BỘ NỘI VỤ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
BÁO CÁO TỔNG HỢP ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA NGƯỜI HỌC
ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO ĐẾN ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
Mã số: ĐTSV.2021.04
Chủ nhiệm đề tài: Nguyễn Văn Hoàng Thành viên tham gia: 1. Nguyễn Huệ Chi
2. Khoàng Xó Ly 3. Phạm Thị Thu Trang
Lớp: 1805CTHA - Chính trị học Giảng viên hướng dẫn: TS. Đỗ Thu Hường
Hà Nội – 2021
LỜI CẢM ƠN
Để thực hiện và hoàn thành đề tài nghiên cứu khoa học này, chúng tôi xin
gửi lời cảm ơn đến giảng viên Đỗ Thu Hường đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ và
chỉ bảo chúng tôi trong suốt quá trình chúng tôi nghiên cứu và thực hiện đề tài
này.
Dù đã có nhiều cố gắng, nhưng vì kiến thức chuyên môn còn hạn chế và
bản thân chúng tôi còn thiếu nhiều kinh nghiệm thực tiễn trong quá trình thực
hiện đề tài không tránh khỏi những thiếu sót. Chúng tôi rất mong những ý kiến
đóng góp từ quý thầy cô và các bạn để đề tài được hoàn thiện hơn.
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn!
LỜI CAM ĐOAN
Chúng tôi xin cam đoan đề tài “Ảnh hưởng của Phật giáo đối với đạo đức,
lối sống của sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội” là đề tài nghiên cứu của
chúng tôi trong suốt thời gian qua, số liệu và kết quả nghiên cứu trong đề tài này
là hoàn toàn trung thực. Nếu không đúng như đã nêu trên chúng tôi xin hoàn
toàn chịu trách nhiệm về đề tài của mình.
Hà Nội, ngày 13 tháng 05 năm 2021
Chủ nhiệm đề tài
Nguyễn Văn Hoàng
DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
STT Viết tắt Viết đầy đủ
1 CTQG Chính trị Quốc gia
2 KHXH Khoa học xã hội
3 GS Giáo sư
4 Nxb Nhà xuất bản
5 TP Thành phố
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................................ 1 1. Lý do chọn đề tài................................................................................................ 1 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài........................................ 2 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu...................................................................... 5 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...................................................................... 6 5. Phương pháp nghiên cứu.................................................................................... 6 6. Đóng góp mới của đề tài.....................................................................................6 7. Cấu trúc của đề tài.............................................................................................. 6 CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG CỦA SINH VIÊN.............. 8 1.1. Một số khái niệm cơ bản và Khái quát một số nội dung cơ bản của Phật giáo có ảnh hưởng đến đạo đức, lối sống của sinh viên.................................................8 1.2. Những ưu điểm, hạn chế của Phật giáo.........................................................13 1.3. Tư tưởng Phật giáo về đạo đức, lối sống và vận dụng tư tưởng Phật giáo và việc giáo dục đạo đức, lối sống của sinh viên...................................................... 16 Tiểu kết chương 1................................................................................................. 23 CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI................................................................................................................ 24 2.1. Thực trạng đạo đức lối sống của sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội. 24 2.2. Những ảnh hưởng tích cực của Phật giáo đến đạo đức, lối sống của sinh viên và nguyên nhân............................................................................................. 26 2.3. Những ảnh hưởng tiêu cực của Phật giáo đến đạo đức, lối sống của sinh viên và nguyên nhân............................................................................................. 34 Tiểu kết chương 2................................................................................................. 36 CHƯƠNG 3. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA, QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT HUY ẢNH HƯỞNG TÍCH CỰC, HẠN CHẾ ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI.....................................37 3.1. Những vấn đề cần đặt ra từ ảnh hưởng của Phật giáo đối với đạo đức, lối sống của sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội hiện nay............................... 37 3.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước trong việc phát huy giá trị tích cực và hạn chế tiêu cực của Phật giáo trong giáo dục đạo đức, lối sống của sinh viên..38 3.3. Một số giải pháp phát huy tính tích cực và hạn chế tiêu cực đến đạo đức, lối sống của sinh viên.................................................................................................40 Tiểu kết chương 3................................................................................................. 45 KẾT LUẬN..........................................................................................................46 TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................49
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thế kỷ XXI, thế giới đang diễn ra những biến động to lớn về nhiều mặt
như: ô nhiễm môi trường, mất cân bằng sinh thái, khủng bố, dịch bệnh Covid,
chiến tranh, xung đột tôn giáo, khủng hoảng kinh tế, tài chính, đói nghèo…
đang diễn ra ở nhiều nơi trên thế giới. Trong bối cảnh đó, sự hồi sinh và gia
tăng mạnh mẽ của các tôn giáo cũ và một số hình thức tôn giáo mới lạ đã làm
cho mối quan hệ giữa con người ngày càng phức tạp.
Trong xu thế chung của sự gia tăng tôn giáo thì ở nước ta đời sống tôn
giáo đang có vận động mạnh mẽ trong những năm gần đây, trong đó có Phật
giáo Ngày nay, trước những biến đổi của tình hình thế giới và trong nước, tôn
giáo ở Việt Nam đang có những biến động phức tạp theo nhiều chiều hướng.
Vì vậy, nhiều vấn đề được đặt ra, nhất là xung quanh việc đánh giá ảnh hưởng
của tôn giáo đến lĩnh vực tinh thần của xã hội Việt Nam trong thời đại hiện tại
và tương lai như vấn đề ảnh hưởng của tôn giáo với chính trị hay rộng lớn
hơn là ảnh hưởng của tôn giáo tới văn hóa.
Trong các tôn giáo ở Việt Nam, Phật giáo là một tôn giáo lớn được du
nhập và Việt Nam từ rất sớm. Đây là tôn giáo khá gắn bó, đồng hành với dân
tộc Việt Nam. Trong quá trình tồn tại và phát triển ở Việt Nam, Phật giáo đã
có đóng góp cho dân tộc trên nhiều phương diện, đặc biệt là trên lĩnh vực đạo
đức, lối sống. Nhiều quy phạm, chuẩn mực đạo đức Phật giáo đã được người
Việt dựa trên cơ sở văn hóa của mình lựa chọn, tiếp nhận, nâng cao và sử
dụng ở các mức độ và phương diện khác nhau, góp phần hình thành những
giá trị, chuẩn mực trong lối sống của người dân Việt Nam. Có thể nói, tồn tại
cùng dân tộc trong hơn hai ngàn năm qua, Phật giáo đã trở thành một phần
không thể thiếu trong nền văn hóa Việt Nam.
Kinh tế thị trường đã đem lại những thành tựu quan trọng cho sự phát
triển đất nước, nhưng những mặt trái của nó cũng làm xuất hiện và ngày càng
1
gia tăng các hiện tượng tiêu cực trên lĩnh vực kinh tế, văn hóa xã hội, đặc biệt
là sự suy thoái của đạo đức lối sống. Chủ nghĩa thực dụng tuyệt đối hóa vai
trò của đồng tiền, lối sống gấp gáp xa rời lý tưởng cách mạng đang làm tha
hóa đạo đức, lối sống của một bộ phận người trong xã hội, trong đó có cả cán
bộ Đảng, Nhà nước. Bên cạnh đó, khuynh huớng làm giàu bằng bất cứ giá
nào, kể cả lừa đảo bất chính, gây tội ác, vi phạm pháp luật, sẵn sàng chà đạp
lên lương tâm và nhân phẩm con người ở một số cá nhân bị kỷ luật đã và
đang làm nguy cơ làm băng hoại các giá trị văn hóa, đạo đức và pháp luật.
Trong quá trình xây dựng đạo đức, lối sống xã hội chủ nghĩa thì việc kế
thừa những giá trị trong lối sống có truyền thống của dân tộc, trong đó có
những đóng góp của Phật giáo. Ở đây, đạo đức, lối sống Phật giáo hiện vẫn có
những giá trị cần thiếp thu, kế thừa để xây dựng đạo đức, lối sống mới cho
con người Vệt Nam hiện nay trong đó có sinh viên. Vì vậy, Nhóm tác giả
chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu “Ảnh hưởng của Phật giáo đối với đạo đức,
lối sống của sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội” nhằm tìm kiếm các
giải pháp phù hợp để phát huy tác động tích cực, hạn chế tác động tiêu cực
của Phật giáo trong quá trình xây dựng đạo đức lối sống mới cho sinh viên
trường Đại học Nội vụ Hà Nội hiện nay.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Phật giáo là một tôn giáo lớn nhất ở nước ta do vậy đã luôn được quan
tâm của nhiều nhà nghiên cứu các công trình tiêu biểu như: “Phật giáo nguyên
thuỷ đến thế kỷ XIII” của Trần Văn Giáp; “Việt Nam Phật giáo sử lược” của
Thích Mật Thể; “Phật giáo Việt Nam” của nhiều tác giả do giáo sư Nguyễn
Tài Thư chủ biên, hay “Lược sử Phật giáo Việt Nam” của Thượng tọa Thích
Minh Tuệ…các công trình này đã tổng kết khái quát tiến trình lịch sử Phật
giáo tại Việt Nam. Ngoài ra còn rất nhiều các các công trình nghiên cứu của
các tác giả về Phật giáo ở Việt Nam như: “Tư tưởng Phật giáo” của Nguyễn
Duy Hinh đã đi sâu nghiên cứu nội dung tư tưởng Phật giáo Việt Nam. Đặc
2
điểm Phật giáo Việt Nam được hình thành trên cơ sở tín ngưỡng, tâm linh của
cư dân bản địa có tiếp thu tôn giáo ngoại nhập.
Còn tác giả Thiền sư Đinh Lực và Cư sĩ Nhất Tâm trong công trình
“ Phật giáo Việt Nam và Thế giới” đã mô tả Phật giáo và những vấn đề cơ
bản của Phật pháp, thiền. Tôn giáo hiện hành và sự ảnh hưởng của nó tới văn
hoá, kinh tế, chính trị của các quốc gia, các dân tộc.
Trong “Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam” của Nguyễn
Hùng Hậu tác giả viết về Lược sử Phật giáo Việt Nam từ khởi nguyên đến thế
kỷ XIV với những tông phái tiêu biểu. Phân tích về thế giới quan và nhân sinh
quan Phật giáo Việt Nam.
Hay “Tư tưởng Phật giáo” của Thích Trí Quảng gồm các bài giảng và
bài viết của Hoà thượng Thích Trí Quảng về tư tưởng Phật giáo, cách tu niệm
Phật pháp, giới luật của phật tử... và những thành quả của Giáo hội Phật giáo
Việt Nam.
“Phật giáo với văn hoá Việt Nam” của Nguyễn Đăng Duy, tác giả đã
nghiên cứu các khái niệm, tư duy triết lý văn hoá về Phật giáo với văn hoá
Việt Nam; việc du nhập và mở rộng Phật giáo ở Việt Nam; Lý luận Phật giáo
với văn hoá hữu hình; Phật giáo với văn hoá tinh thần và Phật giáo với văn
học.
Trong cuốn “Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với con
người Việt Nam hiện nay” (Nxb CTQG, Hà Nội 1997) do Giáo sư Nguyễn
Tài Thư chủ biên, các tác giả đã đề cập đến vai trò của Phật giáo đối với hệ tư
tưởng, đối với sự hình thành nhân cách của con người Việt Nam hiện nay.
Nguyễn Đăng Duy trong “Phật giáo văn hóa Việt Nam” (Nxb Hà Nội 1999)
đã đề cập đến vai trò của Phật giáo trong đời sống chính trị, xã hội, văn hóa,
đạo đức của dân tộc Việt Nam.
Trần Văn Giàu với một loạt các công trình nghiên cứu: “Giá trị tinh
thần truyền thống của dân tộc Việt Nam” (Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội
3
1975), “Đạo đức Phật giáo trong thời hiện đại” (Nxb TP. Hồ Chí Minh 1993)
và “Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ giữa thế kỷ XIX đến cách mạng
tháng Tám” (3 tập) (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1997, 1998) đã đề cập
đến những giá trị đạo đức Phật giáo, đề cập đến những đóng góp của Phật
giáo trong lịch sử tư tưởng Việt Nam.
Các tri thức Phật giáo cũng đóng góp nhiều công trình có giá trị trong
lĩnh vực này, như: Thích Đạo Quang với “Đại cương triết học Phật giáo”
(Nxb Thuận Hóa, Huế 1996) đã phân tích những giá trị trong các giáo lý cơ
bản của Phật giáo và đề cập một cách khái quát các tông phái cơ bản của đạo
Phật. Thích Minh Châu trong “Đạo đức Phật giáo và hạnh phúc con người”
đã đề cập đến những giá trị nhân đạo, nhân bản trong đạo đức Phật giáo. Theo
ông, khi con người được di dưỡng trong nền đạo đức Phật giáo, họ sẽ được an
trú trong niềm hạnh phúc và an lạc. Thích Thanh Từ trong “Phật giáo với dân
tộc” (Thành hội Phật giáo TP. Hồ Chí Minh 1995) đã bàn về những nét chính
trong luân lý Phật giáo, những giới luật của phật từ tại gia và phật từ xuất gia,
về đóng góp của Phật giáo với tuổi trẻ Việt Nam hiện nay.
Học viện Phật giáo Việt Nam tại TP. Hồ Chí Minh với “Phật giáo
nhập thế và phát triển” (Nxb Tôn giáo 2008) đã tập hợp các bài viết của các
nhà khoa học, các trí thức Phật giáo viết về vai trò của Phật giáo trong các
lĩnh vững đời sống xã hội Việt Nam hiện nay như: Phật giáo trong thời kỳ hội
nhập và phát triển, Phật giáo với chính trị - xã hội, Phật giáo với sự phát triển
bền vững của đất nước, Phật giáo với xã hội dân sự, Phật giáo với sự nghiệp
độc lập, Phật giáo với các tâm linh, Phật giáo các từ thiện nhân đạo.
Thông qua những tình hình nghiên cứu trên, chúng ta có thể rút ra một
số nhận xét như sau:
Thứ nhất, Phật giáo và vai trò của Phật giáo trong đời sống xã hội là
lĩnh vực thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Các công trình
4
nghiên cứu tiếp cận Phật giáo và vai trò Phật giáo dưới nhiều quan điểm góc
độ khác nhau.
Thứ hai, trong một số công trình nghiên cứu về Phật giáo, các học giả
đã chú ý nghiên cứu về những giá trị của Phật giáo như giá trị đạo đức, giá trị
nghệ thuật, tư tưởng giá trị thẩm mỹ.
Thứ ba, trong một số công trình nghiên cứu chuyên biệt về các phương
diện khác nhau của Phật giáo, trong đó có một số công trình đã có sự phân
tích sâu sắc về những ảnh hưởng của một số giá trị Phật giáo đến các phương
diện khác nhau trong lối sống của người Việt Nam.
Tuy nhiên, theo chúng tôi thấy thì chưa có công trình nào bàn về ảnh
hưởng của Phật giáo đối với đạo đức, lối sống của sinh viên Việt Nam một
cách có hệ thống, đặc biệt là sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội. Chính
vì vậy, trên cơ sở kế thừa thành quả nghiên cứu của các nhà khoa học đi trước,
đề tài của chúng tôi tập trung vào việc hệ thống hóa những ảnh hưởng của
Phật giáo đối với đạo đức, lối sống của sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà
Nội.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những giá trị giáo lý của Phật giáo ảnh hưởng đến
đạo đức, lối sống của người Việt và phân tích thực trạng ảnh hưởng của Phật
giáo đối với đạo đức, lối sống của sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội từ
đó đề tài đưa ra một số giải pháp phát huy những ảnh hưởng tích cực và hạn
chế tiêu cực đối với sinh viên.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Khái quát những nội dung cơ bản trong giáo lý của Phật giáo ảnh
hưởng đến đạo đức, lối sống người Việt;
Phân tích thực trạng ảnh hưởng của Phật giáo trên một số phương diện
về đạo đức, lối sống đối với sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội;
5
Đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế
những ảnh hưởng tiêu cực của Phật giáo trong quá xây dựng đạo đức, lối sống
đối với sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Ảnh hưởng của Phật giáo đối với đạo đức, lối
sống của sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội tại phân hiệu Hà Nội.
Phạm vi nghiên cứu: Sinh viên đại học chính quy trường Đại học Nội
vụ Hà Nội tại phân hiệu Hà Nội.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh quán triệt đường lối
của Đảng, Nhà nước. Đồng thời tổng hợp sử dụng các phương pháp như:
Phân tích và tổng hợp….để nghiên cứu đề tài này.
6. Đóng góp mới của đề tài
Đề tài góp phần bồi dưỡng, nâng cao trình độ nghiên cứu về tôn giáo
nói chung, về Phật giáo nói riêng cho đội ngũ cán bộ công tác trong lĩnh vực
này.
Đề tài làm rõ ảnh hưởng hai mặt của Phật giáo giáo đối với lối sống,
đạo đức của người Việt Nam nói chung và sinh viên nói riêng, nhất là sinh
viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội. Và những vấn đề đặt ra hiện nay nhằm
tìm kiếm các giải pháp để phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng
tiêu cực của Phật giáo trong quá trình xây dựng đạo đức, lối sống mới của
sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội.
Kết quả của đề tài là tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu,
giảng dạy lý luận về tôn giáo và một số lĩnh vực khoa học xã hội nhân văn
khác.
7. Cấu trúc của đề tài
6
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục. Đề tài
gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung ảnh hưởng của Phật giáo đối
với đạo đức, lối sống của sinh viên.
Chương 2: Thực trạng ảnh hưởng của Phật giáo đối với đạo đức, lối
sống của sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội.
Chương 3: Những vấn đề đặt ra, quan điểm và giải pháp nhằm phát
huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của Phật giáo đối với
đạo đức, lối sống của sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội.
7
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG ẢNH HƯỞNG CỦA
PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG CỦA SINH VIÊN
1.1. Một số khái niệm cơ bản và Khái quát một số nội dung cơ bản
của Phật giáo có ảnh hưởng đến đạo đức, lối sống của sinh viên
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1.1. Khái niệm sinh viên
Sinh viên là người học tập tại các trường đại học, cao đẳng, trung cấp.
Ở đó họ được truyền đạt kiến thức bài bản về một ngành nghề, chuẩn bị cho
công việc sau này của họ. Họ được xã hội công nhận qua những bằng cấp đạt
được trong quá trình học
Theo từ điển Bách kha toàn thư Wikipedia Việt Nam: “Sinh viên chủ
yếu là những người đăng ký vào trường hoặc cơ sở giáo dục khác tham gia
các lớp học trong khóa học để đạt được mức độ thành thạo môn học ttheo
hướng dẫn của người hướng dẫn, và dành thời gian bên ngoài lớp để thực
hiện bất cứ hoạt động nào mà giảng viên chỉ định là cần thiết cho việc chuẩn
bị lớp học hoặc để gửi bằng chứng về sự tiến bộ đối với sự thành thạo đó”.
Sinh viên là những người có tuổi đời còn trẻ, thường thì 18 đến 25 dễ
dàng thay đổi, chưa định hình rõ rệt về nhân cách của các hoạt động giao tiếp,
có tri thức đang được đào tạo chuyên môn. Sinh viên vì thế dễ tiếp thu cái
mới, thích tự tìm tòi và sáng tạo. Đây cũng là tầng lớp xưa nay khá nhạy cảm
với các vấn đề chính trị - xã hội, đôi khi cực đoan nên không được định
hướng tốt.
Một đặc điểm rất đáng chú ý đang xuất hiện trong những người trẻ hiện
nay, liên quan đến sự phát triển của công nghệ thông tin với tư cách là một
cuộc cách mạng, đó là sự hình thành một môi trường ảo, hình thành một lối
sống ảo. Đặc điểm này chỉ biểu hiện trong giới trẻ, đặc biệt những người có
tri thức như sinh viên. Hình thành một phương pháp tư duy của thời đại công
8
nghệ thông tin: ngôn ngữ ngắn gọn, viết bằng bàn phím thay vì cây bút, có
tính lắp ghép chính xác, hệ thống, hạn chế sự bay bổng về mặt hình tượng
trực quan. Con người vì thế sống trong một môi trường ảo, và cái hiện thực ở
đây là cái hiện thực ảo, giao tiếp ảo. Về môi trường sống, sinh viên thường
theo học tập tại các trường đại học và cao đẳng, sinh hoạt trong một cộng
đồng (trường, lớp) gồm chủ yếu là những thành viên tương đối đồng nhất về
tri thức, lứa tuổi, với những quan hệ có tính chất bạn bè khá gần gũi.
1.1.1.2. Khái niệm đạo đức, lối sống
Đạo đức là một từ Hán - Việt, được dùng từ xa xưa để chỉ một yếu tố
trong tích cách và giá trị của mỗi con người. Là hệ thống về các quy tắc chuẩn
mực của cộng đồng và xã hội. Đạo là con đường, đức là tính tốt hoặc những
công trạng tạo nên. Khi nói một người có đạo đức là ý nói người đó có sự rèn
luyện thực hành các lời răn dạy về đạo đức, sống chuẩn mực và có nét đẹp
trong đời sống và tâm hồn.
Đạo đức là một hình thái xã hội, xuất hiện tương đối sớm và có vai trò
quan trọng đối với sự phát triển của xã hội. Đạo đức được hiểu “Là hệ thống
các quy tắc, chuẩn mực xã hội mà nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành
vi của mình cho phù hợp với lợi ích cộng đồng, của xã hội” [1, tr.63].
Với sự phát triển của nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế ngày
nay, thì một số các quy tắc, chuẩn mực của đạo đức dần biến đổi. Nhưng,
những điều này không đồng nghĩa là các giá trị đạo đức cũ hoàn toàn mất đi,
thay vào đó là các giá trị đạo đức mới. Các giá tri đạo đức ở Việt Nam hiện
nay là sự kết hợp sâu sắc truyền thống tốt đẹp của dân tộc với xu hướng tiến
bộ của thời đại, của nhân loại. Đó là tinh thần cần cù, sáng tạo, yêu lao động;
tình yêu quê hương, đất nước gắn liên với chủ nghĩa xã hội; sống làm việc
theo hiến pháp và pháp luật, có lối sống văn minh, lành mạnh; có tinh thần
dân tộc nhân đạo và tinh thần quốc tế cao cả.
9
Theo Phạm Hồng Tung: “Lối sống của con người là các chiều cạnh
chủ quan của văn hóa, là quá trình thực hiện hóa các giá trị văn hóa thông
qua hoạt động của con người. Lối sống bao gồm tất cả những hoạt động sống
và phương thức tiến hành các hoạt động sống được một bộ phận lớn hoặc
toàn thể nhóm cộng hay cộng đồng người chấp nhận và thực hành trong một
khoảng thời gian tương đối ổn định, đặt trong mối tương tác biện chứng của
các điều kiện sống hiện hữu và trong các mối liên hệ lịch sử của chúng” [12,
tr.276].
Theo từ điển Bách kha toàn thư Wikipedia Việt Nam: “Lối sống là
những nét điển hình, được lặp đi lặp lại và định hình phong cách, thói quen
đời sống cá nhân, nhóm xã hội, dân tộc, hay là cả một nền văn hóa” [27].
Như vậy, lối sống là một thói quen có định hướng, là phương thức cách
thể hiện tổng hợp tất cả các cấu trúc, nền văn hóa, đặc trưng văn hóa của con
người hay cộng đồng. Lối sống phụ thuộc vào thời đại con người đang sống,
với các điều kiện vật chất kinh tế, các quan hệ xã hội, có thói quen, tập quán,
tục lệ của thời đại đó.
Đạo đức, lối sống đó là biểu hiện của các giá trị hợp thành của nhiều
mối quan hệ trong một bối cảnh lịch sử, văn hóa cụ thể. Đạo đức, lối sống của
từng cá nhân trước hết là sản phẩm quá trình phát triển của chính mình nhưng
mang đậm dấu ấn nền tảng giáo dục gia đình, của các điều chỉnh xã hội, và
của các tập quán cộng đồng.
Quá trình hình thành, phát triển của cá nhân chính là quá trình tiếp
nhận, chọn lọc, hấp thụ và chuyển hóa các tiêu chuẩn đạo đức, thẩm mỹ được
quy định trong các quy ước gia đình, tập tục của dòng họ, làng xóm, nội quy
nhà trường, quy định của pháp luật (sau đây gọi chung là Quy định). Trong
các quy định ấy có những nội dung tồn tại bền vững, có nội dung tạm thời,
không phù hợp, bị thay thế, có nội dung mới mẻ được bổ sung thêm.
10
Khí chất, xu hướng, tính cách của từng cá nhân trước áp lực của các
mối quan hệ này, theo thời gian sẽ nảy sinh các xu hướng chấp nhận hay
cưỡng lại, tự nguyện hay miễn cưỡng, coi trọng hay xem thường. Vì thế,
trong một ngôi nhà có thế đời cha chú thì tốt, đời con cháu lại hỏng; trong
một lớp học có học sinh, sinh viên ngoan ngoãn, chăm chỉ, lại có những học
sinh, sinh viên có nhiều hành vi ngoài mong đợi; trong một xã làng này yên
ấm, no vui, hương ước được đề cao, nhưng một số làng khác, xóm khác thì
đời sống gặp bất an, nghèo nàn, thiếu tôn ti trật tự.
1.1.2. Khái quát một số nội dung cơ bản của Phật giáo có ảnh hưởng
đến đạo đức, lối sống của sinh viên
Phật giáo ở Việt Nam với những giáo lý, đạo đức mang tính nhân văn
đã để lại những ảnh hưởng sâu sắc đến đạo đức tinh thần người Việt. Người
Việt Nam ít nhiều đều chịu ảnh hưởng của đạo Phật, đặc biệt là tinh thần từ bi,
bác ái của nhà Phật đã hòa quyện với truyền thống nhân ái của người Việt
Nam. Đạo lý của nhà Phật cũng ăn sâu vào nếp sống, nếp nghĩ của người dân
Việt và đã trở thành những giá trị tinh thần vô giá cho người dân. Đạo đức
Phật giáo không còn là kinh kệ trên sách vở mà đã đi vào đời sống hiện thực.
Phật giáo đã góp phần không nhỏ vào việc hoàn thiện đạo đức con người, cho
từng cá nhân, cho mỗi gia đình và cho toàn xã hội. Có thể nói Phật giáo đã
góp phần củng cố nền đạo đức, lối sống của xã hội nói chung và hoàn thiện
đạo đức cá nhân trong đó có sinh viên nói riêng. Đặc biệt trong điều kiện
chúng ta đang phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế thì điều đó
càng trở nên có ý nghĩa. Những nội dung giáo lý của Phật giáo ảnh hưởng đến
thế hệ trẻ trong đó có sinh viên như:
Phật giáo luôn hướng con người tới điều thiện nhấn mạnh đến cái tâm
"Phật là tâm, tâm là phật". Phật giáo giáo dục con người lòng từ bi - lòng yêu
thương xây dựng cho con người một tâm hồn chân - thiện - mỹ làm nền. Đạo
đức Phật giáo luôn uốn nắn tính khí con người vào một kỷ luật giới hướng
11
con người sống lương thiện dần dần con người sẽ có phẩm chất đạo đức tốt.
Đạo đức đối với gia đình tình cảm hiếu thảo với cha mẹ, thương yêu anh em,
hòa thuận vợ chồng…
Làm thiện, từ bi cứu khổ cứu nạn vừa là tư tưởng vừa là hành vi của
nhà Phật tư tưởng này là một nét đẹp trong xã hội. Nó lên án chủ nghĩa cá
nhân thói ích kỷ bàng quan của xã hội coi trọng đồng tiền. Tạo cho xã hội
nhân đạo và lương tri hơn, con người sống một nếp sống không hận thù,
không cố chấp, nếp sống của mọi miền thông cảm yêu thương.
Người Việt Nam vẫn thường nói "quả báo", "gieo gió gặp bão", "nhân
nào quả đây", … Đây chính là những lời Đức phật dạy con người rèn luyện
đạo đức của chính mình bằng sự giáo dục nhân quả. Phật giáo khuyên con
người thiện để tránh ác nghiệp báo về sau vì "nhân nào quả đấy", "thiện giả
thiện báo, ác giả ác báo".
Với sự giáo dục nhân quả Phật giáo đã trả con người về chính nó giúp
con người nhìn nhận lại chính mình mà điều chỉnh hành động. Con người
nhất thiết phải chịu trách nhiệm cả về mặt nhận thức và hành động của mình.
Những tội lỗi mà chính con người gây ra có thể chạy trốn được pháp
luật nhưng không thể chạy trốn được chính mình.
Phật giáo luôn chủ trương bình đẳng bác bỏ sự phân biệt giai cấp giàu
nghèo. Đây cũng là một ý tưởng xây dựng một xã hội công bằng..
"Ngũ giới" "Bát giới" "Thập giới" là những giới luật nhà Phật thực hiện.
Trong đó cơ bản nhất là "ngũ giới". Ngũ giới là không sát sinh, không
trộm cắp, không tà dâm, không nói dối trá, không bậy bạ, không uống rượu,
giới luật này là điều kiện để giải thoát.
Những vấn đề xã hội thì nó đưa đến một hệ quả làm cho xã hội có một
cuộc sống bình yên, có quan hệ lành mạnh.
Phật giáo dạy con người phải nhàn tức, tức là chịu khổ, chịu hại mà
không oán hận lấy oán trả ân. Với tư tưởng này Phật giáo đã cho xã hội ổn
12
định, con người đầy lòng nhân ái, yêu thương, sống không thù hận, không
chém giết.
Tương hệ giữa thầy và trò, bổn phận làm trò đối với thì phải có 5 điều
là thức dậy để trào hay là phải kính sợ thầy hầu hạ thầy hăng hái học tập tự
phục vụ thầy chú tâm học hỏi nghề nghiệp; bổn phận làm thầy dạy trò cũng
có 5 điều là dạy cho những điều hòa mình đã được khéo huấn luyện dạy cho
bảo trì những gì mình được khép và bảo trì, dạy cho thuần phục mọi loại nghề
nghiệp khen trò với các bạn bè thân thuộc, bảo đảm nghề nghiệp cho mọi mặt.
Tương hệ giữa mình với bạn bè bà con thân thuộc bằng quyến thuộc
bổn phận của mình đối với bạn bè bà con thân bằng quyến thuộc có 5 điều bố
thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự, không lừa gạt, bạn bè, bà con thân bằng quyến
thuộc đối với mình cũng có 5 điều che chở nếu mình phóng túng, bảo trì tài
sản của mình nếu mình phóng túng, trở thành chỗ nương tựa khi mình gặp
nguy hiểm, không xa lánh khi mình gặp khó khăn, kính trọng gia đình mình.
1.2. Những ưu điểm, hạn chế của Phật giáo
1.2.1. Ưu điểm của Phật giáo
Giá trị nhân bản của Phật giáo là một giá trị lớn trong giá trị của nó.
Giá trị này được thể hiện rõ trong nhân bản luận của Phật giáo với thuyết
“Duyên sinh vô ngã”. Đây không chỉ là giá trị tư tưởng mà còn là những giái
trị văn hóa, tôn giáo tích cực trong xã hội.
“Duyên sinh vô ngã” là một cuộc cách mạng thực sự khi đã giúp con
người thoát khỏi thần quyền. Nhân bản luận Phật giáo phân ra hai loại tồn tại
người, một là “tự ngã” với sự tồn tại là giả hợp, hai là “vô ngã” với sự tồn tại
là đích thực. Tự ngã là đau khổ, ngược lại với vô ngã là giải thoát, là niết bàn.
Khi con người càng lưu giữ, ràng buộc chặt chẽ với tự ngã, đòi hỏi cố thỏa
mãn cái tự ngã thì càng đau khổ luân hồi bất tận. Những ý thức kinh nghiệm
về tự ngã đều thuộc giới hạn vô minh và đau khổ. Để chấm dứt được điều này,
13
con người phải đạt tới sự giác ngộ cao về vô ngã. Đây là đỉnh cao của trí tuệ
của sự giác ngộ để đi đến giải thoát và niết bàn.
Phật giáo với tư tưởng đời là “bể khổ”. Theo cách hiểu này thì con
người có được hạnh phúc chỉ khi thoát khỏi tự ngã bằng cách giác ngộ về vô
ngã. Phật giáo chỉ ra con đường tu dưỡng “bát chính đạo” đây có lẽ là một sự
kết hợp độc đáo của tâm pháp trên cơ sở phối hợp ba phương diện tu dưỡng:
giới - định - tuệ.
Trong quá trình phát triển, Phật giáo đã bảo tồn những giá trị căn bản
của Phật giáo nguyên thủy; đồng thời không ngừng bổ sung và hoàn thiện các
luận tạng. Thể hiện sự phát triển của giáo lí Tiểu thừa đến khuynh hướng Đại
thừa hiện đại hóa ngay trong nội bộ Phật giáo. Điểm tiến bộ của Đại thừa là ở
nhân bản luận của nó đã được nâng cao lên tầm phổ quát: giác ngộ vượt ra
ngoài hữu ngã và vô ngã. Nhân bản luận Phật giáo trong quá trình du nhập,
đối thoại và phân phái đã không ngừng khắc phục hạn chế và ngày càng hiện
đại hóa. Nó đã được hầu hết các nước Châu Á có sự hiện diện của Phật giáo
tiếp nhận và phát triển thành các giá trị tư tưởng giáo dục - triết học - đạo đức
dân tộc. Các giá trị tư tưởng này được thể hiện rất đa dạng thành các giá trị
văn học nghệ thuật, lối sống, làm phong phú thêm cho văn hóa bản địa. Đó là
các giá trị đề cao tính nội tâm, hướng nội của con người khi chắt lọc và nâng
lên tầm nghệ thuật.
Về nghiệp và luân hồi, chúng có giá trị đạo đức tôn giáo độc đáo,
những vị quan tòa phán xử vô tư. Nghiệp nào lãnh quả đấy, nghiệp và luân
hồi có tác dụng cảnh tỉnh và hướng con người tự giác làm điều thiện. Tuy
nhiên, lập trường tôn giáo lại thể hiện rõ trong Phật giáo. Ở chỗ, con người
đạo đức Phật giáo là con người phi giai cấp, phi lịch sử. Khi con người trở về
với chính mình trên con đường niết bàn thì mọi mâu thuẫn về quyền lợi, chính
trị hay giai cấp đều được cân bằng.
14
Về giải thoát luận, đạo Phật khẳng định tất cả mọi người đều bình đẳng
trên con đường giải thoát. Niết bàn là cảnh giới lý tưởng của giải thoát luận
đạo. Đó là sự thoát ly khái niệm, thoát ly mọi hình tượng, nằm ngoài phạm vi
khảo sát và miêu tả. Nó được phân chia thành niết bàn vô dư và niết bàn hữu
dư. Sự phân đôi có ý nghĩa quan trọng trong việc vẽ ra khả năng đạt tới niết
bàn, khích lệ niềm tin và sự tu dưỡng. Khi con người đạt đến trạng thái giải
thoát họ có được một phẩm chất lý tưởng gọi là “Phật tính”.
Đạo đức Phật giáo không ngừng chọn lọc, hoàn thiện qua lịch sử phát
triển của Phật giáo và giờ đây nó trở thành tinh hoa văn hóa chung của loài
người chứ không chỉ riêng của Phật giáo theo nghĩa tôn giáo. Dưới thử thách
của cơ chế thị trường, đạo đức Phật giáo sẽ không ngừng vươn tới hoàn thiện
cả về mặt nội dung và hình thức.
1.2.2. Hạn chế của Phật giáo
Bên cạnh những ưu điểm, thì Phật giáo cũng có những hạn chế sau đây:
Thứ nhất, là về Thiền Phật giáo không thể trực tiếp mở rộng sang các
lĩnh vực khoa học tự nhiên và kỹ thuật hiện đại. Đây là một hạn chế lớn của
Thiền với tư cách hệ tư tưởng triết học - tôn giáo. Hạn chế này bắt nguồn từ
sự giải thoát của Thiền Phật giáo, nó là một trải nghiệm tâm linh có tính
hướng nội và tính các thể tuyệt đối nên không thể chứng minh hay bác bỏ. Vì
vậy mà Thiền Phật giáo chủ yếu phát huy sức mạnh trực giác hướng nội trong
các lĩnh vực triết học, đạo đức, tôn giáo hay nghệ thuật và có khả năng hấp
dẫn đối với nhu cầu nội tâm. Hạn chế này vẫn đang tồn tại và khó khắc phục.
Thứ hai, là Phật giáo không thấy được sự hồi sinh của con người qua
các hoạt động thực tiễn và sáng tạo khoa học. Đây là một hạn chế trong thiện,
tốt và không phân biệt đẳng cấp, song thực thế lại không có nhiều người được
như vậy. Và giáo đoàn Phật giáo đã nhiều lần phải cải tổ chỉ vì chính sự tha
hóa nhân cách của một số tăng sĩ trong giáo đoàn và cả vì sự tranh chấp giữa
15
các giáo phái, thậm chí có lúc phải đổ máu. Đây là một sự thật đáng buồn
trong nội bộ Phật giáo.
Thứ ba, hạn chế lớn nhất và cũng khó khắc phục nhất của Phật giáo là
chưa giải thích đúng đắn bản chất của các hiện tượng lịch sử xã hội, chưa tìm
ra nguyên nhân đích thực nỗi khổ mà nhân dân phải gánh chịu. Và là cũng
chưa chỉ ra được con đường và biện pháp cải tạo xã hội một cách đúng đắn,
có hiệu quả để xóa bỏ tận gốc rễ sự đau khổ và bất công trong xã hội đương
thời.
1.3. Tư tưởng Phật giáo về đạo đức, lối sống và vận dụng tư tưởng
Phật giáo và việc giáo dục đạo đức, lối sống của sinh viên
1.3.1. Tư tưởng Phật giáo về đạo đức, lối sống
Với tư tưởng từ bi, hỷ xả của Phật giáo đã hướng tới con người việc
xây dựng nếp sống trong sáng, lành mạnh, một tinh thần hướng thiện thật sự.
Đây thực sự là một những thành tố quan trọng để tạo nên nền văn hóa dân tộc
trong suốt hàng nghìn năm. Ngày nay, Phật giáo vẫn còn lưu giữ được rất
nhiều yếu tố tốt đẹp để góp phần tạo nên những giá trị đạo đức, lối sống cho
con người Việt Nam. Tính hướng thiện của Phật giáo là một trong những
nguồn gốc của chủ nghĩa nhân đạo: lòng từ bi, bác ái; giữ vững tinh thần lá
lành đùm lá rách của dân tộc…
Giáo lý nhà Phật khuyên con người luôn nhớ đến “đạo hiếu”, lấy chữ
hiếu làm đầu: “hạnh hiếu là hạnh Phật, tâm hiếu là tâm Phật”, “muôn việc ở
thế gian không gì hơn công ơn nuôi dưỡng của cha mẹ”. Đây là những giá trị
tích cực, thiết thực làm góp phần giáo huấn con người, giúp cho thế hệ trẻ
vững bước trước những sự cám dỗ của cuộc đời, khích lệ họ quan tâm đến số
phận của cộng đồng, sống lương thiện, coi trọng tính nhân bản.
Phật giáo khuyên con người giữ ngũ giới: không sát sinh, không nói dối,
không trộm cướp, không tà dâm, không uống rượu/bia.
16
Phật giáo khuyên con người nên đạt được các pháp hoàn thiện, gồm:
Bố thí, Trì giới, Trí tuệ, Chân thật, Tinh tấn, Xuất gia, Nhẫn nại, Quyết định,
Tâm từ, Tâm xả.
Sau khi thực hành, các đức tính phát triển là đại từ, chánh nhân, vị tha,
chánh kiến và xa lìa kiêu ngạo, tự phụ.... Trước lúc nhập diệt, Người còn căn
dặn rằng: “Hủy diệt là thuộc tính của vạn vật trên thế gian này. Các con hãy
tự cứu lấy mình với sự chuyên cần” [18, tr.18].
Có thể nói quan niệm trên là một trong những quan niệm giàu giá trị
nhân bản nhất của Phật giáo. Nó không chỉ giúp com người có cuộc sống lành
mạnh mà còn giúp ngăn ngừa và vượt qua các tệ nạn xã hội, cũng chính vì
vậy nó đã kích thích con người phải luôn yêu thương lẫn nhau và làm việc
thiện trong mọi trường hợp. Vì vậy, Hồ Chí Minh đã nhận xét: “Tôn chỉ mục
đích của đạo Phật nhằm xây dựng cuộc đời thuần mỹ, chí thiện, bình đẳng,
yên vui và no ấm” [12, tr.290].
Trong mối quan hệ giữa con người với con người, tư tưởng Phật giáo
luôn hướng tới đến việc xây dựng các mối quan hệ bình đẳng, ôn hòa, tôn
trọng lẫn nhau. Đặc biệt nhất là vấn đề bình đẳng giới, đó là bình đẳng về giới
tính và nữ quyền, đây là vấn đề quan trọng nhất trong thời đại mới. Bởi vì, nữ
giới thường chịu nhiều bất công ở trong các mọi nền văn hóa, đặc biệt là nền
văn hóa thời phong kiến. Cho nên đấu tranh về bình đẳng giới tính thường là
đồng nghĩa với tranh đấu cho nữ quyền. Việc công tác đấu tranh cho bình
đẳng nữ giới vẫn là một trong những nội dung quan trọng trong việc xây dựng
một xã hội bình đẳng ở Việt Nam hiện nay, và đó cũng là điều quan trọng
nhất trong cuộc đấu tranh này, bởi vì nhận thức thay đổi thì hành động cũng
thay đổi theo. Về mặt tư tưởng này thì Phật giáo chứa đựng được nhiều những
tư tưởng rất thiết thực.
Với tính cấp thiết này, Đức Phật đã tìm hiểu rõ về vấn đề này. Từ đó,
Ngài đã làm một cuộc cách mạng quan trọng để giải thoát nữ giới ra khỏi
17
những tư tưởng cổ hủ và nâng cao địa vị của họ trong xã hội, để làm sao cho
những người phụ nữ đó có thể hưởng đượcc quyền lợi của mình đều được
bình đẳng như mọi người khác. Và cũng chính Đức Phật đã truyền giảng cho
kế mẫu của mình là Kiều Đàm Nhi giác ngộ. Điều này cho phép mở ra việc tu
hành cho nữ giới sau này. Học giả Daisaku Ikeda trong một nghiên cứu của
mình đã nêu lên một nhận xét về tinh thần bình đẳng của Phật giáo như sau:
“vượt qua những quan điểm hẹp hòi về huyết chủng, đẳng cấp và dân tộc,
Phật giáo thể hiện tính kiên quyết về sự bình đẳng của bốn đẳng cấp truyền
thống trong xã hội Ấn Độ”[19, tr.108].
Trong rất nhiều bộ Kinh, đức Phật đã dạy về công bằng xã hội và nhân
quyền. Theo Phật giáo, mỗi người đều giống nhau và đáng được giữ gìn nhân
phẩm và sống cuộc sống có phẩm chất.
Tư tưởng bình đẳng trong những lời dạy của Đức Phật Thích Ca là một
trong những điều tốt đẹp và tiến bộ cho nền Phật học ngày nay. Một trong
những lời bình dị đơn giản của Đức Phật Thích Ca đã nói, nhưng ít ai để ý
đến đó là: "Một người trở nên cao quý hay thấp kém là do ba nghiệp của họ,
chứ không phải do nơi chốn mà họ sinh ra" [2].
Phật giáo là một tôn giáo luôn quan tâm đến những vấn đề giải thoát
cho con người. Môn phái này không những tôn trọng và khẳng định những
quyền cơ bản của con người. Không những thế, Phật giáo còn không loại bỏ
những quyền của các sinh vật khác như thú vật và cây cỏ. Phật giáo đều răm
dạy con người không nên hủy diệt cuộc sống, lời khuyên này không những áp
dụng cho con người mà còn cho cả muôn loài có tri giác. Nó được thể hiện
qua một số điều răn dạy sau đây của Phật giáo, đó là: không được giết người,
không được trộm cắp, không được nói dối.
Phật giáo với nhiều triết lý không thể nào mà rời xa được những lợi ích
cá nhân và lợi ích xã hội, mà còn nhấn mạnh những lợi ích cá nhân và xã hội
phải luôn đi cùng nhau để tạo ra được hạnh phúc cho nhân loại. Những triết lý
18
đều được thể hiện hay bắt gặp ở trong năm giới điều, chuẩn mực nền tảng đạo
đức của Phật giáo. Cho nên, con người cần phải giữ được năm giới điều của
Phật giáo để làm cho cuộc sống không bị tổn hại, không vi phạm pháp luật
quốc gia, vì lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội. Như vậy, chúng ta có thể thấy,
Phật giáo là một tôn giáo có tính xã hội, với tinh thần “nhập thế” hết sức sâu
rộng, và đó cũng chính là lý do hàng trăm triệu người khắp thế giới theo Phật
giáo.
Ở trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, Phật giáo luôn
hướng tới con người đến việc tôn trọng và xây dựng môi trường bền vững.
Phật giáo đưa ra cho chúng ta có những thái độ đúng hơn đối với môi trường,
và đó cũng là một trong các những vấn đề lớn ở trong thời đại của chúng ta
hiện nay. Ở trong những lời răn dạy không được hủy diệt cuộc sống thì quyền
sống thì quyền sống của thú vật và cây cỏ cũng được tôn trọng như con người.
Bởi vì, thiên nhiên không những lệ thuộc vào con người, mà ngược lại con
người cũng lệ thuộc vào thiên nhiên.
Khi nói về những ảnh hưởng tích cực đến môi trường sống của nhân
loại từ những giáo pháp của đức Phật, chúng ta có thể nhận thấy rằng yếu tố
cần thiết phải xét đến là cách giải quyết đời sống kinh tế của loài người mà
đức Phật quan tâm đến. Để vấn đề này dần được thực hiện một cách hiệu quả
hơn thì Đức Phật đã dậy cần phải thực hiện “chánh mạng” có nghĩa là phải
kiếm sống một cách lương thiện, đúng đắn, không làm tổn hại cho mình, mọi
người xung quanh và muôn loài.
Nói về cách ứng xử đến những vấn đề kinh tế này, nếu được thực hành
một cách chọn vẹn, thì chúng ta sẽ thực hiện bảo vệ môi trường sống của con
người một cách hoàn hảo bằng phương pháp thực hiện các phương thức cách
sống “chánh mạng”. Cùng với việc thực “chánh mạng” trong “Bát chánh
đạo”, đức Phật còn khuyên dạy con người luôn phải giữ giới “không được sát
sinh” để tăng trưởng lòng từ bi. Có thể thấy đây là một trong những việc làm
19
thiết thực, âm thầm và lâu dài trong việc bảo vệ môi trường sống của con
người một cách hoàn hảo nhất.
Lời dạy của Đức Phật Thích Ca trong Kinh Từ Bi là minh chứng rõ
ràng và toàn diện cho tư tưởng tôn trọng và sống hòa hợp với tự nhiên, vạn
vật: "Nguyện cho mọi người và mọi loài được sống trong an toàn và hạnh
phúc, tâm tư hiền hậu và thảnh thơi; nguyện cho tất cả các loài sinh vật trên
trái đất đều được sống an lành, những loài yếu, những loài mạnh, những loài
cao, những loài thấp, những loài lớn, những loài nhỏ, những loài ta có thể
nhìn thấy, những loài ta không thể nhìn thấy, những loài ở gần, những loài ở
xa, những loài đã sinh và những loài sắp sinh; nguyện cho đừng loài nào sát
hại loài nào, đừng ai coi nhẹ tính mạng của ai, đừng ai vì giận hờn hoặc ác
tâm mà mong cho ai bị đau khổ và khốn đốn" [17].
1.3.2. Vận dụng tư tưởng Phật giáo vào việc giáo dục đạo đức, lối
sống của sinh viên
Văn kiện Đại hội XI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhấn mạnh:
“Tôn trọng và phát huy những giá trị đạo đức, văn hóa tốt đẹp của các tôn
giáo” [4, tr.81]. Việc vận dụng tư tưởng vào việc giáo dục đạo đức, lối sống
cho học sinh – sinh viên Việt Nam hiện nay là rất cần thiết, xuất phát từ cơ sở
thực tiễn lẫn cơ sở khoa học.
Để vận dụng được những tư tưởng Phật giáo vào việc giáo dục đạo
đức, lối sống của sinh viên. Điều trước tiên, nên xem xét Phật giáo về giáo
dục đạo đức là một trong những tư tưởng giáo dục tiến bộ trong lịch sử nhân
loại. Bởi vì trong giáo dục đại học cần phải vận dụng rất nhiều phương thức
khác nhau để nhằm đạt đến những giá trị cao nhất của con người, nhất là giáo
dục về đạo đức, lối sống của sinh viên hiện nay. Điều đó chúng ta cần phải
tìm kiếm và vận dụng những tư tưởng giáo dục tiến bộ vốn có lịch sử trong
lịch sử giáo dục của nhân loại đem lại cho con người một cuộc sống chân -
thiện - mỹ thực sự. Điều này thể hiện được trong Phật giáo, Phật giáo hàm
20
chứa nhiều giá trị quý báu về giáo dục nhân cách sống cho con người, đó là
điều đã được khẳng định. Cũng có thể nói, Phật giáo thế giới cũng như Phật
giáo với Việt Nam đều nhằm giáo dục và xây dựng con người thành những
những người có ích, như vậy Phật giáo có thể phục vụ đắc lực cho sự nghiệp
giáo dục đại học Việt Nam hiện nay, nhất là đối với việc giáo dục đạo đức, lối
sống cho sinh viên.
Giáo dục đạo đức, lối sống của sinh viên theo tư tưởng Phật giáo thì
chúng ta cần phải tuyên truyền và giáo dục đạo đức lối sống cho sinh viên
trong giảng dạy cũng như các hoạt động giảng dạy giáo dục khác. Những
người làm công tác giáo dục này là các thầy giáo, cô giáo những người này sẽ
chỉ dẫn để sinh viên quan tâm và thực hành những lời dạy tốt đẹp của Phật
giáo. Điều đó, người dạy cần phải có những kiến thức, hiểu biết và nhận thức
nhất định về giá trị đạo đức, lối sống của Phật giáo và đưa được những giá trị
tốt đẹp của Phật giáo tới sinh viên bằng nhiều hình thức khác nhau như là
những lời căn dặn, khuyên bảo về kỹ năng, cách sống của sinh viên theo
những giá trị đạo đức, lối sống của Phật giáo.
Hiện nay, số lượng trẻ vị thành niên nói chung và sinh viên nói
riêng phạm pháp đang ra tăng theo xu hướng trẻ hóa và mức độ tội lỗi ngày
càng tăng nghiêm trọng. Hàng loạt những hiện tượng đau lòng diễn ra ở chốn
học đường gần đây khiến cho chúng ta không thể làm ngơ. Theo thống kê cho
thấy 55 - 65% số người phạm tội ở nước ta những năm gần đây là thanh, thiếu
thiên trong đó có không ít là sinh viên.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói, đại ý rằng: Thanh niên là người
chủ tương lai của đất nước, nước nhà thịnh hay suy, mạnh hay yếu, một phần
là do thanh niên. Nghị quyết Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thức IX của
Đảng đã chỉ rõ phương hướng nhiệm vụ xây dựng con người Việt Nam trong
thời kỳ mới: “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị,
tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng,
21
lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng tình nghĩa, lối sống có văn hóa, quan hệ
hài hòa trong gia đình, cộng đồng và toàn xã hội” [10, tr.5]. Vì vậy, trước
yêu cầu phát triển của đất nước, việc xây dựng một nền tảng đạo đức, lối sống
mới theo hướng nhân văn, tiến bộ và bền vững cho thế hệ trẻ, học sinh - sinh
viên hiện nay là rất cần thiết.
Như vậy chúng ta cần phải để sinh viên ý thức được tầm quan trọng
của việc rèn luyện nhân cách sống và làm cho họ chủ động tìm kiếm được
những giá trị tốt đẹp của Phật giáo, để cho sinh viên phải tự “chiêm nghiệm”
tư tưởng đạo đức Phật giáo hay bất kỳ một nội dung nào đó tốt đẹp nào khác
mà họ thấy phù hợp, để vận dụng đó vào cuộc sống của sinh viên hiện nay.
Giáo dục đạo đức, lối sống cho sinh viên là nội dung cơ bản, thường
xuyên trong từng giai đoạn cụ thể thì giáo dục cần phải vận dụng những tư
tưởng, phương thức giáo dục phù hợp thì mới có thể mang lại hiệu quả. Giáo
dục đạo đức, lối sống cho sinh viên trong bối cảnh hiện nay là hết sức quan
trọng. Từ đó có thể vận dụng tư tưởng của Phật giáo để có thể mang hiệu quả
tích cực trước mắt và lâu dài cho việc giáo dục cho việc giáo dục đạo đức lối
sống cho sinh viên thời đại hiện nay.
Giáo dục của Phật giáo rất giàu nhân bản, bởi vì nó giúp cho mọi
người có niềm tin chân chính, quyết tâm thực hành chánh pháp để trở thành
những con người hoàn thiện, những con người có đời sống thanh cao, với hai
phẩm chất nổi bật là từ bi và trí tuệ. Đó là hướng dẫn phấn đấu cụ thể, thiết
thực, không viễn vông, mà hình ảnh của đức Phật là một tấm gương sáng ngời
cho chúng ta noi theo.
22
Tiểu kết chương 1
Trong chương 1, nhóm tác giả đã trình bày những vấn đề lý luận về các
khái niệm sinh viên; khái niệm đạo đức, lối sống. Ngoài ra đề tài cũng đã chỉ
ra được những ưu điểm và hạn chế của Phật giáo. Đồng thời đã trình bày khái
quát một số nội dung cơ bản của Phật giáo có ảnh hưởng đến đạo đức, lối
sống của sinh viên và vận dụng những tư tưởng của Phật giáo vào việc giáo
dục đạo đức, lối sống cho sinh viên. Những nội dung trình bày trong chương
1 chính là cơ sở lý luận và thực tiễn giúp đề tài triển khai nội dung tiếp theo.
23
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI
VỚI ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC
NỘI VỤ HÀ NỘI
2.1. Thực trạng đạo đức lối sống của sinh viên trường Đại học Nội
vụ Hà Nội
2.1.1. Đặc điểm sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội
Trường đại học Nội vụ hàng năm tiếp nhận đào tạo trên 1000 sinh viên
với nhiều ngành đào tạo và có xu hướng ngày càng mở rộng ngành đào tạo để
đáp ứng nhu cầu của thực tiễn. Sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội cung
có những đặc điểm chung của sinh viên ở các trường đại học ở Việt Nam như:
chủ yếu ở độ tuổi khoảng từ 18 tuổi đến 26 tuổi, có sức khỏe, ham hiểu biết,
năng động, sáng tạo. Tuy nhiên sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội có
những đặc điểm riêng, đặc thù.
Sinh viên hệ đại học chính quy trường Đại học Nội vụ Hà Nội học 11
ngành thuộc chương trình đào tạo của Trường bao gồm: Quản trị Nhân lực,
Quản trị Văn phòng, Lưu trữ học, Quản lý Nhà nước, Quản lý Văn hóa, Khoa
học Thư viện, Chính trị học, Xây dựng Đảng và Chính quyền nhà nước, Hệ
thống thông tin, Luật, Tiếng Anh, Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành và các
các chuyên ngành như Chính sách công, Văn Thư – lưu trữ, Văn hóa du lịch,
văn hóa truyền thông, Văn hóa học, Quản trị thông tin.
Sinh viên học hệ đại học chính quy trường Đại học Nội vụ Hà Nội có
sự chênh lệnh rất lớn về giới tính, sinh viên nữ chiếm hơn 60%, trong khi đó,
sinh viên nam chiếm khoảng hơn 30%/ tổng số sinh viên toàn khóa. Điều này
phản ánh tính đặc thù các ngành đào tạo của nhà trường chủ yếu là các ngành
thuộc lĩnh vực xã hội.
Một điểm đáng chú ý khác là tỷ lệ sinh viên thuộc các dân tộc thiểu số
được đào tạo ở Trường cũng chiếm con số khá lớn, chiếm khoảng ¼ tổng số
24
sinh viên hệ đại học chính quy trên toàn trường. Như vậy có thể thấy một bộ
phận không nhỏ sinh viên hệ đại học chính quy trường Đại học Nội vụ Hà
Nội xuất thân từ vùng nông thôn, miền núi, có điều kiện kinh tế gia đình ở
mức trung bình hoặc thấp.
Như vậy, sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội bên cạnh những yếu
tố thuận lợi của giới trẻ là có sức khỏe, ham hiểu biết thì cũng còn gặp nhiều
khó khăn trong cuộc sống và học tập đòi hỏi sinh viên phải có ý chí, nghị lực
vươn lên để hòa nhập được với môi trường sống và học tập ở cơ sở giáo dục
đại học đóng trên địa bàn Thành phố Hà Nội.
2.1.2. Khái quát về đạo đức, lối sống của sinh viên trường Đại học
Nội vụ Hà Nội.
Hiện nay sinh viên chính quy các ngành theo học tại trường khoảng
trên 5000 sinh viên. Đa số sinh viên hiện nay của trường có phẩm chất tốt, tôn
trọng các chuẩn mực đạo đức xã hội, giá trị văn hóa truyền thống dân tộc, có
ý thức công dân, chấp hành pháp luật, tích cực tham gia các phong trào, hoạt
động đoàn thể, xung kích, sáng tạo, tình nguyện vì cộng đồng; sống có nghĩa
tình, luôn biết quan tâm, giúp đỡ người khác, tinh thần tương thân tương ái đã
được khơi dậy, trở thành xu hướng chủ đạo lôi cuốn và thu hút giới trẻ, nhiều
tấm sinh viên vượt qua khó khăn của bản thân, gia đình để vươn lên thành
những sinh viên giỏi, đóng góp nhiều thành tích cho nhà trường trong mọi
hoạt động; nhiều sinh viên dám đấu tranh quyết liệt với các hiện tượng tiêu
cực và tệ nạn xã hội; tỏ thái độ lo lắng, băn khoăn trước các hiện tượng tiêu
cực và tệ nạn xã hội. Phần lớn sinh viên hiện nay có đời sống văn hóa, tinh
thần phong phú, nhu cầu giải trí lành mạnh, lên án những hoạt động giải trí
không lành mạnh, không phù hợp với thuần phong, mỹ tục của dân tộc. Tuy
nhiên trong nền kinh tế thị trường thì bên cạnh sinh viên rất tích cực còn một
số sinh viên về đạo đức, lối sống còn lệch lạc, đề cao hưởng thụ, sống thực
dụng, ích kỷ, đua đòi, xa hoa lãng phí, sùng bái thần tượng thái quá, ít quan
25
tâm đến tập thể lớp, trường, đến cộng đồng và những người xung quanh. Một
bộ phận sinh viên thiếu ý thức rèn luyện, không tích cực tham gia các hoạt
động Đoàn, Hội, các phong trào và hoạt động tập thể do nhà trường; lười học
tập, lao động, thường xuyên đi học muộn, chửi bậy, đánh nhau, sống thử.
không dám đấu tranh với sai trái, tiêu cực, thờ ơ, vô cảm trước nỗi đau của
người khác, ích kỷ, bất hiếu với cha mẹ, thiếu trách nhiệm với cộng đồng,
thiếu quan tâm đến tình hình đất nước. Sự hình thành và phát triển của đạo
đức, lối sống của sinh viên hiện nay vừa có những thuận lợi, khó khăn và cả
cơ hội lẫn thách thức. Dân tộc Việt Nam trải qua hàng nghìn năm dựng nước
và giữ nước, đã chiến đấu và chiến thắng biết bao quân thù dù là hùng mạnh
nhất trên thế giới. Sinh viên Việt Nam nói chung và sinh viên trường Nội vụ
Hà Nội được kế thừa từ ông cha mình tinh thần đạo đức cách mạng cao cả ấy.
Di sản tinh thần thiêng liêng đó bảo đảm cho hành trang vào đời của tuổi trẻ
sinh viên Việt Nam là vô giá. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nước ta đang đổi
mới và hội nhập quốc tế để phát triển. Đó là bối cảnh và cũng là môi trường
thuận lợi cho sự phát triển của sinh viên. Khó khăn, thách thức là những nguy
cơ phải vượt qua, không chỉ bằng đức tin và ý chí mà phải bằng trí tuệ, sự
sáng tạo. Kinh tế suy giảm, lạm phát, thất nghiệp, nhất là tệ nạn tiêu cực, quan
liêu tham nhũng tiềm ẩn những bất ổn,… đó là những khó khăn, thách thức và
nguy cơ tác động trực tiếp vào sự hình thành đạo đức, lối sống của sinh viên.
2.2. Những ảnh hưởng tích cực của Phật giáo đến đạo đức, lối sống
của sinh viên và nguyên nhân
2.2.1. Ảnh hưởng tích cực của Phật giáo đến đạo đức, lối sống của sinh
viên
Phật giáo là một tôn giáo lớn của thế giới, được du nhập vào Việt Nam
từ rất sớm. Trong mỗi thời kỳ lịch sử của nước ta, Phật giáo luôn gắn bó mật
thiết với dân tộc và thấm sâu và tiềm thức của nhiều người.
26
Trong xu thế phát triển của cuộc cách mạng 4.0, khoa học kỹ thuật đã,
đang và sẽ ngày càng tiến bộ, nền kinh tế của nhân loại sẽ ngày càng phát
triển theo xu thế văn minh, hiện đại. Theo đó, đạo đức lối sống của sinh viên
cũng cần phải biến đổi để phù hợp với hoàn cảnh sống mới, những biến đổi
lối sống và đạo đức của sinh viên luôn phải dựa vào các chuẩn mực của
những giá trị nhân bản truyền thống và không thể tách rời đạo đức khỏi những
quy tắc tôn giáo. Rõ ràng bất cứ tôn giáo nào ngoài hệ thống những giá trị đạo
đức đặc thù để bảo vệ niềm tin của tôn giáo, còn có những chuẩn mực đạo
đức mang tính nhân bản sâu sắc, như sống hiếu thảo với cha mẹ, trung thực,
nhân ái, hướng thiện. Vì vậy việc giáo dục đạo đức, lối sống trước đây và
hôm nay không thể tách rời khỏi đạo đức, lối sống của tôn giáo, nhất là Phật
giáo. Điều đó có nghĩa là chúng ta cần phải có những giải pháp để phát huy
hơn nữa những giá trị đạo đức tốt đẹp của tôn giáo nói chung và Phật giáo nói
riêng trong việc xây dựng nhân cách đạo đức lối sống cho sinh viên Việt Nam
- Những chủ nhân tương lai.
Về mặt nhận thức, nên xem tư tưởng Phật giáo về giáo dục và giáo dục
đạo đức là một trong những tư tưởng giáo dục tiến bộ trong lịch sử nhân loại.
Ở Việt Nam tư tưởng chính thống là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh. Những tư tưởng này không chỉ có ý nghĩa trong đời sống chính trị
- xã hội mà còn được vận dụng và mang lại nhiều hiệu quả tích cực trong lĩnh
vực giáo dục. Tuy nhiên, giáo dục đại học cần phải vận dụng nhiều phương
thức giáo dục khác nhau nhằm đạt đến những giá trị cao nhất của con người,
nhất là về giáo dục đạo đức, lối sống. Nghĩa là chúng ta cần phải tìm kiếm và
vận dụng những tư tưởng giáo dục tiến bộ vốn có trong lịch sử giáo dục lịch
sử của nhân loại từ phương Đông sang phương Tây. Có ý nghĩa giáo dục góp
phần đem lại cho con người một cuộc sống chân thiện - mỹ thực sự. Phật giáo
hàm chứa nhiều giá trị quý báu về giáo dục nhân cách con người, đó là điều
đã được khẳng định. Hơn nữa, Phật giáo có ảnh hưởng sâu sắc, sâu đậm
27
đến đời sống văn hóa tinh thần của người Việt Nam và là cái dễ đi vào nơi sâu
thẳm nhất của lòng người và lưu lại đó một cách bền vững. Tư tưởng Phật
giáo và suy nghĩ của người Việt Nam có mối quan hệ mật thiết, gắn bó với
nhau. Phật giáo với những giá trị tích cực tư từ bi, kỷ xả, cứu khổ, cứu nạn,
bình đẳng, bác ái dễ đi vào lòng người, phù hợp với phong tục, tập quán của
người Việt Nam. Từ lịch sử dân tộc Việt Nam với gần nghìn năm Bắc thuộc,
chịu nhiều đau khổ, khi được truyền bá vào Việt Nam, với những giá trị của
mình, Phật giáo đã góp phần xoa dịu nỗi đau tinh thần với nhân dân ta. Có thể
nói, Phật giáo thế giới cũng như Phật giáo Việt Nam đều nhằm giáo dục và
xây dựng con người thành những người có ích, vì thế nó cũng có thể phục vụ
đắc lực cho sự nghiệp giáo dục đại học Việt Nam hiện nay, nhất là đến với
việc giáo dục đạo đức, lối sống cho sinh viên. Đặc biệt là sinh viên Trường
Đại học Nội vụ Hà Nội hiện nay.
Từ những tư tưởng trên, chúng ta có thể thấy sự dung hợp và ảnh
hưởng những giá trị hợp lý của tư tưởng Phật giáo đối với đạo đức, lối sống
cho sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội được biểu hiện trên các phương
diện sau đây:
Sự hòa nhập của tinh thần từ bi, hỷ xả với tinh thần yêu nước Việt
Nam: “Đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam là hệ thống giá trị truyền
thống yêu nước, cần cù, thương người, vì nghĩa anh hùng, sáng tạo và lạc
quan, trong đó chủ nghĩa yêu nước là giá trị đạo đức tinh thần đứng đầu bảng
trong giá trị truyền thống Việt Nam, truyền thống đó được hình thành hàng
ngàn năm dựng nước và giữ nước. Trong bối cảnh lịch sử ấy, Phật giáo muốn
tồn tại và phát triển được ở Việt Nam tất nhiên phải có sự thích ứng hòa hợp”.
Phật giáo với những giá trị xây dựng tinh thần đại từ, đại bi, cứu khổ, cứu nạn
đã hòa quyện với tư tưởng yêu nước, nhân nghĩa Việt Nam. Sự hòa nhập của
Phật giáo được thể hiện trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước
của dân tộc ta. Đã có rất nhiều vị cao tăng là quốc sư, giúp vua trị nước, an
28
dân thời phong kiến. Thời kỳ đầu của chế độ phong kiến, chùa chiền cũng là
nơi đào tạo giới tri thức, dậy dân cách tổ chức đời sống. Với tinh thần đó của
Phật giáo được sinh viên tiếp nhận và thông qua những hành động cụ thể ở
các hoạt động của trường như chương trình của đoàn đoàn tình nguyện của
Đoàn trường Đại học Nội vụ Hà Nội sáng 19/01/2020, Đoàn đến thăm, động
viên và chúc Tết cán bộ, chiến sĩ đồn biên phòng Chi Lăng. Thông qua việc
trực tiếp được nghe, hướng dẫn và trải nghiệm dọc đường tuần tra biên giới
đã giúp các bạn sinh viên Nhà trường nắm chắc và rõ hơn nội dung quản lý
nhà nước về an ninh quốc phòng, bồi đắp và nuôi dưỡng lòng yêu nước của
đoàn viên sinh viên Nhà trường. Tích cực tham gia hoạt động đóng góp việc
bảo vệ chủ quyền biển, đảo và lãnh thổ đất nước thông qua các hoạt động của
Đoàn thanh niên và của địa phương nơi các em sinh sống.
Ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo trong quan hệ ứng xử, giao tiếp:
Đạo đức Phật giáo hòa nhập với các giá trị đạo đức của dân tộc trở thành
phương tiện diễn đạt quan niệm đạo đức truyền thống của người Việt Nam.
Các thuật ngữ như “từ bi”, “hỷ xả”, “vô ngã, vị tha”, “cứu nhân độ thế”, “tu
nhân tích đức”, “sống nhân từ để phúc cho đời sau”…đã không còn nguyên
nghĩa của riêng Phật giáo, mà trở thành một phần trong lẽ sống của người
Việt, trở thành ngôn ngữ của đời sống thường ngày. Cách thức giao tiếp, ứng
xử của người Việt Nam nói chung và sinh viên nói riêng cũng đều chịu ảnh
hưởng rất lớn bởi các quan niệm Phật giáo. Nét phổ quát trong quan hệ ứng
xử và giao tiếp của Phật giáo là cái thật, cái thiện ở cả thân, khẩu, ý. Trong
bát chính đạo của Phật giáo có chính ngữ (giữ cho lời nói được đúng mực), đó
chính là một trong các điều kiện để mỗi con người có những ứng xử phù hợp
với mọi người trong xã hội. Về ứng xử, giao tiếp trong gia đình, Phật giáo đề
cao sự hòa thuận và trách nhiệm của bậc cha mẹ, anh em, vợ chồng… đề cao
sự hiếu thuận thông qua thực hiện Tứ ân. Điều này đã được thể hiện rất nhiều
trong ca dao, tục ngữ Việt Nam:
29
Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ, kính cha,
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
Hoặc
Đi khắp thế gian không ai tốt bằng mẹ,
Gánh nặng cuộc đời không ai khổ bằng cha.
Nước biển mêng mông không đong đầy tình mẹ,
Mây trời lồng lộng không phủ kín tình cha.
Tần tảo sớm hôm mẹ nuôi con khôn lớn,
Mang cả tấm thân gầy cha che chở đời con.
Ai còn mẹ xin đừng làm mẹ khóc,
Đừng để buồn lên mắt mẹ nghe không!
Điều này đã trở thành đạo lý, lẽ sống của người Việt. Đồng thời những
tư tưởng này đã ảnh hưởng đến lối sống của sinh viên, đặc biệt là cách ứng xử,
giao tiếp của sinh viên Trường Đại học Nội vụ hiện nay. Điều này đã cho sinh
viên của Trường hiểu được thế nào là cách ứng xử đúng mực, chuẩn mực đạo
đức, biết lẽ sống, biết cái thật, cái thiện ở cả cái thân, khẩu, ý trong mỗi sinh
viên. Và cũng làm cho sinh viên tôn trọng đúng lời nói của mình, và giữ cho
lời nói được đúng mực. Sự ảnh hưởng thể hiện phần lớn sinh viên của trường
có sự giao tiếp, ứng xử chuẩn mực trong các quan hệ với thầy cô, bạn bè và
các mối quan hệ xã hội. Thực tế hiện nay phần lớn sinh viên trường đại học
Nội vụ trong mối quan hệ với thầy cô và bạn bè có những ứng xử chuẩn mực
lễ phép chào hỏi với thầy cô khi gặp như xếp hàng và nhường thầy cô khi đi
thang máy, thể hiện sự tôn sư trọng đạo trong những ngày lễ vinh danh thầy
cô.
Ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo về tính trung thực: Trong giáo lý
của nhà Phật, tính trung thực thuộc vào giới “không nói dối” của ngũ giới.
30
Thập thiện bao gồm: thực cả ở “thân, khẩu, ý”. Tuy thực ở ý là trung tâm điều
chỉnh hành vi theo luật nhân quả, nhân nào quả ấy. Theo đó sự dối trá sẽ bị
nghiệp báo. Thuyết nhân quả, nghiệp báo của Phật giáo đã lan tỏa thành nếp
sống, nếp nghĩ “Ở hiền gặp lành”, “ác giả ác báo” trong nhân dân, cũng như
trong suy nghĩ của nhiều sinh viên hiện nay. Điều này ảnh hưởng đến đạo đức,
lối sống của sinh viên không hề nhỏ; tư tưởng này đã giúp cho sinh viên biết
được về tính trung thực, ngay thẳng, luôn làm những việc không có lỗi và
không được nói dối. Điều này được thể hiện qua việc học tập, thi cử của sinh
viên, không gian lận trong thi cử. Chịu sự ảnh hưởng này của Phật giáo hầu
hết các sinh viên đều biết và thực hiện sống, làm việc tuân thủ theo pháp luật.
Ở trong học tập thì đa số sinh viên có thái độ không đồng tình với gian lận
trong thi cử, đề cao tính trung thực trong học tập và trong trong cuộc sống.
Điều này được thể hiện trong quá trình học tập, thi cử phần lớn sinh viên của
trường thể hiện thái độ nghiêm túc trong quá trình thi cử, theo thống kê của
Phòng Khảo thí thì tỷ lệ sinh viên vi phạm kỷ luật trong phòng thi rất thấp.
Ảnh hưởng của Phật giáo trong tính thiện, tình nghĩa và tình thương:
Tính thiện, tình nghĩa và tình thương mang bản sắc Việt được con người Việt
Nam hun đúc trong quá trình dựng nước và giữ nước. Cái thiện của con người
Việt Nam mang tinh thần bình đẳng, vị tha, tôn trọng, yêu thương con người.
Phật giáo đã hòa đồng với tư tưởng truyền thống Việt Nam để xây dựng tính
thiện, tình nghĩa với tình thương. Đó là, tình “Thương người như thể thương
thân”, “lá lành đùm lá rách”. Tình thương, tình nghĩa, tính thiện không chỉ thể
hiện trong quan hệ với hiện tại mà còn được thể hiện trong quan hệ với quá
khứ như: “uống nước nhớ nguồn” hoặc “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Thực tế đã
chứng minh Phật giáo tích cực tham gia vào hoạt động từ thiện như: xây dựng
trung tâm nuôi dưỡng trẻ mồ côi, thành lập viện dưỡng lão, chăm sóc, nuôi
dưỡng người già cô đơn không nơi nương tựa, mở lớp tình thương dạy chữ
cho ác cháu không có điều kiện đến trường, giúp đỡ những người có hoàn
31
cảnh khó khăn… chính việc làm cụ thể đó đã kêu gọi hàng trăm tấm lòng từ
bi bởi có sức lan tỏa vô cùng mạnh mẽ. Chính nhân cách trong sạch của các
Phật tử đã góp phần lan tỏa, xây dựng những giá trị đạo đức tốt đẹp cho sinh
viên của trường. Truyền thống này được sinh viên thể hiện rất tích cực trong
phòng tào hiến máu cứu người, thiện nguyện như: chương trình “Đông ấm
vùng cao, Xuân yêu thương 2020” thăm và tặng quà cho bà con nhân dân xã
Kiên Mộc, hoạt động thiện nguyện “Cùng em tới trường” tại thôn Co Loi, xã
Mẫu Sơn, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn, chương trình thiện nguyện “Tết yêu
thương mùa 5” tại bản Noong Luông-xã Rạng Đông-huyện Tuần Giáo-tỉnh
Điện Biên từ ngày 27 đến ngày 29 tháng 12 năm 2019
Ảnh hưởng tinh thần tự chủ, tự lực của mỗi sinh viên: Phật giáo
khẳng định mỗi cá nhân của chính mình, không phải làm nô lệ của người khác
kể cả nô lệ cho đức Phật, hãy “tự đốt đuốc mà đi”. Tư tưởng này của Phật
giáo khiến con người được giải phóng khỏi sự chói buộc của Thần quyền, nhờ
đó mà được tự do. Chính con người phải quyết định được số phận và tiền đề
của chính mình. Quan điểm tự lực, tự chủ của Phật giáo đã góp phần xác định
thêm cho tinh thần tự lực, tự chủ của mỗi người Việt Nam. Cũng như là xác
định thêm cho tinh thần tự lực, tự chủ cho mỗi sinh viên trong việc học tập và
trong cuộc sống. Thực tế hiện nay một số em sinh viên của trường có hoàn
cảnh khó khăn, bản thân bị bệnh tật nhưng luôn cố gắng vợt qua khó khăn nỗ
lực học tập và đạt được những thành tích cao góp phần làm tấm gương cho
các bạn sinh viên khác của trường.
Qua những sự ảnh hưởng tích cực trên của Phật giáo, ta thấy việc vận
dụng tư tưởng Phật giáo vào việc giáo dục đạo đức, lối sống cho sinh viên
Trường Đại học Nội vụ Hà Nội là một nội dung cơ bản, thường xuyên của
nền giáo dục của Trường Đại học Nội vụ Hà Nội trong từng giai đoạn cụ thể.
Việc vận dụng tư tưởng Phật giáo này có thể mang lại những hiệu quả tích
cực trước mắt và lâu dài cho việc giáo dục đạo đức, lối sống cho sinh viên
32
Trường Đại học Nội vụ Hà Nội trong thời đại hiện nay. Điều này sẽ làm cho
sinh viên của Nhà trường sẽ tìm về những giá trị đạo đức tốt đẹp của nhân
loại được chứa đựng trong các tôn giáo, chủ động rèn luyện nhân cách sống
và chủ động tìm về những giá trị tốt đẹp của truyền thống dân tộc, giá trị đạo
đức, lối sống của Phật giáo, đặc biệt “Bát chánh đạo” và “Tam học” của Phật
giáo ngày nay. Chúng ta hãy làm điều này một cách tự nhiên, không áp đặt,
không ra lệnh mà hãy làm người gợi ý, động viên, khuyến khích cho sinh viên.
Hãy để sinh viên tự lựa chọn, tự “chiêm nghiệm”, tự “tụ tập” tư tưởng đạo
đức Phật giáo hay bất kỳ một giá trị đạo đức tốt đẹp nào khác mà họ thấy phù
hợp và yêu thích.
2.2.2. Nguyên nhân
Được sự quan tâm của cấp ủy Đảng, Lãnh đạo Nhà trường, Đoàn
trường và các phòng, ban, khoa đã của Trường Đại học Nội vụ Hà Nội đã có
sự kết hợp tư tưởng Phật giáo với các tư tưởng khác để tuyên truyền và giáo
dục đạo đức, lối sống cho sinh viên trong giảng dậy cũng như các hoạt động
khác để cho sinh viên hiểu biết và nhận thức nhận định về Phật giáo nói
chung và giá trị đạo đức, lối sống của Phật giáo nói riêng với nhiều các hình
thức phong phú khác nhau như: tuần chính trị công dân sinh viên đầu khóa,
chiếu phim tư liệu, hội nghị văn nghệ, tổ chức những buổi nói chuyện chuyên
đề, những buổi hoạt động ngoại khóa, những lời căn dặn, khuyên bảo về kỹ
năng, cách sống cho sinh viên.
Trường Đại học Nội vụ Hà Nội đã có sự kết hợp với các tổ chức xã
hội, với các cơ sở tôn giáo (trong đó có Phật giáo) trong việc giáo dục đạo
đức, lối sống cho sinh viên thông qua những buổi đi thực tế tại các cở sở thờ
tự Phật giáo. Nhà trường cũng có đội ngũ nhân lực cao có chuyên môn về
giảng dạy học phần tôn giáo và chính sách tôn giáo ỏ Việt Nam. Cũng như
đào tạo nguồn nhân lực cao để phục vụ cho nghiên cứu về nhiều nhóm ngành
nghề khác nhau, trong đó có nghiên cứu về tôn giáo. Để đáp ứng được yêu
33
cầu đó, sinh viên Nhà trường luôn luôn không ngừng lỗ lực học tập, ra sức rèn
luyện để có kiến thức chuyên môn, hoàn thiện bản thân.
Đa số các sinh viên đã tự ý thức được tầm quan trọng của việc rèn
lyện nhân cách sống và họ đã chủ động tìm về những giá trị tốt đẹp của truyền
thống dân tộc, giá trị đạo đức, lối sống của Phật giáo. Từ đó, họ đã nhằm trau
dồi đạo đức, lối sống cho chính bản thân mình.
2.3. Những ảnh hưởng tiêu cực của Phật giáo đến đạo đức, lối sống
của sinh viên và nguyên nhân
2.3.1. Ảnh hưởng tiêu cực của Phật giáo đến đạo đức, lối sống của sinh
viên
Bên cạnh những tác động tích cực, Phật giáo cũng có những những tác
động tiêu cực không hề nhỏ tới đạo đức, lối sống của sinh viên. Với cách nhìn
cuộc đời là bể khổ không bờ bến, thoát khổ bằng tu tâm, dưỡng tính để diệt
trừ vô minh đạt giác ngộ, Phật giáo lại đưa quan niệm sống bi quan, yếm thế,
coi cuộc đời chỉ là phù hoa, thoảng qua là sống gửi, thác về. Nhìn cuộc đời
một cách bi quan thụ động. Khi sinh viên tiếp cận với quan niệm này, nên
không ít một số sinh viên dễ chùn bước khi gặp khó khăn, sống buông trôi
qua ngày, đoạn tháng với niềm tin chỉ lo tu tâm, dưỡng tính là đủ. Khi gặp
trắc trở một số sinh viên thường nghĩ đến số phận, nghiệp chướng, nhân quả,
khiến họ hình thành tính cách bị động, ít chịu vươn lên, hạn chế năng lực đấu
tranh trong học tập, cuộc sống và xã hội của họ như là những con người hiện
thực, thậm chí thờ ơ, do dự với cái tiêu cực, cái ác đang gây bất bình trong xã
hội; không tin tưởng vào hoạt động đấu tranh tích cực cải tạo, chống tiêu cực
trong xã hội, cũng như là trong học tập, mà chờ đợi, tin vào nhân quả sẽ tự
đến.
Như vậy đạo đức phật giáo đã tách sinh viên ra khỏi điều kiện thực tiễn
xã hội hiện nay. Sinh viên muốn đạt được những thành tích trong học tập phải
có sự nỗ lực, khắc phục những hoàn cảnh khó khăn để vươn lên trong học tập
34
và cuộc sống thì một bộ phận sinh viên lại ỷ lại trông chờ vào vận may, nhẫn
nhịn không dám đấu tranh chống lại những tiêu cực. Điều này ảnh hưởng rất
lớn trong việc thực thi những quy định của nhà trường trong quá trình học tập.
Vì vậy, việc cần làm hiện nay là phải xác định rõ Phật giáo có ảnh hưởng đến
hệ tư tưởng của sinh viên như thế nào, từ đó đưa ra những chính sách phát
triển phù hợp làm cho xã hội ngày càng phát triển tiến bộ tốt đẹp hơn.
2.3.2. Nguyên nhân
Do một số bộ phận sinh viên vẫn còn thực dụng trong quan niệm đạo
đức và hành vi ứng xử, muốn thể hiện vai trò cá nhân để đề cao các giá trị
chất hơn những giá trị tinh thần. Một số sinh viên còn thờ ơ, vô cảm, thiếu
trách nhiệm đạo đức đến bản thân, gia đình, xã hội; xa rời các giá trị đạo đức
tốt đẹp của dân tộc và những giá trị đạo đức tốt đẹp của Phật giáo, không
tham gia các chương trình hoạt động ngoại khóa tìm hiểu về các giá trị tích
cực của Phật giáo, sống buông thả, tự đặt mình ra khỏi nguyên tắc, có lối
hành xử phi nhân tính, lười học tập, lười lao động.
Nhiều tiềm năng to lớn của văn hóa tôn giáo nói chung, Phật giáo nói
riêng chưa được khai thác triệt để đến đạo đức, lối sống của sinh viên. Nhiều
giá trị văn hóa tôn giáo, Phật giáo chưa được sinh viên tiếp cận và phát huy
hoặc tiếp cận và phát huy chưa hiệu quả.
Công tác vận động giáo dục những giá trị đạo đức của Phật giáo trong
việc giáo dục đạo đức, lối sống của sinh viên còn nhiều hạn chế và bất cập;
công tác quản lý sinh viên ngoại trú chưa được quan tâm đúng mức, chưa chặt
chẽ.
35
Tiểu kết chương 2
Trong chương 2, đề tài đã nêu ra được đặc điểm sinh vên và thực trạng
đạo đức lối sống của sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội. Đồng thời đề
tài đã làm rõ những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của Phật giáo đối với đạo
đức, lối sống của sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội và chỉ ra được
nguyên nhân gây ra những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực đó. Trên cơ sở thực
trạng ảnh hưởng của Phật giáo đối với đạo đức, lối sống của sinh viên Trường
Đại học Nội vụ Hà Nội ở chương 2. Nhóm tác giả, đã đưa ra các giải pháp
nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của Phật giáo
đối với đạo đức, lối sống của sinh viên trong chương 3.
36
CHƯƠNG 3. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA, QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI
PHÁP NHẰM PHÁT HUY ẢNH HƯỞNG TÍCH CỰC, HẠN CHẾ ẢNH
HƯỞNG TIÊU CỰC CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI ĐẠO ĐỨC, LỐI
SỐNG CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
3.1. Những vấn đề cần đặt ra từ ảnh hưởng của Phật giáo đối với
đạo đức, lối sống của sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội hiện nay
Từ những ảnh hưởng của Phật giáo đối với đạo đức, lối sống của sinh
viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội hiện nay, trước yêu cầu của việc xây
dựng lối sống mới và xu thế của Phật giáo Việt Nam, vấn đề đặt ra trong quá
trình xây dựng đạo đức, lối sống mới của sinh viên Trường Đại học Nội vụ
Hà Nội hiện nay là:
Thứ nhất: trong bối cảnh mới của dân tộc và thời đại, cần đánh giá
đúng các giá trị văn hóa Phật giáo, đánh giá đúng vai trò của Phật giáo trong
đời sống xã hội. Cần nâng cao và thống nhất nhận thức sinh viên, giảng viên
của trường về vai trò của Phật giáo trong xã hội Việt Nam.
Thứ hai: vấn đề khai thác, phát huy những giá trị tích cực của Phật giáo
trong quá trình xây dựng lối sống mới. Thực tế lịch sử dân tộc đã chứng minh,
Phật giáo có đóng gióp to lớn cho xã hội Việt Nam trên nhiều lĩnh vực, trong
đó, đặc biệt là lĩnh vực đạo đức, lối sống. Trong điều kiện mới, đạo đức, lối
sống của Phật giáo vẫn có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội
mới. Vậy yêu cầu đặt ra là làm sao để phát huy giá trị tích cực của Phật giáo,
làm sao để Phật giáo tiếp tục góp phần bảo tồn, chuyển tải giá trị văn hóa, đạo
đức truyền thống của dân tộc thông qua hoạt động học tập, hoạt động phong
trào của sinh viên nhà trường.
Thứ ba: trong bối cảnh mới, với xu thế vận động đa chiều, phức tạp đan
xen nhiều yếu tố tích cực và tiêu cực, trong đó việc lợi dụng tôn giáo nói
37
chung và Phật giáo nói riêng để lôi kéo sinh viên vào việc chống quá lại Đảng
và Nhà nước.
Thứ tư: Phật giáo vẫn sẽ tiếp tục ảnh hưởng đến đến đạo đức, lối sống
của sinh viên nói chung và sinh viên trường Đại học Nội vụ nói riêng theo cả
hai chiều hướng tích cực và tiêu cực. Chúng ta chú ý khuyến khích phát huy
những ảnh hưởng tích cực của Phật giáo trong đời sống xã hội nhưng cũng
không thể loại trừ được những tác động tiêu cực của nó luôn đi kèm. Vì vậy,
vấn đề cần đặt ra là làm sao để hạn chế tối đa những ảnh hưởng tiêu cực của
Phật giáo đến quá trình xây dựng đạo đức, lối sống mới của sinh viên Trường
Đại học Nội vụ Hà Nội hiện nay.
Theo chúng tôi, đây là những vấn đề lớn đang đặt ra hiện nay đòi hỏi
phải có sự quan tâm thỏa đáng của hệ thống chính trị, nhà trường, gia đình
nhằm từng bước khuyến khích phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt
đẹp của Phật giáo trong quá trình xây dựng đạo đức, lối sống của sinh viên
hiện nay theo nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc như
Nghị quyết Trung ương XI, khóa XII của Đảng đề ra.
3.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước trong việc phát huy giá trị
tích cực và hạn chế tiêu cực của Phật giáo trong giáo dục đạo đức, lối
sống của sinh viên.
Quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về tôn giáo và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát huy các
giá trị văn hóa, đạo đức của tôn giáo Bản thân Phật giáo và chủ nghĩa Mác –
Lênin đều xuất phát từ sự vượt qua được sự ích kỷ của cá nhân mỗi người
hướng đến vì con người, vì tha nhân. Đây chính là điểm tương đồng của chủ
nghĩa Mác – Lênin với tôn giáo nói chúng và Phật giáo nói riêng. Vì thế,
những giá trị của Phật giáo về đạo đức vẫn rất phù hợp với quá trình xây dựng
chủ nghãi xã hội ở Việt Nam. Đảng ta xác định lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo làm kim chỉ nam cho mọi hành động cho
38
nên quan niệm về giải quyết vấn đề tôn giáo đã và đang định hướng cho mọi
đường lối và chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong công tác tôn giáo.
Trong thời kỳ hội nhập quốc tế hiện nay những vấn đề về văn hóa, tôn giáo,
tín ngưỡng đang trở thành điểm nóng của thời đại ảnh hưởng trực tiếp đến đời
sống xã hội. Vì thế, kiên trì quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và giải quyết vấn đề tôn giáo là một yêu cầu
tất yếu để có thể phát huy được những yếu tố tích cực của tôn giáo nói chung,
Phật giáo nói riêng. Các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin đã làm sáng tỏ
nguồn gốc, bản chất tôn giáo với tính cách một hình thái ý thức xã hội, một
tiểu hệ thống kiến trúc thượng tầng. Trên cơ sở đó Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và vận dụng sáng tạo vào
điều kiện nước ta thì Người đã nhìn nhận tôn giáo là một thực thể xã hội, bao
gồm cả ý thức, thiết chế và cả với tính cách là một lực lượng đông đảo quẩn
chúng nhân dân có tín ngưỡng, là một bộ phận của văn hóa. Trong đó tập
trung vào các tư tưởng đoàn kết lương giáo, hòa hợp dân tộc; tôn trọng và
đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân với mục tiêu hòa bình thống
nhất tổ quốc và xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập,
dân chủ và giàu mạnh.
Trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh về tôn giáo, Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng và phát triển để phù
hợp với thực tiễn đất nước. Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều đường lối,
chính sách về tín ngưỡng, tôn giáo phù hợp với từng giai đoạn như Nghị
quyết số 24-NQ/TW ngày 16/10/1990 của Bộ Chính trị khoá VI về “Tăng
cường công tác tôn giáo trong tình hình mới”, Chỉ thị 37 của Bộ Chính trị
(2/7/1998) Trong các Văn kiện Đại hội X, XI và XII, tinh thần trên vẫn tiếp
tục được Đảng ta khẳng định, đặc biệt Luật tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016
đều khẳng định Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn
giáo; động viên các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống tốt đời đẹp đạo,
39
tham gia đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đảng
ta đã xác định rõ ràng chủ chương và đường lối phát huy các giá trị, nhân tố
tích cực trong văn hóa, đạo đức tôn giáo nói chung, Phật giáo nói riêng hiện
nay vào giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện con người đặc biệt
là sinh viên. Đây là những chỉ đạo chiến lược định hướng cho các chính sách,
hoạt động cụ thể của các cơ quan chức năng, các tổ chức, đoàn thể cũng như
tác động tích cực đến phương hướng phát huy những giá trị tích cực và hạn
chế tiêu cực của Phật giáo trong giáo dục đạo đức, lối sống hiện nay.
3.3. Một số giải pháp phát huy tính tích cực và hạn chế tiêu cực đến đạo
đức, lối sống của sinh viên
3.3.1. Nâng cao nhận thức của sinh viên về những giá trị cũng như
những hạn chế của Phật giáo
Với những triết lý giàu nhân bản giáo dục của Phật giáo, đã giúp cho
mọi người có nhiều niềm tin chân chính, quyết tâm thực hành những điều
chính nghĩa để trở thành con người hoàn thiện, có đời sống thanh cao, với hai
phẩm chất nổi bật là tư bi và trí tuệ. Trong bối cảnh văn hóa, kinh tế, chính trị
phức tạp như ngày nay chúng ta cần phát huy mạnh mẽ những giá trị tích cực
của tôn giáo này để góp phần xây dựng nền tảng đạo đức của con người Việt
Nam nói chung và thế hệ sinh viên nói riêng. Và làm cho sinh viên nhận thức
được những giá trị của đạo Phật, chúng ta cần có những điều thiết thực hơn,
như là:
Về mặt nhận thức, nên xem tư tưởng Phật giáo về giáo dục và giáo dục
là một trong những tư tưởng giáo dục tiến bộ trong lịch sử nhân loại. Hơn nữa,
Phật giáo có ảnh hưởng sâu đậm đến đời sống văn hóa tinh thần của người
Việt và là cái dễ đi vào nơi sâu thẳm nhất lòng người và lưu lại đó một cách
bền vững. Có thể nói, Phật giáo thế giới cũng như Phật giáo Việt Nam đều
nhằm giáo dục và xây dựng con người thành những người có ích, vì thế Phật
40
giáo cũng có thể phục vụ đắc lực cho sự nghiệp giáo dục của trường, nhất là
đối với việc giáo dục đạo đức, lối sống cho sinh viên.
Kết hợp tư tưởng Phật giáo với các tư tưởng khác để tuyên truyền và
giáo dục đạo đức, lối sống cho sinh viên trong giảng dạy cũng như các hoạt
động giáo dục khác. Tư tưởng về con người và cuộc sống của con người, đó
là vấn đề “khổ” và “cứu khổ” bằng “Bát chính đạo và Tam học”, được thể
hiện rõ trong học thuyết Tứ diệu đế. Để sinh viên quan tâm và thực hành
những lời dạy tốt đẹp của đức Phật về cách làm người thì việc cố vấn, chỉ dẫn
và định hướng của các thầy, cô giáo và những người làm công tác giáo dục là
rất cần thiết. Để làm được điều này, người dạy cần phải có những hiểu biết và
nhận thức nhất định về Phật giáo nói chung và giá trị đạo đức, lối sống của
Phật giáo nói riêng; quan trọng hơn, họ phải biết cách lồng ghép, đưa vào một
cách tự nhiên nhẹ nhàng, hợp lý, hợp tình những tư tưởng đó vào các tiết học,
những bài nói chuyện, những buổi hoạt động ngoại khóa, những lời căn dặn,
khuyên bảo kỹ năng, cách sống cho sinh viên.
Tăng cường việc trang bị cho sinh viên những tri thức về Đường lối,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về tôn giáo nói chung. Bởi vì
bản thân mỗi sinh viên phải tích lũy được một lượng nhất định các tri thức về
tôn giáo, pháp luật, văn hóa… làm tri thức nền tảng của mình từ đó mới có
thể hiểu những giá trị tốt đẹp của tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng.
Nhiều năm qua, có một bộ phận không nhỏ sinh viên của nhà trường khi chưa
nắm được các quy định, luật pháp về tôn giáo, dẫn đến những hành vi xâm
phạm quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của người khác. Hoặc có
những hành vi không phù hợp với thuần phong mỹ tục khi tham gia các sinh
hoạt tín ngưỡng, tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng.
Tiếp tục đổi mới phương pháp giáo dục, nâng cao chất lượng giảng dạy
về Chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Đường lối của Đảng
Cộng sản Việt Nam và chính sách, luật pháp của Nhà nước về tôn giáo và giải
41
quyết vấn đề tôn giáo. Thông qua các phương tiện truyền thông, thông các
chuyên đề chính trị đầu khóa, cuối khóa, những học phần lý luận chính trị, cơ
sở văn hóa, tâm lý... Có như vậy, giúp sinh viên dần tích lũy kiến thức và có
nhận thức đúng đắn về nguồn gốc, bản chất tôn giáo, mối quan hệ giữa tôn
giáo và chủ nghĩa xã hội. Nhận thức đúng đắn sẽ định hướng cho hành vi phù
hợp, nhất là trong thái độ và lối ứng xử với các tôn giáo trong đó có Phật giáo.
Từ đó phát huy vai trò của mình, vững vàng trong đấu tranh chống những
hành vi lợi dụng Phật giáo gây ảnh hưởng xấu đến đời sống đạo đức sinh viên
của trường hiện nay. Đặc biệt, đối với sinh viên theo đạo Phật, việc không
ngừng trau dồi nhận thức sẽ tạo tiền đề vững chắc để sinh viên tỉnh táo trước
mọi âm mưu lợi dụng niềm tin tôn giáo của mình, đi ngược lại những giá trị
mà Phật giáo Việt Nam đề ra: Đạo pháp – dân tộc – chủ nghĩa xã hội
Khuyến khích sinh viên tìm những giá trị đạo đức tốt đẹp của nhân loại
được chứa đựng trong các tôn giáo, đặc biệt là “Bát chính đạo” và “Tam học”
của Phật giáo ngày nay, từ phương Tây đến phương Đông, giáo dục thường
nhằm đến đến hiệu quả kinh tế - xã hội, do vậy thường nghiêng về giáo dục
những tri thức về khoa học kỹ thuật, kỹ năng nghề nghiệp cho sinh viên mà
coi nhẹ việc phổ biến những giá trị đạo đức cho sinh viên. Trong thực tế, giáo
dục nhân cách sống cho sinh viên là một việc vô cùng quan trọng nhưng
không hề đơn giản, thậm chí còn khó khăn hơn rất nhiều so với việc trang bị
tri thức, kỹ năng.
Hiện nay Phật giáo đang tìm cách tuyên truyền, đổi mới để tồn tại và
phát triển, thích ứng với điều kiện mới. Mặt khác đối sinh viên, sự ảnh hưởng
niềm tin tôn giáo từ cha mẹ, từ gia đình cũng là một nguyên nhân làm tôn
giáo phát triển lan rộng. Do đó đối với sinh viên có những phương pháp giáo
dục hữu hiệu, trang bị những kiến thức khoa học đúng đắn về giá trị của phật
giáo trong quá trình học tập các học phần như triết học Mác – Lênin, chủ
nghĩa xã hội khoa học, tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam từ đó giúp
42
sinh viên nhận thức đúng được những giá trị tích cực của Phật giáo đối với
văn hóa, đạo đức, chính trị tư tưởng trong đời sống xã hội hiện nay để từ đó
họ tiếp tục lưu giữ và phát triển những giá trị tích cực đó mặt khác để họ cũng
xa lánh được những biểu hiện tiêu cực của Phật giáo trong giai đoạn hiện nay
như mê tín dị đoan, những hiện tượng có tính chất phản văn hóa.
Tăng cường đưa sinh viên đi thực tế thông qua các học phần có nội
dung về tôn giáo, kết với các tổ chức xã hội, với các cơ sở tôn giáo, trong đó
có Phật giáo trong việc giáo dục đạo đức, lối sống cho sinh viên. Tăng cường
các buổi sinh hoạt chuyên đề của các học phần chuyên ngành thông qua việc
mời các chuyên gia, nhà tu hành nói chuyện về những giá trị tích cực của Phật
giáo, những tri thức khoa học đúng đắn từ đó giúp cho sinh tránh những hành
vi mê tín dị đoan trong lối sống hàng ngày.
Sinh viên tự ý tức tầm quan trọng của việc rèn luyện nhân cách sống và
khuyến khích sinh viên chủ động tìm về những giá trị tốt đẹp của truyền
thống dân tộc, giá trị đạo đức, lối sống của Phật giáo. Các thầy, cô gợi ý, động
viên, khuyến khích cho sinh viên, phải để sinh viên tự nguyện, lựa chọn tự
chiêm nghiệm, tự tụ tập tư tưởng đạo đức Phật giáo hay bất kỳ một giá trị đạo
đức tốt đẹp nào khác mà họ thấy phù hợp và yêu thích thông qua việc thuyết
trình các nội dung của các học phần có nội dung về tôn giáo.
3.3.2. Phát huy vai trò của đoàn thanh niên trong giáo dục đạo đức
lối sống cho sinh viên theo giá trị tích cực của Phật giáo
Tổ chức Ðoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh có vị trí, vai trò rất
quan trọng trong định hướng, tổ chức các hoạt động giáo dục đạo đức cho
thanh niên. Ðoàn là tổ chức chính trị, là lực lượng giáo dục, đảm bảo quyền
lợi làm chủ tập thể của quần chúng trong mọi hoạt động của thanh niên, làm
nhiệm vụ giáo dục thanh niên và là một thành viên không thể thiếu trong thực
hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng. Ðoàn là lực lượng giáo dục trực tiếp, lãnh
đạo chính trị, tư tưởng tập thể đoàn viên thanh niên, là nhân tố cơ bản của quá
43
trình tự giáo dục. Không những thế, Ðoàn còn là cầu nối giữa chi bộ Ðảng với
quần chúng trẻ tuổi. Thông qua các chương trình hành động thiết thực của
mình, Ðoàn vận động sinh viên thực hiện tốt nhiệm vụ học tập và rèn luyện,
tu dưỡng đạo đức bản thân và tích cực hơn nữa trong các phòng trào bảo vệ tổ
quốc, hiến máu, thiện nguyện, mùa hè xanh…
Như vậy, Đoàn Thanh niên có vai trò, vị trí hết sức quan trọng trong
giáo dục đạo đức cho sinh viên. Muốn làm được điều đó, thiết nghĩ, Đoàn
Thanh niên cần thực hiện tốt một số nhiệm vụ sau: Tạo nhiều sân chơi lành
mạnh, bổ ích mang mục đích định hướng giáo dục theo giá trị tích cực của
Phật giáo cho sinh viên ; xây dựng phong trào động viên sinh viên không
ngừng học hỏi, tu dưỡng bởi trong tam học “giới- định- tuệ” thì trí tuệ đóng
vai trò nhất, đây là con đường để diệt khổ. Chỉ có trí tuệ mới giúp con người
biết đâu là thiện, đâu là bất thiện. Như vậy việc đề cao trí tuệ trong đạo đức
Phật giáo sẽ đóng góp không nhỏ đối với việc xây dựng hình mẫu đoàn viên,
thanh niên “trí sáng” của Đảng ta hiện nay ; tập hợp và giáo dục sinh viên
hiểu biết giá trị Phật pháp, tôn trọng những giá trị đó và kỷ cương giáo lý nhà
Phật; tổ chức giáo dục cho sinh viên thông qua hoạt động phong trào theo chủ
đề, chủ điểm, không nên ôm đồm quá nhiều nội dung sẽ đưa đến tình trạng
quá tải, không có trọng tâm; chú trọng công tác giáo dục thông qua tập thể,
bằng tập thể; đoàn viên thanh niên cộng sản phải luôn gương mẫu trong học
tập tìm hiểu, nâng cao năng lực, phẩm chất người đoàn viên thông qua các
cuộc thi mang tính chất rèn luyện năng lực quản lý cảm xúc ; kiểm soát hành
vi trước tác động của ngoại cảnh, góp phần điều chỉnh các mối quan hệ tốt
đẹp giữa sinh viên ; tăng cường công tác thông tin tuyên truyền của Ðoàn
thông qua: Bản tin thanh niên; phát thanh thanh niên, panô hình ảnh, tập san,
nhóm văn nghệ xung kích, nhóm tuyên truyền viên.
Đoàn trường cần phải thường xuyên nghiên cứu, nắm vững tình hình,
dự báo xu hướng diễn biến về tư tưởng, thái độ chính trị, tôn giáo, đạo đức lối
44
sống của sinh viên. Từ đó, tổ chức các hoạt động phù hợp, thiết thực, các đợt
sinh hoạt chính trị, các câu lạc bộ lý luận, các buổi toạ đàm, tuyên truyền,
định hướng, xây dựng tình cảm tốt đẹp cho sinh viên thành viên đối với tôn
giáo, với những sinh viên có đạo.
Có thể nói, với những ưu điểm của tuổi trẻ, khi những giải pháp nêu
trên được thực hiện một cách đồng bộ thì tinh thần trách nhiệm, tính chủ động
của sinh viên trong việc thúc đẩy những ảnh hưởng tích cực, hạn chế những
ảnh hưởng tiêu cực của Phật giáo đến đạo đức, lối sống của bản thân và đạo
đức xã hội sẽ thực sự được phát huy.
Tiểu kết chương 3
Phật giáo góp một phần không nhỏ vào việc hoàn thiện đạo đức, lối
sống cho sinh viên. Song, bên cạnh những tác động tích cực, Phật giáo cũng
còn một số tác động tiêu cực đến đạo đức, lối sống của sinh viên trường Đại
học Nội vụ hiện nay. Trên cơ sở khách quan, khoa học, không có lý do gì
khiến chúng ta từ bỏ thế giới quan khoa học, biện chứng của chủ nghĩa Mác-
Lênin và cũng không có lý do gì mà chúng ta lại không vận dụng những giá
trị mà Phật giáo đã từng hấp dẫn con người, gắn bó với con người trong hàng
ngàn năm qua. Muốn phát huy những giá trị tích cực của đạo đức Phật giáo và
hạn chế những mặt tiêu cực trong xây dựng và hoàn thiện đạo đức, lối sôngs
cho sinh viên của trường hiện nay, cần thiết phải có một hệ thống giải pháp
đồng bộ từ phía nhà trường, đoàn thanh niên và nhà nước.
45
KẾT LUẬN
Phật giáo Việt Nam hiện nay có nguồn gốc và chịu ảnh hưởng sâu sắc
của Phật giáo Ấn Độ và Trung Quốc, hoà nhập với tín ngưỡng dân gian,
truyền thống văn hoá dân tộc ta từ hàng nghìn năm. Tuy có lúc thịnh suy,
mạnh yếu khác nhau nhưng đã tự khẳng định mình như một thành tố không
thể tách rời của nền văn hoá truyền thống Việt Nam. Qua quá trình hội nhập
và phát triển, thông qua sự chọn lọc và tiếp thu của các thời đại, Phật giáo
Việt Nam không những chia thành các tông phái và hệ phái khác nhau mà
mỗi địa phương, mỗi miền cũng thể hiện sự khác nhau trong nội dung, nghi
thức sinh hoạt và kiến trúc, lễ hội…Song nét tiêu biểu là Phật giáo ở đây có
sự hoà quyện chặt chẽ với Nho giáo, Đạo giáo và đã được dân tộc hoá, dân
gian hoá trở thành Phật giáo Việt Nam với những bản sắc riêng biệt, phù hợp
với tâm linh tín ngưỡng người Việt Nam.
Phật giáo từ khi Phật giáo du nhập đến nay đã ảnh hưởng đến mọi sinh
hoạt của người Việt Nam từ triết lý, tư tưởng, đạo đức, văn học, nghệ thuật
cho đến phong tục tập quán. Từ nhân sinh quan, đến thế giới quan, đạo lý,
thẩm mỹ cho đến lời ăn tiếng nói của quảng đại quần chúng Việt Nam trong
đó có sinh viên của trường Đại học Nội vụ Hà Nội ít nhiều ảnh hưởng của
triết lý Phật giáo và tư tưởng Phật giáo.
Ngày nay, đất nước ta đang trên đà phát triển và hội nhập vào nền kinh
tế thị trường của thế giới. Đời sống đạo đức, lối sống xã hội cũng theo xu
hướng toàn cầu hóa để vận hành. Bên cạnh những ảnh hưởng tích cực của
kinh tế thị trường tới kinh tế, văn hóa, đạo đức thì nó cũng có những mặt trái
nhất định, trong cơ chế thị trường hiện nay, bản năng ích kỷ trong sinh viên
dễ có cơ hội nảy sinh và phát triển. Dục vọng, đam mê, đồng tiền và sự sùng
bái vật chất làm cho một bộ phận sinh viên của trường có sự suy thoái về đạo
đức, lối sống đặc biệt nghiêm trọng là điều này đang xảy ra ở sinh viên những
46
chủ nhân tương lai của đất nước. Vì vậy, hơn bao giờ hết, việc giáo dục đạo
đức cho sinh viên là vô cùng cần thiết. Với quá trình du nhập và phát triển lâu
dài ở Việt Nam, đạo Phật đã trở thành một bộ phận của nền văn hóa, đạo đức
truyền thống của dân tộc. Những giáo lý của Phật giáo chuyển tải tư tưởng
bình đẳng, bác ái cứu khổ, cứu nạn, gần gũi với tín ngưỡng văn hóa Việt Nam
nên được người dân Việt Nam dễ dàng chấp nhận. Văn hóa tinh thần và đạo
đức truyền thống Việt Nam luôn lấy chân-thiện-mỹ làm thước đo giá trị đạo
đức con người Việt Nam, luôn đề cao các giá trị tốt đẹp, nhân ái, tình người.
Phật giáo lấy con người làm trọng tâm, thấu hiểu được nỗi khổ của con người
và chỉ ra con đường giải thoát khỏi vòng trầm luân biển khổ. Những quan
niệm về thiện- ác, Thập Nhị Nhân Duyên, Nghiệp, Kiếp, Thuyết nhân quả,
Nghiêp báo- Luân hồi, Ngũ giới,…mặc dù có phần mang tính thần bí, siêu
hình, song có ý nghĩa nhất định, mang lại cho cá nhân một thái độ sống có
trách nhiệm, góp phần răn đe, hạn chế suy nghĩ, lời nói, hành động không
đúng đắn và ngăn chặn tội ác từ trong trứng nước. Vì vậy, đạo Phật cần được
quan tâm và phát huy hơn nữa những ảnh hưởng tích cực, đóng góp nhiều hơn
nữa cho việc giáo dục đạo đức, lối sống giúp ích hơn nữa cho việc hình thành
nhân cách của sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội hiện nay. Trong giai
đoạn hiện nay, Phật giáo với những giá trị nhân văn, từ bi, hỷ xả, với mục
đích cao đẹp là giải thoát, cứu khổ cho con người vẫn đang chiếm được cảm
tình của một bộ phận lớn dân cư nói chung và thanh niên nói riêng. Những
hoạt động của Phật giáo đã và đang phản ánh được phần lớn thực trạng hoạt
động Phật giáo của cả nước trong thời kỳ mở cửa.Với trào lưu nhập thế tích
cực, Phật giáo đã đa dạng hoá các hình thức hoạt động của mình. Bên cạnh
những nghi lễ linh thiêng, những lễ hội tổ chức hàng năm tại các chùa ở các
địa phương là những hoạt động rất cụ thể nhằm giúp con người giảm bớt
những tâm tư, hòa mình vào đời sống cộng đồng, tăng cường tình đoàn kết
dân tộc. Mặc dù vẫn còn một số hạn chế nhất định, song những tác động của
47
Phật giáo đã góp một phần quan trọng trong việc giáo dục, hoàn thiện đạo đức,
lối sống cho sinh viên giúp sinh viên của nhà trường tích cực tham gia các
hoạt động có ích giúp xã hội phát triển. Muốn phát huy vai trò tích cực và hạn
chế tiêu cực của Phật giáo trong giáo dục đạo đức, lối sống của sinh viên nhà
trường thì cần thực hiện đồng bộ các giải pháp trên.
48
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Mai Văn Bính (2007), Lê Thanh Hà, Nguyễn Thị Thanh Mai, Lưu Thu
Thủy, Giáo dục công dân 10, Nxb Giáo dục Việt Nam.
2. Huệ Dân (2019), Phẩm hạnh nữ giới trong tinh thần Phật học cũng như
học Phật, http://www.chua-phuoc-binh.com/tinhhoaphathoc.
3. Nguyễn Đăng Duy (1999), Phật giáo văn hóa Việt Nam, Nxb Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần
thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011
5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ
XIII, Nxb Chính trị Quốc gia sự thật, Hà Nội, 2021
6. Trần Văn Giáp (1968), Phật giáo nguyên thủy đến thế kỷ XIII, Nxb Đại học
Vạn Hạnh.
7. Trần Văn Giàu (1973), Sự phát triển tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ XIX đến
cách mạng Tháng 8, Tập I, Ý thức hệ phong kiến và sự thất bại của nó trước
nhiệm vụ lịch sử, Nxb Khoa học xã hội.
8. Trần Văn Giàu (1975), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam,
Nxb KHXH, Hà Nội.
9. Trần Văn Giàu (1993), Đạo đức Phật giáo trong thời hiện đại, Nxb Tp. Hồ
Chí Minh.
10. Phạm Minh Hạc, Nguyễn Khoa Điềm (2003), Về phát triển và Xây dựng
con người trong thời kỳ công nghiệp hóa và hiện đại hóa, Nxb CTQG, Hà
Nội.
11. Học viện Phật giáo Việt Nam (2008), Phật giáo nhập thế và phát triển,
Nxb Tôn giáo.
12. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 8, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
13. Thích Đạo Quang (1996), Đại cương triết học Phật giáo, Nxb Thuận Hóa,
Huế.
49
14. GS. Nguyễn Tài Thư (1997)“Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo
đố với con người Việt Nam hiện nay”, Nxb CTQG, Hà Nội.
15. Thích Thanh Từ (1995), Phật giáo với dân tộc, Thành hội Phật giáo Tp.
Hồ Chí Minh.
16. Phạm Hồng Trung (2007), Nghiên cứu về lối sống: Một số vấn đề khái
niệm và cách tiếp cận, Tạp chí khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa học
xã hội và Nhân văn 23.
Tác giả người nước ngoài
17. Ayya Khema, Hãy đến để thấy Phật giáo, Con đường của hạnh phúc,
http://www.quangduc.com/kinhdien2/95haydendethay10.html.
18. Dais aku Ikeda (1996), Phật giáo một ngàn năm đầu, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội
19. Dais aku Ikeda (1996), Phật giáo một ngàn năm đầu, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
Địa chỉ một số trang website
20. https://hocluat.vn/wiki/sinh-vien/.
21. https://thuvienhoasen.org/a5380/dao-duc-phat-giao-va-hanh-phuc-con-
nguoi.
22. https://thuvienhoasen.org/a8458/viet-nam-phat-giao-su-luoc-tac-gia-thich-
mat-the.
23. http://tongiaovadantoc.com
24. https://www.unicef.org/vietnam/media/4391/file/JJ%20Sitan%20VN%20f
ull%20report.pdf
25. https://www.phatam.com/tu-tuong-phat-giao-quyen-1-duc-phap-
chu_258c38be6.html.
26. https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%E1%BA%ADt_gi%C3%A1o_Vi%E1%
BB%87t_Nam.
50
27. https://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BB%91i_s%E1%BB%91ng#cite_no
te-1.
28. https://www.phattuvietnam.net/net-dep-dao-doi-trong-mua-dich-covid-19-
o-thanh-pho-nghia-tinh/
51