
5
- Tràn khí màng phổi có thể gây nên do vết thương xuyên thành ngực hay
qua lá tạng do thủng, vỡ phế nang, vỡ bóng khí, vỡ áp xe phổi...
- Nếu lỗ dò của màng phổi được bít lại thì tràn khí sẽ tiêu dần.
- Nếu tràn khí màng phổi xảy ra trên 1 dày dính màng phổi thì sẽ gây tràn khí
màng phổi không hoàn toàn.
V. LÂM SÀNG
1. Thể tràn khí màng phổi tự phát hoàn toàn
Thường gặp ở người trẻ (20-30 tuổi) với triệu chứng đầu tiên là cơn đau
ngực đột ngột dữ dội như dao đâm, làm bệnh nhân không dám thở sâu, ho dữ dội và
ho làm đau tăng lên. Có thể có choáng nếu tràn khí màng phổi nhanh và nhiều,
mạch nhanh, nhẹ, huyết áp hạ, tay chân lạnh, vã mồ hôi nhịp thở nhanh - nông, tinh
thần hốt hoảng lo âu... sau đó triệu chứng giảm dần sau vài giờ, vài ngày.
Khám phổi nhìn thấy lồng ngực bên tổn thương dãn lớn, các khoảng liên
sườn rộng, gõ vang như trống, rung thanh giảm và nghe âm phế vào mất toàn bộ,
có thể nghe được âm thổi vò hay tiếng vang kim khí. Gõ vang, rung thanh giảm và
âm phế bào mất gọi là tam chứng Galliard. Giai đoạn sau có thể có gõ đục ở đáy
phổi do tràn máu hay tràn dịch sau tràn khí.
Nếu tràn khí màng phổi nhẹ có thể triệu chứng cơ năng không rõ, gõ vang ở
đính phổi và biểu hiện suy hô hấp không rõ ràng.
2. Xét nghiệm cận lâm sàng
2.1. X quang phổi chuẩn thẳng, nghiêng:
Cho thấy bên tràn khí màng phổi lồng ngực giãn to, thấy tăng sáng hơn bình
thường, toàn bộ nhu mô phổi bị đẩy về phía rốn phổi tạo thành mỏm cụt, trung thất
bị đẩy về phía đối diện, cơ hoành bị đẩy thấp xuống. Có thể thấy góc sườn hoành tù
do tràn máu hay tràn dịch phối hợp hay mức dịch nằm ngang (nhiều), có khi nhìn
thấy các thương tổn của chủ mô phổi gợi ý nguyên nhân gây tràn khí màng phổi.
Nếu tràn khí màng phổi không hoàn toàn thì chỉ thấy 1 vùng sáng khu trú và
thấy được lá tạng bị dày và dính.