intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Ba triết gia lớn thời Cận Hiện đại

Chia sẻ: Tran Minh Thang | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:17

31
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nội dung của tài liệu bao gồm: Descartes - người sáng lập ra tư duy hiện đại; phương pháp hoài nghi của Descartes; thời chuyển tiếp (Thời kỳ Ánh sáng – Enlightenment); Emmanuel Kant;...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Ba triết gia lớn thời Cận Hiện đại

  1. Học chủ yếu 3 tác giả chính để trình bày một quá trình, nhận diện và đặt tên cho “cái tôi”.  Ví dụ, phong trào Phục Hưng: chủ nghĩa cá nhân, ý thức về cái tôi của chính mình. DESCARTES ­ NGƯỜI SÁNG LẬP RA TƯ DUY HIỆN ĐẠI Tiểu sử ­ Tên rửa tội là René Descartes (1596 – 1650) trong gia đình quý phái tại miền  Touraine (thủ phủ là Tours) ­ Descartes được huấn luyện bởi các cha dòng Tên tại trường College La Fleche,  thuộc vào loại ưu tú trong xã hội o Descartes rất thích môn toán, toán học là một chính yếu trong thời này, coi  toán học là ngôn ngữ chính xác nhất để diễn tả chân lý o Spinoza là học trò của Descartes, rất thích toán học, tác giả cuốn Ethique –  trình bày đạo đức theo phương pháp toán học (hình học) o Trong giai đoạn này, con người muốn đưa ra một ngôn ngữ khoa học, chính  xác để thay thế cho ngôn ngữ suy diễn kiểu Aristotles thời Trung Cổ ­ Rất thích đi đây đi đó, giao thiệp và có thời gian đăng ký đi lính o Con người Descartes có 2 khuynh hướng: một là giao du với người khác, hai  là lui vào nội tâm để suy tư. o Năm 1649, được Hoàng hậu Thụy Điển Christine mời dạy học và ông chết  vào năm sau. ­ Ông là người đầu tiên viết tác phẩm triết học bằng tiếng Pháp “Discours de la  Methode” (1637) o Nội dung của cuốn sách là muốn đưa lý trí đến chân lý khoa học (directio  ingenii). Thậm chí đến nỗi ông nghi ngờ rằng có một Thần Ác thích lừa dối  tôi. o Phương pháp của ông được phát biểu trong câu: “Cái gì có thể nhìn thấy rõ  ràng (evidence1) thì có thể phát biểu ra một cách rõ ràng” ­ Mặc dù ông chủ trương viết sách bảo vệ Giáo Hội (chứng minh sự hiện hữu của  Thiên Chúa và sự bất tử của linh hồn) nhưng cuối cùng sách của ông bị liệt vào  danh sách cấm (Index) Phương pháp hoài nghi của Descartes (đi tìm sợi chỉ đỏ) 1 = “e+videre”
  2. ­ Trước tiên, Descartes hoài nghi về những cái hiện hữu bên ngoài, sau đó là hoài nghi  về chính bản thân mình, về những cái mình tưởng là chắc chắn. ­ Tìm thấy lại vai trò của cái tôi, vai trò của chủ thể bằng cách đặt lại mọi thứ trong  sự hoài nghi, đặt lại vấn đề về những cái mà mình nghĩ là chắc chắn, hiển nhiên o Triết lý Cổ đại đặt nền tảng trên một trật tự có sẵn (arche), con người được  mời gọi khám phá ra cái trật tự đó. o Đảo ngược trật tự triết học Kito giáo cổ điển. Kito giáo chủ trương con  người là một thụ tạo tham gia vào công trình của Thiên Chúa nên cái biết của  con người không hoàn bị, bắt chước cái biết của Thiên Chúa. Con người  nằm lưng chừng giữa Thiên Chúa và loài vật.  Jesus – Kito = vô song phổ quát = cái một + cái phổ quát.  Văn hóa là cái hòa hợp giữa cái tôi của mình vào cái phổ quát để mọi  người có thể chấp nhận được. o Descartes tìm thấy rằng cái tôi chắc chắn hiện hữu. Đây mới chỉ là sự chắc  chắn về chính mình (certitude) chứ chưa đạt đến chân lý (verum) o Hoài nghi của Descartes là cố ý và có phương pháp. Triết học của Descartes  là sợ bị lừa o Descartes tìm ra một nền tảng không thể lay chuyển được “fundamentum  hypokeimenon” bởi vì đây là phương cách “trực tiếp” đảm bảo cho việc đi  từ tôi suy tư  chắc chắn tôi hiện hữu. Mọi sự có thể bị phá bỏ nhưng cái  nền tảng còn lại là cái tôi suy tư của mình. o Ông lấy cái tiêu cực của thân phận loài người để lấy lại cái uyên nguyên  ban đầu của của con người  thiết lập một trật tự mới lấy con người làm  nền tảng, làm chủ thể. o Ông đặt câu hỏi “tôi là gì?” và ông trả lời “tôi là một sự vật suy tư2”  vì  ông đồng hóa cái tôi chỉ là sự vật (res) nên ông hụt mất âm tính của cái tôi và  bỏ lỡ cơ hội đạt được cõi tôi  Kant phê bình điều này.  Cái tôi (sự hiện hữu của con người) thì hoàn toàn khác sự hiện hữu  của sự vật hay thần thánh.  Kinh Viện: “sự vật là bản thể mà không cần bất cứ sự vật nào khác  để nó hiện hữu”3. 2 “Ergo sum res cogitans” – là sự vật tư duy đối lập với sự vật trương độ (res essensa)
  3. ­ Triết học của Descartes là philosophie de la déception4. Chỉ con người mới bị “phân  ra làm đôi”, bị dằn vặt bởi sự đấu tranh trong tâm hồn  là sự thú vị, cuộc phiêu  lưu nơi con người. o Pascal nói: “Ai muốn làm thiên thần thì hãy làm thú vật”. ­ Khác với Kant, Descartes không chủ trương một “Đạo đức học” nhưng ông chủ  trương một ý chí nơi con người, quyết tâm đi con đường của mình (không bị bó  buộc bởi những yếu tố bên ngoài) ­ Làm sao con người có thể đi từ “cái tôi hiện hữu” của mình để biết được “sự vật  bên ngoài”  ông lấy Thiên Chúa làm cầu nối. o Do tôi bất toàn, nên tôi khám phá ra trong tôi có một ý tưởng về một Thiên  Chúa toàn hảo  nếu Thiên Chúa ko hiện hữu thì TC là bất toàn  tất yếu  TC phải hiện hữu. o Ông chứng minh Thiên Chúa hiện hữu (bằng luận cứ hữu thể học). Nhưng  Giáo Hội thấy được sự nguy hiểm trong triết học của ông vì ông lấy con  người làm nền tảng, thay cho Thiên Chúa trong triết học Kinh Viện trước  đây. o Vai trò của Thiên Chúa trong Descartes là để đảm bảo giữa chân lý nội tại và  chân lý nơi sự vật bên ngoài. Điều này làm giảm vai trò của Thiên Chúa là cơ  sở của chân lý trong hệ thống Kinh Viện. ­ Triết lý của Descartes là nhị nguyên là bởi vì: o Ông phân biệt sự vật suy tư và sự vật trương độ. Tất cả những cái gì không  phải là “tôi”, ngay cả tha nhân, thì chỉ là sự vật trương độ. Muốn biết về sự  vật trương độ thì phải đo lường, tính toán,… o Làm thế nào để đi từ “cái tôi suy tư” đến với sự vật trương độ bên ngoài?  Làm thế nào mà “linh hồn” và “thân xác” của tôi phối hợp được với nhau? là  những câu hỏi lớn của Descartes. 3 Res est substantia quae nulla alia re indiget ad existendum. 4 Schizophrénie (bệnh tâm thần phân liệt) = schizo + phrénie = tâm hồn bị phân ra
  4. o Cách nhìn thế giới như thế đánh mất “cái ở”5 mà sau này các triết gia TK 20  rất tiếc nuối về điều này. “Ở” là tìm được cái tôi trước phán đoán. o Spinoza muốn vượt lên cái nhìn nhị nguyên của Descartes, muốn hợp nhất cái  “nội tại” và “trương độ”. Spinoza cho rằng cả 2 đều là biến thể của một  bản thể duy nhất là Thiên Chúa. ­ Triết học của Descartes là manh nha một nền triết học vô thần. Sau này Kant đi xa  hơn, đưa cái biết của con người vào thế không cần có TC và Heidegger là phủ nhận  Thiên Chúa  Thời chuyển tiếp (Thời kỳ Ánh sáng – Enlightenment) ­ Truyền thống duy lý tiếp tục phát triển o Tk 18, thời kỳ hậu Descartes tiếp tục phát triển, dùng lý trí giúp con người  khai sáng ra những thành quả mới từ những khu vực mà trước kia bị cấm  đoán. ­ Những triết gia nổi tiếng vào thời kỳ này o Berkeley o David Hume o Montesquieu o Voltaire o Rousseau ­ Phong trào Ánh sáng giúp thúc đẩy con người đủ can đảm (audare) sử dụng lý trí  của mình thay vì đức tin  con người trưởng thành o Đây là thời kỳ phân chia (li dị) giữa đức tin và lý trí. Lấy lý trí làm cơ sở và  nền tảng duy nhất  o Kant là một tác giả trong phong trào Ánh sáng. Trong cuốn sách “ Tôn giáo  trong giới hạn lý trí đơn thuần”, ông muốn giản lược tôn giáo 5 Việc khai thác môi trường quá mức làm con người không thể “ở” yên ổn được nữa.
  5. EMMANUEL KANT Tiểu sử ­ Kant sinh ngày 22/4/1724 tại Konigsberg tại công quốc Prussia (Phổ) o Kant là người Tin Lành, xuất thân trong gia đình thợ thủ công. o Kant bị ảnh hưởng của mẹ với truyền thống sùng đạo, học tại trường trung  học Frederic. o Năm 16 tuổi, ông lên đại học và bắt đầu học thần học nhưng sau đó ông  quay trở lại triết học và khoa học tự nhiên. o Ông sống bằng nghề làm gia sư trong suốt thời đi học đại học. o Ông được phong giáo sư về logic học và siêu hình học nhưng trong quá trình  giảng dạy, ông dạy rất nhiều môn khác nhau o Cuộc sống của ông rất bình dị. Ông nghiên cứu rất nhiều và có mối quan hệ  tốt với các nhà học giả như Lessing và Herder. ­ Kant chỉ có một lần không theo thời khóa biểu của mình là khi nghe về cuộc cách  mạng Pháp 1789 vì ông thấy được ý tưởng về một mơ ước bình đẳng lần đầu tiên  trở thành hiện thực Một số tác phẩm trong cuộc đời của Kant o “Physische Monadologie” (Đơn thể học vật lý): cho thấy ảnh hưởng của  Leibniz qua Christian Wolff o “Những mơ mộng về thị kiến”: thể hiện tâm trạng của Kant trước cuộc trở  lại o Khảo luận “Mô hình và các nguyên tắc của thế giới cảm năng và khả niệm”  (1770): báo trước cho các tác phẩm Phê bình6 sau này của ông o Phê bình lý trí thuần túy (1781) là đặc trưng của Kant. Đây là sinh hoạt của lý  trí mà ko bị ảnh hưởng của kinh nghiệm  Ban đầu Kant cũng theo chủ nghĩa duy lý giáo điều, nhưng sau khi  đọc được Lock và Hume  ông đã thoát khỏi cơn ngủ mê giáo điều  Kant phá bỏ hệ thống siêu hình học mà không biết giới hạn của mình,  đó là thứ siêu hình học giáo điều7 của chủ nghĩa duy lý 6 Kritik  Crisis = là thời khắc quyết định
  6. o Lời nói trước khoa siêu hình học tương lai (1783) nói lên khao khát của Kant  muốn tìm ra nền siêu hình học chính đáng, biết giới hạn của chính mình. o Nguyên tắc của siêu hình học về Đạo đức (1785) o Phê bình lý trí thực hành (1788): phê bình về khả năng phán đoán o Tôn giáo trong giới hạn của lý trí đơn thuần (trơ trụi) (: tâm tư của Kant đối  với vấn đề tôn giáo. Ông muốn đồng hóa cốt lõi của tôn giáo với sứ điệp  đạo đức.  Kant cho rằng Kito giáo là đỉnh cao của tôn giáo từ xa xưa đến giờ.  Có 2 điều làm Kant tràn ngập lòng tôn trọng là “bầu trời đầy sao trên  đầu tôi” và “quy luật đạo đức trong tim tôi”.  Kant đã phát hiện ra khái niệm về cái ác tuyệt đối  đó là cái ác do  con người làm một cách không suy nghĩ  tội ác bình thường  (Hannah Adrendt) Phương pháp của Kant qua 3 tác phẩm lớn Phê bình lý trí thuần túy = (Tôi biết gì?) ­ Khoảng năm 1780, Kant vẫn còn nằm trong khuôn mẫu chủ nghĩa duy lý giáo điều.  Để biện minh cho tham vọng biết của con người, ông cần làm sáng tỏ một số vấn  đề: o Kant cho rằng có 3 sự vật tự thân mà lý trí con người ko thể đạt được: Thiên  Chúa, linh hồn và thế giới. o Kant phê bình Descartes: Ý tưởng về Thiên Chúa không tất yếu bao hàm TC  hiện hữu vì hiện hữu không nằm trong khái niệm o Tri thức của con người không cần phải giống tri thức của Thiên Chúa vì tri  thức của con người phải thông qua trực giác mang tính thụ nhận, tiếp nhận.  Cái biết của con người bắt buộc phải là tổng hợp các phạm trù, còn  phân tích thì không thể có tri thức mới  mệnh đề dựa trên tổng hợp  Kant gọi là hậu nghiệm (a posteriori)  Tri thức của Thiên Chúa là tri thức sáng tạo o Làm sao những phán đoán tổng hợp tiên thiên (a priori) là khả dĩ? 7 Dogmatique của Kant = tưởng là chỉ bằng lý trí có thể xây dựng hệ thống siêu hình học mà ko cần dựa vào  kinh nghiệm  chủ nghĩa duy lý độc đoán
  7. ­ Tư tưởng của Kant là sự kết hợp giữa duy lý của Descartes và duy nghiệm của  David Hume o Cuộc trở lại của Kant được ví như cuộc cách mạng Copernicus, vì trước  Kant là lý trí quy về sự vật (intellectus ad rem), Kant đổi thành sự vật phải  quy về lý trí (rei ad intellectum) ­ Tri thức của con người dựa trên nền tảng là con người có khả năng đưa ra những  phán đoán tổng hợp tiên thiên8 (trong phê bình lý trí thuần túy đã có một phần phán  đoán) o Hume chỉ cho rằng con người chỉ có thể phán đoán tổng hợp hậu nghiệm   lý trí con người là thụ động o Kant phủ nhận điều này o (1) Giai đoạn 1 của tiền phê bình: Kant bắt đầu phê bình lý trí thuần túy với  thuyết cảm năng (Esthetique transcendentale) vì ông cho rằng mọi cái biết  của con người phải bắt đầu với, đi từ trực giác chứ không phải từ khái  niệm. Kant lấy lại châm ngôn mà Thánh Toma Aquino cũng đã nói: “Không  có gì có trong lý trí mà không hiện hữu nơi cảm năng”. Nhưng khác nhau  giữa Kant và Toma là vai trò của cảm năng: đối với Kant, vai trò của cảm  năng quan trọng hơn nhiều, là thứ đảm bảo cho nhận thức của con người. o Trong thuyết cảm năng, ông bàn về khả năng của trực giác nơi chủ thể  Thời gian và không gian không phải đến từ kinh nghiệm của tôi mà là  nó độc lập o Cái biết là cái biết có giới hạn vì con người là chủ thể tiếp nhận  con  người không cần phải đạt đến cái biết của Thiên Chúa o (2) Giai đoạn thứ hai của Kant là lý thuyết phân tích cảm năng  khả năng  của trí năng có thể nắm bắt được kiến thức từ khái niệm (Begreifen) o Từ 2 lý thuyết này, Kant đã đưa ra một phương cách mới làm nền tảng cho  tri thức của con người, cái biết của con người không cần đến sự đảm bảo  của Thiên Chúa như Descartes nữa. 8 Hume phủ nhận khả năng của con người có thể đưa ra những phán đoán tổng hợp tiên thiên, con người chỉ  có thể đưa ra những phán đoán tổng hợp hậu nghiệm ­ Kant: thời gian và không gian là tiên thiên của cảm năng vì nó là điều kiện đầu tiên để con người nắm bắt  được sự vật do kinh nghiệm cung cấp cho chúng ta. ­ Descartes: tưởng rằng thời gian và không gian là thực thể tách biệt với con người.
  8.  Ở khía cạnh này, Kant trách Descartes coi cái tôi chỉ như là sự vật (res  cogitans). Đối với Kant, cái tôi9 là một biểu tượng (representation) mà  có thể đi kèm với tất cả các biểu tượng khác  Kant cho rằng, khả năng của chủ thể có đủ khả năng để nắm được  tri thức  Ở đây, ta thấy được một nút thắt mới trong “sợi chỉ đỏ” o Kant không còn lấy Thiên Chúa để đảm bảo cho tính chân lý của tri thức con  người như Descartes, tách biệt tri thức của con người và Thiên Chúa. o Lần đầu tiên trong lịch sử, Kant thiết lập đối tượng cho chủ thể nhận thức;  phân biệt giữa cái tôi với đối tượng mà tôi muốn nhận thức. Cái tôi này tự nó  đủ khả năng để thiết lập đối tượng và nắm được nó. o (3) Giai đoạn thứ 3 tiền phê bình: Kant cho rằng  Khả năng của trực giác. Trước đây, chủ nghĩa duy lý lầm tưởng rằng  ý tưởng của trí năng có thể trở thành “khái niệm”  Khả năng sản xuất ra những khái niệm tiên thiên chứ không xuất phát  từ kinh nghiệm để phán đoán những gì kinh nghiệm cung cấp cho tôi  Khả năng có những ý tưởng (ý tưởng là một khái niệm mà không có  bất cứ điều gì xuất phát từ kinh nghiệm có thể làm đầy được) Vai trò của ý tưởng là hướng dẫn, chỉ đường Ngay cả cái tôi cũng là ý tưởng, một vật tự thân  cái tôi này  chính tôi cũng không biết một cách hoàn toàn được. Tóm tắt phần phê bình lý trí thuần túy ­ Đi từ cái nhìn duy lý ­ Cái biết của con người thông quan cảm năng, không cần phải đạt đến cái biết của  Thiên Chúa ­ Vai trò của trực giác (bằng cảm năng)  đưa ra 2 mô hình tiên thiên của cảm năng  là thời gian và không gian  khẳng định rằng ngay cả khâu tiếp nhận cũng có đóng  góp của con người (chủ thể chủ động cung cấp những phạm trù tiên thiên, cảm  năng có nhiệm vụ làm đầy những phạm trù này) 9 Cái tôi mà tôi nhận thức được. Kant nhận ra cái tôi có tính chất âm, khác với mọi vật khác có tính chất  dương (hữu hình)
  9. ­ Khoa học không đạt tới sự vật tự thân mà là là hiện tượng (phemomene), nhưng  hiện tượng này ngoài tầm tay của con người. ­ Nhưng chỉ dừng ở lại hiện tượng thì chưa thỏa mãn vì bản năng của con người là  cái biết và suy tư (suy tư là bản năng thôi thúc trong tâm hồn để đạt đến cái tuyệt  đối, có khả năng cung cấp cho con người những ý tưởng mà kinh nghiệm không bao  giờ làm đầy được) o 3 ý tưởng (sự vật tự thân) mà thế giới Trung Cổ tưởng là có thể nắm được o 3 ý tưởng này không thể thiết lập (constitutive) đối tượng cho nhận thức mà  chỉ có nhiệm vụ điều hòa (regulative), định hướng ­ Con người nếu chỉ dừng lại ở phần lý trí thuần túy này, mọi sự trên thế giới này  đều bị xác định chứ không có tính phổ quát (mọi tương quan đều là xuất phát từ  phạm trù nguyên nhân – kết quả) ­ Để thoát khỏi thế xác định  ­ Bằng cách nào Kant làm đầy 3 ý tưởng sự vật tự thân? Con người chỉ có thể tin  (chứ không thể biết) sự hiện hữu của 3 sự vật tự thân này: o Khi tôi hành động đạo đức không có gì đảm bảo cho tôi sống hạnh phúc cả?   Phải có Thiên Chúa để đảm bảo cho hành vi đạo đức của tôi, công sức  của tôi phải được trả công o Lý trí của tôi đòi hỏi linh hồn của tôi phải tự do và bất tử để có được hạnh  phúc đời sau. o Phải có thế giới vĩnh cữu tương lai (thiên đàng) là chỗ cho cộng đoàn cứu  cánh tự thân Phê bình lý trí thực hành = (Tôi phải làm gì?) ­ Kant khác Descartes ở chỗ cho rằng Đạo đức học là một hệ thống10, là cái chắc  chắn ­ Lý trí thuần túy vẫn làm cho con người ở thế chênh vênh  cần phải lấy thực hành  để giải quyết thế chênh vênh nơi con người. Trước đây, người ta cho rằng phần  “thực hành” chỉ là hệ quả đi sau phần suy tư “lý thuyết” o Người Hy Lạp có 2 từ “làm”: Prassein (practice) và poiein11 (make) 10 Cái thiếu của phương Đông là tính hệ thống 11 Prassein: hành động (người tự do) làm biến đổi chủ thể; poiein: làm ra (nô lệ) một sản phẩm và hành động  chấm dứt sau khi hoàn thành đồ vật đó.
  10. ­ Kant thấy rằng phần thực hành luân lý quan trọng hơn lý trí: “Tôi phải hủy bỏ cái  biết để dành một chỗ cho niềm tin” (ich muss das wissen aufheben um dem Glauben  platz zu machen) ­ Kant chỉ dám phân tích hành động (prassein) chứ không phân tích poiein và nhắm  đến tính đạo đức trong hành vi của con người o Hành động (prassein) có tính sáng tạo trong nó. Tính “bắt đầu” thoát khỏi hay  phá bỏ chuỗi nguyên nhân – kết quả  chứng minh con người là chủ động,  có thể “tự trị”, có khả năng dùng lý trí để “đứng một mình” o Kant là một trong số triết gia phong trào Ánh sáng (Aufklarung) – đòi hỏi thế  đứng độc lập cho con người, không phụ thuộc vào các yếu tố tôn giáo,… ­ Tại sao con người phải hành động đạo đức? Vì hành động đạo đức là cơ may duy  nhất con người (cái tôi của tôi) thoát khỏi thế giới hiện tượng o Kant nói rằng con người bao giờ cũng hành động theo châm ngôn (maxime)  của mình  “Anh hãy hành động làm sao châm ngôn của anh trở thành quy  luật phổ quát (cho mọi người)”  sự nối kết giữa chủ quan của bản thân và  cái phổ quát.12Nếu con người hành động để tìm “hạnh phúc” thì con người  vẫn chưa thoát khỏi thế giới hiện tượng vì bất kỳ mục tiêu nào cũng là yếu  tố ngoại tại  cần phải tìm cho mình một “mệnh lệnh tuyệt đối”13 (yếu tố  nội tại) để hành động o Hành vi đạo đức là một mệnh lệnh tuyệt đối là một bổn phận. Tiếng nói  của lương tâm là một cơ may để con người thoát khỏi thế giới hiện tượng o Kant loại bỏ mọi tâm tình cảm xúc mà chỉ giữ lại duy nhất là lòng kính trọng  (respect) vì tâm tình kính trọng là nơi gặp gỡ của 2 thế giới: thế giới hiện  tượng và thế giới của lý trí ­ Đạo đức học của Kant giúp đưa ra mô hình giúp con người thoát khỏi thế giới ràng  buộc của hiện tượng để vươn lên thế giới khả niệm “nous” ­ Phê bình bằng lý trí thực hành cũng chưa đạt được thỏa mãn vì  Phê bình lý trí phán đoán = (Tôi có thể hy vọng cái gì?) o Tại sao sau 2 phê bình thuần túy và thực hành, phải có phê bình phán đoán? 12 Triết lý nào cũng cần có một sự phổ quát, mặc dù nó không trực tiếp nói đến. Trong tư tưởng này, triết lý  Phương Tây mặc dù không nói đến nhưng thừa nhận mầu nhiệm Nhập Thể = cái phổ quát trở nên cụ thể. 13 Imperative categorical = đòi hỏi tuyệt đối chứ không phải là assertical hay hypothetical
  11. ­ Lý trí thuần túy đưa ra một cái phổ quát về tri thức (2+2=4) ­ Lý trí thực hành đưa ra một cái phổ quát về đạo đức  có tính cách bó buộc, đánh  mất giá trị tự do, tâm tình thực tiễn (lòng kính trọng) nơi con người  không thỏa  mãn  ông đi tìm cái phổ quát cụ thể (ví dụ tiếng nói của con người) o Điểu chi tương tử, kỷ minh dã ai; Nhân chi tương tử, kỷ ngôn dã thiện (Tăng  Tử) o Kant phân biệt 2 thứ phán đoán: ­ Phán đoán xác định (phán đoán khoa học): o Đi từ cái phổ quát để xác định cái đặc thù, đưa ra những mệnh đề bắt buộc,  tất yếu o Trong phần phê bình lý trí thuần túy, Kant chỉ đạt tới phán đoán xác định  (determined judgement) ­ Phán đoán phản tỉnh (phán đoán đạo đức): o Đi từ cái đặc thù nhất, cố gắng vươn tới để đạt tới cái phổ quát. Ví dụ: cái  đẹp, phổ quát nhưng ko ép buộc ai. Kant định nghĩa “cái đẹp là cái làm mọi  người thích thú mà không cần kinh nghiệm14” (le beau est ce qui plait  universellement saus concept) o o Đánh giá Kant ­ Triết lý của Kant là thiết lập cái biết nhưng không quên giới hạn của chính mình ­ Chủ trương của Kant là muốn bảo vệ tôn giáo nhưng Giáo Hội lại cho rằng triết lý  của ông là chống lại đức tin. ­ Kant là đỉnh cao của truyền thống duy lý (rationalism),biểu hiện cho những ưu điểm  cho phong trào duy lý, giúp chúng ta nhìn ra những giới hạn15 trong mọi sự. Tư  tưởng của ông có ảnh hưởng rất lớn trong tư duy hiện đại ngày nay. ­ Kant phủ nhận siêu hình học cổ điển (cho rằng bằng lý trí con người có thể đạt đến  những chân lý siêu hình học như là Thượng Đế, linh hồn,…). Ông tiếp nối  Descartes, xây dựng nên một kiểu siêu hình học mới. 14 Nghĩa là không cần tiêu chuẩn 15 Thuật ngữ giới hạn rất quan trọng trong tư tưởng của Kant
  12. o Tư duy hiện đại không phá bỏ siêu hình học nhưng đi tìm một nền tảng siêu  hình mới chắc chắn hơn. Nổi bật ở TK 20 là Husserl và học trò của ông là  Heidegger với cuốn “Kant và những vấn đề siêu hình học”. ­ Kant cho rằng “cái tôi biết suy tư” của Descartes không phải là một tri thức mà chỉ  là một ý thức (conscience) o o Con người có 2 phần nhưng thống nhất với nhau, Descartes cho rằng con  người chỉ là sự vật đặt bên cạnh sự vật khác nên thiếu mất đi một phần   Kant khám phá phần “âm tính”16 này của cái tôi o Kant chủ trương rằng con người thì biết trong phạm vi con người là đủ o Khi đọc được Hume thì Kant mới phát hiện ra mình thoát khỏi cái gọi là  “dogmatism” ­ Kito giáo đối nghịch với Kant về tính cho không của ân sủng. Kant cho rằng hạnh  phúc là nội tại, ta phải dùng sức lực (công trạng) của mình để đạt được hạnh phúc.  Đối với Kito giáo, hạnh phúc là đối tượng mà con người nhắm đến; hạnh phúc là  được Thiên Chúa nhìn nhận ­ Kant chủ trương giản lược tôn giáo thành phạm trù đạo đức o HEGEL ­ Trong khi Kant chỉ dừng lại ở phần âm tính thì Hegel đi xa hơn o Kant nhận ra cái âm tính của cái tôi nhưng chưa đi đến cùng. Sau này Hegel  trong cuốn “Hiện tượng luận về tinh thần”  ở đây từ hiện tượng mang  nghĩa đảo ngược lại vì tinh thần phải xuất hiện trong thời gian. o Hegel lấy lại khái niệm “phenomonologie” của Kant: thế giới hiện tượng17  (phainomenon) >
  13. o Phong trào văn chương lãng mạn (Romantisme) đi sau phong trào văn chương  cổ điển (Classicisme) ­ Trong thời gian đi học, Hegel rất ham mê khám phá Hy Lạp cổ, ngưỡng mộ nghệ  thuật Hy Lạp, nhất là điêu khắc. o Việc đề cao lý trí ở Âu châu là có nguồn gốc từ Hy Lạp o Ông rất thấm nhuần văn hóa Hy Lạp ­ Nhiều người đánh giá Hegel là một người viết rất trừu tượng. Schopenhauer18 nói  rằng Hegel chỉ biết khoe trương những “lâu đài khái niệm” mà chỉ có trong nhà  thương điên mới có ­ Ông đã có nhiều năm làm gia sư tại Frankfurt để kiếm sống trước khi được kế thừa  gia tài từ gia đình  làm triết học. o Schelling đã giới thiệu Hegel làm giáo sư tại đại học Iena ­ Năm 1806, ông viết cuốn “Hiện tượng luận về tinh thần” ­ Trong đời, Hegel có cơ hội chứng kiến sự thắng trận của Napoleon I (triết học của  Hegel có liên quan đến Napoleon I vì Hegel có một đặc ân được chứng kiến sự  thắng trận của Napoleon ở Jena) o Napoleon đối với Hegel là nhân vật đại diện cho ý tưởng cách mạng được  phổ biến khắp nơi ở châu Âu. Ông coi sự chiến thắng này là sự kết thúc của  lịch sử, cái hiện thân của tinh thần tuyệt đối trở nên hiện thực. o Sau khi Napoleon chết, Hegel lấy nhà nước Phổ làm nhân vật đại diện cho  hiện thực o Hệ thống của Hegel là tinh thần xuất hiện trong lịch sử và tự hoàn thiện nó  để kết thúc trong lịch sử  về sau Marx lật ngược tiến trình này o Tác phẩm ­ “Khoa học về Logic” (Wissenschaft der Logik) – bộ 3 quyển xuất bản từ 1812­1816   được mời đến dạy tại Heidelberg ­ Trong bài nói chuyện ra mắt đại học Berlin, ông đề cao vai trò của nhà nước (Raison  d’Etat)  trở thành triết gia của nhà nước Đức o Trong quá trình giảng dạy, ông đề cập đến rất nhiều môn khoa: triết lý về  luật pháp, nghệ thuật, tôn giáo, lịch sử và lịch sử triết học. 18 ảnh hưởng sâu đậm bởi Phật giáo và Ấn độ giáo
  14. ­ Sau khi chết, cuốn “Đường nét chính về pháp luật” của ông được xuất bản o Biện chứng pháp ­ Tư tưởng Hegel là “biến hóa” (devenir) cũng gần như là triết lý thay đổi của  Hecralites  ông dùng phương pháp biện chứng (dialectic) để suy luận về tinh thần. o Cái yếu tính là cái đã trải qua quá trình biến hóa, là cái “đã trở thành” (Wesen  ist das Gewesene” o Trong biện chứng của Hegel có một động từ then chốt là “lập ra” (posein) o Hữu thể tự lập ra these (đề)  lập ra antithese (phản đề). Sau khi phủ định  nhau thì lập ra một hợp đề có tính cách hòa giải nhau  Trong vở kịch Faust của Goeth có một nhân vật quỷ “Mephitophetes”  nói rằng: “Ich bin der Geist der steps verneint” (Tôi là một thần Minh  luôn luôn nói không) ­ Mạnh Tử: “vạn vật giai bị ư ngã” còn mạnh hơn Aristotles: “Trí năng cách nào đó  trở nên vạn vật” ­ Hegel dùng biện chứng pháp để viết cuốn “Hiện tượng luận về tinh thần” (1806) o Ông mượn từ “hiện tượng” trong tư tưởng của Kant  sau này, Husserl lấy  lại ý tưởng hiện tượng này. o Hegel giải quyết thuyết nhị nguyên của Descartes bằng việc làm chìm đắm  tinh thần trong lịch sử, đưa tinh thần và lịch sử làm một o Cuốn sách như là một tiểu thuyết của tinh thần trong lịch sử, lịch sử chính là  môi trường của tinh thần. ­ Tinh thần có 3 phần: o Tinh thần chủ quan:  o Tinh thần khách quan: tinh thần không còn ở trong chính mình mà nó tồn tại  nơi sản phẩm của tinh thần mà nó sản xuất ra o Tinh thần tuyệt đối: tinh thần chủ quan và khách quan gặp nhau và hòa giải  với nhau. Có 3 cách để tinh thần trở nên tuyệt đối: nghệ thuật, tôn giáo và  triết lý.  Trong tôn giáo: Hegel mượn hình ảnh Đức Giê­su Kito để nói về cái  phổ quát cụ thể, đó là tinh thần tuyệt đối trở nên một con người cụ  thể. ­ Tinh thần biện chứng pháp:
  15. o Giai đoạn 1: Giai đoạn ý thức tự quy: Ông mượn đề tài chủ ­ nô trong Phúc  Âm nhưng nhìn bằng khía cạnh khác, là một kinh nghiệm chính trị nằm sau  trong tham vọng của con người, là cái mà con người khát vọng  tham vọng  quyền lực  nói lên bản chất của cái tôi, ý thức về cái tôi của mình.  Cái tôi là một cuộc tranh đấu bằng 2 ý thức tự quy (được công nhận  và được sống), tương quan giữa người với người để sống đúng là  con người (homo homini est homo19)  Cái tôi là tính tiêu cực tuyệt  đối, đồng nghĩa với sự khao khát sự vô biên (vô biên là cái không chán  bao giờ)  Hegel có một định nghĩa thần sầu về lao động: “Lao động là khát  vọng bị hủy diệt và sự hưởng thụ bị đình chỉ” (negierte Begierte  suspendierter Genub).  Người lao động cũng đóng góp phần nào đó  ý nghĩa của lao động, họ nhận ra chính mình trong sản phẩm làm ra.  Công đầu là khai mở đưa lý tính vào khu vực “sinh lý”  mở đầu cho  lịch sử  Tranh đấu giữa người với người không phải là cuộc tranh đấu sinh  tồn như thú vật nhưng nhằm được công nhận  2 ý thức của chính mình đeo đuổi cái chết của nhau  ý thức về  chính mình chính là khát vọng được công nhận bởi kẻ khác. Điều này  đưa con người vào một cuộc chơi, đây là cách duy nhất con người  “nếm” được “cái vô biên”  Spinoza đã nói một câu bất hủ khi có được niềm vui hoàn hảo: “Nhận  ra rằng chúng ta là vĩnh cửu” (Experimur nos aeternos esse).  Người chiến binh có công đưa ý nghĩa vào sự sống thú vật  trở  thành ông chủ và sống một cách xa xỉ, thụ hưởng những cái ngon, cái  đẹp trên đời  Khổng Tử phân biệt giữa xa xỉ và kiệm.  Đời sống của ông chủ lệ thuộc vào nô lệ  Nô lệ là người tham sống, sợ chết; không dám đi đến cùng cuộc tranh  đấu, đầu hàng vì ý thức được một chân lý căn bản: “Cái chết là ông  chủ cao hơn ông chủ hữu hình”  nhận thức được giá trị của sự  sống, việc ham sống cũng có giá trị của nó. 19 Hobbes: homo homini est lupus (con người đối với con người là sói)
  16.  Kierkegard phản ứng lại triết học của Hegel và mô tả kinh nghiệm  “kinh hoàng”. Kinh nghiệm về cái chết làm cho mọi sự loãng ra, vô  nghĩa  kẻ nô lệ kinh nghiệm được điều này, nhận người khác làm  chủ của mình. Người nô lệ phải lao động để cung cấp cho nhu cầu  thụ hưởng để sống như “con người’” của ông chủ. Nô lệ sống để  cho mình không được thụ hưởng cái khát vộng của mình.  Phủ định đơn thuần là kẻ thắng giết kẻ thua; nhưng phủ định biện  chứng là đưa kẻ thua làm nô lệ  Người nô lệ phải sống trong môi trường gián tiếp, không được trực  tiếp thỏa mãn những khát vọng của chính mình. Trong lao động,  người nô lệ cũng đưa ý tưởng của mình vào sản phẩm. Hannah  Adrent, trong lao động con người đưa cái “artifact” (tính nhân tạo) vào  trong cuộc sống.  Trong lao động, có 2 hướng là: tạo hình (bilden) cho chính mình và  tạo hình cho thế giới (bildung)  Công của người chủ là khơi mào lịch sử, còn công của người nô lệ là  tiếp diễn lịch sử. Bằng chứng là những cuộc chiến tranh giữa người  với người.  Lao động cốt ở ngày càng “chuyên biệt”, càng ngày càng đi vào đặc  thù. o Biện chứng pháp là cố gắng hòa giải giữa 2 cực đối lập, giữa cái phổ quát  và cái đặc thù  vấn đề làm thế nào để hòa giải được 2 cực đối lập này?  Người nô lệ sau khi tạo ra sản phẩm thì cảm thấy thỏa mãn vì nhận  ra chính mình nơi sản phẩm  Cái tôi của Hegel đồng hóa với ý thức tự quy. Đó chính là khát vọng, khác với  cái tôi đạo đức của Kant. o o Tại sao sau khi mượn đề tài chủ nô trong Tin Mừng, Hegel lại đi ngược lại  với tinh thần biện chứng tình yêu của Tin Mừng (biện chứng là đấu tranh)? ­ Ông chuyển thành biện chứng đấu tranh là muốn thiết lập lịch sử. Ông cho rằng sẽ  không có lịch sử nếu không có sự đấu tranh. o o HUSSERL VÀ HEIDEGGER
  17. ­ Husserl trong tác phẩm của mình khám phá ra khủng hoảng của thế giới Âu châu  những năm 1930 trong tác phẩm “Cơn khủng hoảng của các khoa học châu Âu” ­ Hiện tượng luận xem xét sự vật trước khi chủ thể tách sự suy tư của mình ra khỏi  môi trường đang ở. Vì Descartes tách nội tại suy tư ra khỏi môi trường “ở lại”,  không ý thức được chính mình đang “ở” trong một môi trường. o TỔNG KẾT ­ Sợi chỉ đỏ liên tục: o Descartes: chủ thể là tinh thần o Kant: tinh thần phải là biểu tượng mà có thể đi kèm với các biểu tượng khác o Hegel: tinh thần là chủ thể và nó thể hiện mình trong lịch sử ­ Tư tưởng Tây phương là muốn tìm ra một nền triết học mang tính khoa học chính  xác bắt đầu từ các triết gia Thượng Cổ như Plato o Descartes mơ tưởng đến một nền toán học phổ quát o Spinoza trình bày triết lý bằng ngôn ngữ hình học o Kant mơ ước trình bày nền siêu hình học trong tương lai bằng ngôn ngữ toán  học o Husserl mơ tưởng đến việc nắm được cái vô biên và hệ thống của nó ­ Kant phê bình cái tôi biết suy tư của Descartes chỉ là một ý thức, nghĩa là việc tôi có  ý tưởng về Thiên Chúa không có nghĩa là Thiên Chúa phải hiện hữu. Cái tôi biết suy  tư ở đây chỉ là một khái niệm trong trí năng mà không có gì hiện hữu có thể làm đầy  được. o o o o o o o o o o
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2