BÀI DỰ THI<br />
Cuộc thi “Em yêu lịch sử Việt Nam”<br />
<br />
<br />
Họ tên: Lê Thanh Thảo<br />
Lớp: 7A<br />
Trường: Trung học cơ sở Huy Văn<br />
<br />
<br />
Câu 1: Nêu hiểu biết của em về sự kiện cách mạng tháng 8/1945, <br />
tuyên ngôn độc lập năm 1945. Lấy dẫn chứng tiêu biểu về những đóng <br />
góp của quê hương em cho thắng lợi của cách mạng tháng 8. Theo em <br />
độc lập có ý nghĩa như thế nào đối với một quốc gia.<br />
Trả lời:<br />
* Hiểu biết của em về sự kiện cách mạng tháng 8/1945:<br />
Tháng 8 năm 1945, cuộc chiến tranh thế giới đi vào giai đoạn kết thúc. <br />
Sau khi tiêu diệt phát xít Đức tại sào huyệt của chúng, Liên Xô quay sang tấn <br />
công phát xít phương đông là Nhật Bản. Phong trào đấu tranh chống Nhật <br />
bùng lên mạnh mẽ ở các nước phía đông và đông nam châu á. Thời cơ cách <br />
mạng đang mở ra trước con đường giải phóng của các dân tộc.<br />
Ở Việt Nam, trải qua các cuộc diễn tập, đến năm 1945, phong trào cách <br />
mạng dâng cao. Ngày 9/3/1945, phát xít Nhật làm cuộc đảo chính hất cẳng <br />
Pháp. Ngay trong đêm đó, hội nghị Ban Thường vụ Trung ương mở rộng <br />
quyết định phát động một cao trào cách mạng làm tiền đề cho tổng khởi <br />
nghĩa, thay đổi các hình thức tuyên truyền, cổ động, tổ chức và đấu tranh cho <br />
thích hợp. Tháng 3/1945, Trung ương Đảng ra chỉ thị “Nhật – Pháp bắn nhau <br />
và hành động của chúng ta”. Tháng 4/1945, Trung ương triệu tập Hội nghị <br />
quân sự cách mạng Bắc Kỳ, quyết định nhiều vấn đề quan trọng, thống nhất <br />
các lực lượng vũ trang thành Việt Nam giải phóng quân. Ngày 16/4/1945, tổng <br />
bộ Việt minh ra chỉ thị tổ chức các Ủy ban Dân tộc giải phóng các cấp và <br />
<br />
<br />
<br />
1<br />
chuẩn bị thành lập Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam, tức chính phủ lâm <br />
thời cách mạng Việt Nam.<br />
Từ tháng 4/1945 trở đi, cao trào kháng Nhật cứu nước diễn ra mạnh mẽ, <br />
phong phú về nội dung và hình thức. Đầu tháng 5/1945, Bác Hồ từ cao bằng <br />
về Tuyên Quang, chọn Tân Trào làm căn cứ chỉ đạo Cách mạng cả nước và <br />
chuẩn bị Đại hội quốc dân. Ngày 4/6/1945, khu giải phóng Việt Bắc được <br />
thành lập đặt dưới sự lãnh đạo của Ủy ban chỉ huy lâm thời, trở thành căn cứ <br />
địa của cả nước. Tháng 8/1945, hội nghị Đại biểu toàn quốc của Đảng họp <br />
tại Tân Trào (Tuyên Quang) khẳng định: “Cơ hội rất tốt cho ta dành độc lập <br />
đã tới” và quyết định phát động toàn dân khởi nghĩa dành chính quyền từ tay <br />
phát xít Nhật và tay sai trước khi quân đồng minh vào Đông Dương; đề ra ba <br />
nguyên tắc đảm bảo tổng khởi nghĩa thắng lợi, đó là: tập trung, thống nhất, <br />
kịp thời.<br />
23 giờ ngày 13/8/1945, Ủy ban Khởi nghĩa ra Quân lệnh số 1 hiệu triệu <br />
toàn dân tổng khởi nghĩa. Ngày 16/8/1945, Đại hội Quốc dân họp tại Tân trào <br />
thông qua “10 chính sách lớn của Việt Minh”; thông qua “Lệnh tổng khởi <br />
nghĩa”; quy định quốc kỳ, quốc ca; thành lập Ủy ban Dân tộc giải phóng <br />
Trung ương, tức Chính phủ lâm thời do đồng chí Hồ Chí Minh làm chủ tịch. <br />
Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi nhân dân cả nước tổng khởi nghĩa, <br />
trong đó chỉ rõ: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến/ Toàn <br />
quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.<br />
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả <br />
nước đồng loạt vùng dậy, tiến hành tổng khởi nghĩa, giành chính quyền. Từ <br />
ngày 14 đến ngày 18/8, cuộc tổng khởi nghĩa nổ ra giành được thắng lợi ở <br />
nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, đại bộ phần miền Trung, một phần miền <br />
Nam và ở các thị xã: Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Hội An, Quảng <br />
Nam… Ngày 19/8, khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi ở Hà Nội. Ngày <br />
23/8, khởi nghĩa thắng lợi ở Huế và Bắc Cạn, Hòa Bình, Hải Phòng, Hà <br />
Đông, Quảng Bình, Quảng Trị… Ngày 25/8, khởi nghĩa thắng lợi ở Sài Gòn <br />
– Gia Định, Kon Tum, Sóc Trăng, Vĩnh Long, Trà Vinh, Biên Hòa, Bến Tre… <br />
Ở Côn Đảo, Đảng bộ nhà tù Côn Đảo đã lãnh đạo các chiến sĩ cách mạng bị <br />
<br />
2<br />
giam cầm nổi dậy giành chính quyền. Chỉ trong vòng 15 ngày cuối tháng <br />
8/1945, cuộc tổng khởi nghĩa đã dành thắng lợi hoàn toàn, chính quyền cả <br />
nước về tay nhân dân.<br />
Ngày 2/9/1945, tại Quảng Trường Ba Đình (Hà Nội) lịch sử, trước một <br />
cuộc mít tinh của gần một triệu đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt <br />
Chính phủ Lâm thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố trước <br />
quốc dân và thế giới: Nước Việt Nam dân chủ công hòa ra đời (nay là <br />
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Từ đó, ngày 2/9 là Ngày Quốc khánh <br />
của nước ta.<br />
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công là thắng lợi vĩ đại đầu tiên <br />
của nhân dân ta từ khi có Đảng lãnh đạo, mở ra bước ngoặt vĩ đại đầu tiên của <br />
nhân dân ta từ khi có Đảng lãnh đạo, mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân <br />
tộc Việt Nam. Chính quyền về tay nhân dân, nước Việt Nam dân Dân chủ <br />
Cộng hòa ra đời – Nhà nước Công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Từ đây chấm <br />
dứt chế độ quân chủ phong kiến ở Việt Nam; kết thúc hơn 80 năm nhân dân ta <br />
chịu ách đô hộ của thực dân, phát xít. Nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ <br />
trở thành người dân một nước độc lập, làm chủ vận mệnh của mình. Nước <br />
Việt Nam từ một nước thuộc địa nửa phong kiến trở thành một nước độc lập, <br />
tự do và dân chủ. Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành một Đảng cầm quyền. <br />
Kể từ đây, đất nước, xã hội, dân tộc và con người Việt Nam bước vào kỷ <br />
nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa Xã hội.<br />
* Lấy dẫn chứng tiêu biểu về những đóng góp của quê hương em cho <br />
thắng lợi của cách mạng tháng 8:<br />
Em được sinh ra và lớn lên ở thủ đô Hà Nội, mảnh đất nghìn năm văn <br />
hiến, nơi gắn liền với rất nhiều những dấu ấn văn hoá, lịch sử của cả dân <br />
tộc. Cuộc tổng khởi nghĩa ở Hà Nội trong tháng tám năm có ý nghĩa rất quan <br />
trọng, quyết định tới thành công của Cách mạng tháng Tám. Đóng góp của Hà <br />
Nội trong Cách mạng tháng tám được thể hiện trên những dẫn chứng cụ thể <br />
sau:<br />
Vào những ngày đầu tháng 8 năm 1945, tình hình chính sự Hà Nội ngày <br />
càng trở nên nóng bỏng hơn do những biến động của Thế chiến thứ hai. <br />
<br />
3<br />
Chiều 15 tháng 8, khi có tin Nhật chính thức đầu hàng Đồng Minh, hai ông <br />
Trần Tử Bình và Nguyễn Khang, hai đại diện của Xứ ủy Bắc Kỳ đã cấp tốc <br />
bàn bạc và đi tới quyết định thành lập Uỷ ban Quân sự Cách mạng Hà Nội, <br />
gấp rút chuẩn bị vũ trang khởi nghĩa giành chính quyền. Ủy ban khởi nghĩa sẽ <br />
trực tiếp tổ chức các cuộc mít tinh, tuần hành, biểu dương lực lượng gây <br />
hoang mang cho chính phủ Trần Trọng Kim trước khi đi tới việc giành chính <br />
quyền. <br />
Ngày 17 tháng 8, cuộc mít tinh của Tổng hội công chức chính quyền <br />
Trần Trọng Kim diễn ra tại quảng trường Nhà hát Lớn thành phố để ủng hộ <br />
chính phủ thu hồi chủ quyền. Hàng vạn người đứng đầy đường Paulbert (nay <br />
là phố Tràng Tiền), mọi người hát vang bài Tiếng Gọi Thanh Niên và hoan hô <br />
chính phủ Trần Trọng Kim thu hồi độc lập, họ hô to "Việt Nam độc lập muôn <br />
năm". Các đội viên đội Tuyên truyền Giải phóng quân cũng trương cờ đỏ sao <br />
vàng và hô to "Ủng hộ Việt Minh". Chiều ngày 17 tháng 8, tại làng Vạn Phúc <br />
An toàn khu của Xứ uỷ tại Hà Đông, ông Nguyễn Khang sau khi trực tiếp <br />
khảo sát tình hình Hà Nội trở về đã trao đổi với ông Trần Tử Bình và đi tới <br />
quyết định: Dựa trên chỉ thị "Nhật, Pháp bắn nhau và hành động của chúng <br />
ta" tiến hành cho Hà Nội khởi nghĩa mà không cần chờ tới lệnh của Trung <br />
ương. Quyết định quan trọng này được đưa ra chỉ 2 ngày sau khi có tin Nhật <br />
đầu hàng Đồng Minh và Pháp còn đang lúng túng trong chính sách cụ thể đối <br />
với Việt Nam và Đông Dương. <br />
Tinh mơ sáng ngày 19 tháng 8, hàng chục vạn người dân ở Hà Nội và các <br />
tỉnh lân cận theo các ngả đường kéo về quảng trường Nhà hát Lớn Hà Nội. <br />
Khoảng 10 giờ rưỡi, cuộc mít tinh lớn chưa từng có của quần chúng cách <br />
mạng được sự bảo vệ của Thanh niên tự vệ, của tổ chức Việt Minh Hoàng <br />
Diệu Hà Nội đã diễn ra. Đại diện Việt Minh tuyên bố: Tổng khởi nghĩa! Sau <br />
đó một cánh tiến thẳng tới Phủ Khâm sai, cơ quan đầu não của chính phủ, và <br />
nhanh chóng làm chủ toàn bộ khu vực này. Lính bảo vệ Phủ đã hạ vũ khí mà <br />
không có bất kỳ hành động kháng cự nào trước sức mạnh của nhân dân Hà <br />
thành. Cùng thời gian đó, ông Nguyễn Quyết đã chỉ huy nhân dân chiếm Trại <br />
Bảo an binh. Nhưng quân đội Nhật đã can thiệp, ông Nguyễn Khang và ông <br />
Trần Tử Bình đã quyết định tiến hành đàm phán với quân đội Nhật vì theo <br />
4<br />
phân tích thì quân Nhật đã rất rệu rã, không còn tinh thần chiến đấu cao và <br />
muốn bảo toàn lực lượng khi rút về nước. Đúng như dự đoán, sau khi tiếp <br />
nhận đề nghị của Ủy ban Khởi nghĩa, Nhật đã đồng ý rút quân nhưng yêu cầu <br />
phải có một cuộc đàm phán chính thức với cấp chỉ huy tối cao của họ.<br />
Chiều tối 19 tháng 8, phái đoàn của đàm phán của Việt Minh do ông Lê <br />
Trọng Nghĩa và cố vấn Trần Đình Long dẫn đầu đã trực tiếp gặp gỡ và đàm <br />
phán với tướng Tsuchihashi Tổng tư lệnh kiêm Toàn quyền Nhật ngay tại <br />
Tổng hành dinh quân đội Nhật (nay là 33 Phạm Ngũ Lão). Cuộc đàm phán <br />
diễn ra khá gay go nhưng cuối cùng phía Nhật, đúng như đã được dự đoán, đã <br />
chấp nhận án binh bất động, không can thiệp vào công việc của Việt Minh; <br />
đổi lại binh lính của họ sẽ được bảo đảm an toàn, không bị Việt Minh tấn <br />
công. Họ đã chấp nhận chính quyền cách mạng. Kết quả đàm phán với Nhật <br />
mang ý nghĩa quyết định cho thắng lợi của cuộc tổng khởi nghĩa Hà Nội bởi <br />
phe Việt Minh đã không chỉ tránh được cuộc đối đầu trực tiếp với lực lượng <br />
vũ trang của Nhật mà còn loại trừ mọi hy vọng của các lực lượng chính trị <br />
khác vào khả năng đảo ngược tình thế tại thủ đô vào thời điểm đó. Cũng <br />
trong đêm 19 tháng 8, Xứ ủy quyết định thành lập Uỷ ban Nhân dân Cách <br />
mạng Bắc bộ và Uỷ ban Nhân dân Cách mạng Hà Nội, chính thức hoá vai trò <br />
của chính quyền cách mạng với nhân dân và cộng đồng quốc tế.<br />
Thắng lợi của cuộc tổng khởi nghĩa ở Hà Nội lập tức kéo theo một sự <br />
rung động và làm tan vỡ hệ thống chính quyền thân Nhật ở toàn vùng, có ý <br />
nghĩa quyết định đến thắng lợi của Cách mạng tháng Tám trên cả nước.<br />
* Theo em độc lập có ý nghĩa như thế nào đối với một quốc gia:<br />
Theo em, độc lập có ý nghĩa rất to lớn đối với một quốc gia. Như lời chủ <br />
tịch Hồ Chí Minh nói: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Có độc lập tự do <br />
thì sẽ có tất cả. Đất nước không thể phồn vinh, dân tộc không thể phát triển, <br />
nhân dân không thể có cơm ăn, áo mặc và cuộc sống hạnh phúc nếu không có <br />
độc lập tự do của dân tộc; quyền được sống, được mưu cầu hạnh phúc trong <br />
một nước độc lập tự do là vô cùng quý giá và thiêng liêng, không ai có thể tự <br />
cho mình cái quyền can thiệp, có quyền xâm hại độc lập dân tộc của một quốc <br />
gia, dân tộc khác, càng không thể có quyền can thiệp đó bằng vũ lực. Nước ta, <br />
dưới sự lãnh đạo của Đảng mà đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ta <br />
5<br />
đã vùng lên đấu tranh giành thắng lợi trong Cách mạng tháng Tám năm 1945, <br />
lập ra Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Tiếp đó, Đảng đã lãnh đạo nhân <br />
dân ta giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, chống đế <br />
quốc Mĩ và tiến hành công cuộc đổi mới thành công, tiếp tục sự nghiệp công <br />
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Ý nghĩa to lớn độc lập với một quốc gia <br />
còn thể hiện ở việc làm cho mỗi người dân phải có cơm ăn, áo mặc, học hành, <br />
việc làm, quyền làm chủ, quyền con người. Đó chính là ý nghĩa lí luận và thực <br />
tiễn to lớn, giá trị thời đại sâu sắc và lâu dài của sự độc lập đối với một quốc <br />
gia.<br />
Câu 2: Hãy giới thiệu về Văn Miếu – Quốc Tử Giám. Theo em giá trị <br />
lịch sử của khu di tích Quốc Tử Giám thể hiện ở những điểm nào:<br />
Trả lời:<br />
Giới thiệu về Văn Miếu – Quốc Tử Giám:<br />
Văn Miếu được xây dựng từ năm (1070) tức năm Thần Vũ thứ hai đời Lý <br />
Thánh Tông (Đại Việt sử ký toàn thư. Nhà xuất bản. Khoa học xã hội, Hà Nội, <br />
tập 1, tr.234) chép: "Mùa thu tháng 8, làm Văn Miếu, đắp tượng, Khổng Tử, <br />
Chu Công và Tứ phối, vẽ tượng Thất thập nhị hiền, bốn mùa cúng tế. Hoàng <br />
thái tử đến đấy học". Như vậy Văn Miếu ngoài chức năng thờ các bậc Tiên <br />
thánh, Tiên sư của đạo Nho, còn mang chức năng của một trường học Hoàng <br />
gia mà học trò đầu tiên là Thái tử Lý Càn Đức, con trai vua Lý Thánh Tông với <br />
Nguyên phi Ỷ Lan, lúc đó mới 5 tuổi, đến năm 1072 tức là năm 8 tuổi lên ngôi <br />
trở thành vua Lý Nhân Tông.<br />
Năm 1076, Lý Nhân Tông cho lập trường Quốc Tử Giám ở bên cạnh Văn <br />
Miếu có thể coi đây là trường đại học đầu tiên ở Việt Nam. Ban đầu, trường <br />
chỉ dành riêng cho con vua và con các bậc đại quyền quý (nên gọi tên là Quốc <br />
Tử, người học đầu tiên là hoàng tử Lý Càn Đức). (Việt sử thông giám cương <br />
mục. Nhà xuất bản. Văn sử địa. 1957) chép: "Bính Thìn, năm Anh Vũ Chiêu <br />
Thắng thứ 1 tháng 4... lập nhà Quốc Tử Giám; tuyển trong các văn thần lấy <br />
những người có văn học, bổ vào đó". Năm 1156, Lý Anh Tông cho sửa lại Văn <br />
Miếu và chỉ thờ Khổng Tử.<br />
<br />
<br />
6<br />
Năm Nguyên Phong thứ 3 (năm 1253), vua Trần Thái Tông đổi Quốc Tử <br />
Giám thành Quốc Học Viện cho mở rộng và thu nhận cả con cái các nhà <br />
thường dân có sức học xuất sắc. Chức năng trường Quốc học ngày càng nổi <br />
bật hơn chức năng của một nơi tế lễ "Quý Sửu năm thứ ba(1253)... Tháng 6 <br />
lập Quốc Học Viện tô tượng Khổng Tử, Chu công và Á Thánh, vẽ tượng 72 <br />
người hiền để thờ... Tháng 9 xuống chiếu cho các nho sĩ trong nước đến Quốc <br />
học viện giảng học tứ thư, lục kinh" . Lấy Phạm Ứng Thần giữ chức Thượng <br />
thư kiêm chức Đề điệu Quốc Tử viện để trông nom công việc học tập tại <br />
Quốc Tử Giám.<br />
Đời Trần Minh Tông, Chu Văn An được cử làm quan Quốc Tử giám Tư <br />
nghiệp (hiệu trưởng) và thầy dạy trực tiếp của các hoàng tử. Năm 1370 ông <br />
mất, được vua Trần Nghệ Tông cho thờ ở Văn Miếu bên cạnh Khổng Tử. <br />
Sang thời Hậu Lê, Nho giáo rất thịnh hành. Vào năm 1484, Lê Thánh Tông cho <br />
dựng bia của những người thi đỗ tiến sĩ từ khoa thi 1442 trở đi (chủ trương đã <br />
đề ra năm 1442 nhưng chưa thực hiện được). Mỗi khoa, một tấm bia đặt trên <br />
lưng rùa. Tới năm đó, nhà Lê đã tổ chức được 12 khoa thi cao cấp, Lê Thánh <br />
Tông (1460 1497) đã tổ chức đều đặn cứ ba năm một lần, đúng 12 khoa thi. <br />
Không phải khoa thi nào tiến hành xong đều được khắc bia ngay, không phải <br />
bia đã dựng thì vĩnh tồn, không hư hỏng, không mất mát. Từng thời có những <br />
đợt dựng, dựng lại lớn, như năm 1653 (Thịnh Đức năm thứ nhất, năm 1717 <br />
(Vĩnh Thịnh năm thứ 13).<br />
Cuối triều Lê, thời Cảnh Hưng, bia vẫn được khắc đều đặn. Dù không <br />
còn giữ được đủ bia, nhà công trình điêu khắc giá trị và tư liệu lịch sử quý <br />
báu. Năm 1762, Lê Hiển Tông cho sửa lại là Quốc Tử Giám cơ sở đào tạo và <br />
giáo dục cao cấp của triều đình. Đời nhà Nguyễn, Quốc Tử giám lập tại Huế. <br />
Năm 1802, vua Gia Long ấn định đây là Văn Miếu Hà Nội. Tổng trấn Bắc <br />
thành Nguyễn Văn Thành cho xây thêm Khuê Văn Các bên cạnh giếng vuông. <br />
Như vậy vào đầu thời Nguyễn, Văn miếu Thăng Long đã một lần được sửa <br />
sang chỉ còn là Văn Miếu của trấn Bắc Thành, sau đổi thành Văn Miếu Hà <br />
Nội. Còn Quốc Tử Giám thì đổi thành học đường của phủ Hoài Đức và sau <br />
đó tại khu vực này xây đền Khải thánh để thờ cha mẹ Khổng Tử. Đầu năm <br />
1947, thực dân Pháp nã đạn đại bác làm đổ sập căn nhà, chỉ còn cái nền với hai <br />
cột đá và 4 nghiên đá. Ngày nay toàn bộ khu Thái Học được xây dựng với diện <br />
tích 1530m² trên tổng diện tích 6150m² gồm các công trình kiến trúc chính là <br />
<br />
7<br />
Tiền đường, Hậu đường, Tả vu, Hữu vu, nhà chuông, nhà trống được mô <br />
phỏng theo kiến trúc truyền thống trên nền đất xưa của Quốc Tử Giám.<br />
* Theo em, giá trị lịch sử của khu di tích Quốc Tử Giám thể hiện ở <br />
những điểm sau:<br />
Từ khi được xây dựng tới nay, Văn Miếu Quốc Tử Giám đã trở thành <br />
biểu tượng đầy tự hào của tâm hồn và khí phách người dân Hà Nội nói riêng và <br />
cả nước nói chung. Thực tế cho thấy các di tích Nho học nói chung và Văn <br />
Miếu Quốc Tử Giám nói riêng không chỉ có giá trị về tưởng niệm mà còn có <br />
giá trị về mặt văn hóa, khoa học, lịch sử... Đây là nơi lưu danh các bậc hiền tài <br />
qua các khoa thi, thể hiện ở 82 tấm bia tiến sĩ. Cứ sau mỗi khoa thi từ năm <br />
1442 đến 1779, người xưa lại dựng lên các tấm bia đá trên lưng rùa, khắc tên <br />
những người đỗ đạt. 82 tấm bia còn lưu giữ ở Văn Miếu Quốc Tử Giám biểu <br />
hiện cho truyền thống hiếu học của dân tộc ta đồng thời cũng là lời động viên <br />
và thúc giục những thế hệ tiếp nối hôm nay và sau này luôn luôn phải giữ gìn <br />
và bảo lưu truyền thống hiếu học của dân tộc. Với ý nghĩa lịch sử đó, 82 bia đá <br />
Văn Miếu – Quốc Tử Giám đã được Ủy ban Ký ức Thế giới khu vực Châu Á<br />
Thái Bình Dương của UNESCO công nhận là Di sản Tư liệu Thế giới. Văn <br />
Miếu Quốc Tử Giám ngày nay không chỉ có chức năng thờ phụng, lưu danh <br />
những bậc hiền triết mà còn là nơi tham quan của du khách trong và ngoài <br />
nước. Qua gần một nghìn năm hình thành và phát triển, trải qua một chặng <br />
đường lịch sử đầy thăng trầm của dân tộc, Văn Miếu Quốc Tử Giám đã <br />
khẳng định ý nghĩa các giá trị lịch sử của dân tộc trong lòng bao thế hệ người <br />
dân Hà Nội và cả nước. <br />
Câu 3: Trong lịch sử Thăng Long Hà Nội, em yêu thích nhân vật nào? <br />
Vì Sao? Hãy trình bày hiểu biết của em về nhân vật đó?<br />
Trả lời:<br />
Trong lịch sử Thăng Long Hà Nội, em yêu thích nhất là nhân vật Đức Thái <br />
Tổ Lý Công Uẩn. Điều này xuất phát từ lý do Người đã có những công lao to <br />
lớn, nâng tầm thế của một quốc gia độc lập tự chủ của dân tộc Đại Việt, đặc <br />
biệt là công lao mang ý nghĩa lịch sử vĩ đại – Đó là sự anh minh, sáng suốt khi <br />
hạ chiếu chỉ dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra Đại La – Thăng Long, định đô <br />
<br />
8<br />
“Nơi trung tâm trời đất – Thế rồng cuộn hổ ngồi – Xem khắp nước Việt ta <br />
chỗ này là thắng địa”… ghi dấu ấn tiền khởi từ một nghìn năm trước cho sự <br />
phát triển trường tồn của Thủ đô Thăng Long – Hà Nội nghìn năm văn hiến <br />
hôm nay.<br />
Hiểu biết của em về Đức Thái Tổ Lý Công Uẩn:<br />
Thái tổ họ Lý tên Công Uẩn, người làng Cổ Pháp, thuộc tỉnh Bắc Ninh. <br />
Ông sinh năm Giáp Tuất (974), định ngôi năm Canh Tuất (1010) và mất năm <br />
Mậu Thìn (1028). Lý Công Uẩn là con nuôi của thiền sư Lý Khánh Văn từ năm <br />
3 tuổi và truyền thuyết vẫn cho rằng ông là con của Vạn Hạnh. Theo truyền <br />
thuyết, ông thân sinh ra Công Uẩn nhà nghèo khó, đi làm ruộng thuê ở chùa <br />
Tiêu Sơn, huyện An Phong, phải lòng một tiểu nữ rồi nàng có mang. Nhà sư <br />
thấy thế đuổi đi nơi khác. Hai vợ chồng mang nhau đi, đến chỗ rừng Báng, <br />
mỏi mệt ngồi nghỉ mát. Chồng khát nước, xuống chỗ giếng giữa rừng uống <br />
nước, chẳng may sẩy chân, chết đuối. Vợ chờ lâu không thấy, đến giếng xem <br />
thì đất đã đùn lấp giếng, khóc lóc một hồi, rồi vào ngủ nhờ ở chùa ứng Tâm <br />
gần đấy. Ông sư chùa ứng Tâm, đêm hôm trước nằm mê thấy ông Long thần <br />
báo mộng rằng: "Ngày mai dọn chùa cho sạch, có Hoàng đế đến". Nhà sư tỉnh <br />
dậy, sai tiểu quét dọn sạch sẽ, chực đợi từ sáng đến chiều chỉ thấy một người <br />
đàn bà có mang xin ngủ nhờ. Được vài tháng, có một đêm thơm nức cả chùa, <br />
nhà sư trông ra tam quan, thấy sáng rực lên. Nhà sư sai bà hộ chùa ra thăm thì <br />
người đàn bà ấy đã sinh một đứa con trai, hai bàn tay có bốn chữ son: "Sơn hà <br />
xã tắc". Sau đó, trời bỗng nhiên nổi cơn mưa to gió lớn, mẹ chú bé chết ngay <br />
sau khi sinh con và chú bé ở lại với nhà sư. Khi 8, 9 tuổi chú bé được nhà sư <br />
cho theo học sư Vạn Hạnh ở chùa Tiêu Sơn. Công Uẩn lớn lên, khảng khái, chí <br />
lớn. Do có công, ông được làm quan thời vua Thiếu đế nhà Lê. Khi vua Thiếu <br />
đế bị giết, ông ôm thây vua khóc. Vua Ngọa triều khen là trung, cử ông làm Từ <br />
tướng quân chế chỉ huy sứ, thống lĩnh hết quân túc vệ. Theo truyền thuyết, <br />
bấy giờ ở làng Cổ Pháp có cây gạo cổ thụ bị sét đánh tước lần vỏ ngoài, trong <br />
thân cây gạo có mấy câu sấm:<br />
Thụ căn điểu điểu<br />
Mộc biểu thanh thanh<br />
<br />
9<br />
Hòa đao mộc lạc<br />
Thập bát tử thành (*)<br />
...<br />
Vạn Hạnh xem câu sấm ấy, biết điềm nhà Lê đổ, nhà Lý sắp lên, bảo <br />
Công Uẩn rằng: "Mới rồi tôi thấy lời phù sấm kỳ dị, biết rằng họ Lý cường <br />
thịnh, tất dấy lên cơ nghiệp. Nay xem trong thiên hạ người họ Lý rất nhiều <br />
nhưng không ai bằng ông là người khoan từ nhân thứ, được lòng dân chúng mà <br />
binh quyền nắm trong tay. Người đứng đầu muôn dân chẳng phải ông thì còn <br />
ai đương nổi nữa". Lý Công Uẩn sợ câu nói ấy tiết lộ, phải nhờ người đem <br />
giấu Vạn Hạnh ở chùa Tiêu Sơn. Khi vua Ngọa triều mất, vua kế tự còn nhỏ, <br />
ông cầm quân túc vệ trong chốn cung cấm. Có quan chi hậu là Đào Can Mộc <br />
mưu với các quan triều, lập ông lên ngôi Hoàng Đế. Ông lên ngôi, thấy kinh đô <br />
Hoa Lư hẹp, nên năm 1010 thay đổi đến Đại La thành. Nhân có điềm rồng <br />
vàng bay lên, mới đổi tên gọi là thành Thăng Long (tức Hà Nội bây giờ). Ông ở <br />
ngôi vua 18 năm. Là người của một dòng họ lớn, lâu đời, có nhiều nhân vật <br />
tiếng tăm, cộng với khiếu thông minh bẩm sinh đã được nhập thân văn hóa ở <br />
một vùng đất văn minh, văn hiến, là con đẻ con nuôi con tinh thần của <br />
những vị cao tăng xuất sắc, Lý Công Uẩn thực sự là người con ưu tú của trung <br />
tâm kinh tế văn hóa Lục Tổ Cổ Pháp thế kỷ 10. Ông đã cùng triều Lý làm <br />
rạng danh vùng đất quê ông và viết nên những trang sử oanh liệt trong lịch sử <br />
dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Vì ông sinh ra ở chùa ứng Tâm <br />
cho nên chùa ấy bây giờ có tên là chùa Dặn. Và ngôi huyệt chỗ giếng trong <br />
rừng Báng năm xưa, những gò ở xung quanh trông giống như hoa sen nở tám <br />
cánh cho nên nhà Lý truyền ngôi được tám đời. Nơi ông sinh ra nay thuộc làng <br />
Đình Bảng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
10<br />