị hữu quan nghiêm chỉnh chấp hành". Đảng và
Nhà nước ta chủ trương phải tiếp tục tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong công
tác thi hành án dân sự, nâng cao hiệu quả công tác thi hành án, giải quyết căn
bản tình trạng án tồn đọng; nâng cao vai trò trách nhiệm của các cơ quan thi
hành án.
Thực tiễn cho thấy, tổ chức thi hành án dân sự đối với các bản án, quyết
định của Tòa án là hoạt động phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực trong đời
sống xã hội; làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ về tài
sản của các bên đương sự. Để bảo vệ tài sản, trốn tránh nghĩa vụ thi hành án,
các đối tượng thi hành án thường không chấp hành giấy triệu tập của Chấp
hành viên hoặc thực hiện hành vi phân tán, làm hư hỏng tài sản thuộc diện kê
biên, phá huỷ niêm niêm phong, thậm chí còn có hành vi dùng vũ khí chống
đối gây thương tích cho Chấp hành viên, công chức thi hành án và lực lượng
tham gia giải quyết việc thi hành án; làm ảnh hưởng đến an ninh chính trị, trật
1
tự an toàn xã hội ở địa phương phương nói chung; cơ quan, đơn vị thi hành án
dân sự nói riêng; dẫn đến tình trạng các bản án, quyết định của Tòa án rất khó
có khả năng thi hành trên thực tế; làm giảm lòng tin của nhân dân vào cơ quan
thực thi pháp luật.
Xuất phát từ vai trò và tầm quan trọng của công tác tổ chức thi hành án
dân sự, nên thời gian qua, Tổng cục THADS, các cơ quan THADS địa
phương đã quan tâm, chú trọng đến việc áp dụng các chế tài xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự, xem đây là một công cụ hữu
hiệu góp phần đấu tranh, ngăn chặn và phòng ngừa các hành vi vi phạm pháp
luật trong quá trình tổ chức thi hành án dân sự.
Quảng Bình nằm ở Bắc Trung Bộ, Việt Nam, với diện tích tự nhiên là 8.065 km2, dân số năm 2019 là 895.430 người.1 Là tỉnh có nhiều thuận lợi để
kết nối các địa phương khác của Việt Nam và thế giới; với tiềm năng phát
triển về du lịch nên tình hình tội phạm xảy ra trên địa bàn tỉnh ngày càng
phức tạp. So với các tỉnh, thành phố lớn trong toàn quốc Quảng Bìnhcó số
lượng việc phải thi hành án không lớn nhưng số án hình sự cho vay nặng lãi,
tín dụng ngân hàng, án ma túy…ngày càng tăng cả về số việc và giá trị. Thời
gian qua công tác tổ chức THADS trên địa bàn tỉnh đã thu được những kết
quả nhất định, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của công dân, tổ
chức liên quan đến quá trình THADS.Tuy nhiên, so với yêu cầu thì công tác
này vẫn còn có những hạn chế, bất cập, chưa đáp ứng được đòi hỏi của công
tác THADS trong tình hình mới;nhiều bản án, quyết định còn chậm được thi
hành hoặc thi hành kéo dài, mà nguyên nhân chủ yếu là do ý thức chấp hành
pháp luật của một bộ phận những người phải thi hành án và người có quyền
1 Cổng thông tin điện tử Quảng Bình, Tổng quan về Quảng Bình; https://www.quangbinh.gov.vn/3cms/tong- quan-ve-quang-binh.htm;
lợi, nghĩa vụ liên quan trong các hoạt động thi hành án dân sự còn chưa cao;
2
tình trạng chống đối cơ quan thi hành án bằng nhiều hình thức vẫn còn xảy ra;
Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính đã quy định nhưng quá trình thực
hiện còn nhiều bất cậpmột số cơ quan THADS hoặc Chấp hành viên chưa
thực sự phát huy vai trò trách nhiệm trong việc xử phạt các hành vi vi phạm
trong hoạt động thi hành án dân sự; hoặc có xử lý nhưng không triệt để, nhiều
hành vi chống đối nhưng Chấp hành viên không tiến hành xử phạt vì sau xử
phạt khó thu được tiền phạt, trong khi pháp luật chưa quy định cụ thể thủ tục
cưỡng chế tiền phạt. Do đó,việc xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động
thi hành án dân sự trên thực tế vẫn chưa thực sự đi vào đời sống xã hội, chưa
đáp ứng được mục tiêu đặt ra là răn đe, phòng ngừa vi phạm để từ đó nâng
cao hiệu lực quản lý Nhà nước. Bên cạnh đó, hệ thống văn bản pháp luật về
lĩnh vực này còn thiếu hoàn thiện; các chế tài xử phạt vi phạm hành chính
chưa nghiêm, chế tài còn quá nhẹ, tính phòng ngừa răn đe còn hết sức hạn
chế; các quy định còn nhiều bất cập dẫn đến việc đối tượng thi hành án coi
thường pháp luật.
Bên cạnh đó, hiện nay, công tác THADS đang ngày càng được chú
trọng, đang dần được xã hội hóa. Trong đó, số lượng các vụ việc THADS cần
giải quyết ngày càng tăng, mức độ phức tạp ngày càng cao. Cùng với đó, các
VPHC trong THADS xảy ra ngày càng nhiều, đa dạng và phức tạp hơn. Bởi
vậy, yêu cầu xây dựng và hoàn thiện pháp luật về XPVPHC trong THADS
càng ngày càng trở nên cấp thiết.
Thực trạng trên cho thấy cần thiết phải nghiên cứu một cách toàn diện
cả về lý luận, pháp lý và thực tiễn công tác xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực THADS, nhằm làm rõ những bất cập, hạn chế, từ đó đưa ra những
giải pháp để điều chỉnh cho phù hợp. Với tính cấp thiết đó, tác giả chọn đề tài
“Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự tại tỉnh
Quảng Bình” làm luận văn thạc sĩ của mình.
3
2.Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Thời gian qua đã có nhiều công trình, đề tài khoa học nghiên cứu, khai
thác dưới nhiều gốc độ khác nhau về hoạt động xử phạt hành chính nói chung
và trong một số lĩnh vực cụ thể khác nhau nói riêng. Có thể kể đến một số
công trình sau:
- Bùi Tiến Đạt, (2008) “Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính –
Lý luận và thực tiễn”, Luận văn thạc sĩ - Khoa Luật Trường Đại học quốc
gia Hà Nội.
- Nguyễn Quang Thái (2008), Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt
động thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Luật học – Học
viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
- Đặng Đình Quyền (2012), Hiệu quả áp dụng pháp luật thi hành án
dân sự ở Việt Nam, Luận án Tiến sỹ Luật học tại Học viện Chính trị - Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh.
- Nguyễn Hoàng Giang (2010), Áp dụng pháp luật thi hành án dân sự
của cơ quan Thi hành án ở thành phố Hà Nội hiện nay,Luận văn Thạc sĩ Luật
học tại Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
- Đinh Quang Thành (2014), Địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành
viên Trung cấp – Từ thực tiễn các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Quảng
Binh,Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính tại
Học viện Hành chính Quốc gia.
- Nguyễn Văn Tuấn (2014), Quyền khiếu nại về thi hành án dân sự - Từ
thực tiễn các cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình, Luận văn Thạc sỹ
chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính tại Học viện Hành chính
Quốc gia.
4
- Lê Ngọc Nguyên Phương (2017), “Xử phạt vi phạm hành chính đối
với các hành vi lấn chiếm trái phép hè phố đô thị”, Khóa luận tốt nghiệp cử
nhân luật, Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh.
- Nhật Tân (11.4.2019), “Một số khó khăn, vướng mắc, hạn chế trong
thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính”, Trang thông tin điện tử Sở tư pháp
Quảng Bình
- Các Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam của Khoa Luật –
ĐHQGHN, Trường Đại học Luật Hà Nội đề cập về trách nhiệm hành chính.
Và một số bài viết khác như: Nguyễn Nhật Khanh, 2020, Hoàn thiện
pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự;
http://lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=210595; Lê Đăng Khoa
–Hà Khắc Thắng, 2020, Một số khó khăn, vướng mắc trong xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự và giải pháp, kiến nghị, Tạp chí
Khoa học kiểm sát số 06/2020; Vũ Công An, 2016, Xử phạt vi phạm hành
chính trong thi hành án dân sự, quan điểm nào thuyết phục;
https://thads.moj.gov.vn/noidung/tintuc/lists/nghiencuutraodoi/view_det
ail.aspx?itemid=789; Đình Khoa, 2017, Xử phạt hành chính trong lĩnh
vực thi hành án dân sự Chấp hành viên…ngại phạt;
http://www.nguoibaovequyenloi.com/User/ThongTin_ChiTiet.aspx?MaT
T=311201752923190773&MaMT=23; Thục Quyên, 2018, Xử phạt vi
phạm hành chính trong thi hành án dân sự: Cần sửa đổi một số quy định để
tăng tính răn đe; https://baophapluat.vn/tu-van-365/xu-phat-vi-pham-hanh-
chinh-trong-thi-hanh-an-dan-su-can-sua-doi-mot-so-quy-dinh-de-tang-tinh-
ran-de-410741.html;
Đối với vấn đề này, các công trình khoa học trên thực hiện đã lâu hoặc
chỉ đề cập đến một vấn đề hoặc một lĩnh vực cụ thể khác. Đối với nội dung xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự, tác giả chưa tìm
5
thấy có công trình nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện nào. Do đó, việc nghiên
cứu đề tài luận văn này vừa là sự kế thừa, phát triển các công trình trên nhưng
cũng là cách tiếp cận mới về mặt khoa học và có ý nghĩa về mặt thực tiễn.
Tuy vậy, các bài viết, công trình nghiên cứu của các tác giả trên thật sự có ý
nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn, là nguồn tài liệu tham khảo phong phú và
có giá trị lớn đối với luận văn của tác giả.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ của Luận văn
3.1. Mục tiêu
Luận văn trình bày, làm rõ những quy định của pháp luật về các hành vi
vi phạm và hình thức xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân
sự; phân tích, đánh giá thực tiễn công tác xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực thi hành án dân sự tại tỉnh Quảng Bình, từ đó, chỉ ra những khó khăn,
vướng mắc và nguyên nhân, để đề xuất định hướng nhằm hoàn thiện quy định
pháp luật về thi hành án dân sự bằng các biện pháp xử phạt vi phạm hành
chính và một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác trong lĩnh vực này.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện được các mục tiêu trên, luận văn cần thực hiện các nhiệm
vụ cụ thể sau:
+ Làm rõ những cơ sở lý luận về thi hành án dân sự và xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực THADS;
+ Phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành
về xử phạt vi phạm hành chính đối với các hành vi vi phạm hành chính trong
lĩnh vực thi hành án dân sự;
+ Đánh giá đúng đắn và toàn diện về thực trạng áp dụng các quy định
của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực THADS trong
thời gian qua ở nước ta nói chung và trên địa bàn tỉnh Quảng Bình nói riêng;
6
xác định những khó khăn, vướng mắc, bất cập trong quá trình thực hiện; cũng
như nguyên nhân của thực trạng đó;
+ Đề xuất những giải pháp mang tính định hướng, giải pháp hoàn thiện
các quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi
hành án dân sự; đồng thời trình bày quan điểm, giải pháp nâng cao hiệu quả
áp dụng tại địa bàn tỉnh Quảng Bình.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ luật học, tác giả tập trung nghiên cứu
cơ sở lý luận và các quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực thi hành án dân sự.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu và đánh giá thực thực trạng áp dụng ở Cục thi
hành án dân sự tỉnh Quảng Bình từ năm 2016 đến năm 2020; có mở rộng so
sánh với một số địa phương lân cận về lĩnh vực này.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, của Ngành về xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh thi hành án dân sự.
5.2. Phương pháp nghiên cứu:
Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn sử dụng một số phương
pháp nghiên cứu như: phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh. Cụ
thể là thực hiện sưu tầm số liệu thực tế và tổng hợp các thông tin qua các bài
7
viết, tạp chí, văn bản báo cáo, văn bản pháp luật liên quan đến lĩnh vực này,
từ đó dùng phương pháp so sánh, đối chiếu để phân tích, làm rõ những nội
dung có liên quan. Thông qua các phương pháp được sử dụng, luận văn
nghiên cứu các quy định pháp luật hiện hành về thi hành án dân sự bằng biện
pháp xử phạt vi phạm hành chính và thực tiễn áp dụng, nhằm làm rõ những
điểm còn bất cập, khó khăn, vướng mắc, từ đó đề xuất định hướng và những
giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về lĩnh vực này.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn:
- Luận văn đã đưa ra và luận giải được một số quan điểm cơ bản về
khái niệm thi hành án dân sự và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
THADS; tìm hiểu vai trò, đặc điểm của xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực THADS; góp phần bổ sung, làm phong phú thêm cho hoạt động nghiên
cứu khoa học về pháp luật thi hành án dân sự nói chung và xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực THADS nói riêng.
- Từ việc đánh giá thực trạng pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực thi hành án dân sự hiện hành; cũng như thông qua đánh giá
thực tiễn áp dụng tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình; luận văn đã chỉ
ra được những điểm bất cập cần sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện hệ thống
pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực này.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần Mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn được kết cấu thành 03 chương. Cụ thể:
Chương 1: Cơ sở lý luận về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
thi hành án dân sự.
8
Chương 2: Thực trạng xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi
hành án dân sự tại tỉnh Quảng Bình.
Chương 3: Quan điểm, giải pháp đảm bảo xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực thi hành án dân sự tại tỉnh Quảng Bình.
9
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH CHÍNH
TRONG LĨNH VỰC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực thi hành án dân sự
1.1.1. Khái niệm
Trước khi phân tích khái niệm về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực Thi hành án dân sự, chúng ta cần làm rõ một số khái niệm
có liên quan.
Khái niệm Thi hành án dân sự:
Pháp luật thi hành án dân sự là một bộ phận cấu thành của hệ thống
pháp luật nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Theo đại từ điển tiếng Việt, “thi hành” là “thực hiện điều đã chính thức
quyết định”. Còn theo từ điển luật học thì,“thi hành án” là giai đoạn kết thúc
trình tự tố tụng, là khâu cuối cùng kết thúc một vụ án được xét xử nhằm làm cho phán quyết của Tòa án nhất định có hiệu lực pháp luật.2
Thi hành án có thể được hiểu là thực hiện bản án, quyết định của Tòa
án trên thực tế. Bản án, quyết định của Tòa án được hiểu là văn bản pháp lý
của Tòa án nhân danhnhà nước tuyên tại phiên tòa, giải quyết các vấn đề
trong vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, hành chính, kinh
doanh thương mại, phá sản. Việc thực hiện bản án, quyết định của Tòa án có
hiệu quả, một mặt bảo đảm thực hiện quyền tư pháp của nhà nước, thể hiện sự
2 Khái niệm thi hành án dân sự và quan hệ pháp luật thi hành án dân sự; https://unilaw.vn/vn/binh-luan/goc- luat-su/khai-niem-phap-luat-thi-hanh-an-dan-su-va-quan-he-phap-luat-thi-hanh-an-dan-su.html;
tôn trọng của xã hội và công dân đối với phán quyết của cơ quan nhân danh
10
nhà nước là Tòa án. Mặt khác, nó là biện pháp hữu hiệu để khôi phục các
quyền, lợi ích hợp pháp của nhà nước, tổ chức và công dân bị xâm hại. Để các
bản án và quyết định của Tòa án được bảo đảm thực hiện trong cuộc sống thì phải thông qua hoạt động thi hành án.
Hiện nay, dưới góc độ lý luận, thi hành án dân sự còn có hai quan điểm
khác nhau về nghĩa hẹp và nghĩa rộng của khái niệm “dân sự”.
Quan điểm thứ nhất cho rằng, khái niệm dân sự trong thi hành án dân
sự được hiểu là những bản án, quyết định liên quan đến quan hệ tài sản và
nhân thân phi tài sản, những bản án, quyết định về giải quyết tranh chấp đối
với các loại hợp đồng dân sự, hôn nhân và gia đình và một số loại án khác có
tính chất dân sự.
Quan điểm thứ hai cho rằng, khái niệm dân sự ở đây phải được hiểu theo
nghĩa rộng, đó không chỉ bao gồm các bản án, quyết định về giải quyết tranh
chấp đối với các loại hợp đồng dân sự, hôn nhân và gia đình và một số loại án
khác có tính chất dân sự của Tòa án, mà còn bao gồm các bản án, quyết định
khác do pháp luật quy định.
Tác giả đồng tình với quan điểm thứ hai này, vì với phạm vi của thi hành
án dân sự, cần hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm bản án, quyết định về dân sự,
kinh tế, lao động, hôn nhân và gia đình; tài sản trong bản án, quyết định hình
sự về bồi thường thiệt hại; tài sản và quyền tài sản trong bản án, quyết định
hành chính; …Và theo quy định của pháp luật hiện hành thì,những loại vụ,
việc nêu trên dù có tính chất khác nhau, được giải quyết theo các trình tự tố
tụng khác nhau, nhưng đến giai đoạn thi hành án vẫn được áp dụng theo trình
tự thủ tục thi hành án dân sự.
11
Từ sự phân tích ở trên, có thể đưa ra khái niệm thi hành án dân sự
như sau:
Thi hành án dân sự là hoạt động tư pháp do Cơ quan thi hành án, Chấp
hành viên tiến hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định để đưa bản
án, quyết định dân sự của Tòa án hoặc các quyết định khác theo quy định
của pháp luật được thực hiện trên thực tế, nhằm bảo đảm lợi ích nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của các công dân, tổ chức, bảo vệ pháp luật xã hội
chủ nghĩa.
- Khái niệm xử phạt vi phạm hành chính:
Chúng ta thấy rằng, vi phạm hành chính là loại vi phạm pháp luật xảy ra
khá phổ biến trong đời sống xã hội. Tuy mức độ nguy hiểm cho xã hội của nó
thấp hơn so với tội phạm, nhưng vi phạm hành chính là hành vi gây thiệt hại
hoặc đe dọa gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, tập thể, lợi ích của cá
nhân, cũng như lợi ích chung của toàn thể cộng đồng và là nguyên nhân dẫn
đến tình trạng phạm tội nảy sinh trên các lĩnh vực của đời sống xã hội nếu
như không được ngăn chặn và xử lý kịp thời.
Cơ sở của việc xử phạt vi phạm hành chính là phải có vi phạm hành
chính. Hay nói cách khác, xác định đúng vi phạm hành chính thì mới có có
thể thực hiện việc xử phạt vi phạm hành chính một cách chính xác. Do vậy,
việc nghiên cứu khái niệm vi phạm hành chính có ý nghĩa quan trọng, chỉ khi
định nghĩa đúng về vi phạm hành chính thì mới có thể xác định được từng vi
phạm hành chính cụ thể trong từng lĩnh vực quản lý nhà nước, để từ đó có thể
áp dụng chính xác chế tài xử phạt, nhằm lập lại trật tự quản lý nhà nước đã bị
xâm hại, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức có
liên quan.
12
Qua nhiều thời kỳ lịch sử, đã có rất nhiều nhà nghiên cứu, công trình
nghiên cứu về khái niệm vi phạm hành chính, xử phạt vi phạm hànhchính, tại
khoản 2 Điều 2 Luật XLVPHC quy định: Xử phạt vi phạm hành chính là việc
người có thẩm quyền xử phạt áp dụng hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục
hậu quả đối với cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm hành chính theo
quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính.
- Khái niệm xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án
dân sự
Mặc dù, khái niệm về vi phạm hành chính và xử phạt vi phạm hành
chính được sử dụng khá nhiều và áp dụng rộng rãi trong các vi phạm pháp
luật. Thế nhưng, vi phạm hành chính và xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực thi hành án dân sự thì vẫn chưa được định nghĩa một cách rõ ràng.
Dù không quy định cụ thể, nhưng dựa vào các phân tích trên, ta có thể
rút ra khái niệm vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự và xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự như sau: Xử phạt
vi phạm hành chính trong THADS là việc người có thẩm quyền xử phạt áp
dụng hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với cá nhân, tổ chức
thực hiện hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực THADS theo quy định
của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính. Trong hoạt động THADS, xử
phạt vi phạm hành chính là một trong những chế định quan trọng của pháp
luật nhằm đấu tranh phòng và chống các vi phạm hành chính, giữ vững an
ninh, trật tự an toàn xã hội, góp phần đưa các bản án, quyết định có hiệu lực
của Toàn án được thực thi trên thực tế, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp
của cá nhân và tổ chức.
13
1.1.2. Đặc điểm của xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi
hành án dân sự
Từ khái niệm xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án
dân sự, ta có thể thấy xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực này có các
đặc điểm cụ thể như sau:
- Thứ nhất, xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực THADS là
quyền được Nhà nước giao cho các chủ thể có thẩm quyền trong quá trình tổ
chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án. Bởi lẽ, trong quá trình tổ
chức THA, giữa các bên đương sự thường phát sinh tranh chấp, đối tượng
phải thi hành án thường đưa ra các lý do, lý lẽ để trì hoãn. Mặc dù đã được cơ
quan THA tiến hành hòa giải, thuyết phục, động viên nhưng không thành;
không những thế họ còn thực hiện các hành vi chống đối, cản trở nhằm không
thực hiện nghĩa vụ THA,trong trường hợp này cơ quan THADS cần tiến hành
xử phạt vi phạm hành chính để răn đe, giáo dục, phòng ngừa.
- Thứ hai, để việc tổ chức thi hành bản án, quyết định của Tòa án đạt
hiệu quả cao trên thực tế, thì một trong những yếu tố quan trọng trong thực thi
nhiệm vụlà cơ quan, người có thẩm quyền phải áp dụng các chế tài xử phạt vi
phạm hành chính nếu có vi phạm xảy ra.
- Thứ ba, hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự
chỉ bị xử lý khi còn thời hiệu xử phạt.
- Thứ tư, mỗi hành vi vi phạm sẽ được áp dụng hình thức xử phạt cụ thể
theo luật định.
- Thứ năm, một hành vi chỉ được xem là vi phạm hành chính trong lĩnh
vực thi hành án dân sự và bị xử phạt vi phạm hành chính khi có đủ 4 yếu tố
cấu thành của vi phạm hành chính, đó là yếu tố khách quan, yếu tố chủ quan,
yếu tố chủ thể và yếu tố khách thể của vi phạm hành chính.
14
+ Mặt khách quan của vi phạm hành chính trong lĩnh THADS
Yếu tố khách quan của vi phạm hành chính trong lĩnh THADS là những
biểu hiện bên ngoài của hành vi vi phạm trong lĩnh vực THADS, như: thời
gian thực hiện hành vi vi phạm, công cụ, phương tiện vi phạm, hậu quả và
mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm với hậu quả mà hành vi đó gây ra
cho nhà nước, tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động thi hành án. Trong
các dấu hiệu của mặt khách quan, dấu hiệu hành vi vi phạm pháp luật là dấu
hiệu bắt buộc.
Cụ thể, những hành vi vi phạm quy tắc quản lý nhà nước trong lĩnh vực
THADS được quy định tại chương 5 Nghị định 82/2020/NĐ-CP, như: Không
cung cấp thông tin, không giao giấy tờ liên quan đến tài sản bị xử lý để thi
hành án theo yêu cầu của người có thẩm quyền thi hành án mà không có lý do
chính đáng; Không thông báo cho cơ quan thi hành án dân sự khi có thay đổi
về địa chỉ, nơi cư trú; Có lời nói, hành động lăng mạ, xúc phạm người thi
hành công vụ trong thi hành án dân sự; Gây rối trật tự nơi thi hành án hoặc có
hành vi khác gây trở ngại cho hoạt động thi hành án dân sự mà chưa đến mức
truy cứu trách nhiệm hình sự...
+ Mặt chủ quan của vi phạm hành chính trong lĩnh vực THADS
Mặt chủ quan của vi phạm hành chính trong lĩnh vực THADS là những
gì thể hiện bên trong của chủ thể khi có hành vi vi phạm pháp luật. Dấu hiệu
bắt buộc trong mặt chủ quan của vi phạm hành chính trong lĩnh vực này là
dấu hiệu lỗi của chủ thể vi phạm, ngoài ra còn có dấu hiệu mục đích và động
cơ vi phạm. Dấu hiệu lỗi này được thể hiện dưới dạng vô ý hoặc cố ý.
Lỗi cố ý trong vi phạm hành chính trong lĩnh vực THADS là thái độ
tâm lý của con người khi thực hiện hành vi trái pháp luật hành chính trong
15
lĩnh vực thi hành án dân sự, người đó nhận thức được những hành vi pháp
luật cấm không được làm nhưng vẫn cố ý thực hiện.
Lỗi vô ý là lỗi của chủ thể thực hiện hành vi vi phạm khi đang trong
trạng thái có đầy đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình
nhưng đã vô tình, thiếu thận trọng mà không nhận thức được điều đó, mặc dù
họ có khả năng và điều kiện xử sự theo quy định của pháp luật.
+ Khách thể của vi phạm hành chính trong lĩnh vực THADS
Là các quan hệ xã hội hình thành trong quá trình tổ chức hoạt động thi
hành án, được pháp luật bảo vệ và bị hành vi vi phạm hành chính xâm hại
đến. Cụ thể trong lĩnh vực này, khách thể của xử phạt vi phạm hành chính
được Luật thi hành án dân sự và Nghị định số 82/2020/NĐ-CP về xử phạt vi
phạm hành chính quy định và bảo vệ, là các quy tắc, trật tự quản lý nhà nước
về THADS; danh dự, nhân phẩm của người thi hành công vụ trong thi hành
án dân sự …, được quy định cụ thể tại chương 5 Nghị định 82/2020/NĐ-CP.
+ Chủ thể của vi phạm hành chính trong lĩnh vực THADS
Theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Nghị định số 82/2020/NĐ-CP thì,
chủ thể vi phạm hành chính trong lĩnh vực THADS, gồm có: Cá nhân, tổ chức
Việt Nam; cá nhân, tổ chức nước ngoài có hành vi vi phạm hành chính trong
lĩnh vực THADS. Chủ thể thực hiện hành vi VPHC trong lĩnh vực THADS sẽ
bị xử phạt hành chính khi đảm bảo các yếu tố về độ tuổi, năng lực pháp luật
theo quy định.
1.1.3. Vai trò của xử phạt vi phạm hành chính trong lịnh vực thi
hành án dân sự
Xử phạt vi phạm hành chính có vai trò quan trọng và to lớn, nó là
phương tiện, công cụ không thể thiếu để duy trì, bảo vệ trật tự xã hội, trật tự
16
quản lý nhà nước. Vai trò của xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi
hành án dân sự được thể hiện ở các khía cạnh sau:
Thứ nhất, đảm bảo giữ vững kỷ cương pháp chế trong quản lý nhà nước
về thi hành án dân sự. Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án
dân sự là tổng thể các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành nhằm điều
chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực thi hành án dân sự, bao gồm
các hình thức xử phạt và các biện pháp xử lý khác. Như vậy, Nhà nước sử
dụng xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực này như một phương tiện để
thực hiện quyền lực của mình trong hoạt động thi hành án dân sự. Nhờ có
những quy định chặt chẽ của xử phạt mà các đối tượng tham gia hoạt động thi
hành án dân sự thực hiện một cách nghiêm túc, đúng đường lối, chủ trương,
của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước.
Thứ hai, xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự
là một trong những chế định quan trọng của pháp luật nhằm đấu tranh phòng
và chống các vi phạm hành chính, giữ vững an ninh, trật tự an toàn xã hội,
góp phần đưa các bản án, quyết định có hiệu lực của Tòa án được thực thi trên
thực tế, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Thứ ba, xử phạt vi phạm hành chính là công cụ bổ trợ cho công tác
quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi hành án dân sự; đồng thời là tiền đề cho
việc áp dụng các chế tài nghiêm khắc, nhất là chế tài về hình sự.
Thứ tư, xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự
còn góp phần giáo dục ý thức cho các chủ thể cũng như các đối tượng tham
gia hoạt động thi hành án về ý thức chấp hành pháp luật và hệ quả của việc
không chấp hành pháp luật, bởi với các quy định chặt chẽ buộc các cá nhân,
tổ chức phải tự giác chấp hành nếu không sẽ bị xử lý theo quy định của pháp
luật. Đồng thời, nó cũng là các biện pháp ngăn chặn hữu hiệu các hành vi vi
17
phạm pháp luật thi hành án dân sự, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật thi
hành án trong lĩnh vực này.
1.1.4. Cơ sở pháp lý về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
thi hành án dân sự
Việc thực hiện xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án
dân sự được thưc hiện dựa trên các cơ sở pháp lý sau:
- Hiến pháp 2013: Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam được thông
qua tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khoá XIII là kết tinh trí tuệ của toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân ta; thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân Việt Nam thời kỳ
đổi mới toàn diện đất nước. Một trong những nội dung cơ bản của Hiến pháp
là bảo vệ quyền con người, quyền công dân, đảm bảo pháp luật được thực thi.
Trên cơ sở đó, chức năng, thẩm quyền, vai trò của một trong các cơ quan tư
pháp là cơ quan thi hành án dân sự được thiết lập và được cụ thể hóa tại Luật
thi hành án dân sự Việt Nam. Đây là một trong những cơ quan có thẩm quyền
đảm bảo cho hoạt động chấp hành pháp luật được thực hiện trong thực tiễn,
đảm bảo tính thượng tôn pháp luật.
- Pháp luật xử phạt vi phạm hành chính và các văn bản hướng dẫn thi
hành: là hệ thống quy định pháp luật quy định về căn cứ, trình tự, thủ tục,
thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự.
Đây là các quy định pháp luật là cơ sở pháp lý để cơ quan thi hành án dân sự
thực hiện việc áp dụng pháp luật mà cụ thể là xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực thi hành án dân sự.
- Pháp luật Thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành là hệ
thống các quy định về cơ cấu, tổ chức và chức năng của cơ quan thi hành án
dân sự các cấp, quy định về các vi phạm trong lĩnh vực thi hành án dân sự,
trong đó có quy định về chức năng, thẩm quyền được xử phạt vi phạm hành
18
chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự. Với các quy định này, cơ quan thi
hành án dân sự sẽ có cơ sở pháp lý khi thực hiện xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực thi hành án dân sự.
1.2. Nội dung pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực thi hành án dân sự
1.2.1.Đối tượng và nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực thi hành án dân sự
- Đối tượng xử phạt
Điều 2 và các Điều 64, 65 Nghị định 82/2020/NĐ-CP quy định đối
tượng bị xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự là cá
nhân, tổ chức Việt Nam; cá nhân, tổ chức nước ngoài có hành vi vi phạm
hành chính trong lĩnh vực này.
Các trường hợp không bị xử phạt vi phạm hành chính bao gồm: Các
hành vi vi phạm trong tình thế cấp thiết, do phòng vệ chính đáng, do sự kiện
bất ngờ, do sự kiện bất khả kháng hoặc đối tượng thực hiện hành vi vi phạm
không có năng lực trách nhiệm hành chính hay do chưa đủ tuổi bị xử phạt vi
phạm hành chính
Theo đó, cá nhân là đối tượng bị xử phạt vi phạm hành chính phải là
người thực hiện hành vi khi không phải đang mắc bệnh tâm thần hoặc mắc
bệnh khác làm mất khả năng điều khiển hành vi của mình và đủ độ tuổi do
pháp luật quy định.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 5 Luật Xử lý vi phạm hành chính, thì:
+ Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi bị xử phạt vi phạm hành chính
về vi phạm hành chính do cố ý; người từ đủ 16 tuổi trở lên bị xử phạt vi phạm
hành chính về mọi vi phạm hành chính.
19
+ Người thuộc lực lượng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân vi
phạm hành chính thì bị xử lý như đối với công dân khác, trường hợp cần áp
dụng hình thức phạt tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề hoặc
đình chỉ hoạt động có thời hạn liên quan đến quốc phòng, an ninh thì người
xử phạt đề nghị cơ quan, đơn vị Quân đội nhân dân, Công an nhân dân có
thẩm quyền xử lý.
Tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính về mọi vi phạm hành chính do
mình gây ra. Năng lực pháp luật của tổ chức xuất hiện khi tổ chức được thành
lập hợp pháp. Khi tổ chức bị giải thể hoặc bị buộc ngừng hoạt động thì năng
lực pháp luật của tổ chức cũng chấm dứt.
Riêng đối với cá nhân, tổ chức nước ngoài vi phạm hành chính trong
phạm vi lãnh thổ, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục
địa của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; trên tàu bay mang quốc
tịch Việt Nam, tàu biển mang cờ quốc tịch Việt Nam thì bị xử phạt vi phạm
hành chính theo quy định của pháp luật Việt Nam, trừ trường hợp điều ước
quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy
định khác.
Theo quy định tại Nghị định số 82/2020/NĐ-CP, có 02 nhóm hành vi
VPHC trong lĩnh vực THADS, được quy định tại 02 điều luật 64 và 65, đó là
nhóm hành vi vi phạm quy định trong lĩnh vực thi hành án dân sự và nhóm
hành vi phạm quy định của thừa phát lại trong lĩnh vực thi hành án dân sự.
Như vậy, cá nhân, tổ chức có đầy đủ năng lực pháp luật, nếu thực hiện một
hoặc nhiều hành vi vi phạm hành chính sau đây, sẽ là đối tượng bị xem xét xử
phạt vi phạm hành chính.
Đối tượng được nhà nước trao quyền xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực THADS là Chấp hành viên, Chi cục trưởng Chi cục THADS cấp
20
huyện, Cục trưởng Cục THADS tỉnh, Tổng cục trưởng Tổng cục THADS và Thanh tra Bộ Tư pháp. 3
- Hành vi vi phạm hành chính quy định trong lĩnh vực thi hành án
dân sự gồm:
+ Đã nhận giấy báo, giấy triệu tập lần thứ hai nhưng không có mặt để
thực hiện việc thi hành án mà không có lý do chính đáng.
+ Cố tình không thực hiện quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời của Tòa án hoặc bản án, quyết định phải thi hành ngay.
+ Không thực hiện công việc phải làm hoặc không chấm dứt thực hiện
công việc không được làm theo bản án, quyết định.
+ Có điều kiện thi hành án nhưng cố tình trì hoãn việc thực hiện nghĩa
vụ thi hành án.
+ Tẩu tán hoặc làm hư hỏng tài sản để không thực hiện nghĩa vụ thi
hành án hoặc để trốn tránh việc kê biên tài sản.
+ Không thực hiện yêu cầu của Chấp hành viên về việc cung cấp thông
tin, giao giấy tờ liên quan đến tài sản bị xử lý để thi hành án mà không có lý
do chính đáng.
+ Sử dụng trái phép, tiêu dùng, chuyển nhượng, đánh tráo, cất giấu
hoặc thay đổi tình trạng tài sản đã kê biên nhưng chưa tới mức bị truy cứu
trách nhiệm hình sự.
+ Chống đối, cản trở hay xúi giục người khác chống đối, cản trở; có lời
nói, hành động lăng mạ, xúc phạm người thi hành công vụ trong thi hành án;
3 Hà Thanh, 2017; Thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính trong thi hành án dân sự; https://thads.moj.gov.vn/noidung/tintuc/lists/nghiencuutraodoi/view_detail.aspx?itemid=834;
21
gây rối trật tự nơi thi hành án hoặc có hành vi vi phạm khác gây trở ngại cho
hoạt động thi hành án dân sự nhưng chưa tới mức bị truy cứu trách nhiệm
hình sự.
+ Phá hủy niêm phong hoặc hủy hoại tài sản đã kê biên nhưng chưa tới
mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
+ Không chấp hành quyết định của Chấp hành viên về việc khấu trừ tài
khoản, trừ vào thu nhập, thu hồi giấy tờ có giá của người phải thi hành án.
- Nguyên tắc xử phạt
Nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính là những nội dung cơ bản,
quan trọng chi phối mọi hoạt động trong quá trình xử phạt vi phạm hành
chính và được quy định tại Khoản 1 Điều 3 Luật Xử lý vi phạm hành chính.
Qua thực tế thi hành pháp luật xử lý vi phạm hành chính, các nguyên tắc định
tại Khoản 1 Điều 3 Luật Xử lý vi phạm hành chính. Bên cạnh đó cũng có
những nguyên tắc được bổ sung mới nhằm khắc phục những thiếu sót trong
quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong các văn bản pháp luật trước
đây. Việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực THADS được tuân theo
những nguyên tắc sau:
Thứ nhất, mọi vi phạm hành chính phải được phát hiện, ngăn chặn kịp
thời và phải bị xử lý nghiêm minh, mọi hậu quả do vi phạm hành chính gây
raphải được khắc phục theo đúng quy định của pháp luật.
Thứ hai, việc xử phạt vi phạm hành chính phải căn cứ vào tính chất,
mức độ, hậu quả vi phạm, đối tượng vi phạm và tình tiết giảm nhẹ, tình tiết
tăng nặng.
Thứ ba, chỉ xử phạt vi phạm hành chính khi có hành vi vi phạm hành
chính do pháp luật quy định. Nguyên tắc này cũng đưa ra 03 trường hợp cụ
22
thể sau: một hành vi vi phạm hành chính chỉ bị xử phạt một lần; nhiều người
cùng thực hiện một hành vi vi phạm hành chính thì mỗi người vi phạm đều bị
xử phạt về hành vi vi phạm hành chính đó; một người thực hiện nhiều hành vi
vi phạm hành chính hoặc vi phạm hành chính nhiều lần thì bị xử phạt về từng
hành vi vi phạm.
Thứ tư, bảo đảm công bằng, công khai, khách quan, tôn trọng quyền
giải trình của cá nhân, tổ chức.
Thứ năm, người có thẩm quyền xử phạt, người có thẩm quyền áp dụng
biện pháp xử lý hành chính có trách nhiệm chứng minh hành vi vi phạm bằng
việc áp dụng các biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ việc một cách
khách quan, toàn diện và đầy đủ; cá nhân, tổ chức bị xử phạt, cá nhân bị áp
dụng biện pháp xử lý hành chính có quyền tự mình hoặc thông qua người đại
diện hợp pháp chứng minh mình không vi phạm hành chính.
Thứ sáu, đối với cùng một hành vi vi phạm hành chính thì mức phạt
tiền đối với tổ chức bằng hai lần mức phạt tiền đối với cá nhân. Nguyên tắc
này để phân định mức phạt tiền giữa cá nhân và tổ chức vi phạm, phù hợp với
tính chất vi phạm.
1.2.2. Thẩm quyền, mức xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
thi hành án dân sự
Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính được hiểu là phạm vi quyền
lực nhà nước được giao cho cá nhân, tổ chức để áp dụng các hình thức xử
phạt hành chính. Thẩm quyền xử phạt hành chính được xác định bởi những
quyền hạn, nhiệm vụ cụ thể trong việc áp dụng hình thức xử phạt. Để thực
hiện xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự, thì phải xác
định đúng thẩm quyền xử phạt vi phạm trong lĩnh vực này.
23
Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong THADS theo quy định
của Nghị định số Nghị định 82/2020/NĐ-CP gồm 02 loại cơ quan, là cơ quan
Thanh tra (Điều 46 Luật Xử lý vi phạm hành chính) và cơ quan THADS
(Điều 49 Luật Xử lý vi phạm hành chính), các thẩm quyền này được cụ thể
hóa tại Nghị định số 82/2020/NĐ-CP như sau:
1. Thẩm quyển của Chánh Thanh tra Bộ Tư pháp Điều 84 của Nghị
định số 82/2020/NĐ-CP quy định Chánh Thanh tra Bộ Tư pháp có quyền:
phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền đến 40.000.000 đồng đối với hành vi vi phạm
hành chính trong lĩnh vực THADS, tịch thu tang vật phương tiện vi phạm
hành chính và áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại khoản 3
Điều 3 của Nghị định số 82/2020/NĐ-CP.
2. Thẩm quyền của cơ quan THADS Trong hoạt động THADS thì cơ
quan THADS là cơ quan thường xuyên và trực tiếp phải xử lý những vi phạm
hành chính của người phải thi hành án và những người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan khác. Thẩm quyền này được quy định tại Điều 163 Luật
THADS,Điều 68 Nghị định số 110/2013/NĐ-CP và Điều 85 Nghị định số
82/2020/NĐ-CP như sau:
Thứ nhất, Chấp hành viên THADS đang thi hành công vụ có quyền:
- Phạt cảnh cáo;
- Phạt tiền đến 500.000 đồng.
Thứ hai, Chi cục trưởng Chi cục THADS có quyền:
- Phạt cảnh cáo;
- Phạt tiền đến 2.500.000 đồng;
24
Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính có giá trị không
vượt quá mức tiền phạt 2.500.000 đồng (Đây là thẩm quyền mới được bổ
sung so với Nghị định 110/2013, SĐ, BS 2015).
Ngoài ra, có thể áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả, quy định tại các
điểm a, c, n khoản 3 Điều 3 Nghị định 82/2020/NĐ-CP
Thứ ba, Cục trưởng Cục THADS, Trưởng phòng Phòng Thi hành án
cấpquân khu có quyền:
- Phạt cảnh cáo;
- Phạt tiền đến 20.000.000 đồng;
- Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính có giá trị không
vượt quá 20.000.000 đồng;
Ngoài ra, có thể áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả quy định
tại điểm a và điểm i khoản 1 Điều 28 Luật Xử lý vi phạm hành chính; các
điểm a, c và n khoản 3 Điều 3 Nghị định 82/2020/NĐ-CP.
Thứ tư, Tổng cục trưởng Tổng cục THADS có quyền:
- Phạt cảnh cáo;
- Phạt tiền đến 40.000.000 đồng;
- Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính;
Và được áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại điểm a và
điểm i khoản 1 Điều 28 Luật Xử lý vi phạm hành chính; các điểm a, c và n
khoản 3 Điều 3 Nghị định 82/2020/NĐ-CP
Theo quy định tại Điều 54 của Luật XLVPHC thì: Người có thẩm
quyền XPVPHC có thể giao cho cấp phó thực hiện thẩm quyền xử phạt vi
phạm hành chính. Người được giao quyền không được giao quyền, ủy quyền
25
cho bất kỳ người nào khác. Điều đó có nghĩa là quy định này không hạn chế
số lượng người cấp phó được người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành
chính giao quyền XPVPHC thường xuyên tại cùng một điểm.
Tuy nhiên, để đảm bảo việc giao quyền phù hợp, tránh chồng chéo,
đúng nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính, trong văn bản giao quyền phải
xác định rõ phạm vi, nội dung, thời hạn giao quyền theo lĩnh vực công tác
được phân công. Trường hợp đã giao quyền xử phạt vi phạm hành chính
thường xuyên cho một cấp phó, nhưng cấp phó được giao quyền thường
xuyên vắng mặt trong một thời gian nhất định, thì để đảm bảo nguyên tắc
XPVPHC, người có thẩm quyền xử phạt có thể tự mình ban hành quyết định
XPVPHC. Người có thẩm quyền cũng có thể giao quyền xử phạt cho một cấp
phó khác trong một thời gian nhất định hoặc theo vụ việc. Văn bản giao
quyền sau phải thể hiện được nội dung quyết định giao quyền này chấm dứt hiệu lực hoặc thay thế quyết định giao quyền trước đó.
Việc giao quyền xử phạt vi phạm hành chính được thực hiện thường
xuyên hoặc theo vụ việc và phải được thể hiện bằng văn bản, trong đó xác
định rõ phạm vi, nội dung, thời hạn giao quyền.
Cấp phó được giao quyền xử phạt vi phạm hành chính phải chịu trách
nhiệm về quyết định xử phạt vi phạm hành chính của mình trước cấp trưởng
và trước pháp luật. Người được giao quyền không được giao quyền, ủy quyền
cho bất kỳ người nào khác.
1.2.3. Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính trongthi hành án dân sự
Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự
không được quy định riêng tại Nghị định 82/2020/NĐ-CP. Vì vậy, khi xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực này, cần áp dụng các thủ tục quy định
tại Mục 1 Chương III Luật xử lý vi phạm hành chính, từ Điều 55 đến 68 và
26
các nội dung hướng dẫn tại Nghị định 81/2013/NĐ-CP, Nghị định
97/2017/NĐ-CP để thực hiện.
Việc xử phạt được tiến hành bỡi các bước sau:
Bước 1: Buộc chấm dứt hành vi vi phạm hành chính
Theo đó, khi người có thẩm quyền đang thi hành công vụ phát hiện có
hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự đang diễn ra, để
đảm bảo hiệu quả công tác quản lý nhà nước trong việc xử lý các hành vi có
lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy định của pháp luật về quản lý
nhà nước nhưng chưa đến mức xử lý hình sự, Luật Xử lý vi phạm hành chính
quy định khi phát hiện có hành vi vi phạm hành chính thì người thi hành công
vụ phải đình chỉ ngay hành vi vi phạm, sau đó xem xét đối chiếu giữa hành vi
vi phạm với điều, khoản, điểm của Nghị định quy định xử lý vi phạm hành
chính ở lĩnh vực chuyên ngành để xem xét áp dụng mức phạt tương
ứng.Trong trường hợp này, người có thẩm quyền có thể thực hiện bằng lời
nói, còi, hiệu lệnh, văn bản hoặc hình thức khác theo quy định của pháp luật.
Bước 2: Phân loại vi phạm thuộc hay không thuộc trường hợp phải lập
biên bản xử phạt:
Người có thẩm quyền khi phát hiện có hành vi vi phạm hành chính thì
phải xem xét tính chất, mức độ vi phạm, hậu quả của hành vi vi phạm; đồng
thời xác định căn cứ phát hiện hành vi vi phạm hành chính để xác định hành
vi đó thuộc trường hợp phải lập hoặc không lập biên bản, hồ sơ xử phạt vi
phạm hành chính. Cụ thể:
- Xử phạt vi phạm hành chính không lập biên bản:
Nếu quyết định hình thức xử phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền đến 250.000
đồng đối với cá nhân, 500.000 đồng đối với tổ chức thì người có thẩm quyền
27
xử phạt phải ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính tại chỗ, mà không cần
lập biên bản.
- Xử phạt vi phạm hành chính có lập biên bản, hồ sơ xử phạt vi phạm
hành chính:
Trường hợp vi phạm hành chính được phát hiện nhờ sử dụng phương
tiện, thiết bị kỹ thuật, nghiệp vụ thì phải lập biên bản.
Đối với những trường hợp phải lập biên bản vi phạm hành chính thì,
người có thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính chỉ có quyền lập biên
bản về những vi phạm thuộc phạm vi thi hành công vụ, nhiệm vụ được giao
và chịu trách nhiệm về việc lập biên bản.
Việc lập biên bản vi phạm hành chính được hướng dẫn bởi Điều 6 Nghị
định 81/2013/NĐ-CP và đã được sửa đổi bởi Khoản 7 Điều 1 Nghị định
97/2017/NĐ-CP; Đồng thời phải lập thành hồ sơ xử phạt vi phạm hành chính.
Hồ sơ bao gồm biên bản vi phạm hành chính, quyết định xử phạt hành chính,
các tài liệu, giấy tờ có liên quan và phải được đánh bút lục.
- Bước 3: Xác minh tình tiết của vụ việc vi phạm hành chính; Xác định
giá trị tang vật vi phạm hành chính (nếu có) để làm căn cứ xác định khung
tiền phạt, thẩm quyền xử phạt; Cho đương sự giải trình (nếu thuộc trường hợp
được giải trình).
Khi xem xét ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính, trong trường
hợp cần thiết người có thẩm quyền xử phạt có trách nhiệm xác minh tình tiết
của vụ việc vi phạm hành chính như: Có hay không có vi phạm hành chính;
Cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm hành chính, lỗi, nhân thân của cá
nhân vi phạm hành chính; Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ; Tính chất, mức độ
thiệt hại do vi phạm hành chính gây ra;..Trong trường hợp cần xác định giá trị
tang vật vi phạm hành chính để làm căn cứ xác định khung tiền phạt, thẩm
28
quyền xử phạt, người có thẩm quyền đang giải quyết vụ việc phải xác định giá
trị tang vật và phải chịu trách nhiệm về việc xác định đó.
Đối với hành vi vi phạm hành chính mà pháp luật quy định áp dụng
hình thức xử phạt tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời
hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn hoặc áp dụng mức phạt tiền tối đa
của khung tiền phạt đối với hành vi đó từ 15.000.000 đồng trở lên đối với cá
nhân, từ 30.000.000 đồng trở lên đối với tổ chức thì cá nhân, tổ chức vi phạm
có quyền giải trình trực tiếp hoặc bằng văn bản với người có thẩm quyền xử
phạt vi phạm hành chính.
- Bước 4: Ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính
Người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính phải ra quyết định
xử phạt vi phạm hành chính trong thời hạn luật định.
Lưu ý: Khi xem xét vụ vi phạm để quyết định xử phạt vi phạm hành
chính, nếu xét thấy hành vi vi phạm có dấu hiệu tội phạm, thì người có thẩm
quyền xử phạt phải chuyển ngay hồ sơ vụ vi phạm cho cơ quan tiến hành tố
tụng hình sự. Việc chuyển hồ sơ của người bị áp dụng biện pháp đưa vào
trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc có dấu hiệu tội phạm để truy cứu
trách nhiệm hình sự được hướng dẫn bởi Điều 8 Nghị định 02/2014/NĐ-CP.
- Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực THADS
Nghị định số 82/2020/NĐ-CP không quy định về thời hiệu xử phạt vi
phạm hành chính đối với hành vi VPHC trong lĩnh vực THADS. Vì vậy, khi
xử lý các loại hành vi này, cần căn cứ Điều 6 của Luật xử lý vi phạm hành
chính để xác định thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính, theo đó: Thời hiệu
xử phạt VPHC là 01 năm.
29
Thời điểm để tính thời hiệu xử phạt VPHC được quy định như sau:
Thời hiệu xử phạt VPHC đối với các hành vi VPHC trong lĩnh vực
THADS là 01 năm tính từ thời điểm chấm dứt hành vi vi phạm trong trường
hợp hành vi VPHC đã kết thúc hoặc từ thời điểm phát hiện hành vi vi phạm
trong trường hợp VPHC đang được thực hiện.
Trường hợp XPVPHC đối với cá nhân do cơ quan tiến hành tố tụng
chuyển đến thì thời hiệu được áp dụng theo quy định tại điểm a và điểm b
khoản 2 Điều 6 Luật XLVPHC. Thời gian cơ quan tiến hành tố tụng thụ lý,
xem xét được tính vào thời hiệu XPVPHC.
Bên cạnh đó, trong thời hạn nêu trên mà cá nhân, tổ chức cố tình trốn
tránh, cản trở việc xử phạt thì thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính được tính
lại kể từ thời điểm chấm dứt hành vi trốn tránh, cản trở việc xử phạt.
- Thời hạn ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính
Người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính phải ra quyết định
xử phạt vi phạm hành chính trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày lập biên bản vi
phạm hành chính. Đối với vụ việc có nhiều tình tiết phức tạp mà không thuộc
trường hợp giải trình hoặc đối với vụ việc thuộc trường hợp giải trình theo
quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 61 của Luật xử lý vi phạm hành chính
thì thời hạn ra quyết định xử phạt tối đa là 30 ngày, kể từ ngày lập biên bản.
Trường hợp vụ việc đặc biệt nghiêm trọng, có nhiều tình tiết phức tạp và
thuộc trường hợp giải trình mà cần có thêm thời gian để xác minh, thu thập
chứng cứ thì người có thẩm quyền đang giải quyết vụ việc phải báo cáo thủ
trưởng trực tiếp của mình (thủ trưởng trực tiếp của người có thẩm quyền đang
giải quyết vụ việc được hướng dẫn bởi khoản 13 Điều 1 Nghị định
97/2017/NĐ-CP) để xin gia hạn, thời hạn gia hạn không quá 30 ngày.
30
Cách tính thời gian, thời hạn, thời hiệu trong xử lý vi phạm hành chính
được quy định tại Điều 8 Luật xử lý vi phạm hành chính. Cụ thể:
+ Cách tính thời hạn, thời hiệu trong xử lý vi phạm hành chính được áp
dụng theo quy định của Bộ luật dân sự, trừ trường hợp trong Luật này có quy
định cụ thể thời gian theo ngày làm việc.
+ Thời gian ban đêm được tính từ 22 giờ ngày hôm trước đến 06 giờ
ngày hôm sau.
- Nội dung quyết định xử phạt vi phạm hành chính
Quyết định xử phạt vi phạm hành chính phải bao gồm các nội dung
chính sau đây: Địa danh, ngày, tháng, năm ra quyết định; Căn cứ pháp lý để
ban hành quyết định; Biên bản vi phạm hành chính, kết quả xác minh, văn
bản giải trình của cá nhân, tổ chức vi phạm hoặc biên bản họp giải trình và tài
liệu khác (nếu có); Họ, tên, chức vụ của người ra quyết định; Họ, tên, địa chỉ,
nghề nghiệp của người vi phạm hoặc tên, địa chỉ của tổ chức vi phạm; Hành
vi vi phạm hành chính; tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng; Điều, khoản của
văn bản pháp luật được áp dụng; Hình thức xử phạt chính; hình thức xử phạt
bổ sung, biện pháp khắc phục hậu quả (nếu có); Quyền khiếu nại, khởi kiện
đối với quyết định xử phạt vi phạm hành chính; Hiệu lực của quyết định, thời
hạn và nơi thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính, nơi nộp tiền phạt;
Họ tên, chữ ký của người ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính; Trách
nhiệm thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính và việc cưỡng chế
trong trường hợp cá nhân, tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính không tự
nguyện chấp hành.
Trường hợp ban hành một quyết định xử phạt vi phạm hành chính
chung đối với nhiều cá nhân, tổ chức cùng thực hiện một hành vi vi phạm
hoặc nhiều cá nhân, tổ chức thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính khác
31
nhau trong cùng một vụ vi phạm thì nội dung hành vi vi phạm, hình thức,
mức xử phạt đối với từng cá nhân, tổ chức phải xác định cụ thể, rõ ràng.
- Hình thức xử phạt
Hình thức xử phạt hành chính là các chế tài được nhà nước áp dụng để
giúp cho hoạt động quản lý hành chính được thực hiện có hiệu quả hơn, pháp
luật được tôn trọng và đảm bảo thực hiện. Trong xử phạt vi phạm hành chính
có hai nhóm hình thức là xử phạt chính và xử phạt bổ sung.
+ Hình thức xử phạt chính
Hình thức xử phạt chính là hình thức được áp dụng một cách độc lập,
nghĩa là đối với mỗi vi phạm hành chính có thể áp dụng một hình thức phạt
chính mà không nhất thiết phải áp dụng các hình thức phạt bổ sung kèm theo,
nhưng chỉ có thể áp dụng một hình thức phạt chính đối với một hành vi.
Theo quy định tại Chương V của Nghị định 82/2020/NĐ-CP, quy định
về hành vi VPHC, hình thức xử phạt, mức xử phạt và biện pháp khắc phục
hậu quả trong lĩnh vực THADS, thì chỉ có hai hình thức xử phạt chính là
“cảnh cáo” hoặc “phạt tiền”.
Cảnh cáo là hình thức phạt được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức khi
vi phạm hành chính nhỏ, lần đầu, có tình tiết giảm nhẹ. So với hình thức phạt
tiền thì cảnh cáo là hình thức xử phạt nhẹ hơn, mang ý nghĩa giáo dục nhiều
hơn là trừng phạt. Mục đích của hình thức xử phạt cảnh cáo không nhằm gây
ra thiệt hại về vật chất, kinh tế mà nhằm ngăn chặn, xử lý kịp thời các cá
nhân, tổ chức đã có hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực THDS, từ đó
giáo dục pháp luật đối với chủ thể vi phạm. Tại Điều 22 Luật Xử lý vi phạm
hành chính quy định: “Cảnh cáo được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức vi
phạm hành chính không nghiêm trọng, có tình tiết giảm nhẹ và theo quy định
thì bị áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo hoặc đối với mọi hành vi vi phạm
32
hành chính do người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện.
Cảnh cáo được thực hiện bằng văn bản”. Cảnh cáo là hình thức xử phạt mang
tính cưỡng chế nhà nước nhưng nó cũng mang nặng ý nghĩa giáo dục.
Tuy luật không nêu ra cụ thể, nhưng đối với cá nhân từ đủ 16 tuổi trở
lên hoặc tổ chức vi phạm hành chính thì áp dụng hình thức phạt cảnh cáo khi
có đủ các điều kiện:
Thứ nhất, hành vi vi phạm mà tổ chức, cá nhân thực hiện được văn bản
pháp luật quy định là có thể áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo. Nếu loại vi
phạm đó mà pháp luật quy định chỉ áp dụng hình thức phạt tiền, thì không
được áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo.
Thứ hai, việc áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo đối với tổ chức, cá
nhân vi phạm hành chính chỉ mới được thực hiện khi đó là vi phạm lần đầu và
có các tình tiết giảm nhẹ và đó là vi phạm nhỏ.
Phạt tiền là việc tước bỏ một khoản tiền của chủ thể để sung vào công
quỹ nhà nước, phạt tiền là hình thức xử phạt chính được quy định tại Điều 23
Luật Xử lý vi phạm hành chính. Việc lựa chọn, áp dụng mức phạt tiền đối với
người vi phạm phải trong khung phạt cụ thể được văn bản pháp luật quy định
cho loại vi phạm đã được thực hiện theo cách: khi phạt tiền, mức phạt cụ thể
đối với một hành vi vi phạm hành chính là mức trung bình của khung tiền
phạt được quy định đối với hành vi đó; nếu có tình tiết giảm nhẹ thì mức phạt
tiền có thể giảm xuống nhưng không được giảm quá mức tối thiểu của khung
tiền phạt; nếu có tình tiết tăng nặng thì mức phạt tiền có thể tăng lên nhưng
không được vượt quá mức tối đa của khung tiền phạt.
Việc lựa chọn áp dụng mức phạt tiền đối với người chưa thành niên vi
phạm hành chính có những nét đặc thù riêng biệt như sau: người từ đủ 14 tuổi
đến dưới 16 tuổi vi phạm hành chính thì bị phạt cảnh cáo, không phạt tiền.
33
Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi vi phạm hành chính thì có thể áp dụng
hình thức xử phạt vi phạm hành chính được quy định tại Điều 23 Luật Xử lý
vi phạm hành chính. Khi phạt tiền với họ thì mức phạt tiền không quá một
phần hai mức phạt đối với người thành niên. Trong trường hợp họ không có
tiền thì cha mẹ hoặc người giám hộ phải nộp thay. Khi quyết định xử phạt
một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính thì người có thẩm
quyền chỉ ra một quyết định xử phạt trong đó quyết định hình thức, mức xử
phạt đối với từng hành vi vi phạm, nếu các hình thức xử phạt là phạt tiền thì
được cộng lại thành mức phạt chung. Cá nhân, tổ chức vi phạm bị phạt tiền có
thể nộp phạt tiền tại chỗ hoặc tại kho bạc nhà nước theo đúng quy định của
pháp luật và được nhận biên lai thu tiền phạt.
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực thi hành án dân sự
1.3.1.Yếu tố pháp luật
Trong thực tiễn, vị trí thượng tôn của pháp luật chỉ có thể đạt được khi
pháp luật được thực thi một cách nghiêm minh và được các tổ chức, cá nhân
tuân thủ một cách nghiêm túc, triệt để. Pháp luật nghiêm minh là điều kiện
tiên quyết để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, xây dựng một xã
hội trật tự, kỷ cương, ổn định, qua đó, góp phần quan trọng củng cố niềm tin
của nhân dân vào lẽ phải, lẽ công bằng, sự tiến bộ và tính ưu việt của chế độ.
Thi hành bản án, quyết định dân sự là khâu cuối của quá trình tố tụng, nhằm
hiện thực hóa những bản án, quyết định của Tòa án vào thực tiễn cuộc sống;
đảm bảo công lý được thực thi, có vị trí, ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ
tính nghiêm minh của pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân, xây dựng một xã hội trật tự, kỷ cương và ổn định. Vì vậy, một hệ thống
34
pháp luật hoàn thiện, sát hợp với thực tiễn, sẽ là cơ sở pháp lý quan trọng đảm
bảo cho việc thi hành trên thực tế.
Những năm qua, Đảng và nhà nước ta đã rất quan tâm, chú trọng đến
công tác thi hành án dân sự; ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật điều
chỉnh các hoạt động trong lĩnh vực này; đặc biệt là các chế tài về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự đã được quan tâm, nghiên
cứu, sửa đổi, bổ sung kịp thời nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Tuy nhiên,
vẫn còn có một số quy định chưa thực sự phù hợp, dẫn đến những bất cập,
vướng mắc khi áp dụng; làm hạn chế phần nào chất lượng công tác thi hành
án dân sự nói chung và trên địa bàn tỉnh Quảng Bình nói riêng.
1.3.2.Yếu tố chính trị
Yếu tố chính trị có ảnh hưởng mạnh mẽ tới hiệu quả của hoạt động thực
hiện pháp luật của các chủ thể pháp luật, đặc biệt là các cá nhân, cơ quan nhà
nước có thẩm quyền áp dụng pháp luật. Trong hoạt động thực hiện pháp luật,
ý thức thể hiện, trước hết, ở việc các chủ thể có chức năng áp dụng pháp luật
quán triệt, thấm nhuần nhiệm vụ chính trị của mình, lãnh đạo, chỉ đạo thường
xuyên, sâu sát quá trình thực hiện, áp dụng pháp luật, giữ nghiêm kỷ cương,
phép nước. Điều đó sẽ giúp cho hoạt động thực tiễn pháp luật thật sự đạt chất
lượng, hiệu quả cao, khơi dậy ý thức, trách nhiệm chính trị của các chủ thể
khác trong thực hiện pháp luật.
Muốn pháp luật được tôn trọng và thưc hiện nghiêm túc, mà cụ thể
trong trường hợp này là việc phòng, chống các hành vi vi phạm hành chính
trong lĩnh vực thi hành án dân sự đạt hiệu quả cao, thì cán bộ chấp hành viên
làm công tác thi hành án phải là những người đi trước, gương mẫu thực hiện
và có “năng lực tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối của đảng
pháp luật của nhà nước, công tâm, thạo việc, tận tụy với dân, biết phát huy
35
sức dân”. Khi ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính, cơ quan thi hành án,
người có thẩm quyền ra quyết định, ngoài yếu tố pháp luật cũng cần phải lưu
ý đến yếu tố chính trị của của địa phương tại thời điểm đó để đảm bảo vận
dụng linh hoạt, mềm dẻo và đạt hiệu quả cao, không nên quá cứng nhắc; có
những trường hợp để đảm bảo ổn định tình hình chính trị của địa phương, thì
cần phải cân nhắc, xem xét kỹ lưỡng trước khi ban hành quyết định xử phạt
hoặc không ra quyết định xử phạt.
Tuy nhiên, kết quả của hoạt động THADS, không chỉ đơn thuần phụ
thuộc vào ý chí chủ quan của Chấp hành viên, cơ quan THADS mà còn lệ
thuộc rất nhiều vào hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, vai trò của
cơ quan điều tra công an, chức năng kiểm tra, giám sát của Viện kiểm sát các
cấp, chất lượng xét xử của Tòa án. Một bản án không nghiêm minh, không
đúng pháp luật, chưa thấu tình đạt lý thì hậu quả giải quyết ở giai đoạn
THADS vô cùng khó khăn, phức tạp; ngoài ra hiệu quả hoạt động còn phụ
thuộc cả vào sự phối của các cấp, các ngành hữu quan, sự đồng tâm, hợp lực
của cả hệ thống chính trị tại địa phương, cần thiết phải thực hiện đồng bộ các
giải pháp, thì công tác THADS mới thực sự đem lại hiệu quả thiết thực, xứng
đáng với sự mong đợi của người dân cũng như toàn xã hội.
1.3.3. Yếu tố con người
Để bản án, quyết định của Tòa án được thực thi trên thực tế, công tác
THADS do những Chấp hành viên, cán bộ thi hành án tổ chức thực hiện,
đóng vai trò rất quan trọng, đặc biệt trong điều kiện kinh tế, xã hội phát triển,
các hoạt động sản xuất, kinh doanh, thương mại diễn ra ở hầu hết các lĩnh
vực, cũng chính vì thế mà các tranh chấp dân sự, kinh tế, lao động, thương
mại ngày càng gia tăng, tính chất vụ việc phức tạp. Vì vậy, để hoạt động
THADS không những đạt hiệu quả cao, góp phần trực tiếp, tích cực vào việc
36
bảo vệ quyền con người, quyền công dân mà còn góp phần quan trọng vào sự
nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và địa phương thì yếu tố con
người thực thi nhiệm vụ cũng rất quan trọng. Bởi, nếu cơ quan, thủ trưởng cơ
quan và người có thẩm quyền trong công tác THADS phát huy hết vai trò,
trách nhiệm của mình; nghiêm minh trong phát hiện và xử phạt các hành vi
VPHC trong lĩnh vực THADS, thì sẽ đấu tranh, phòng ngừa được các hành vi
vi phạm; góp phần tháo gỡ khó khăn, khơi thông, thúc đẩy phát triển sản xuất,
kinh doanh thông qua hoạt động thu hồi nợ, giảm nợ xấu và mở rộng tín dụng,
bảo vệ quyền chủ nợ và thu hồi nợ của các tổ chức tín dụng hay nâng cao an
sinh xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động thông qua
việc xử lý kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật.
1.3.4. Điều kiện phương tiện để thực thi nhiệm vụ
Do tính chất của hoạt động THADS trực tiếp liên quan đến quyền và lợi
ích của người được thi hành án, người phải thi hành án, người có quyền lợi
nghĩa vụ liên quan đến bản án, quyết định thi hành án, ở nhiều lĩnh vực khác
nhau, mỗi lĩnh vực đều có những quy định riêng, đặc thù riêng. Để xác minh,
truy tìm tài sản của người phải thi hành án là việc làm không đơn giản đối với
các Chấp hành viên, cơ quan THADS, chưa kể đến những khó khăn từ phía
các đương sự, do những đối tượng này không hợp tác với các Chấp hành viên,
cơ quan THADS (tẩu tán, che giấu tài sản nhằm trốn tránh nghĩa vụ thi hành
án, thậm chí là chống đối quyết liệt Chấp hành viên trong quá trình tác
nghiệp). Vì vậy, đảm bảo các điều kiện về cơ sở vật chất, công cụ phương tiện
phục vụ công tác này là vấn đề có ý nghĩa quan trọng, góp phần nâng cao hiệu
quả hoạt động thi hành án, xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
THADS.
37
Điều kiện phương thiện thực thi nhiệm vụ ở đây không chỉ là đơn thuần
là cơ sở vật chất, trang thiết bị mà còn là điều kiện về cơ sở pháp lý, chế tài
hành chính để bảo vệ Chấp hành viên khi thực thi nhiệm vụ.
Tiểu kết chương 1
Qua chương này, tác giả đã lần lượt trình bày các khái niệm cụ thể về
THADS, vi phạm hành chính hay xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
THADS để phần nào giúp người đọc hiểu rõ những vấn đề cốt lõi; mặt khác
việc tìm hiểu các khái niệm đó là bước đầu để tạo nền tảng cho quá trình
nghiên cứu tên đề tài. Bên cạnh đó, tác giả đã phân tích khá cụ thể, chi tiết
từng hành vi, yếu tố lỗi, tâm lý bên trong con người, độ tuổi hay những mối
quan hệ xã hội để cấu thành nên vi phạm hành chính qua đó giúp làm sáng tỏ,
nói lên tầm quan trọng, vai trò của hoạt động xử phạt trong lĩnh vực THADS.
Đồng thời thông qua việc phân tích các quy định của pháp luật hiện hành về
xử phạt VPHC trong lĩnh vực THADS, tác giả đã làm rõ được những bất cập,
vướng mắc trong thực tiễn áp dụng; đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt
động XPVPHC trong lĩnh vực này, để từ đó đề xuất giải pháp nhằm hoàn
thiện hệ thống pháp luật trong lĩnh vực này.
38
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG
LĨNH VỰC THI HÀNH ÁN DÂN SỰTẠI TỈNH QUẢNG BÌNH
2.1. Tình hình tổ chức, hoạt động của các cơ quan thi hành án dân
sự tỉnh Quảng Bình
2.1.1. Khái quát chung về tổ chức, hoạt động của các cơ quan thi
hành án dân sự tỉnh Quảng Bình
Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình được thành lập theo Quyết
định số 2879/QĐ-BTP ngày 06/11/2009, Cục Thi hành án dân sự là cơ quan
thuộc Tổng cục Thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp, thực hiện nhiệm vụ thi
hành án dân sự theo quy định của pháp luật, thực hiện chức năng thi hành án
dân sự, có nhiệm vụ giúp Tổng cục Thi hành án dân sự quản lý một số mặt
công tác tổ chức cán bộ, cơ sở vật chất, kinh phí, phương tiện hoạt động các
nhiệm vụ, quyền hạn khác của các cơ quan Thi hành án dân sự trên địa bàn
tỉnh Quảng Bình theo quy định của pháp luật, phân cấp của Bộ trưởng Bộ Tư
pháp và Tổng cục Thi hành án dân sự; đồng thời, Cục Thi hành án dân sự tỉnh
Quảng Bình giúp Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình thực hiện trách nhiệm,
quyền hạn của mình theo quy định của pháp luật.
Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình có 04 Phòng chuyên môn trực
thuộc, gồm: Văn phòng Cục; phòng Nghiệp vụ và tổ chức thi hành án; phòng
Kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo; phòng Tổ chức cán bộ và 08 Chi cục
Thi hành án dân sự huyện, thị xã, thành phố trực thuộc, gồm: Chi cục Thi
hành án dân sự huyện Lệ Thủy, Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quảng
Ninh, Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đồng Hới, Chi cục Thi hành án
dân sự huyện Bố Trạch, Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quảng Trạch, Chi
cục Thi hành án dân sự thị xã Ba Đồn, Chi cục Thi hành án dân sự huyện
39
Tuyên Hóa, Chi cục Thi hành án dân sự huyện Minh Hóa. Các Chi cục Thi
hành án dân sự trực thuộc Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình, thực hiện
nhiệm vụ thi hành án và các nhiệm vụ quyền hạn khác theo quy định của pháp
luật; đồng thời, chịu sự chỉ đạo của Ủy ban nhân dân cùng cấp theo quy định
của pháp luật.
Cơ cấu biên chế của các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình:
Theo Quyết định số 474/QĐ-TCTHADS ngày 14/4/2017 của Tổng cục Thi
hành án dân sự - Bộ Tư pháp về việc giao biên chế công chức hành chính Nhà
nước năm 2017 đối với các cơ quan Thi hành án dân sự, thì các cơ quan Thi
hành án dân sự tỉnh Quảng Bình được giao tổng cộng 96 biên chế, trong đó tại
Cục Thi hành án dân sự tỉnh được giao 23, các Chi cục Thi hành án dân sự
huyện, thị xã, thành phố được giao 73 biên chế. Số biên chế đã thực hiện
(tính đến 30/10/2020) được 96 biên chế, trong đó: ở Cục Thi hành án dân sự
thực hiện được 23/23 biên chế, Chi cục Thi hành án dân sự huyện, thị xã,
thành phố trong tỉnh thực hiện được 73/73 biên chế. Cụ thể phân bổ như sau:
Ở cấp tỉnh: Tổng biên chế được giao là 23 biên chế, trong đó: về ngạch
công chức: có 10 Chấp hành viên (01 Chấp hành viên cao cấp, 08 Chấp hành
viên trung cấp và 01 Chấp hành viên sơ cấp); 05 Thẩm tra viên (02 Thẩm tra
viên chính, 03 Thẩm tra viên); 05 Thư ký thi hành án; 03 công chức khác (02
Kế toán, 01 Văn thư,). Xét về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ: 05 công chức có trình độ thạc sĩ Luật; 18 công chức có trình độ Cử nhân.4
Về cơ cấu chức danh lãnh đạo và công chức thừa hành nhiệm vụ: Lãnh
đạo Cục có 01 Cục trưởng và 03 Phó Cục trưởng. Các phòng chuyên môn:
Văn phòng Cục có 01 Chánh Văn phònglà Thẩm tra viên chính, 01 Phó chánh
Văn phòng là Thẩm tra viên, 01 thư ký thi hành án, 02 kế toán (01 kế toán
4 Báo cáo Tổng kết công tác thi hành án dân sự năm 2020 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình
nghiệp vụ, 01 kế toán hành chính) và 01 Văn thư trung cấp; Phòng Nghiệp vụ
40
và tổ chức thi hành án có 01 Trưởng phòng, 02 Phó trưởng phòng, 01 Chấp
hành viên trung cấp, 01 Chấp hành viên sơ cấp và 02 Thư ký thi hành án;
Phòng Kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo có 01 Trưởng phòng, 01 Phó
Trưởng phòng và 01 Thẩm tra viên; Phòng Tổ chức cán bộ có 01 Trưởng
phòng, 01 Phó trưởng phòng và 01 Thư ký thi hành án.
Ơ cấp huyện: Tổng số biên chế giao cho các Chi cục Thi hành án dân
sự là 73 biên chế, phân bổ cho 08 Chi cục. Cụ thể: Chi cục Thi hành án dân sự
huyện Lệ Thủy 10 biên chế, Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quảng Ninh
07 biên chế, Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đồng Hới 14 biên chế, Chi
cục Thi hành án dân sự huyện Bố Trạch 11 biên chế, Chi cục Thi hành án dân
sự huyện Quảng Trạch 08 biên chế, Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Ba Đồn
9 biên chế, Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tuyên Hóa 07 biên chế, Chi
cục Thi hành án dân sự huyện Minh Hóa 07 biên chế. Trong đó: về ngạch
công chức: có 33 Chấp hành viên (12 Chấp hành viên trung cấp và 21 Chấp
hành viên sơ cấp); 07 Thẩm tra viên; 11 Thư ký thi hành án và 01 Thư ký thi
hành án trung cấp; 09 công chức Kế toán (Kế toán viên: 5; Kế toán viên cao
đẳng: 1 và Kế toán viên trung cấp: 3) và 08 văn thư. Xét về trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ: 05 công chức có trình độ thạc sĩ Luật; 66 công chức có trình
độ Cử nhân, 01 công chức có trình độ cao đẳng và 02 công chức có trình độ
trung cấp.
2.1.2 Thực trạng tổ chức, hoạt động của các cơ quan thi hành án dân
sự tỉnh Quảng Bình có liên quan trực tiếp đến xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh
Đặc thù các vụ việc thi hành án ở tỉnh Quảng Bình chủ yếu là các loại
việc liên quan đến án hình sự mà đương sự có hoàn cảnh khó khăn; các vụ án
dân sự về tranh chấp đất đai, tài sản, hợp đồng thương mại, tín dụng ngân
hàng, những năm gần đây án ma túy, cho vay nặng lãi, tổ chức đánh bạc với
41
số đối tượng phải thi hành án và người bị hại, người có quyền lợi liên quan
lên đến vài chục người; án lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tín dụng ngân hàng với
số tiền phải thi hành lên đến 1.000 tỷ đồng. Trong những năm qua, các cơ
quan Thi hành án dân sự của tỉnh Quảng Bình phải tổ chức thi hành với số
lượng lớn việc và tiền. Xác định, công tác chuyên môn nghiệp vụ là nhiệm vụ
hết sức quan trọng, vì vậy lãnh đạo các cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Quảng
Bình đã rất quan tâm chú trọng bố trí những cán bộ, chấp hành viên có năng
lực chuyên môn nghiệp vụ cao, có bản lĩnh chính trị vững vàng, tâm huyết để
đảm nhận nhiệm vụ. Cụ thể, ở cấp tỉnh, giao cho phòng Nghiệp vụ và tổ chức
thi hành án thực hiện công tác tổ chức thi hành các bản án, quyết định có hiệu
lực của Tòa án, với tổng biên chế là 07 người; trong đó có 04 Chấp hành viên
trung cấp, 01 chấp hành viên sơ cấp và 02 Thư ký.
Ở cấp huyện, giao cho 33 Chấp hành viên Chi cục THADS tổ chức thi
hành án với số lượng việc phải thi hành bình quân hàng năm trên 3.000 việc.
Trong quá trình tổ chức thi hành hành án nếu có phát sinh vướng mắc, khó
khăn thì thực hiện thủ tục xin ý kiến chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ của Cục
Thi hành án dân sự tỉnh hoặc trường hợp khi tổ chức thi hành án phát sinh vấn
đề phức tạp liên quan đến chính sách, dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà
nước; việc thi hành án có quan điểm khác nhau giữa các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền hoặc có tình huống pháp lý mà pháp luật chưa quy định, quy định
chưa cụ thể hoặc pháp luật có mâu thuẫn, xung đột; việc thi hành án có nhiều
tài sản nằm trên các địa bàn của tỉnh; việc thi hành án liên quan đến tội phạm
về tham nhũng thuộc diện án trọng điểm mà Ban Chỉ đạo Trung ương về
phòng, chống tham nhũng hoặc Tỉnh ủy theo dõi chỉ đạo thì Cục THADS tỉnh
sẻ rút hồ sơ lên thi hành.
Trong quá trình tổ chức thi hành án, nếu phát hiện có hành vi vi phạm
hành chính trong lĩnh vực này thì những người có thẩm quyền sẽ trực tiếp ra
42
quyết định xử phạt hoặc lập hồ sơ báo cáo và đề nghị người có thẩm quyền ra
quyết định xử phạt theo quy định.
Tuy nhiên, hiện nay số lượng biên chế các chức danh tư pháp như chấp
hành viên trung cấp, chấp hành viên sơ cấp làm công tác nghiệp vụ, tổ chức
thi hành án ở các cơ quan thi hành án dân sự hai cấp của tỉnh Quảng Bình còn
thấp. Tính đến tháng 10/2020 toàn ngành Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình
có 01 chấp hành viên cao cấp; 20 chấp hành viên trung cấp và 22 chấp hành viên sơ cấpnên còn thiếu nhân lực để thực thi nhiệm vụ.5
Bảng 2.1: Số lượng Chấp hành viên các cơ quan thi hành án dân sự
tỉnh Quảng Bình tính đến ngày 30/10/2020
Ngạch Số lượng (người) Tuổi
22 Từ 32 – 60 Chấp hành viên sơ cấp
20 Từ 42 – 59 Chấp hành viên trung cấp
1 Trên 55 Chấp hành viên cao cấp
Nguồn: Báo cáo Tổng kết công tác thi hành án dân sự năm 2020 của
Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình.
2.2. Kết quả đạt được trong hoạt động xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực thi hành án dân sự tại tỉnh Quảng Bình
2.2.1. Kết quả xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành
án dân sự tại tỉnh Quảng Bình
Trong những năm qua, dưới sự chỉ đạo của Tỉnh uỷ, UBND tỉnh và sự
chỉ đạo trực tiếp của Bộ Tư pháp, Tổng cục thi hành án dân sự, công tác thi
hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Quảng Bình đã đạt được được những kết quả 5 Báo cáo Tổng kết công tác thi hành án dân sự năm 2020 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình
43
quan trọng góp phần vào việc hoàn thành và ổn định tình hình an ninh, chính
trị trên địa bàn tỉnh. Hệ thống các cơ quan thi hành án dân sự trong tỉnh không
ngừng được củng cố, kiện toàn; đội ngũ cán bộ được tăng cường cả về số
lượng và chất lượng; cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho nhu cầu công
tác của cơ quan thi hành án dân sự trong toàn tỉnh ngày càng được hoàn thiện;
công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về thi hành án dân sự đã từng bước
được chú trọng; sự phối kết hợp giữa các cơ quan thi hành án dân sự với các
cơ quan liên quan trong công tác thi hành án dân sự được tăng cường; kết quả
công tác thi hành án dân sự có nhiều chuyển biến tích cực, tỉ lệ giải quyết thi
hành án dân sự tăng cả về số việc và số tiền, án tồn đọng giảm, nhiều vụ việc
phức tạp, tồn đọng kéo dài đã được giải quyết dứt điểm, bảo đảm các quyền
và lợi ích hợp pháp của nhà nước, tập thể và côn dâng theo quy định của pháp
luật; hiệu lực quản lý nhà nước ngày càng được củng cố tăng cường, góp phần
giữ vững an ninh, chính trị, trật tự an toàn, xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho
sự phát triển kinh tế-xã hội trên địa bàn tỉnh.
Một trong những kết quả quan trọng trong công tác THADS trong 5
năm qua đó là tạo sự chuyển biến tích cực về nhận thức của cấp ủy, chính
quyền các cấp, các ngành, đoàn thể và công dân về công tác THADS. Cơ chế
mới đã huy động sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, tạo nên sự gắn kết và
phối hợp ngày càng cao nhằm đẩy mạnh hiệu quả công tác THADS trên địa
bàn tỉnh. Có được kết quả đó là do lãnh đạo các cơ quan THADS đã tăng
cường công tác tham mưu với các cấp ủy, chính quyền về tầm quan trọng của
công tác THADS, tích cực cho ý kiến và đôn đốc, kiểm tra, tạo điều kiện
thuận lợi cho cán bộ, chấp hành viên thực thi nhiệm vụ. Nhiều UBND cấp xã
chủ động bố trí cán bộ phối hợp với cán bộ thi hành án cung cấp đầy đủ thông
tin về đương sự là người của địa phương, hỗ trợ chấp hành viên làm tốt công
tác hòa giải, thuyết phục đương sự tự nguyện thi hành án…
44
Bảng 2.2: Kết quả thi hành án dân thi hành án dân sự về việc của
các cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình giai đoạn từ 2016- 2020
Năm Côngtác Tổng số việc phải thi hành Tổng số việc có điều kiện thi hành Tổng số việc thi hành xong Tỷ lệ thi hành xong/số việc có điều kiện
2016 3.801 2.956 90% 3.261
2017 4.106 3.173 90% 3.504
2018 3.864 2.747 89% 3.059
2019 4.502 3.041 84% 3.584
2020 4.097 3.136 86% 3.624
Nguồn: Báo cáo Tổng kết công tác thi hành án dân sự
giai đoạn2016-2020 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình.
Bảng 2.3: Kết quả thi hành án dân sự về tiền của các cơ quan thi hành án
dân sựtỉnh Quảng Bình giai đoạn từ 2016 - 2020
Năm công tác Tổng số tiền phải thi hành (1.000đ) Tổng số tiền có điều kiện thi hành (1.000đ) Tổng số tiền thi hành xong (1.000đ) Tỷ lệ thi hành xong/số tiền có điều kiện
2016 293.827.542 132.677.038 46.378.753 35%
2017 448.658.740 150.643.167 70.132.314 46%
2018 325.473.141 182.918.501 113.829.414 62%
1.297.278.785 278.096.818 104.486.594 38% 2019
2.213.088.324 601.246.567 74.567.768 13% 2020
Nguồn: Báo cáo Tổng kết công tác thi hành án dân sự giai đoạn2016-
2020 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình.
45
Từ số liệu trên, có thể thấy rằng trong 05 năm qua, các cơ quan Thi
hành án dân sự tỉnh Quảng Bình đã luôn nỗ lực để hoàn thành chức năng
nhiệm vụ thi hành án, đảm bảo các bản án, quyết định có hiệu lực được thực
thi một cách nghiêm túc, đúng quy định; quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân được quan tâm, bảo vệ. Tuy nhiên nếu so sánh kết quả thi hành án dân
THADS về việc với kết quả THADS về tiền của các cơ quan THADS tỉnh
Quảng Bình giai đoạn từ 2016- 2020 thì tỷ lệ thi hành xong đối với các việc
có điều kiện thi hành đạt tương đối cao (đạt 87.8%) so với tỷ lệ thi hành án về
tiền (38,8%).Các năm 2019, 2020, tỷ lệ thi hành xong/tổng số các việc và tiền
có điều kiện thi hành giảm so với những năm trước, đặc biệt là tỷ lệ thi hành
xong về tiền đạt thấp do tài sản kê biên là dây chuyền sản xuất nhà máy đã
đưa ra bán đấu giá nhưng chưa có người mua; song song với đó là số việc phải thi hành cũng tăng đáng kể ở những năm 2019, 2020.6
Gắn với việc ra quyết định thi hành án để tổ chức thi hành bản án,
quyết định của Tòa án có hiệu quả là việc thực hiện các chế tài có liên quan
để xử lý kịp thời các hành vi vi phạm trong quá trình thi hành án, mà chủ yếu
là các hành vi vi phạm hành chính, như: Đã nhận giấy báo, giấy triệu tập lần
thứ hai nhưng không có mặt để thực hiện việc thi hành án mà không có lý do
chính đáng; Cố tình không thực hiện quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời của Tòa án hoặc bản án, quyết định phải thi hành ngay; Không thực
hiện công việc phải làm hoặc không chấm dứt thực hiện công việc không
được làm theo bản án, quyết định; Có điều kiện thi hành án nhưng cố tình trì
hoãn việc thực hiện nghĩa vụ thi hành án; Tẩu tán hoặc làm hư hỏng tài sản để
không thực hiện nghĩa vụ thi hành án hoặc để trốn tránh việc kê biên tài sản;
6 Báo cáo Tổng kết công tác thi hành án dân sự giai đoạn 2016-2020 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình
Không thực hiện yêu cầu của Chấp hành viên về việc cung cấp thông tin, giao
46
giấy tờ liên quan đến tài sản bị xử lý để thi hành án mà không có lý do chính
đáng; Sử dụng trái phép, tiêu dùng, chuyển nhượng, đánh tráo, cất giấu hoặc
thay đổi tình trạng tài sản đã kê biên nhưng chưa tới mức bị truy cứu trách
nhiệm hình sự; Chống đối, cản trở hay xúi giục người khác chống đối, cản
trở; có lời nói, hành động lăng mạ, xúc phạm người thi hành công vụ trong thi
hành án; gây rối trật tự nơi thi hành án hoặc có hành vi vi phạm khác gây trở
ngại cho hoạt động thi hành án dân sự nhưng chưa tới mức bị truy cứu trách
nhiệm hình sự; Phá hủy niêm phong hoặc hủy hoại tài sản đã kê biên nhưng
chưa tới mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự; Không chấp hành quyết định
của Chấp hành viên về việc khấu trừ tài khoản, trừ vào thu nhập, thu hồi giấy
tờ có giá của người phải thi hành án.Theo đó Điều 162 Luật THADS đã quy
định cụ thể:
Thứ nhất: Hành vi được quy định tại khoản 1 Điều 162 “đã nhận giấy
báo, giấy triệu tập lần thứ hai nhưng không có mặt để thực hiện việc thi hành
án mà không có lý do chính đáng" có thể được hiểu như sau:Người phải thi
hành án mặc dù đã nhận giấy báo, giấy triệu tập đến lần thứ hai của cơ quan
có thẩm quyền nhưng không đến địa điểm ghi trong giấy báo, giấy triệu tập để
thực hiện việc thi hành án mà không có lý do chính đáng. Lý do chính đáng ở
đây có thể là những nguyên nhân khách quan, bất khả kháng đối với người
phải thi hành án...
Ví dụ: Người phải thi hành án đang trên đường đến địa điểm ghi trong
giấy báo thì bị tai nạn giao thông, bị ốm không thể đi được (có giấy xác nhận
của cơ quan y tế có thẩm quyền)
Thứ hai: Khoản 2 Điều 162 quy định: “Cố tình không thực hiện quyết
định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Toà án hoặc bản án, quyết định
phải thi hành ngay". Được hiểu là người phải thi hành án cố tình không thực
47
hiện quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời của Toà án hoặc bản
án như biện pháp niêm phong, cấm dịch chuyển tài sản, kê biên tài sản...;
hoặc người phải thi hành án không thực hiện quyết định phải thi hành ngay
theo quyết định thi hành án, đều được coi là những hành vi vi phạm hành
chính trong THADS.
Thứ ba: Người phải thi hành án không thực hiện công việc buộc phải
làm như phải tháo dỡ công trình trên đất người khác hoặc không chấm dứt
thực hiện công việc mà bản án, quyết định của Toà án tuyên không được
chẳng hạn như trong bản án, quyết định của Toà án tuyên một người phải
dừng ngay việc khai thác, sử dụng hay xây dựng công trình trên đất... nhưng
người đó đã không thực hiện (khoản 3 Điều 162).
Thứ tư: Trường hợp, người phải thi hành án có điều kiện thi hành án
nhưng không thực hiện nghĩa vụ thi hành án mà không có lý do chính đáng.
Thực tiễn công tác THADS cho thấy có nhiều vụ việc người phải thi hành án
cố ý không thi hành án và viện dẫn rất nhiều lý do khác nhau cho sự trì hoãn
đó. Tuy nhiên, khi chấp hành viên đi xác minh thì lại thấy rằng người đó có
đủ điều kiện thi hành và những lý do người đó đưa ra là hoàn toàn không
chính đáng. Trong những trường hợp đó, cần thiết phải áp dụng xử phạt để
đảm bảo sự tôn nghiêm của pháp luật (khoản 4 Điều 162 Luật THADS).
Ví dụ: Người phải thi hành án phải thi hành nghĩa vụ trả nhà theo bản
án, quyết định của Tòa án. Trong quá trình tổ chức thi hành án, người phải thi
hành án không tự nguyện thi hành án (trong thời gian tự nguyện 10 ngày) và
cố tình không thi hành án sau khi hết thời hạn tự nguyện với nhiều lý do như:
chưa đồng tình với Bản án, quyết định của Tòa án nên đang khiếu nại lên Tòa
phúc thẩm nhưng không có bằng chứng, giấy tờ gì chứng minh đang gửi đơn
48
khiếu nại lên Tòa phúc thẩm; gửi đơn kêu cứu đến các cơ quan chức năng có
thẩm quyền để nhằm kéo dài thời giant hi hành án.
Thứ năm:Khoản 5 Điều 162 quy địnhhành vi “tẩu tán hoặc làm hư hỏng
tài sản để không thực hiện nghĩa vụ thi hành án hoặc để trốn tránh việc kê
biên tài sản”. Tẩu tán tài sản là hành vi trốn tránh nghĩa vụ về tài sản. Tài sản
thuộc đối tượng đang tranh chấp mà được mang đi cầm cố, thể chấp, mua bán,
tặng cho thì được coi là tẩu tán tài sản. Tẩu tán và làm hư hỏng tài sản đều là
hành vi nhằm cản trở việc thi hành án hoặc để trốn tránh việc kê biên tài sản.
Thứ sáu: Khoản 6 Điều 162 quy định “không thực hiện yêu cầu của
Chấp hành viên về việc cung cấp thông tin, giao giấy tờ liên quan đến tài sản
bị xử lý để thi hành án mà không có lý do chính đáng”. Người phải thi hành
án không thực hiện yêu cầu của Chấp hành viên về việc giao các giấy tờ liên
quan đến tài sản xử lý để thi hành án mà không có lý do chính đáng như giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy đăng ký xe và các giấy tờ có liên quan
đến việc thi hành án.
Thứ bảy: Các hành vi quy định tại khoản 7,8, 9 của Điều 162 về sử
dụng trái phép, tiêu dùng, chuyển nhượng, đánh tráo, cất giấu hoặc thay đổi
tình trạng tài sản đã kê biên, chống đối, cản trở hay xúi giục người khác
chống đối, cản trở; có lời nói, hành động lăng mạ, xúc phạm người thi hành
công vụ trong thi hành án; gây rối trật tự nơi thi hành án hoặc có hành vi vi
phạm khác gây trở ngại cho hoạt động THADS, phá hủy niêm phong hoặc
hủy hoại tài sản đã kê biên nhưng chưa tới mức bị truy cứu trách nhiệm
hình sự. Đều là những hành vi vi phạm hành chính trong THADS. Vì tính
chất và mức độ chưa đủ để bị truy cứu trách nhiệm hình sự, do đó với các
hành vi trên bị xử phạt hành chính theo Luật THADS năm 2008 sửa đổi, bổ
sung năm 2014.
49
Khác các hành vi vi phạm hành chính thuộc các trường hợp nêu và
phân tích ở trên là chỉ áp dụng đối với người phải thi hành án, loại trường
hợpthứ bảy này không áp dụng phạt cảnh cáo chỉ áp dụng mức phạt tiền; đặc
biệt là đối tượng áp dụng được hiểu không chỉ còn là người phải thi hành án
mà đã được mở rộng ra những đối tượng khác, có thể là người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan hay bất cứ cá nhân nào thực hiện những hành vi vi phạm
theo quy định của pháp luật.
Thứ tám: Khoản10 Điều 162 LTHADS quy định hành vi “không chấp
hành quyết định của Chấp hành viên về việc khấu trừ tài khoản, trừ vào thu
nhập, thu hồi giấy tờ có giá của người phải thi hành án”. Được hiểu là Chấp
hành viên ra quyết định khấu trừ tiền trong tài khoản của người phải thi hành
án. Số tiền khấu trừ không được vượt quá nghĩa vụ thi hành án và chi phí
cưỡng chế. Ngay sau khi nhận được quyết định về khấu trừ tiền trong tài
khoản của người phải thi hành án, cơ quan, tổ chức đang quản lý tài khoản
phải khấu trừ tiền để chuyển vào tài khoản của cơ quan THADS hoặc chuyển
cho người được thi hành án theo quyết định khấu trừ. Thu nhập của người
phải thi hành án gồm tiền lương, tiền công, tiền lương hưu, tiền trợ cấp mất
sức lao động và thu nhập hợp pháp khác. Khấu trừ vào thu nhập của người
phải thi hành án là một trong bốn biện pháp cưỡng chế thi hành nghĩa vụ trả
tiền được quy định tại khoản 2 Điều 71 và Điều 78 Luật THADS yêu cầu cơ
quan, tổ chức, người sử dụng lao động, bảo hểm xã hội nơi người phải thi
hành án nhận tiền lương, tiền công, tiền lương hưu, tiền trợ cấp mất sức lao
động và các thu nhập hợp pháp khác chuyển cho cơ quan thi hành án hoặc
người được thi hành án một phần hay toàn bộ thu nhập của người phải thi
hành án để thi hành nghĩa vụ trả tiền theo bản án, quyết định của các cơ quan
có thẩmquyền. Trường hợp phát hiện người phải thi hành án hoặc cơ quan, tổ
chức, cá nhân đang giữ giấy tờ có giá của người phải thi hành án thì Chấp
50
hành viên ra quyết định thu giữ giấy tờ đó để thi hành án.Người phải thi hành
án hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân giữ giấy tờ có giá của người phải thi hành
án phải chuyển giao giấy tờ đó cho cơ quan THADStheo quy định của pháp
luật. Do đó, nếu như người phải thi hành án hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân
không chấp hành quyết định của chấp hành viên về việc khấu trừ tài khoản,
trừ vào thu nhập, thu hồi giấy tờ có giá thì sẽ bị xử phạt hành chính theo quy
định của pháp luật.
Trong thi hành án dân sự trường hợp xử phạt thứ tám áp dụng đối với
cơ quan, tổ chức đang nắm giữ tài sản, giấy tờ có giá của người phải thi hành
án nhưng không thực hiện theo quyết định của Chấp hành viên thì cũng bị xử
phạt vi phạm hành chính.
Ví dụ: Trong quá trình tổ chức thi hành án Chấp hành viên xác minh
được người phải thi hành án có tiền trong tài khoản tại Ngân hàng A đủ để thi
hành nghĩa vụ thi hành án theo Bản án, quyết định của Tòa án. Chấp hành
viên đã áp dụng biện pháp đảm bảo thi hành án, ra quyết định phong tỏa tài
khoản và ra quyết định cưỡng chế khấu trừ tiền trong tài khoản của người
phải thi hành án, tuy nhiên Ngân hàng A không thực hiện theo quyết định của
Chấp hành viên đã cho người phải thi hành án rút tiền trong tài khoản nhằm
trốn tránh nghĩa vụ thi hành án.
Ngoài ra pháp luật cũng quy định các trường hợp không bị xử phạt vi
phạm hành chính bao gồm: Các hành vi vi phạm trong tình thế cấp thiết, do
phòng vệ chính đáng, do sự kiện bất ngờ, do sự kiện bất khả kháng hoặc đối
tượng thực hiện hành vi vi phạm không có năng lực trách nhiệm hành chính
hay do chưa đủ tuổi bị xử phạt vi phạm hành chính
Tại tỉnh Quảng Bình từ năm 2016 đến năm 2020, các cơ quan Thi hành
án dân sự hai cấp của tỉnh Quảng Bình đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành
51
chính đối với các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân
sự đối với 27 việc. Trong đó: Cấp huyện ra quyết định xử phạt 20 việc, với số
tiền 21.000.000đ; cấp tỉnh ra quyết định xử phạt 07 việc với số tiền
9.000.000đ; Đã thi hành xong 17/27 việc 9 (đạt tỷ lệ 62,9%), với số tiền thu được 13.000.000đ.7
Bảng 2.4. Số liệu quyết định xử phạt vi phạm hành chính của các cơ
quan thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình từ năm 2016 đến 2020
TT Năm công tác
1 2 3 4 5 2016 2017 2018 2019 2020
Tổng cộng Số vụ việc ra QĐ xử phạt hành chính 2 4 8 7 6 27 Số vụ việc đã thi hành xong 2 3 5 3 4 17
Nguồn: Báo cáo Tổng kết công tác thi hành án dân sự giai đoạn
2016-2020 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình.
Nếu so sánh với Hà Tĩnh là tỉnh lân cận trong cùng khu vực Miền
Trung, có điều kiện kinh tế, xã hội tương đồng; có số vụ việc phải thi hành án
hàng năm tương đương thì có thể thấy rằng, trong cùng kỳ báo cáo, mặc dù
tỉnh Hà Tĩnh có số lượng các việc và tiền phải thi hành cao hơn tỉnh Quảng
Bình, nhưng tỷ lệ các việc thi hành xong hàng năm của Hà Tĩnh đạt cao hơn
Quảng Bình. Cụ thể, ở Hà Tĩnh giai đoạn từ 2016- 2020kết quả thi hành án
dân sự về việc đạt tỷ lệ bình quân 90,6% (cao hơn Quảng Bình 2,8%) và kết
quả THADS về tiền đạt 59,2% (cao hơn Quảng Bình 20,4%). Trong đó, kết
7 Báo cáo Tổng kết công tác thi hành án dân sự giai đoạn 2016-2020 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình
quả thi hành xong của năm sau thường cao hơn năm trước.
52
Cùng với đó, trong 5 năm (từ 2016 đến 2020) Hà Tĩnh chỉ ban hành 18
quyết định xử phạt hành chính (thấp hơn Quảng Bình 09 quyết định), trong đó
số quyết định thi hành xong là 07 quyết định (đạt tỷ lệ 38,8%).
Số liệu có thể phản ánh qua các bảng biểu sau:
Bảng 2.5. Kết quả thi hành án dân sự về việc của các cơ quan Thi hành
án dân sự tỉnh Hà Tĩnh giai đoạn từ 2016- 2020
Năm côngtác
Tổng số việc phải thi hành 4.320 4.610 4.905 4.987 4.870 Tổng số việc có điều kiện thi hành 3.777 3.975 4.175 4.135 4.359 Tổng số việc thi hành xong 3.341 3.587 3.832 3.728 3.888 Tỷ lệ thi hành xong/số việc có điều kiện 89% 91% 93% 91% 89% 2016 2017 2018 2019 2020 Nguồn: Báo cáo Tổng kết công tác thi hành án dân sự giai đoạn
2016-2020 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Hà Tĩnh
Bảng 2.6 Kết quả thi hành án dân sự về việc của các cơ quan
Thi hành án dân sự tỉnh Hà Tĩnh giai đoạn từ 2016- 2020
Tổng số tiền phải thi hành (1.000đ) Tổng số tiền có điều kiện thi hành (1.000đ) Tổng số tiền thi hành xong (1.000đ) Năm công tác
Tỷ lệ thi hành xong/số tiền có điều kiện 12% 362.703.405 342.451.268 19.631.613 2016
450.148.207 98.089.484 68.603.257 73% 2017
73.567.893 348.658.419 445.166.560 2.058.857.012 48.873.364 286.164.419 72% 83%
316.974.259 171.309.956 82.240.222 56%
2018 2019 2020 Nguồn: Báo cáo Tổng kết công tác thi hành án dân sự giai đoạn 2016-2020 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Hà Tĩnh
53
Bảng 2.7: Số liệu quyết định xử phạt vi phạm hành chính của các cơ quan
thi hành án dân sự tỉnh Hà Tĩnh từ năm 2016 đến 2020
Số vụ việc ra QĐ xử Số vụ việc đã thi TT Năm công tác phạt hành chính hành xong
0 0 1 2016
2 2017 1 1
7 2 3 2018
7 4 4 2019
3 0 5 2020
Tổng cộng 18 7
Nguồn: Báo cáo Tổng kết công tác thi hành án dân sự giai đoạn2016-2020
của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Hà Tĩnh
Như vậy, có thể thấy rằng, tỷ lệ thi hành xong các quyết định xử phạt
hành chính của tỉnh Hà Tĩnh đạt thấp (chưa đến 50%) số quyết định xử phạt được ban hành và thấp thua tỉnh Quảng Bình (24,1%)8
2.2.2. Kết quả thực hiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực thi hành án dân sự
- Về đối tượng và nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực thi hành án dân sự
Được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của lãnh đạo Cục, cùng với tinh
thần trách nhiệm cao của mỗi cán bộ, Chấp hành viên khi thi hành công vụ,
các đồng chí Chấp hành viên đã luôn kịp thời nắm bắt, phát hiện các hành vi
vi phạm của các đối tượng phải thi hành án, để có biện pháp xử lý kịp thời
8 Báo cáo Tổng kết công tác thi hành án dân sự giai đoạn 2016-2020 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Hà Tĩnh
như: trực tiếp ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong trường hợp
54
thuộc thẩm quyền hoặc lập hồ sơ, báo cáo, đề xuất người có thẩm quyền ra
quyết định xử phạt nếu thấy vụ việc không thuộc thẩm quyền của mình. Nhờ
làm tốt công tác phát hiện, xử phạt kịp thời, nghiêm minh các hành vi vi phạm
nên đã góp phần vào việc đưa các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu
lực pháp luật được đảm bảo thực thi trên thực tế; pháp luật được chấp hành
nghiêm minh; quyền, lợi ích hợp pháp của công dân được bảo vệ.
Trong số 27 quyết định xử phạt được ban hành, thì đối tượng bị xử phạt
chủ yếu là cá nhân.
Từ số liệu trên, có thể thấy đối tượng thực hiện hành vi vi phạm hành
chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự chủ yếu là cá nhân và hành vi vi phạm
bị xử phạt chủ yếu là không thi hành án.
Việc xử phạt vi phạm hành chính luôn tuân thủ nguyên tắc quan trọng
đó là nhanh chóng, công khai, khách quan, đúng thẩm quyền, công bằng,
đúng quy định của pháp luật, bảo đảm cho người vi phạm được xử lý phù hợp
với tính chất và mức độ vi phạm, có căn cứ và luôn xem xét đầy đủ các tình
tiết tăng nặng, giảm nhẹ, không làm oan, sai nhưng đồng thời bảo đảm xử lý
nghiêm minh; các vi phạm hành chính có tính chất, mức độ, tình tiết tăng
nặng, giảm nhẹ như nhau thì đều bị xử phạt với hình thức giống nhau.
- Về thẩm quyền, mức xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi
hành án dân sự
Thẩm quyền và mức xử phạt trong từng vụ việc cụ thể cũng được các
cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình đặc biệt lưu ý và đảm bảo thực
hiện đúng quy định của pháp luật. Khi phát hiện có hành vi vi phạm, chấp
hành viên đã nghiên cứu kỹ các tài liệu, chứng cứ, xem xét các tình tiết tăng
nặng, giảm nhẹ để quyết định áp dụng mức xử phạt tương ứng với tính chất,
mức độ của từng hành vi vi phạm; đồng thời từ đó phân định đúng thẩm
55
quyền xử phạt theo quy định của pháp luật. Đối với những vụ việc vượt quá
thẩm quyền, chấp hành viên đều lập hồ sơ, báo cáo đề xuất đến người có thẩm
quyền ra quyết định xử phạt kịp thời, đúng quy định.
Cụ thể: Năm 2019 Chi cục THADS huyện ra 02 quyết định cưỡng chế
thi hành nghĩa vụ buộc thực hiện công việc nhất định theo Điều 118 Luật
THADS, tuy nhiên người phải thi hành án không thực hiện, Chấp hành viên
đã lập hồ sơ đề nghị Cục trưởng Cục THADS tỉnh ra quyết định phạt tiền theo
đúng thẩm quyền.
- Về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự
Về cơ bản, khi lập hồ sơ và ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực thi hành án dân sự, cơ quan, người có thẩm quyền đều áp dụng
đầy đủ các thủ tục quy định tại Mục 1 Chương III Luật xử lý vi phạm hành
chínhvà các nội dung hướng dẫn tại Nghị định 81/2013/NĐ-CP, Nghị định
97/2017/NĐ-CP để thực hiện. Vì vậy, hầu hết các trường hợp bị xử phạt vi
phạm hành chính đều được thực hiện đầy đủ, đúng trình tự, thủ tục theo quy
định của pháp luật. Thể hiện từ việc xác định đối tượng vi phạm, hành vi vi
phạm, lập biên bản vi phạm hành chính, xác định các tình tiết tăng năng giảm
nhẹ, hình thức xử phạt, mức phạt tương ứng để ra quyết định xử phạt đảm bảo
có căn cứ, khách quan, chính xác.
2.3. Hạn chế và nguyên nhân của hạn chế trong xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự tại tỉnh Quảng Bình
Bên cạnh những kết quả đạt được, cũng cần nhìn nhận một cách khách
quan rằng, trong 05 năm qua tại các cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Quảng
Bình, số lượng việc và tiền thi hành án còn tồn đọng chuyển sang năm sau
còn cao; tỷ lệ các quyết định xử phạt vi phạm hành chính đã thi hành xong
còn thấp (17/27 quyết định, chiếm 62,9%). Nguyên nhân một phần xuất phát
56
từ ý thức tuân thủ pháp luật của một số bộ phận nhân dân nói chung và một số
cơ quan, tổ chức, các nhà quản lý doanh nghiệp và cá nhân (kể cả chính
quyền địa phương) còn yếu kém. Mặt khác, là do chưa có sự phối hợp đồng
bộ, chặt chẽ giữa các cơ quan bảo vệ pháp luật, cũng như cơ quan hữu quan
trong quá trình thi hành án; cơ sở pháp lý về tổ chức và hoạt động thi hành án
dân sự chưa được hoàn thiện, hệ thống các văn bản pháp lý về thi hành án dân
sự chưa đầy đủ, chậm được bổ sung, sửa đổi kịp thời; pháp luật về xử phạt vi
phạm hành chính còn chưa cụ thể, gây cản trở và làm giảm hiệu quả công tác
thi hành án dân sự trên địa bàn.
Mặt khác, việc tổ chức thi hành các quyết định XPVPHC cũng chưa
thực sự nghiêm túc khiến cho tính răn đe, phòng ngừa hành vi vi phạm hành
chính không có hiệu quả.
Từ số liệu xử phạt vi phạm hành chính và kết quả thi hành các quyết
định xử phạt vi phạm hành chính trong 05 năm, từ 2016 đến 2020 tại tỉnh
Quảng Bình, có thể đánh giá chi tiết các tồn tại, hạn chế trên các mặt cụ thể
như sau:
2.3.1. Về đối tượng và nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực thi hành án dân sự
Luật xử phạt vi phạm hành chính năm 2012, Nghị định 110/2013/NĐ-
CP, sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 67/2015/NĐ-CP, Nghị định 82/2020/NĐ-
CP có quy định đối tượng xử phạt vi phạm trong lĩnh vực thi hành án dân sự
là cá nhân và tổ chức. Tuy nhiên, trong 05 năm qua, trên địa bàn tỉnh Quảng
Bình, các cơ quan thi hành án dân sự chưa tiến hành xử phạt vi phạm hành
chính với bất kỳ một tổ chức nào. Mặc dù trên thực tế, có không ít vụ việc
không thi hành án được, một phần do lỗi của tổ chức.
Ví dụ: Quyết định số 01/2018/QĐ-TBPS ngày 15/01/2018 của Tòa án
nhân dân tỉnh Quảng Bình tuyên xử: Tuyên bố phá sản Công ty Đường
57
Quảng Bình, có địa chỉ tại thôn Phương Hạ, xã Đại Trạch, huyện Bố Trạch,
tỉnh Quảng Bình; tên giao dịch quốc tế: QUANG BINH SUGAR COMPANY.
Chấm dứt mọi hoạt động của Công ty Đường Quảng Bình; đình chỉ mọi giao
dịch liên quan đến Công ty Đường Quảng Bình.Thực hiện thu hồi nợ đối với
những người còn mắc nợ Công ty Đường Quảng Bình tỉnh đến ngày
21/12/2017 theo danh sách con nợ tại Quyết định số 186/2006/QĐ-TLTS
ngày 04/07/2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình.
Quyết định số 53/2018/QĐ-TBPS ngày 24/04/2018 của Tòa án nhân
dân tỉnh Quảng Bình phê duyệt danh sách chủ nợ, dách sách người mắc nợ
Công ty Đường Quảng Bình gồm: 464 người mắc nợ do được Công ty Đường
Quảng Bình đầu tư trồng mía và trồng dứa được Tổ quản lý, thanh lý tài sản
Công ty Đường Quảng Bình rà soát thông qua tại biên bản cuộc họp ngày
30/03/2018, trong đó có 03 đơn vị tại địa bàn Đồng Hới được xác định đúng
là Công ty Hóa chất Đồng Hới, Trại giam Đồng Sơn, Tỉnh Đoàn Quảng Bình.
Số tiền phải thu hồi là 7.138.627.219đ.
Cục THADS tỉnh Quảng Bình đã ra Quyết định thi hành án số
124/QĐ-CTHADS ngày 25/05/2018 thực hiện thu hồi nợ đối với 464 người
mắc nợ do được Công ty Đường Quảng Bình với số tiền 7.138.627.219
đồng theo Quyết định số 53/2018/QĐ-TBPS ngày 24/04/2018 của Tòa án
nhân dân tỉnh Quảng Bình.
Quá trình tổ chức thi hành án Chấp hành viên đã thực hiện triệu tập
đương sự để thi hành án và trực tiếp xác minh điều kiện thi hành án đối với các
cá nhân tổ chức phải thi hành án phát sinh một số vướng mắc, khó khăn như:
Thứ nhất, Dự án trồng mía nguyên liệu cho Công ty Đường Quảng
Bình được mở rộng dần trên địa bàn tỉnh qua các năm, từ năm 1999 đến năm
2004 (thời điểm bắt đầu thực hiện các thủ tục phá sản) các hộ nông dân cư trú
58
hơn 50 xã thuộc 7/8 đơn vị cấp huyện trong tỉnh (trừ huyện Minh Hóa) đã
tham gia trồng mía nguyên liệu, tập trung chủ yếu trên địa bàn huyện Bố
Trạch, huyện Quảng Trạch. Trong đó có xã trồng và khai thác được 3-4 vụ, có
xã mới trồng được vụ đầu tiên thì Công ty Đường Quảng Bình thực hiện thủ
tục phá sản. Trong quá trình trồng, người dân chỉ nhận giống, phân bón từ đại
diện Thôn (người ký hợp đồng trực tiếp với Công ty Đường Quảng Bình) để
trồng, vụ mía những năm 2003 và 2004 thời tiết rất khắc nhiệt, hạn hán kéo
dài dẫn đến mía bị chết (mía khô), nhiều hộ nông dân phải thuê máy khoan,
đào giếng để tưới chống hạn nên tốn kém nhiều chi phí và công sức. Khi mía
đến kỳ thu hoạch vụ năm 2005, Công ty Đường Quảng Bình tự dừng thu mua
đột ngột và thực hiện các thủ tục phá sản thì mía trồng ra không bán được,
mặc dù theo Hợp đồng kinh tế Công ty có trách nhiệm bao tiêu toàn bộ mía
nguyên liệu cho người trồng, người dân lại phải thuê người đốt mía, máy đào
gốc để lấy đất canh tác loại cây trồng khác đam bảo cuộc sống.
Như vậy, Công ty Đường Quảng Bình đã vi phạm Hợp đồng đã ký kết
với người dân, Tổng công ty Mía đường đã không thực hiện đúng như cam
kết với UBND tỉnh về trách nhiệm bao tiêu sản phẩm cho người dân trồng
mía (Hợp đồng cam kết trách nhiệm số 789 HĐ/LC ngày 24/10/1997 giữa
UBND tỉnh Quảng Bình và Tổng công ty Mía Đường I (Công ty mẹ của Công
ty Đường Quảng Bình)
Thứ hai, khi thực hiện thủ tục phá sản, Công ty Đường Quảng Bình
không cử đại diện xuống các xã hoặc mời các hộ nông dân đến Công ty để
xác định lại khoản nợ thực tế.
Tổ quản lý thành lý tài sản xác định khoản nợ dựa trên sổ sách theo dõi
của Công ty Đường Quảng Bình tại thời điểm thực hiện thủ tục phá sản là
chưa chính xác, như trường hợp Trại giam Đồng Sơn và Tỉnh Đoàn Quảng
59
Bình. Theo nội dung Công văn số 658-CV/TĐTN-VP ngày 02/5/2019 của
Tỉnh Đoàn Quảng Bình thì đến năm 2004, Tỉnh Đoàn Quảng Bình đã hoàn
thành việc bàn giao toàn bộ dự án trồng mía với Công ty Đường Quảng Bình
về Trại giam Đồng Sơn tiếp tục thực hiện. Theo cam kết của các bên, Trại
giam Đồng Sơn trực tiếp trích nguồn kinh phí thu được để hoàn ứng, thanh
toán số tiền mua cây giống, phân bón mà Tỉnh Đoàn đã ứng của Công ty
Đường Quảng Bình. Vì vậy, khoản nợ của Công ty Đường Quảng Bình đối
với Tỉnh Đoàn Quảng Bình là không phù hợp, chưa phản ánh đúng thực tế
việc thực hiện hợp đồng kinh tế và triển khai dự án trồng mía giữa 02 bên.
Thứ ba, qua xác minh điều kiện thi hành án, có 54 người mắc nợ là cá
nhân đã chết trước khi TAND tỉnh ban hành Quyết định số 53/2018/QĐ-
TPPS ngày 24/4/2018, theo đó những người này trở thành người phải thi
hành án là chưa đúng với quy định pháp luật về nghĩa vụ dân sự, thừa kế và
tố tụng dân sự.
Quá trình tổ chức thi hành án xét thấy Quyết định của tuyên bố phá sản
của Tòa án tỉnh Quảng Bình tuyên không rõ, có sai sót, khó thi hành. Để bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên liên quan, giải quyết những vướng
mắc, bất cập của vụ việc và đảm bảo ổn định tình hình nhân dân tại các địa
bàn trong tỉnh, Cục THADS tỉnh đã xây dựng hồ sơ, kiến nghị Viện trưởng
VKSND cấp cao tại Đà Nẵng và Chánh án TAND cấp cao tại Đà Nẵng xem
xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, sửa Quyết định số 53/2018/QĐ-
TPPS ngày 24/4/2018 của TAND tỉnh, theo đó: Đưa các khoản nợ phải thu
đối với 464 tổ chức, cá nhân là “Người mắc nợ do đầu tư trồng mía và trồng
dứa” ra khỏi Danh sách người mắc nợ Công ty Đường Quảng Bình ban hành
kèm theo Quyết định số 53/2018/QĐ-TPPS ngày 24/4/2018 của TAND tỉnh.
Đến nay vụ việc đã Tòa án nhân dân tối cao xem xét lại.
60
Trong thi hành án dân sự, người phải thi hành án đa số là cá nhân do
đó, đối tượng vi phạm hành chính là cá nhân chiếm phần lớn, trên thực tế có
không ít vụ việc vi phạm cần phải ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành
chính nhằm răn đe, giáo dục đối tượng vừa phòng ngừa chung. Những đối
tượng này đều là những người không muốn chấp nhận việc phải thực hiện
các nghĩa vụ do bản án, quyết định của Tòa án quyết định và vì vậy bằng mọi
cách họ né tránh, chống đối hoặc không hợp tác, dẫn đến những khó khăn,
vướng mắc nhất định cho quá trình thi hành án.
Tuy nhiên, việc xử phạt vi phạm hành chính của các cơ quan thi hành
án dân sự tại tỉnh Quảng Bình đối với đối tượng là cá nhân chưa nhiều. Thực
tiễn công tác là một Chấp hành viên trực tiếp tổ chức thi hành án trong thực
hiện nhiệm vụ của mình với số lượng việc thi hành án được giao, nhìn chung
các đối tượng phải thi hành án hầu hết đều vi phạm hành chính nhưng Chấp
hành viên không ban hành quyết định xử phạt vì sau xử phạt khó thu được
tiền phạt trong khi tiền thi hành án vẫn chưa thu được.
Bên cạnh đó sự quản lý, chỉ đạo của lãnh đạo cấp trên và lãnh đạo quản
lý trực tiếp đối với lĩnh vực này còn nhiều hạn chế, có thể nói là “bỏ sót”,
chưa kiểm soát hết được những việc làm của Chấp hành viên, Chấp hành viên
chưa thực hiện hết thẩm quyền, trách nhiệm được giao trong tổ chức thi hành
án nhưng không bị xử lý kỷ luật, nhiều vụ việc án có điều kiện thi hành án
nhưng kéo dài nhiều năm thậm chí hàng chục năm nhưng vẫn không thi
hành được do người phải thi hành án đưa ra nhiều lý do để trì hoãn việc thi
hành án hoặc chống đối nhưng Chấp hành viên vẫn không ra quyết định xử
phạt hành chính theo quy định nhằm đủ điều kiện lập hồ sơ đề nghị truy
cứu trách nhiệm hình sự.
61
Ví dụ: Bản án số 09/2014/QĐST-KDTM ngày 16/9/2019 của Tòa án
nhân dân tỉnh Quảng Bình tuyên buộc ông Bùi Tuấn Anh và bà Định Thị
Hồng Hà (địa chỉ: số 3 Lê Lợi, Hải Đình, Đồng Hới) phải trả khoản nợ gốc
3.440.000.000 đồng cho Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng, tài sản
thế chấp là Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 17, tờ
bản đồ số 16 tại Hải Đình, Đồng Hới, Giấy chứng nhận số BB749268, UBND
thành phố Đồng Hới, cấp ngày 28/4/2010, mang tên ông Trần Đại Hùng và bà
Hồ Thị Hồng (đã ủy quyền cho Bùi Tuấn Anh và Đinh Thị Hồng Hà). Căn cứ
bản án đã có hiệu lực pháp luật và đơn yêu cầu thi hành án cơ quan THADS
đã ra Quyết định thi hành án số 34/QĐ-CTHADS ngày 09/12/2015 và phân
công Chấp hành viên tổ chức thi hành.
Quá trình tổ chức thi hành án Chấp hành viên đã tiến hành xác minh,
giải quyết nhiều lần và đã ra Quyết định cưỡng chế kê biên Quyền sử dụng
đất và tài sản gắn liền với đất số 02/QĐ-CCTHA ngày 07/12/2018, tuy nhiên
đến nay vẫn chưa tiến hành cưỡng chế, kê biên tài sản được với lý do người
phải thi hành án thường xuyên vắng mặt. Hành vi trên của ngưởi người phải
thi hành án vi phạm hành chính theo khoản 4 Điều 162 Luật THADS “có điều
kiện thi hành án nhưng cố tình trì hoãn việc thực hiện nghĩa vụ thi hành án”,
nhưng Chấp hành viên không tiến hành xử phạt vi phạm hành chính để đủ cơ
sở lập hồ sơ đề nghị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội không chấp hành án.
Khoản 1 Điều 3 của Luật XLVPHC quy định: Một hành vi VPHC chỉ
bị xử phạt một lần. Trong khi đó điểm b Khoản 1 Điều 10 của Luật quy định
tình tiết tăng nặng là “VPHC nhiều lần, tái phạm”. Quy định nguyên tắc
XPVPHC như trên là thiếu rõ ràng, thiếu thống nhất; gây ra lúng túng, vướng
mắc trong thực tiễn. Với những hành vi VPHC lặp lại nhiều lần, tại nhiều thời
điểm khác nhau thì áp dụng theo quy định tại điểm b Khoản 1 Điều 10 (coi đó
là tình tiết tăng nặng) hay xử phạt theo từng thời điểm xảy ra vi phạm theo
62
quy định tại Khoản 1 Điều 3 Luật XLVPHC. Liên quan đến nội dung này, đề
nghị cần nghiên cứu, quy định rõ ràng nguyên tắc XPVPHC để đáp ứng yêu
cầu thực tiễn.
2.3.2. Về thẩm quyền, mức xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực thi hành án dân sự
Trong hoạt động THADS thì cơ quan THADS là cơ quan thường xuyên
và trực tiếp phải xử lý những VPHC của người phải thi hành án và những
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác.
Bất cập lớn nhất hiện nay tại các cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Quảng
Bình là có rất nhiều hành vi thuộc thẩm quyền xử phạt của Chấp hành viên,
nhưng chấp hành viên không thể xử phạt được, vì mức phạt tiền vượt quá
thẩm quyền.
Theo đúng quy định thì chấp hành viên chỉ có thể xử phạt duy nhất đối
với một hành vi là đã nhận giấy báo, giấy triệu tập lần thứ hai của người có
thẩm quyền thi hành án nhưng không đến địa điểm ghi trong giấy báo, giấy
triệu tập mà không có lý do chính đánglà 500.000đồng. Trong khi đó có rất
nhiều hành vi vi phạm mà cơ quan THADS cấp huyện thường xuyên gặp phải
nhưng theo quy định thì lại không thuộc thẩm quyền xử phạt, ví dụ như các
hành vi: Không thực hiện công việc phải làm, không chấm dứt thực hiện công
việc không được làm theo bản án, quyết định; trì hoãn thực hiện nghĩa vụ thi
hành án…nên phần lớn các vụ việc, khi có vi phạm hành chính xảy ra, đều
phải chuyển thẩm quyền lên cấp trên (Cục trưởng, Chi cục trưởng). Trong
trường hợp này, để có căn cứ thực hiện các bước tiếp theo, chấp hành viên
phải lập hồ sơ đề nghị người có thẩm quyền của Cơ quan thi hành án dân sự
cấp trên ra quyết định xử phạt. Tuy nhiên, hồ sơ đề nghị xử phạt gồm những
giấy tờ gì, thủ tục ra sao thì pháp luật lại không quy định, dẫn đến tình trạng
63
mỗi nơi làm một kiểu, không thống nhất. Bởi thế, không ít trường hợp, chấp
hành viên vì muốn giải quyết xong việc dễ dàng bỏ qua những lỗi như không
cung cấp thông tin, không thực hiện quyết định khấu trừ thu nhập của người
có thẩm quyền…Và vì vậy người thi hành án càng chây ỳ, trốn tránh thực
hiện nghĩa vụ.
Về xác định thẩm quyền xử phạt còn nhiều mâu thuẫn. Theo quy định
tại Luật thi hành án dân sự, cụ thể là khoản 1 Điều 118 Luật thi hành án dân
sự quy định: “…Trường hợp thi hành nghĩa vụ phải thực hiện công việc nhất
định theo bản án, quyết định mà người phải thi hành án không thực hiện thì
Chấp hành viên quyết định phạt tiền và ấn định thời hạn 05 ngày làm việc, kể
từ ngày ra quyết định phạt tiền để người đó thực hiện nghĩa vụ thi hành
án…”. Điều 119 Luật thi hành án dân sự cũng quy định: “Người phải thi hành
án không tự nguyện chấm dứt việc thực hiện công việc mà theo bản án, quyết
định không được thực hiện thì Chấp hành viên ra quyết định phạt tiền đối với
người đó, trong trường hợp cần thiết có thể yêu cầu họ khôi phục hiện trạng
ban đầu. Trường hợp người đó vẫn không chấm dứt công việc không được
làm, không khôi phục lại hiện trạng ban đầu thì Chấp hành viên đề nghị cơ
quan có thẩm quyền truy cứu trách nhiệm hình sự về tội không chấp hành án”.
Như vậy, xét về mặt thẩm quyền xử phạt theo khoản 1 Điều 118 và Điều 119
của Luật thi hành án dân sự thì Chấp hành viên được giao quyền quyết định
phạt tiền, ra quyết định phạt tiền. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 1 Điều
49 Luật xử lý vi phạm hành chính thì: “…Chấp hành viên thi hành án dân sự
đang thi hành công vụ có quyền: a) Phạt cảnh cáo; b) Phạt tiền đến 500.000
đồng…”. Và theo quy định tại điểm a, khoản 3 Điều 52 Nghị định
110/2013/NĐ-CP thì “…Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối
với một trong các hành vi sau: a) Không thực hiện công việc phải làm, không
chấm dứt thực hiện công việc không được làm theo bản án, quyết định…”.
64
Đối chiếu giữa thẩm quyền xử phạt của Chấp hành viên với mức phạt về hành
vi không thực hiện công việc phải làm, không chấm dứt thực hiện công việc
không được làm theo bản án, quyết định là có sự mâu thuẫn. Luật thi hành án
dân sự giao quyền cho Chấp hành viên được quyền xử phạt nhưng Luật xử lý
vi phạm hành chính và Nghị định số 110/2013/NĐ-CP lại làm mất quyền xử
phạt của Chấp hành viên. Vì rằng, với mức phạt từ 3.000.000 đồng đến
5.000.000 đồng lại thuộc thẩm quyền của Cục trưởng Cục thi hành án dân sự.
Đây là sự mâu thuẫn trong quy định giữa Luật thi hành án dân sự với Luật xử
lý vi phạm hành chính và Nghị định số 110/2013/NĐ-CP của Chính phủ, gây
không ít khó khăn cho Chấp hành viên khi thực thi nhiệm vụ. Vì muốn xử
phạt được những hành vi vi phạm hành chính này Chấp hành viên phải lập hồ
sơ, văn bản đề nghị Cục trưởng Cục thi hành án dân sự ra quyết định xử phạt.
Và như vậy, việc thi hành án sẽ kéo dài không kịp thời và điều quan trọng là làm giảm vai trò, giảm thẩm quyền của Chấp hành viên9
Ví dụ: Bản án số 24/2013/TCDS-PT ngày 31/12/2013 của TAND tỉnh
Quảng Bình đã tuyên: "...Công nhận quyền sử dụng đất của hộ anh Võ Văn
Hải và chị Hoàng Thị Thuyên trên thửa đất số 128, tờ bản đồ giải thửa số 06
UBND thị trấn Kiến Giang lập năm 1992, cụ thể: Phần trước nhà hộ anh Võ
Văn Hải, chị Hoàng Thị Thuyên có mặt tiền tiếp giáp với đường từ Bưu điện
huyện Lệ Thủy đi cầu Phong Liên có chiều rộng 6,5m (tính từ chân móng
hành lang nhà anh Võ Văn Thuận và chị Nguyễn Thị Hậu sang phần đất của
hộ ông Hoàng Quảng Tiến. Phần diện tích đất của hộ anh Võ Văn Hải và chị
Hoàng Thị Thuyên phía trước tiếp giáp phần đất hộ anh Võ Văn Thuận, chị
Nguyễn Thị Hậu có diện tích là 76,82m; Phần diện tích đất của Hộ anh Võ
Văn Hải và chị Hoàng Thị Thuyên ở phía sau tiếp giáp phần trước (nói trên)
9 Lê Đăng Khoa-Hà Khắc Thắng,
và tiếp giáp phần nhà đất hộ anh Võ Văn Thuận, chị Nguyên Thị Hậu có diện
65
tích là 108,26m . Toàn bộ hình thể, kích thước và diện tích đất hộ anh Võ Văn
Hải, chị Hoàng Thị Thuyên được quyền sử dụng có diện tích 185,08m theo
kích thước và hình vẽ kèm theo bản án này là một phần không tách rời của
bán án.
Anh Võ Văn Thuận, chị Nguyên Thị Hậu có trách nhiệm tháo dỡ, di dời
các tài sản nằm trên phần đất của anh Võ Văn Hải và chị Hoàng Thị Thuyên”.
Bản án có hiệu lực thi hành, ông Võ Văn Hải và bà Hoàng Thị Thuyên
làm đơn yêu cầu thi hành án. Chi cục THADS huyện Lệ Thủy thụ lý ra quyết
định thi hành án số 167/QĐ-CCTHA ngày 10/3/2014 thi hành án đối với
khoản: ông Võ Văn Thuận, bà Nguyễn Thị Hậu có trách nhiệm tháo đỡ, di dời
các tài sản nằm trên đất của của ông Võ Văn Hải và chị Hoàng Thị Thuyên phần diện tích đất lấn chiếm 28,5m2.
Quá trình tổ chức thi hành án, người phải thi hành án ông Võ Văn
Thuận, bà Nguyễn Thị Hậu quyết liệt chống đối không thi hành. Do chưa thi
hành được, nên ông Võ Văn Hải, bà Hoàng Thị Thuyên có đơn khiếu nại
nhiều lần, nhiều cấp, yêu cầu cưỡng chế thi hành án. Việc thi hành án được
xác định là án trọng điểm, kéo dài nhiều năm chưa thi hành được, các cấp,
ngành địa phương cũng như Lãnh đạo Cục THADS tỉnh, Ban chỉ đạo THADS
hai cấp đã nhiều lần hòa giải nhưng không có kết quả.
Ngày 30/08/2018 Chi cục THADS huyện Lệ Thủy đã ra Quyết định
cưỡng chế số 01/QĐ-CCTHADS về việc cưỡng chế buộc thực hiện công việc
nhất định (theo Điều 118 Luật THADS) đối với ông Văn Thuận, bà Nguyễn
Thị Hậu phải tháo dỡ, di dời các tài sản nằm trên phần đất của anh Võ Văn
Hải và chị Hoàng Thị Thuyên. Điều 118 Luật THADS quy định “1. Trường
hợp thi hành nghĩa vụ phải thực hiện công việc nhất định theo bản án, quyết
định mà người phải thi hành án không thực hiện thì Chấp hành viên quyết
66
định phạt tiền và ấn định thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định
phạt tiền để người đó thực hiện nghĩa vụ thi hành án.
2. Hết thời hạn đã ấn định mà người phải thi hành án không thực hiện
nghĩa vụ thi hành án thì Chấp hành viên xử lý như sau:a) Trường hợp công
việc đó có thể giao cho người khác thực hiện thay thì Chấp hành viên giao
cho người có điều kiện thực hiện; chi phí thực hiện do người phải thi hành án
chịu;b) Trường hợp công việc đó phải do chính người phải thi hành án thực
hiện thì Chấp hành viên đề nghị cơ quan có thẩm quyền truy cứu trách nhiệm
hình sự về tội không chấp hành án”.
Tuy nhiên, tại Khoản 1 Điều 52 Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày
24/09/2013 của Chính phủ quy định về hành vi vi phạm do không thực hiện
công việc phải làm, không chấm dứt thực hiện công việc không được làm
theo bản án, quyết định với mức phạt là từ 3.000.000đ đến 5.000.000đ; với
mức phạt này Chấp hành viên, Chi cục trưởng Chi cục THADS không đủ
thẩm quyền xử phạt theo Điều 68 Nghị định số 110/2013/NĐ-CP mà phải
gửi toàn bộ hồ sơ đề nghị Cục trưởng Cục THADS tỉnh ra quyết định xử
phạt. Vụ việc kéo dài đến tháng 5/2019 Chi cục THADS huyện Lệ Thủy
mới huy động lực lượng với sự hỗ trợ của các ngành, sự bảo vệ của lực
lượng Công an đã cưỡng chế thành công vụ việc, đảm bảo quyền lợi cho
người được thi hành án.
Hoặc tại khoản 1 Điều 9 Nghị đinh 62/2015/NĐ-CPngày 18 tháng 7
năm 2015 hướng dẫn về Luật THADS thì, khi tiến hành xác minh, Chấp hành
viên yêu cầu người phải thi hành án kê khai trung thực, cung cấp đầy đủ
thông tin về tài sản, thu nhập, điều kiện thi hành án. Trường hợp người phải
thi hành án không kê khai hoặc phát hiện việc kê khai không trung thực thì
tùy theo mức độ vi phạm, Chấp hành viên có thể xử phạt hoặc đề nghị người
67
có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật. Nhưng
theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 64 Nghị định 82/2020/NĐ-CP thì,
hành vi không kê khai hoặc kê khai không đầy đủ, không chính xác tài sản,
thu nhập, điều kiện thi hành án khi người có thẩm quyền thi hành án yêu cầu,
sẽ bị phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng, mức phạt này không
thuộc thẩm quyền của Chấp hành viên. Như vậy, Luật và các văn bản hướng
dẫn đang có sự chồng chéo và khó thực hiện trên thực tế.
Việc chưa phân định rõ thẩm quyền xử lý đối với một số hành vi vi
phạm cũng làm hạn chế việc XPVPHC của cơ quan THADS. Đối với một số
hành vi như: Không cung cấp thông tin, không giao giấy tờ liên quan đến tài
sản bị xử lý để thi hành án theo yêu cầu của người có thẩm quyền; không
thông báo cho cơ quan thi hành án khi có thay đổi về địa chỉ và nơi cư trú;
không kê khai trung thực tài sản, điều kiện thi hành án… Các hành vi trên
thuộc thẩm quyền xử phạt của cả cơ quan THADS cấp huyện và cấp tỉnh, việc
định lượng mức độ vi phạm của hành vi, quyết định mức xử phạt và phân
định thẩm quyền xử phạt trên thực tế vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Theo thống
kê số liệu thi hành án hàng năm số việc phải thi hành án ở cấp huyện nhiều
hơn ở cấp tỉnh (chiếm 80-90%) do đó cần tăng thẩm quyền xử phạt cho Chấp
hành viên và Thủ trưởng cơ quan THADS cấp huyện.
Về xác định thẩm quyền lập biên bản làm căn cứ ra quyết định xử phạt
vi phạm hành chính. Theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 65 Nghị định số
110/2013/NĐ-CP quy định: “Thẩm tra viên, thư ký, chuyên viên cơ quan Thi
hành án dân sự lập biên bản vi phạm hành chính đối với các hành vi quy định
tại Chương V của Nghị định này”. Theo như quy định nêu trên, thì chỉ có
hoặc là Thẩm tra viên, hoặc là Thư ký hoặc là Chuyên viên mới có quyền lập
biên bản, còn Chấp hành viên thực hiện chức trách nhiệm vụ lại không được
giao quyền lập biên bản nhưng lại được quyền quyết định xử phạt. Xét về
68
thẩm quyền lập biên bản, Chấp hành viên là người được Nhà nước giao nhiệm
vụ thi hành các bản án, quyết định và cũng là người có thẩm quyền xử phạt
cảnh cáo hoặc phạt tiền đến 500.000 đồng, nhưng lại không được giao quyền
lập biên bản vi phạm hành chính. Bên cạnh đó, không phải lúc nào Chấp hành
viên thực thi nhiệm vụ cũng có Thư ký thi hành án đi cùng hoặc Chấp hành
viên không có thư ký giúp việc. Trong khi đó, căn cứ xử phạt vi phạm hành
chính phải là biên bản vi phạm hành chính. Vậy trong trường hợp Chấp hành
viên không có thư ký thi hành án và có thư ký thi hành án nhưng không đi
cùng thực hiện nhiệm vụ thì ai sẽ là người lập biên bản vi phạm hành chính?
Xét về hình thức biên bản: Biên bản vi phạm hành chính trong trường hợp
Thư ký thi hành án lập thì Thư ký chỉ ký tên, không có thẩm quyền đóng dấu.
Vậy trong trường hợp này Chấp hành viên hay người có thẩm quyền ký tên
đóng dấu như Chi cục trưởng, phó Chi chi cục trưởng, Thẩm tra viên ký xác
nhận hay không? Về nguyên tắc người ký xác nhận biên bản do Thư ký thi
hành án lập phải là người biết rõ có hành vi vi phạm hành chính. Vì vậy, nếu
không biết rõ về hành vi vi phạm hành chính thì không thể dễ dàng ký xác
nhận làm căn cứ xử phạt vi phạm hành chính. Xét về nội dung biên bản: Thư
ký chỉ là người giúp Chấp hành viên lập biên bản và thực hiện một số công
việc nhất định khác. Việc xác đinh hành vi vi phạm, lỗi,… của người vi phạm
hành chính phải thuộc về Chấp hành viên xác định. Vì vậy, không quy định
thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính đối với Chấp hành viên là một
“khoảng trống” pháp lý đối với việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực thi hành án dân sự. Quy định nêu trên gây không ít bối rối, khó khăn cho
Chấp hành viên khi thực thi nhiệm vụ được giao.
69
2.3.3. Về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành
án dân sự
Về thủ tục và trình tự xử phạt vi phạm hành chính có khá nhiều thủ tục,
từ việc lập biên bản vi phạm hành chính, mời người làm chứng, chứng kiến,
ra quyết định xử phạt, thông báo quyết định xử phạt, thu tiền, nộp ngân sách
nhà nước,…trong khi mức phạt là không đáng kể và không dẫn tới một trách
nhiệm nào nghiêm khắc hơn đối với người bị xử phạt. Về tính hiệu quả của
quyết định xử phạt vi phạm hành chính thì việc xử phạt thật sự không có
tính khả thi, số tiền phải thi hành tăng dẫn đến người phải thi hành án sẽ
tiếp tục chống đối, cản trở việc thi hành án, không thực hiện quyết định xử
phạt vi phạm hành chính, trong khi việc tổ chức cưỡng chế để thi hành
quyết định xử phạt vi phạm hành chính lại không hề dễ dàng và chưa được
hướng dẫn cụ thể.
Công tác cưỡng chế thi hành quyết định XPVPHC tại địa bàn tỉnh
Quảng Bình thời gian qua cũng gặp nhiều khó khăn, hiệu quả đạt được thấp.
Nhiều vụ việc ra quyết định xử phạt đã qua nhiều năm nhưng vẫn chưa thi
hành được. Vấn đề ở đây là, mặc dù pháp luậtđã quy định về xử phạt vi phạm
hành chính,nhưng lại không quy định và hướng dẫn cụ thể về việc cưỡng chế
thi hành quyết định xử phạt trong trường hợp đối tượng không chấp hành
quyết định xử phạt của cơ quan thi hành án? Trình tự, thủ tục cưỡng chế như
thế nào? Các cơ quan có thẩm quyền thực hiện cưỡng chế?
Bên cạnh đó, một số chấp hành viên, người có thẩm quyền tổ chức thi
hành án còn e ngại khi tổ chức cưỡng chế vì thủ tục cưỡng chế rất phức tạp,
liên quan đến nhiều cơ quan, đơn vị. Mặt khác, cá nhân, tổ chức bị cưỡng chế
thường không hợp tác hoặc không đủ điều kiện, không có tài sản để kê biên,
thậm chí có nhiều vụ việc, tài sản cưỡng chế không đủ để bù đắp chi phí tổ
chức cưỡng chế thi hành án.
70
Như vậy, qua thực tiễn công tác có thể thấy: Xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự là một trong những công tác quan
trọng, nhằm đấu tranh, phòng ngừa và xử lý các hành vi vi phạm của các cá
nhân, tổ chức trong quá trình THADS. Tuy nhiên, việc xử phạt vi phạm hành
chính trong hoạt động thi hành án dân sự trên thực tế vẫn chưa thực sự đi vào
đời sống xã hội, chưa đáp ứng được mục tiêu đặt ra là răn đe, phòng ngừa vi
phạm để từ đó nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước. Tình trạng người phải thi
hành án chống đối Chấp hành viên, cơ quan thi hành án xảy ra ngày càng
nhiều và có biểu hiện gia tăng tính tiêu cực nhất là trong cưỡng chế thi hành
án. Kết quả xử lý vi phạm hành chính trong THADS còn rất khiêm tốn, chưa
phản ánh được hết thực trạng vi phạm hành chính trong THADS hiện nay.
Thực tế cho thấy, các qui định về XPVPHC trong hoạt động THADS thời
gian qua vẫn chưa phát huy hiệu quả, việc phòng ngừa, xử lý vi phạm vẫn còn
nhiều hạn chế, nhiều hành vi vi phạm trong THADS diễn ra phổ biến nhưng
chưa được xử lý kịp thời. Người có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính của
cơ quan THADS còn “ngại” việc xử phạt vi phạm hành chính, chưa nêu cao
tinh thần trách nhiệm trong việc xử phạt. Cho đến nay, số lượng Chấp hành
viên, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự của các địa phương thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thi hành án
chưa nhiều. Thực tiễn, khi phát hiện hành vi vi phạm hành chính trong hoạt
động thi hành án dân sự, một số người có thẩm quyền còn nhiều lúng túng khi
vận dụng các quy định của pháp luật để xử phạt. Trong khi đó, ý thức chấp
hành pháp luật của một bộ phận những người phải thi hành án và người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong các hoạt động thi hành án dân sự còn chưa
cao; tình trạng chống đối cơ quan thi hành án bằng nhiều hình thức từ những
việc như cố tình không nhận giấy báo, giấy triệu tập của cơ quan thi hành án
… đến những hành vi nghiêm trọng hơn như phân tán hoặc làm hư hỏng tài
71
sản thuộc diện kê biên để không thực hiện nghĩa vụ thi hành án, thậm chí là
phá huỷ niêm niêm phong, huỷ hoại tài sản đã kê biên…thậm chí có hành vi
dùng vũ khí chống đối gây thương tích cho Chấp hành viên, công chức thi
hành án và lực lượng tham gia giải quyết việc thi hành án. Thực tế đó đã
chứng tỏ vi phạm hành chính trong lĩnh vực này không những chưa giảm mà
còn có xu hướng ngày càng nhiều hơn và phức tạp hơn.
Trên thực tế, các cơ quan thi hành án dân sự nói chung và thi hành án
dân sự của tỉnh Quảng Bình nói riêng vẫn chưa được trang bị đầy đủ các điều
kiện về cơ sở vật chất, các công cụ phương tiện hỗ trợ công tác tổ chức thi
hành án và xử lý các vi phạm trong lĩnh vực thi hành án dân sự; đặc biệt là
Chấp hành viên, cán bộ thi hành án người trực tiếp tác nghiệp tại cơ sở, trực
tiếp đối thoại, xác minh điều kiện thi hành án, cưỡng chế tài sản của người thi
hành án nhưng chưa được trang bị những công cụ, phương tiện hỗ trợ, bảo vệ
cần thiết khi thực thi nhiệm vụ. Các cơ quan Thi hành án dân sự chưa được
trang bị phương tiện đặc chủng để phục vụ các cuộc cưỡng chế có huy động
lực lượng hoặc thu giữ tài sản kịp thời khi phát hiện đương sự tẩu tán tài sản.
Từ các phân tích trên, có thể đánh giá các hạn chế trong kết quả xử phạt
vi phạm hành chính trên địa bàn tỉnh Quảng Bình những năm qua, xuất phát
từ nhiều nguyên nhân, trong đó có những nguyên nhân cơ bản sau:
- Thứ nhất, ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận tổ chức, cá
nhân trong quá trình thi hành án còn hạn chế; luôn đặt quyền lợi của mình lên
trên hết.
-Thứ hai, các văn bản pháp luật và hướng dẫn pháp luật về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực THADS chưa thật sự hoàn thiện, như: việc
quy định về thẩm quyền xử phạt trong một số trường hợp không còn phù hợp
với tình hình thực tế; các chế tài mang tính cưỡng chế chưa được quy định cụ
72
thể trong các văn bản pháp luật; các quy định về thời hạn ra quyết định xử;
hình thức xử phạt; biện pháp khắc phục hậu quả; các trường hợp giải trình vẫn
còn có sự bất cập, chưa đầy đủ và phù hợp. Ví dụ: Khoản 1 Điều 61 Luật
XLVPHC quy định những trường hợp giải trình như sau: “Đối với hành vi
VPHC mà pháp luật quy định áp dụng hình thức xử phạt tước quyền sử dụng
giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời
hạn hoặc áp dụng mức phạt tiền tối đa của khung tiền phạt đối với hành vi đó
từ 15.000.000 đồng trở lên đối với cá nhân, từ 30.000.000 đồng trở lên đối với
tổ chức thì cá nhân, tổ chức vi phạm có quyền giải trình trực tiếp hoặc bằng
văn bản với người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính”. Tuy nhiên,
Luật XLVPHC không quy định trường hợp cá nhân, tổ chức bị áp dụng biện
pháp tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính có quyền được giải
trình là điều bất cập lớn. Bởi, trong nhiều trường hợp, có nhiều tang vật,
phương tiện VPHC có giá trị lớn hơn gấp nhiều lần so với số tiền bị xử phạt là
15.000.000 đồng hay 30.000.000 đồng.
- Thứ ba, các quy định của pháp luật chưa tạo tiền đề, điều kiện cho
Chấp hành viên – những người trực tiếp thực hiện nhiệm vụ tổ chức thi hành
án, trực tiếp phát hiện các hành vi vi phạm và cũng là người trực tiếp chịu sự
phản ứng, chống đối từ các đối tượng thi hành án.
- Thứ tư, sự quan tâm, chỉ đạo của lãnh đạo các cấp và Thủ trưởng các
cơ quan THADS chưa sâu sát, đặc biệt là trong lĩnh vực xử phạt vi phạm hành
chính. Trong kế hoạch triển khai công tác và báo cáo công tác hàng năm chưa
triển khai và đánh giá đối với lĩnh vực này.
- Thứ năm, cơ sở cơ sở vật chất, công cụ phương tiện hỗ trợ công tác tổ
chức thi hành án và xử lý các vi phạm trong lĩnh vực thi hành án dân sự chưa
đảm bảo.
73
- Thứ sáu, các cơ quan, người có thẩm quyền chưa xử lý các hành vi vi
phạm một cách triệt để, nghiêm khắc; chưa có bất kỳ một vụ việc nào được
chuyển yêu cầu xử lý hình sự (mặc dù có những vụ việc có thể được đánh giá
là có dấu hiệu vi phạm hình sự), đã tạo cho các đối tượng có thái độ coi
thường pháp luật, coi thường quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.
Tiểu kết chương 2
Qua Chương 2, tác giả đã khái quát về tình hình tổ chức, hoạt động của
các cơ quan THADS tỉnh Quảng Bình có liên quan trực tiếp đến xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực THADS trên địa bàn tỉnh; đồng thời đã đi sâu
vào phân tích, đánh giá tình hình vi phạm cũng như tình hình xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Quảng Bình từ
năm 2016 đến năm 2020 bằng những số liệu cụ thể;chỉ ra những hạn chế và
nguyên nhân của hạn chế trong xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
THADS tại tỉnh Quảng Bình; so sánh với một số tỉnh, thành khác để làm sáng
tỏ những bất cập, vướng mắc của pháp luật hiện hành quy định liên quan trực
tiếp đến việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự.
Từ đó làm cơ sở để giải quyết các vấn đề tại chương 3, cụ thể như: đưa ra một
số quan điểm, đề xuất, kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự và các giải pháp để
bảo đảm xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực này ở địa bàn tỉnh Quảng
Bình.
74
CHƯƠNG 3
QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM XỬ PHẠT
VI PHẠMHÀNH CHÍNH TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI
TỈNH QUẢNG BÌNH
3.1. Quan điểm
Từ thực tiễn công tác thi hành án dân sự tại các cơ quan Thi hành án
dân sự tỉnh Quảng Bình trong những năm qua và những đánh giá, nhận định
tình hình tại địa phương trong thời gian tới. Để công tác xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực Thi hành án dân sự tại tỉnh Quảng Bình tiếp tục đảm bảo
thực hiện có hiệu quả, phát huy được những thành tựu và khắc phục những
hạn chế, hoàn thành tốt hơn nữa nhiệm vụ được giao, ngành Thi hành án dân
sự tỉnh Quảng Bình cần quán triệt thực hiện tốt các quan điểm sau:
3.1.1. Bảo đảm quán triệt đường lối, chủ trương của Đảng
Phải nhận thức, nắm vững đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước; tranh thủ sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, sự lãnh
đạo của Ngành trong xử phạt các trường hợp vi phạm hành chính về thi hành
án dân sự.
Để làm tốt công tác đấu tranh, phòng chống các hành vi vi phạm pháp
luật và giải quyết có hiệu quả các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực
này, cần phải nắm vững quan điểm của Đảng và Nhà nước, như: Chỉ thị số
05-CT/TW ngày 14/10/2006 về tăng cường công tác bảo đảm an ninh quốc
gia trong tình hình mới; Chỉ thị số 12-CT/TW ngày 03/5/2007 về tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật trong công tác xử
lý các vụ án và công tác bảo vệ Đảng; Chỉ thị số 48-CT/TW ngày 22/10/2010
về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm
trong tình hình mới; Nghị quyết số 28-NQ/TW (khóa XI) ngày 25/10/2013
75
của Ban chấp hành Trung ương Đảng về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong
tình hình mới”; Chỉ thị công tác hàng năm của Tổng cục trưởng Tổng cục thi
hành án dân sự. Trên cơ sở đó, cần tuân thủ các quan điểm sau:
- Việc đấu tranh, phòng, chống các hành vi vi phạm hành chính trong
lĩnh vực Thi hành án dân sự phải gắn liền với cuộc đấu tranh chống âm mưu
“diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, giữ vững độc lập chủ quyền, toàn vẹn
lãnh thổ của Tổ quốc.
- Quán triệt và thực hiện chính sách xử phạt kết hợp với giáo dục,
thuyết phục nhằm phân hóa đối tượng vi phạm để giúp họ thấy được trách
nhiệm, nghĩa vụ phải thực hiện các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu
lực pháp luật.
- Khi thực hiện xử phạt vi phạm hành chính các hành vi vi phạm trong
lĩnh vực thi hành án dân sự, cần phải kết hợp đồng bộ, toàn diện các yếu tố
chính trị, tư tưởng, pháp luật và nghiệp vụ; phải có sách lược mềm dẻo, linh
hoạt; vừa kiên quyết đấu tranh, vừa thuyết phục, cảm hóa; không nên quá
nguyên tắc cứng nhắc làm hạn chế hiệu quả thực hiện.
3.1.2. Bảo đảm yêu cầu của cải cách tư pháp, cải cách hành chính
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đề ra mục tiêu “Xây dựng nền tư pháp
trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước
hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.
Thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp của Đảng, Ngành Thi hành án Quảng
Bình đã triển khai thực hiện nghiêm, hiệu quả các chương trình, nhiệm vụ
trọng tâm về cải cách tư pháp của Ban chỉ đạo cải cách tư pháp trung ương;
luôn xác định cải cách hành chính là nhiệm vụ quan trọng; quan tâm, chú
trọng xây dựng và hoàn thiện pháp luật, triển khai thi hành đồng bộ pháp
76
luật mới về tư pháp; góp phần xây dựng nền hành chính ngày càng trong
sạch, vững mạnh, minh bạch, chuyên nghiệp, hiện đại, hoạt động hiệu lực,
hiệu quả nên đã thường xuyên quán triệt Nghị quyết 30c/NQ-CP ngày
8/11/2011 của Chính phủ về chương trình tổng thể cải cách hành chính giai
đoạn 2011-2020, các quyết định, văn bản chỉ đạo của tỉnh, của Tổng cục thi
hành án dân sự về cải cách hành chính đến toàn thể cán bộ, công chức, viên
chức, người lao động.
Song song với đó là việc triển khai thực hiện nghiêm túc chủ trương
tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy cơ quan tinh gọn, hoạt động hiệu
lực, hiệu quả theo đúng tinh thần nêu trong Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày
25-10-2017 của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ sáu. Rà soát,
sắp xếp tổ chức bộ máy của các cơ quan, đơn vị, các phòng trực thuộc đảm
bảo phù hợp với việc cải cách thủ tục hành chính. Chú trọng phân định rành
mạch thẩm quyền quản lý hành chính của thủ trưởng cơ quan với trách nhiệm,
quyền hạn tư pháp của các cán bộ được giao thực hiện các hoạt động tư
pháp.Tiếp tục quán triệt thực hiện nghiêm túc các chủ trương, đường lối của
Đảng về công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong Văn kiện Đại hội
Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng. Lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực
hiện các đề án về phòng, chống tiêu cực trong hoạt động tư pháp; cập nhật
Quy chế làm việc đảm bảo phù hợp với quy định của Tổng cục và tình hình
thực tế tại các cơ quan, đơn vị; kịp thời sơ kết rút kinh nghiệm để tiếp tục
hoàn thiện cơ chế giải quyết phòng, chống tiêu cực trong từng cơ quan, đơn vị
trực thuộc.Bên cạnh đó, lãnh đạo Cục Thi hành án dân sự tỉnh cũng thường
xuyên kiểm tra công tác cải cách hành chính tại các phòng, đơn vị thuộc Cục.
Thông qua đó càng nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu đơn vị về thực
hiện công tác cải cách hành chính; đánh giá đúng tình hình thực hiện nhiệm
vụ cải cách hành chính của cơ quan, đơn vị, từ đó đề xuất, kiến nghị những
77
giải pháp nhằm thực hiện tốt nhất công tác này; góp phần phục vụ đắc lực cho
việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương.
3.1.3. Bảo đảm nguyên tắc pháp chế trong quá trình thực hiện xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự
Đây là nguyên tắc pháp lí cơ bản nhất trong hoạt động của cơ quan, tổ
chức và công dân được quy định ở Điều 8 Hiến pháp năm 2013:“Nhà nước
được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lí xã hội bằng
Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ".
Nguyên tắc pháp chế đòi hỏi việc tổ chức và hoạt động của các cơ quan
nhà nước nói chung, Cơ quan thi hành án dân sự nói riêng trước hết phải dựa
trên cơ sở pháp luật và được tiến hành theo đúng quy định của pháp luật; mọi
cán bộ, công chức nhà nước phải nghiêm chỉnh tôn trọng pháp luật trong khi
thực thi nhiệm vụ. Bởi họ là đội ngũ đại diện cho nhà nước thực hiện các quy
định của pháp luật. Chính vì vậy, đội ngũ này phải tuân thủ nguyên tắc pháp
chế để thực hiện được tốt nhất chức năng của nhà nước và thực hiện pháp luật
trong đời sống.
Thực tiễn cho thấy, những năm qua các cơ quan nhà nước, cán bộ, công
chức nhà nước có vi phạm pháp luật ngày càng nhiều; còn có tình trạng
tùy tiện, lạm quyền, tham nhũng xẩy ra trong quá trình thực thi công vụ. Vì
vậy, lãnh đạo Cục thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình luôn quan tâm quán
triệt đến toàn thể cán bộ, công chức trong ngành nói chung và đặc biệt là đội
ngũ chấp hành viên, những người có thẩm quyền trong việc tổ chức hoạt động
thi hành án dân sự; xử phạt hành chính trong lĩnh vực thi hành án cần phải
tuân thủ triệt để nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa; thực hiện đúng và đầy
đủ các quy định của pháp luật, không lạm quyền, không nhũng nhiễu, hách
78
dịch, cửa quyền khi thi hành công vụ; đảm bảo tôn trọng và bảo vệ quyền và
lợi ích chính đáng của công dân.
3.1.4. Bảo đảm quyền khiếu nại trong quá trình thực hiện xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự
Đây cũng cần được xem là vấn đề quan trọng trong quá trình giải quyết
các hành vi vi phạm hành chính. Việc đảm bảo quyền khiếu nại của công dân
sẽ tạo cho công dân có niềm tin vào cơ quan thực thi pháp luật, vào đường lối,
chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Vì vậy, lãnh đạo
Cục thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình quán triệt khi có khiếu nại, khiếu
kiện về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự, cần
phải quan tâm giải quyết triệt để, kịp thời, dứt điểm; không để xảy ra tình
trạng khiếu nại, khiếu khiện bức xúc, kéo dài; phải tôn trọng và bảo vệ các
quyền tự do và dân chủ của công dân; tránh để xảy ra điểm nóng về an ninh
chính trị. Việc giải quyết khiếu nại phải thực hiện đảm bảo vừa đúng trình tự,
thủ tục theo quy định của pháp luật, vừa thấu tình, đạt lý. Tuyệt đối không cản
trở, gây khó khăn và hạn chế quyền khiếu nại của công dân. Theo đó, việc
tiếp nhận, thụ lý và phân loại đơn phải đảm bảo chính xác; giải quyết phải
toàn diện, đầy đủ các nội dung đương sự nêu trong đơn; đúng trình tự, thủ tục
và thời hạn luật định. Tuy nhiên, cũng không được vì dân chủ mà để đương sự
lợi dụng quyền khiếu nại để làm ảnh hưởng đến hoạt động xử phạt vi phạm
hành chính.
3.2. Giải pháp
Để tăng cường hiệu lực, hiệu quả thi hành pháp luật về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự nói chung đảm bảo về xử phạt vi
phạm hành chính tại các cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình nói
riêng, tôi xin đưa ra một số giải pháp, kiến nghị cụ thể sau:
79
3.2.1. Giải pháp chung
Có thể nói rằng, Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 được sửa
đổi bổ sung năm 2020; Nghị định 82/2020/NĐ-CP và một số văn bản hướng
dẫn thi hành đã đáp ứng được yêu cầu thực tế đặt ra; khắc phục những hạn
chế, bất cập trong quá trình thực hiện; góp phần bảo đảm trật tự, kỷ cương,
quản lý hành chính, an ninh, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân, tổ chức; đấu tranh phòng, chống có hiệu quả đối với
hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực Thi hành án dân sự nhằm thực
hiện tốt hơn trong công tác quản lý nhà nước về thi hành án dân sự tại địa
phương. Tuy nhiên, thông qua thực trạng áp dụng trên địa bàn tỉnh Quảng
Bình những năm qua, thấy còn bộc lộ những bất cập, cần được cấp có thẩm
quyền rà soát, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện cho phù hợp. Cụ thể:
Thứ nhất, về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
thi hành án dân sự
Một số quy định về thẩm quyền xử phạt không còn phù hợp với thực
tiễn như thẩm quyền xử phạt tiền của một số chức danh còn thấp trong khi
mức phạt đối với đa số hành vi VPHC tương đối cao hay thẩm quyền tịch thu
tang vật, VPHC bị giới hạn bởi thẩm quyền phạt tiền dẫn đến tình trạng dồn
vụ việc lên cấp trên.
Bất cập lớn và phổ biến nhất hiện nay là thẩm quyền xử phạt của Chấp
hành viên ở mức quá thấp, trong khi trên thực tế, Chấp hành viên là người
trực tiếp thực thi công vụ, xử lý hồ sơ và tổ chức thi hành án. Nhiều vụ việc
khi phát hiện có vi phạm, nhưng vượt quá thẩm quyền giải quyết, chấp hành
viên đã làm ngơ cho qua để còn tập trung thực hiện các công việc khác, dẫn
đến tình trạng có vi phạm nhưng không bị xử lý.
80
Để khắc phục những bất cập, vướng mắc ở trên, cần tăng thẩm quyền
xử phạt cho Chấp hành viên lên mức 1.000.000 đồng; Bổ sung quy định
hướng dẫn cụ thể về các loại giấy tờ, thủ tục, hồ sơ đề nghị xử phạt hành
chính trong trường hợp Chấp hành viên chuyển cho người có thẩm quyền ra
quyết định xử phạt.
Đồng thời cần có văn bản quy định về điều kiện “mở” về thẩm quyền
xử phạt cho chấp hành viên khi thực thi công vụ.
Ngoài ra, Nghị định 82/2020/NĐ-CP cũng quy định thẩm quyền xử
phạt VPHC đối với hành vi không thực hiện công việc phải làm theo bản án.
Về quy định này, khi thực hiện còn nhiều phát sinh, mâu thuẫn chưa rõ về
thẩm quyền xử phạt, mức xử phạt. Cụ thể, theo quy định tại khoản 2 Điều 120
Luật thi hành án dân sự thì, chấp hành viên ra quyết định phạt tiền trong
trường hợp người phải thi hành án không giao người chưa thành niên cho
người được giao nuôi dưỡng. Tuy nhiên, theo Nghị định 82/2020/NĐ-CP, với
hành vi không thực hiện công việc phải làm theo bản án, quyết định thì thẩm
quyền xử phạt thuộc Cục trưởng.
Thứ hai, cần bổ sung các quy định hướng dẫn về cưỡng chế thi hành
quyết định xử phạt vi phạm hành chính, thủ tục cưỡng chế, cơ quan có
thẩm quyền thực hiện cưỡng chế
Trên thực tế, không chỉ riêng tại địa bàn Quảng Bình , mà tại nhiều địa
phương khác trên cả nước, có rất nhiều vụ việc đã ra quyết định xử phạt
VPHC, nhưng không thi hành được bởi bất cập của luật là chưa có quy định
về vấn đề cưỡng chế.
Thứ ba, cần bổ sung chế tài để xử lý những trường hợp không thi
hành án. Ví dụ: mặc dù Điều 314 Luật Tố tụng Hành chính năm 2015 có quy
định: Cơ quan, tổ chức, cá nhân phải thi hành án cố ý không chấp hành bản
81
án, quyết định, quyết định buộc thi hành án của Tòa án thì tùy từng trường
hợp mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt VPHC, hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự
theo quy định của pháp luật; Người lợi dụng chức vụ, quyền hạn cố ý cản trở
việc thi hành án thì tùy từng trường hợp mà bị xử phạt VPHC, xử lý kỷ luật
hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của luật; nếu gây thiệt hại thì
phải bồi thường theo quy định của pháp luật. Đây là quy định mang tính răn
đe nhưng chưa có cơ chế để thực hiện trên thực tế; pháp luật hiện hành chưa
có quy định hướng dẫn cụ thể việc thực hiện xử phạt VPHC, hành vi vi phạm
phải xử lý trong lĩnh vực này nên quy định trên chỉ mang tính hình thức,
không hiệu quả.
Có thể nói, với những vướng mắc, chồng chéo nêu trên cần có sự rà
soát Luật THADS và một số Luật, văn bản khác có liên quan để đảm bảo sự
thống nhất giữa các quy định, nâng cao hiệu quả công tác xử phạt VPHC
trong THADS.
Thứ tư, về thời hạn ra Quyết định XPVPHC:
Vấn đề này Nghị định 82/2020/NĐ-CP không quy định, nên thực hiện
theo quy định của Luật xử lý vi phạm hành chính. Theo đó, khoản 3 Điều 58
Luật xử lý vi phạm hành chính quy định: Trường hợp vi phạm hành chính
không thuộc thẩm quyền hoặc vượt quá thẩm quyền xử phạt của người lập
biên bản, thì biên bản phải được chuyển ngay đến người có thẩm quyền xử
phạt để tiến hành xử phạt”.
Thực tiễn cho thấy đây là trường hợp xảy ra khá phổ biến, vì thông
thường người đang thi hành công vụ là người trực tiếp phát hiện hành vi vi
phạm hành chính, chủ yếu là chấp hành viên, nhưng thẩm quyền của chấp
hành viên chỉ được xử phạt đến 500.000 đồng, nên rất nhiều vụ việc vượt quá
82
thẩm quyền, cần phải chuyển đến người có thẩm quyền xử phạt để tiến hành
xử phạt.
Tuy nhiên, khoản 1 Điều 66 Luật xử phạt vi phạm hành chính năm
2012 quy định: “Người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính phải ra
quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày lập
biên bản vi phạm hành chính. Đối với vụ việc có nhiều tình tiết phức tạp mà
không thuộc trường hợp giải trình hoặc đối với vụ việc không thuộc trường
hợp giải trình theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 61 Luật này thì thời
hạn ra quyết định xử phạt tối đa là 30 ngày, kể từ ngày lập biên bản”. Theo
quy định này, 07 ngày được hiểu là bao gồm cả ngày nghỉ hàng tuần và lễ, tết.
Như vậy thì công chức, viên chức không đủ thời gian tham mưu xử lý và trình
hồ sơ cho người có thẩm quyền để ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành
chính, nếu trường hợp ngày nghỉ và ngày lễ kéo dài liên tiếp nhau.
Vì vậy, kiến nghị sửa đổi khoản 1 Điều 66 Luật xử lý VPHC lại theo
hướng: “Người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính phải ra quyết định
xử phạt vi phạm hành chính trong thời hạn 07 ngày làm việc,kể từ ngày lập
biên bản vi phạm hành chính”. Ngoài ra, cần có văn bản giải thích cụm từ
“trường hợp đặc biệt nghiêm trọng” quy định tại khoản 1 Điều 66 Luật
XLVPHC được hiểu như thế nào, nhằm tránh tình trạng việc đánh giá từng vụ
việc có đặc biệt nghiêm trọng hay không tùy vào ý chí chủ quan của người áp
dụng.
Thứ năm, về trường hợp giải trình:
Để đảm bảo tính công bằng khi giải quyết các vụ việc VPHC, khoản 1
Điều 61 Luật XLVPHC năm 2012 nên được sửa đổi, bổ sung theo hướng: Đối
với những trường hợp cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính có tang vật,
phương tiện bị tịch thu mà giá trị tài sản từ 15.000.000 đồng trở lên đối với cá
83
nhân và 30.000.000 đồng trở lên đối với tổ chức thì cá nhân, tổ chức cũng có
quyền được giải trình.
Thứ sáu, về hình thức xử phạt chính:
Nghị định số 82/2020/NĐ-CP quy định vi phạm hành chính trong lĩnh
vực thi hành án dân sự áp dụng hai hình thức xử phạt chính là cảnh cáo và
phạt tiền. Trong đó, có hai hành vi vi phạm hành chính có thể áp dụng cảnh
cáo hoặc phạt tiền đối với hành vi: “Đã nhận giấy báo, giấy triệu tập lần thứ
hai của người có thẩm quyền thi hành án nhưng không đến địa điểm ghi trong
giấy báo, giấy triệu tập mà không có lý do chính đáng” và hành vi “thông báo
không đúng về thời hạn, hình thức của quyết định, giấy tờ, văn bản về thi
hành án dân sự cho đương sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo
quy định”. Cách quy định này có ưu điểm là tạo điều kiện cho người có thẩm
quyền chủ động trong quá trình thực hiện hoạt động quản lý nhà nước nhằm
áp dụng pháp luật phù hợp với từng hoàn cảnh, mục đích nhất định. Tuy
nhiên, nhược điểm của cách quy định này là trong một số trường hợp nhất
định, làm phát sinh sự chồng chéo trong việc áp dụng hình thức xử phạt cảnh
cáo với hình thức phạt tiền.
Hiện nay, Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định: “Cảnh
cáo được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức VPHC không nghiêm trọng, có
tình tiết giảm nhẹ và theo quy định thì bị áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo
hoặc đối với mọi hành vi vi phạm hành chính do người chưa thành niên từ đủ
14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện. Cảnh cáo được quyết định bằng văn bản”.
Quy định này cho thấy, đối với cá nhân từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi vi
phạm hành chính thì trong mọi trường hợp đều áp dụng hình thức xử phạt là
cảnh cáo. Do vậy, đối với nhóm đối tượng này chỉ cần đáp ứng điều kiện về
độ tuổi thì người có thẩm quyền sẽ đương nhiên áp dụng hình thức xử phạt
84
cảnh cáo mà không cần quan tâm điều kiện nào khác kèm theo. Trong khi đó,
đối với cá nhân từ đủ 16 tuổi trở lên và tổ chức vi phạm hành chính thì hình
thức xử phạt cảnh cáo chỉ được áp dụng khi có đầy đủ các điều kiện: vi phạm
hành chính không nghiêm trọng; có tình tiết giảm nhẹ; theo quy định thì bị áp
dụng hình thức xử phạt cảnh cáo. Do vậy, khi áp dụng hình thức xử phạt cảnh
cáo trong thực tế, người có thẩm quyền xử phạt phải bảo đảm vi phạm hành
chính đáp ứng đầy đủ cả ba điều kiện nêu trên. Nói cách khác, nếu thiếu một
trong ba điều kiện này thì không thể áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo.
Vậy người có thẩm quyền sẽ dựa vào tiêu chí nào để quyết định áp
dụng hình thức xử phạt cảnh cáo hay phạt tiền trong khi cùng một vi phạm
hành chính với tính chất, mức độ nguy hiểm giống nhau. Rõ ràng trong
trường hợp này, pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính nói chung và Nghị
định số 82/2020/NĐ-CP nói riêng, hoàn toàn không có quy định, mà việc áp
dụng cảnh cáo hay phạt tiền hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của người có thẩm
quyền xử phạt trên cơ sở “tùy nghi hành chính”. Cách quy định đã đồng nhất
cảnh cáo và phạt tiền, trong khi hậu quả pháp lý của hai hình thức xử phạt này
rất khác nhau. Hình thức xử phạt cảnh cáo mang ý nghĩa giáo dục, có mục
đích nhắc nhở chủ thể vi phạm tôn trọng và chấp hành các quy định pháp luật
về quản lý nhà nước. Trong khi đó, hình thức phạt tiền nhằm mục đích tước đi
một khoản lợi ích vật chất trực tiếp của chủ thể vi phạm, làm cho họ bị thiệt
hại về tài sản.Trong khi đó, việc xử phạt vi phạm hành chính phải tuân thủ
một nguyên tắc quan trọng đó là “bảo đảm công bằng”. Tuy nhiên, với bất cập
nêu trên, trong nhiều trường hợp, nội dung của nguyên tắc xử phạt quan trọng
này không được bảo đảm thực hiện, dẫn đến mục đích phân hóa trách nhiệm
hành chính không đạt được.
Để khắc phục bất cập này, cần sửa đổi Nghị định số 82/2020/NĐ-CP
theo hướng bỏ cách quy định một VPHC trong lĩnh vực THADS vừa có thể
85
phạt cảnh cáo, vừa có thể phạt tiền. Theo đó, nếu đánh giá VPHC là không
nghiêm trọng và không cần thiết phải áp dụng hình thức phạt tiền thì quy định
hành vi đó chỉ áp dụng hình thức xử phạt chính là cảnh cáo mà không kèm
theo hình thức phạt tiền.
Bên cạnh đó, cần sửa đổi Luật XLVPHC, theo hướng bỏ điều kiện
“VPHC có tình tiết giảm nhẹ” khi áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo đối với
chủ thể vi phạm là cá nhân từ đủ 16 tuổi trở lên, bởi trong trường hợp VPHC
chỉ bị phạt cảnh cáo nhưng người vi phạm không có tình tiết giảm nhẹ thì sẽ
khó khăn cho người áp dụng. Bởi, nếu xử phạt cảnh cáo mà không có tình tiết
giảm nhẹ thì không đáp ứng điều kiện áp dụng, ngược lại nếu vì thiếu tình tiết
giảm nhẹ mà bỏ qua việc xử phạt sẽ dẫn tới hệ quả là “bỏ lọt” vi phạm, điều
này hoàn toàn không phù hợp với nguyên tắc xử phạt VPHC.
Thứ bảy, về biện pháp khắc phục hậu quả “Buộc nộp lại số lợi bất
hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính”
Nghị định số 82/2020/NĐ-CP quy định, biện pháp “Buộc nộp lại số lợi
bất hợp pháp có được do thực hiện VPHC” được áp dụng đối với 06 hành vi
vi phạm của thừa phát lại trong lĩnh vực THADS. Tuy nhiên, đối với VPHC
của thừa phát lại trong lĩnh vực THADS, Nghị định này chưa có quy định
hướng dẫn cụ thể cách xác định “số lợi bất hợp pháp”, do đó gây ra khó
khăn,lúng túng cho chủ thể có thẩm quyền khi áp dụng biện pháp này trong
thực tế.
Để khắc phục bất cập này, cần sửa đổi Nghị định số chưa có quy định
hướng dẫn cụ thể cách xác định theo hướng bổ sung quy định về cách xác
định “số lợi bất hợp pháp” đối với VPHC do thừa phát lại thực hiện trong lĩnh
vực THADS làm cơ sở cho việc áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả “buộc
nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện VPHC”
86
Để công tác xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân
sự ngày càng hiệu quả, cần kiến nghị đề xuất một số nội dung:
- Đối với Bộ Tư pháp:
Kiến nghị Bộ trưởng Tư pháp đề nghị các cơ quan của Quốc hội, các
Đoàn đại biểu Quốc hội, Đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Mặt trận Tổ
quốc các cấp tiếp tục quan tâm, tăng cường giám sát theo thẩm quyền, theo
chuyên đề đối với công tác thi hành án dân sự; đề nghị Quốc hội bố trí ngân
sách trong kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021 - 2025 cho việc
triển khai các dự án đầu tư nhằm đáp ứng nhu cầu cần thiết về cơ sở vật chất,
trang thiết bị, trụ sở làm việc cho các cơ quan thi hành án dân sự, nhất là các
kho vật chứng.
- Đối với Tổng cục thi hành án dân sự:
Tổ chức các hội thảo chuyên đề về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực thi hành án dân sự để trao đổi kinh nghiệm, học hỏi những cách làm
hay; thành lập các đoàn kiểm tra, khảo sát thực tế tại các địa phương để nắm
bắt tình hình thực hiện cũng như hướng dẫn, chỉ đạo về chuyên môn nghiệp
vụ; kịp thời giải đáp, tháo gỡ những vướng mắc, bất cập hiện nay.
Tổ chức tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên sâu về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự; đặc biệt là kỹ năng lập hồ sơ xử
phạt vi phạm hành chính, kỹ năng kiểm tra tính pháp lý của các quyết định xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực này. Đồng thời cần xem xét, bổ sung
biên chế, nhất là biên chế về chấp hành viên cho Cơ quan thi hành án dân sự
tỉnh Quảng Bình để đảm bảo nguồn nhân lực giải quyết số lượng lớn các vụ
việc phải thi hành án trên địa bàn tỉnh.
Nghiên cứu xây dựng và ban hành quy chế xử phạt vi phạm hành chính
trong nội bộ ngành nhằm thực hiện thống nhất trình tự, thủ tục xử phạt vi
87
phạm hành chính trong thi hành án dân sự, tạo niềm tin và cơ sở cho Chấp
hành hành viên khi quyết định xử phạt.
3.2.2. Giải pháp cụ thể đối với các cơ quan thi hành án dân sự tỉnh
Quảng Bình
Để phát huy những kết quả đạt được, đồng thời khắc phục những tồn
tại, hạn chế; bảo đảm xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án
dân sự, cũng như bảo đảm các quyết định xử phạt vi phạm hành chính được
ban hành phải được thực thi kịp thời, nghiêm túc tại tỉnh Quảng Bình, trong
thời gian tới các cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình cần tập trung
làm tốt một số giải pháp sau:
- Thứ nhất, tiếp tục triển khai thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Trung
ương 4 (khóa XI, khóa XII) về xây dựng Đảng và Chỉ thị số 05-CT/TW của
Bộ Chính trị về đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh gắn với các quy định của Trung ương về tăng cường vai
trò nêu gương của cán bộ, đảng viên, người đứng đầu; ngăn chặn, đẩy lùi sự
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn
biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ. Các cấp ủy Đảng, chính quyền, các cơ
quan, đơn vị chọn khâu đột phá là tổ chức thi hành đạt tỷ lệ cao các bản án,
quyết định có hiệu lực thi hành của Tòa án; giảm thiểu các vụ việc tồn đọng,
kéo dài và tăng cường xử phạt vi phạm hành chính đối với các hành vi vi
phạm; xây dựng khẩu hiệu hành động và xác định nội dung thực hiện những
vấn đề mới, khó từ thực tiễn để đề ra các giải pháp, quyết tâm thực hiện đến
cùng mục tiêu đề ra.
- Thứ hai, tăng cường công tác quản lý, điều hành, phân công, phân
nhiệm cụ thể; tăng cường đôn đốc, kiểm tra; kỷ cương, kỷ luật trong thi hành
nhiệm vụ; quan tâm đào tạo, kiện toàn tổ chức. Làm rõ vai trò, trách nhiệm
88
của chấp hành viên và những người có liên quan nếu để xảy ra trường hợp có
đối tượng vi phạm hành chính trong quá trình tổ chức thi hành ánmà không
lập hồ sơ xử phạt hoặc đề nghị xử phạt; đã ra quyết định xử phạt nhưng không
đôn đốc thi hành quyết định xử phạt; kiên quyết xử lý nghiêm các trường hợp
cán bộ, công chức sai phạm trong tổ chức thi hành án.
Đặc biệt, các đơn vị phải tranh thủ sự chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền
địa phương và tăng cường công tác phối hợp với các cơ quan có liên quan
trong công tác thi hành án và xử lý vi phạm trong hoạt động thi hành án.
Nâng cao hơn nữa hiệu quả mối quan hệ phối hợp với các cơ quan chức
năng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Hội sở của các tổ chức tín dụng,
các cơ quan, đơn vị chuyên môn, các cơ quan, đơn vị có liên quan khác; phát
huy tinh thần trách nhiệm, năng lực chuyên môn, tính chủ động của các thành
viên Tổ xử lý nợ xấu.
Kiểm tra công tác thi hành án tín dụng, ngân hàng; phối hợp giải quyết
khó khăn, vướng mắc trong quá trình tổ chức thi hành án và đặc biệt là phối
hợp trong công tác chỉ đạo các cơ quan thi hành án dân sự và các tổ chức tín
dụng trong công tác thi hành án dân sự đảm bảo kịp thời, hiệu quả, đúng quy
định pháp luật.
Nâng cao chất lượng thi hành án dân sự liên quan đến các khoản nợ của
tổ chức tín dụng và các khoản thu cho ngân sách nhà nước, bảo đảm đạt tỷ lệ
thi hành xong về tiền trên tổng số có điều kiện thi hành cao hơn những năm
trước; đặc biệt chú trọng việc thu hồi tiền, tài sản bị chiếm đoạt trong các vụ
án tham nhũng, kinh tế. Đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm mà
ngành Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình cần đề ra trong những năm tiếp
theo.
89
- Thứ ba, tổ chức, sắp xếp lại biên chế, ưu tiên bổ sung chấp hành viên
làm công tác nghiệp vụ và tổ chức thi hành án nhằm đảm bảo nhân sự để thực
hiện tốt công tác chuyên môn, nghiệp vụ. Hiện tại số lượng chấp hành viên
làm công tác nghiệp vụ cũng rất hạn chế, trong khi số lượng các vụ, việc phải
thi hành án hàng năm trên địa bàn tỉnh ngày càng tăng, nhiều vụ phải tiến
hành xác minh điều kiện thi hành án ở nhiều nơi, kiểm đếm, kê biên tài sản
các vụ việc lớn dây chuyền sản xuất, máy móc thiết bị, nhà xưỡng mất nhiều
thời gian có vụ việc kéo dài hàng tháng mới kê biên xong, tính chất vụ, việc
phức tạp, trong khi biên chế thực hiện chức năng, nhiệm vụ ít, không đáp ứng
được yêu cầu đặt ra.
- Thứ tư, trong quá trình tổ chức thi hành án, nếu phát hiện có trường
hợp vi phạm hành chính trong hoạt động thi hành án thì phải kiên quyết lập
hồ sơ xử lý nghiêm các đối tượng trốn tránh, chây ỳ, chống đối việc thực hiện
nghĩa vụ thi hành án; tuyệt đối không để xảy ra tình trạng có vi phạm nhưng
không xử lý hoặc có xử lý nhưng không triệt để.
- Thứ năm, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp
luật về THADS, nhất là pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực THADS đảm bảo mọi người dân, cơ quan, tổ chức nghiêm chỉnh chấp
hành ý thức “sợ” bị phạt mới nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác THADS
trên địa bàn, bảo đảm tất cả các bản án, quyết định của Tòa án đều được thi
hành nghiêm minh.
Cán bộ, Chấp hành viên các cơ quan THADS tỉnh Quảng Bình cần tiếp
tục thực hiện tốt Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09/12/2003 của Ban Bí thư Trung
ương Đảng (Khóa IX) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác
phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ,
nhân dân; Quyết định số 486/QĐ-BTP ngày 03/03/2014 của Bộ trưởng Bộ Tư
90
pháp và Kế hoạch số 930/KH-TCTHADS của Tổng cục THADS về việc
tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật nói chung và pháp luật về THADS
nói riêng nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về ý thức tôn trọng và chấp hành
pháp luật của nhân dân, nhất là những người được thi hành án, người phải thi
hành án và các đối tượng có liên quan. Các cơ quan THADS phải xác định
công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật là một trong những nhiệm
vụ của mình. Vì vậy, cần phải thường xuyên đổi mới hình thức, phương pháp
phổ biến, giáo dục pháp luật phù hợp với từng đối tượng; các hoạt động tuyên
truyền, phổ biến giáo dục pháp luật phải được tiến hành thường xuyên, liên
tục, hướng về cơ sở; phải bám sát nội dung, yêu cầu theo quy định của Luật
phổ biến, giáo dục pháp luật và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi
hành.Do đó, quá trình đổi mới đất nước, xây dựng “nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa” và một “xã hội công dân” bên cạnh việc xây dựng một hệ
thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ, phù hợp với sự phát triển của nền kinh
tế - xã hội, cần phải xây dựng một xã hội trong đó mọi người đều có ý thức
tôn trọng pháp luật, tự nguyện tuân thủ và nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật,
có tinh thần bảo vệ pháp luật, sống và làm việc theo pháp luật.
- Thứ sáu, Nâng cao trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng và
Ban Chỉ đạo THADS các cấp.
Quá trình hoạt động THADS tại các cơ quan THADS tỉnh Quảng Bình
cho thấy một phần các vụ việc có khiếu nại phát sinh của đương sự là do chưa
thỏa mãn với nội dung bản án, quyết định của Tòa án. Có thể nói, quá trình
tổ chức thi hành án phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng của các giai đoạn
trước đó như giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử. Nếu các bản án xét xử
không công minh, không khả thi, có nhiều sai sót, không áp dụng các biện
pháp khẩn cấp tạm thời,…thì đến giai đoạn THADS sẽ không được thực
91
hiện hiệu quả, vì vậy cần nâng cao chất lượng cũng như trách nhiệm của
các cơ quan này hơn nữa.
Tăng cường sự chỉ đạo của Ban Chỉ đạo THADS; sự phối hợp của các
cơ quan hữu quan trong THADS. Thực tiễn hoạt động THADS tại các cơ
quan THADS tỉnh Quảng Bình cho thấy, để đạt được kết quả khả quan, hoàn
thành tốt các chỉ tiêu nhiệm vụ được giao thì trước hết công tác chỉ đạo, phối
hợp của Ban Chỉ đạo THADS, sự quan tâm phối hợp của các cơ quan hữu
quan với cơ quan THADS là rất quan trọng. Mối quan hệ phối hợp ở đây phải
được xác định bao gồm quan hệ phối hợp trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo,
điều hành, quan hệ phối hợp trong hoạt động tác nghiệp nghiệp vụ, báo cáo
tổng hợp. Quan hệ phối hợp có tác dụng hỗ trợ tích cực cho các công việc
được tiến hành thuận lợi, là yếu tố rất quan trọng trong giải quyết đúng đắn
các vụ việc thi hành án, cũng như xử phạt vi phạm hành chính liên quan đến
các trường hợp là cơ quan, tổ chức.
- Thứ bảy, định kỳ 06 tháng và cuối năm công tác, cần lập Đoàn công
tác kiểm tra kết quả tổ chức thi hành án ở hai cấp, trong đó có kiểm tra
chuyên đề về các vụ việc không có khả năng thi hành để làm rõ nguyên nhân,
vướng mắc; từ đó làm rõ vai trò, trách nhiệm của chấp hành viên trong quá
trình thực thi nhiệm vụ. Những vụ việc đủ điều kiện để lập hồ sơ xử phạt vi
phạm hành chính thì đã ra quyết định xử phạt chưa hoặc đã báo cáo đề nghị
người có thẩm quyền ra quyết định xử phạt chưa? Đối với những vụ việc đã ra
quyết định xử phạt nhưng đến nay vẫn chưa thi hành xong thì lý do là gì? Cần
phải có biện pháp quyết liệt như thế nào hay là vướng mắc ở đâu để có biện
pháp tháo gỡ, nhằm đảm bảo các quyết định xử phạt được ban hành phải được
nghiêm túc thực hiện trên thực tế.
92
- Thứ tám, xây dựng chuyên đề về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực thi hành án dân sự để phân tích, đánh giá cụ thể những mặt làm được,
những mặt còn hạn chế, nguyên nhân của những hạn chế và tìm ra giải pháp
cụ thể, phù hợp để đảm bảo thực hiện có hiệu quả công tác xử phạt vi phạm
hành chính tại các cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình.
- Thứ chín, để đảm bảo các bản án, quyết định của Tòa án được thực thi
một cách kịp thời, hiệu quả trên thực tế; cũng như phát hiện chính xác các
trường hợp vi phạm hành chính trong lĩnh vực THADS, Chấp hành viên cần
tăng cường trực tiếp xác minh điều kiện THADS của cá nhân, tổ chức phải thi
hành án, để tự mình làm rõ tình trạng tài sản và điều kiện kinh tế, các nguồn
thu nhập của người phải THA nhằm buộc họ thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đã
được quyết định trong bản án, quyết định. Bởi, trực tiếp xác minh điều kiện
THA là biện pháp xác minh rất phổ biến, được áp dụng đối với hầu hết các vụ
việc THA. Trong nhiều trường hợp, trực tiếp xác minh điều kiện THADS đem
lại hiệu quả cao và nhanh hơn so với việc gửi văn bản yêu cầu cung cấp thông
tin về điều kiện THA; làm rõ người phải THA có tiền, tài sản hoặc các nguồn
thu nhập hợp pháp nào để bảo đảm THA hay không; Người phải THA có tự
kê khai trung thực và đầy đủ về tài sản, thu nhập, điều kiện THA của mình
hay không? Thông qua văn bản để yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên
quan cung cấp những thông tin về tài sản, tài khoản, các khoản thu nhập của
người phải THA.
Đối chiếu với quy định tại điểm b khoản 6 Điều 44 Luật THADS năm
2008, Điều 4 Thông tư liên tịch số 02/2014/TTLT-BTP-BTC-BLĐTBXH-
NHNNVN: Hướng dẫn việc cung cấp thông tin về tài khoản, thu nhập của
người phải THA và thực hiện phong tỏa, khấu trừ để THADS và Điều 3
TTLT số 03/2014/TTLT-BTP-NHNNVN: Hướng dẫn xác minh điều kiện
THA của Thừa phát lại tại các tổ chức tín dụng (đối với Thừa phát lại), để xác
93
định xem đối tượng phải thi hành ánđã cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời và
chính xác hay chưa? Có sự che dấu hoặc cố tình cung cấp sai lệch thông tin
nhằm trốn tránh nghĩa vụ thi hành án hay không để lập hồ sơ, ra quyết định
xử phạt vi phạm hành chính.
Từ kết quả xác minh, sẽ làm căn cứ chính xác để ra các quyết định xử
phạt vi phạm hành chính đối với đối tượng thi hành án nếu cố tình che dấu,
khai báo không trung thực về địa chỉ, tài sản…nhằm trốn tránh thực hiện
nghĩa vụ thi hành án. Trường hợp hành vi vi phạm cấu thành tội phạm thì lập
hồ sơ đề nghị Cơ quan điều tra xem xét xử lý theo trình tự tố tụng hình sự.
- Thứ mười, tăng cường công khai, minh bạch trong hoạt động của các
cơ quan thi hành án dân sự thuộc tỉnh và trách nhiệm giải trình của cán bộ,
công chức; hoàn thiện cơ chế giám sát của người dân, tổ chức đối với hoạt
động của cán bộ, công chức trong các cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Quảng
Bình.
94
Tiểu kết chương 3
Chương 3, tác giả đã tập trung làm rõ các quan điểm chỉ đạo, đường lối,
chủ trương của Đảngđối với công tác thi hành án dân sự; vấn đề về bảo đảm
yêu cầu của cải cách tư pháp, cải cách hành chính; bảo đảm nguyên tắc pháp
chế trong quá trình thực hiện xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi
hành án dân sự; cũng như bảo đảm nguyên tắc pháp chế trong quá trình thực
hiện xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự tại các cơ
quan thi hành án dân sự. Đồng thời, trên cơ sở phân tích thực trạng áp dụng
pháp luật, những nguyên nhân tồn tại, hạn chế trong công tác xử phạt vi phạm
hành chính ở lĩnh vực thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Quảng Bình những
năm qua, tác giả đã đưa ra các giải pháp, kiến nghị chung và giải pháp riêng
đối với các cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình nhằm đảm bảo việc
xử phạt vi phạm hành chính trong thời gian tới.
95
KẾT LUẬN
Bản án, quyết định của Tòa án nhân danh Nhà nước khi được chấp
hành nghiêm chỉnh sẽ có tác động trực tiếp đến lòng tin của nhân dân đối với
pháp luật. Vì vậy, hoạt động thi hành án có một ý nghĩa vô cùng quan trọng
trong việc giữ vững kỷ cương phép nước, củng cố pháp chế và trật tự pháp
luật xã hội chủ nghĩa, đảm bảo cho quyền lực tư pháp được thực thi trên thực
tế. Nhận thức được tầm quan trọng trong công tác này, Đảng và Nhà nước ta
đã đề ra mục tiêu trong những năm tới đây là phải: "Tiếp tục tạo sự chuyển
biến mạnh mẽ trong công tác thi hành án dân sự, nâng cao hiệu quả công tác
thi hành án, giải quyết căn bản tình trạng án tồn đọng. Đổi mới tổ chức và
hoạt động của hệ thống cơ quan thi hành án dân sự, nâng cao vai trò trách
nhiệm của các cơ quan thi hành án". Nhiều năm qua, Chính phủ đã xác định
công tác thi hành án dân sự là một trong những nhiệm vụ trọng tâm và đã đưa
ra nhiều giải pháp hiệu quả nhằm tạo sự chuyển biến cơ bản trong công tác
này. Do vậy, công tác thi hành án dân sự trong những năm qua đạt được một
số kết quả đáng khích lệ, mà kết quả nổi bật nhất theo đánh giá của Chính phủ
là: "Hệ thống cơ quan thi hành án dân sự được hình thành trong cả nước, công
tác thi hành án dân sự đã được triển khai và hoạt động có hiệu quả bước đầu".
Tuy nhiên, bên cạnh đó, công tác thi hành án dân sự nói chung và trên địa bàn
tỉnh Quảng Bình nói riêng hiện vẫn đang đứng trước những khó khăn, thử
thách to lớn với nhiều vấn đề tồn tại, bất cập đang đặt ra cần được giải quyết.
Hiệu quả công tác thi hành án dân sự chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu
nhiệm vụ, và sự quan tâm, mong mỏi của Đảng, Nhà nước và nhân dân; hoạt
động thi hành án chưa thật sự đảm bảo được tính công bằng và nghiêm minh
của pháp luật. Tồn tại lớn nhất trong công tác thi hành án dân sự những năm
qua là tình trạng án "tồn đọng" kéo dài, với số lượng lớn ngày càng tăng, song
chưa có biện pháp hữu hiệu để giải quyết. Đây là vấn đề rất bức xúc đặt ra
96
trong công tác thi hành án dân sự hiện nay. Thực trạng này, một phần xuất
phát từ nguyên nhân: ý thức tuân thủ pháp luật của một số bộ phận nhân dân
nói chung và một số cơ quan, tổ chức, các nhà quản lý doanh nghiệp và cá
nhân (kể cả chính quyền địa phương) còn yếu kém. Mặt khác, là do chưa có
sự phối hợp đồng bộ, chặt chẽ giữa các cơ quan bảo vệ pháp luật, cũng như cơ
quan hữu quan trong quá trình thi hành án; cơ sở pháp lý về tổ chức và hoạt
động thi hành án dân sự chưa được hoàn thiện, hệ thống các văn bản pháp lý
về thi hành án dân sự chưa đầy đủ, chậm được bổ sung, sửa đổi kịp thời; cơ
chế quản lý và cơ chế thi hành án hiện nay không hợp lý, gây cản trở và làm
giảm hiểu quả công tác thi hành án nói chung và thi hành án dân sự nói riêng.
Vì vậy, muốn giải quyết tình trạng "án tồn đọng", nâng cao hiệu quả thi hành
án dân sự cần phải nghiên cứu đề ra các giải pháp đồng bộ về nhiều mặt: Kinh
tế, pháp luật, chính sách xã hội, tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ và đặc biệt là
phải chú trọng hoàn thiện các chế tài xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực thi hành án dân sự, đảm bảo các chế tài được áp dụng một cách có hiệu
quả trên thực tế và là công cụ hỗ trợ đắc lực cho công tác tổ chức thi hành án
dân sự, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, tăng cường, củng cố niềm tin của
nhân dân đối với các cơ quan thi hành án dân sự.
Trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ, tác giả đã vận dụng những kiến thức
lý luận đã được tiếp thu từ sách báo, quá trình học tập tại Học viện và tìm
hiểu thực tế tại địa phương. Tuy nhiên, do còn hạn chế về thời gian, điều kiện
nghiên cứu thực tế có những khó khăn nhất định, nội dung nghiên cứu và các
giải pháp nêu trên đòi hỏi phải có thời gian kiểm nghiệm. Vì vậy, những đóng
góp của luận văn không tránh khỏi những khiếm khuyết, hạn chế nhất định.
Tác giả luận văn mong nhận được những ý kiến đóng góp của các nhà khoa
học, các thầy cô giáo và bạn bè, đồng nghiệp để tiếp tục nghiên cứu, bổ sung,
hoàn thiện đề tài.
97
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hiến pháp 2013.
2. Luật thi hành án dân sự 2008 sửa đổi bổ sung năm 2014.
3. Luật xử lý vi phạm hành chính 2012.
4. Luật xử lý vi phạm hành chính sửa đổi bổ sung năm 2020.
5. Nghị định số 97/2017/NĐ-CP ngày 18 tháng 8 năm 2017của Chính
phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 81/2013/NĐ-
CPngày 19 tháng 07 năm 2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số
điều và biện pháp thi hành Luật xử lý vi phạm hành chính.
6. Nghị định số 67/2015/NĐ-CP ngày 14 tháng 5 năm 2015 của Chính
phủ, sửa đổi, bổ sung một số điều củaNghị định 110/2013/NĐ-CP.
7. Nghị định số 81/2013/NĐ-CPngày 19 tháng 07 năm 2013 của
Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật xử lý
vi phạm hành chính.
8. Nghị định số 82/2020/NĐ-CP ngày 15 tháng 7 năm 2020 của Chính
phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp,
hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản
doanh nghiệp, hợp tác xã.
9. Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24 tháng 9 năm 2013 của
Chính phủquy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư
pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá
sản doanh nghiệp, hợp tác xã.
10. Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25-10-2017 Hội nghị lần thứ sáu
Ban chấp hành Trung ương khóa XII một số vấn đề tiếp tục đổi mới, sắp
xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực,
hiệu quả.
11. Bùi Tiến Đạt, (2008) “Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính – Lý luận và
thực tiễn”, Luận văn thạc sĩ - Khoa Luật Trường Đại học quốc gia Hà Nội.
12. Nguyễn Quang Thái (2008), Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động
thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Luật học – Học viện
Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
13. Đặng Đình Quyền (2012), Hiệu quả áp dụng pháp luật thi hành án dân
sự ở Việt Nam, Luận án Tiến sỹ Luật học tại Học viện Chính trị - Hành chính
quốc gia Hồ Chí Minh.
14. Nguyễn Hoàng Giang (2010), Áp dụng pháp luật thi hành án dân sự của
cơ quan Thi hành án ở thành phố Hà Nội hiện nay,Luận văn Thạc sĩ Luật học
tại Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
15. Đinh Quang Thành (2014), Địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành
viên Trung cấp – Từ thực tiễn các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Quảng
Binh,Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính tại
Học viện Hành chính Quốc gia.
16. Nguyễn Văn Tuấn (2014), Quyền khiếu nại về thi hành án dân sự - Từ
thực tiễn các cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình, Luận văn Thạc sỹ
chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính tại Học viện Hành chính
Quốc gia.
17. Lê Ngọc Nguyên Phương (2017), “Xử phạt vi phạm hành chính đối với
các hành vi lấn chiếm trái phép hè phố đô thị”, Khóa luận tốt nghiệp cử nhân
luật, Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh.
18. Nhật Tân (11.4.2019), “Một số khó khăn, vướng mắc, hạn chế trong thi
hành Luật Xử lý vi phạm hành chính”, Trang thông tin điện tử Sở tư pháp
Quảng Bình
19. Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình (2016-2020) Báo cáo Tổng kết
công tác thi hành án dân sự.
20. Cục Thi hành án dân sự tỉnh Hà Tĩnh (2016-2020) Báo cáo Tổng kết
công tác thi hành án dân sự.
21. Nguyễn Nhật Khanh, 2020, Hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự; Lê Đăng Khoa –Hà Khắc
Thắng, 2020, Một số khó khăn, vướng mắc trong xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực thi hành án dân sự và giải pháp, kiến nghị, Tạp chí Khoa học
kiểm sát số 06/2020;
22. Cổng thông tin điện tử Quảng Bình, Tổng quan về Quảng Bình; Vũ
Công An, 2016, Xử phạt vi phạm hành chính trong thi hành án dân sự,
quan điểm nào thuyết phục; Đình Khoa, 2017, Xử phạt hành chính trong
lĩnh vực thi hành án dân sự Chấp hành viên…ngại phạt; Thục Quyên,
2018, Xử phạt vi phạm hành chính trong thi hành án dân sự: Cần sửa đổi một
số quy định để tăng tính răn đe;
23. Trang Web tham khảo
http://lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=210595;
https://www.quangbinh.gov.vn/3cms/tong-quan-ve-quang-binh.htm;
https://thads.moj.gov.vn/noidung/tintuc/lists/nghiencuutraodoi/view_
detail.aspx?itemid=789;
http://www.nguoibaovequyenloi.com/User/ThongTin_ChiTiet.aspx?
MaTT=311201752923190773&MaMT=23;
https://baophapluat.vn/tu-van-365/xu-phat-vi-pham-hanh-chinh-trong-thi-
hanh-an-dan-su-can-sua-doi-mot-so-quy-dinh-de-tang-tinh-ran-de-
410741.html;