intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bài giảng Đại cương lịch sử triết học

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:76

2
lượt xem
0
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài giảng Đại cương lịch sử triết học được biên soạn gồm các nội dung chính sau: khái luận chung về lịch sử triết học; đại cương lịch sử triết học phương tây; khái quát lịch sử triết học phương đông; Khái quát lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam;...Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bài giảng Đại cương lịch sử triết học

  1. BÀI GIẢNG ĐẠI CƯƠNG LỊCH SỬ TRIẾT HỌC
  2. Chương mở đầu: KHÁI LUẬN CHUNG VỀ LỊCH SỬ TRIẾT HỌC 1. Khái niệm triết học - Từ thế kỷ VI tcn cho đến thế kỷ XVIII loài người đã quan niệm triết học là khoa học của mọi khoa học, là khoa học đứng trên mọi khoa học. - Thế kỷ XIX, người đầu tiên tách triết học ra khỏi các khoa học cụ thể khá thành công nhưng trên lập trường duy tâm khách quan là G.V.F.Heghen. Người hoàn thành sự nghiệp đó là C.Mác và Ph.Ăngghen. - Theo quan điểm mác-xít, triết học là một trong những hình thái ý thức xã hội, là khoa học về những biện pháp chung nhất, những nguyên tắc chung nhất, những con đường chung nhất của sự vận động và phát triển của thế giới. Khái niệm triết học dù ở phương Đông hay phương Tây, dù có biến đổi theo lịch sử nhưng bao giờ cũng bao gồm hai yếu tố: Một là yếu tố nhận thức, tức sự hiểu biết của con người về thế giới, sự giải thích thế giới hiện thực bằng hệ thống tư duy. Hai là yếu tố nhận định, tức sự đánh giá, nhận xét về mặt đạo lý và thái độ hành động đối xử của con người đối với thế giới. - Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, triết học có những đặc điểm riêng
  3. 2. Vấn đề cơ bản của triết học Triết học nghiên cứu hàng loạt các vấn đề chung của thế giới, nhưng vấn đề cơ bản của triết học là vấn đề về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức (giữa tồn tại và tư duy, hay giữa tự nhiên và tinh thần). Nó là vấn đề cơ bản của triết học bởi lẽ, trong thế giới có vô vàn sự vật, hiện tượng, nhưng chung quy lại chúng chỉ phân thành hai loại: hiện tượng vật chất và hiện tượng ý thức. Mặt khác, từ phương Đông sang phương Tây, từ cổ đại đến hiện đại tất cả các trường phái triết học trước khi nghiên cứu các vấn đề chung khác, bao giờ cũng nghiên cứu và giải quyết vấn đề mối liên hệ giữa vật chất và ý thức trước tiên. Việc giải quyết vấn đề này là cơ sở nền tảng cho việc giải quyết những vấn đề khác của triết học. Nói cách khác việc giải quyết nó là giải quyết về thế giới quan và phương pháp luận của triết học. Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt. Mặt thứ nhất giải quyết về thế giới quan. Tất cả các nhà triết học đều phải trả lời câu hỏi: Giữa vật chất và ý thức cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào? Tùy theo câu trả lời của các nhà triết học, mà các học thuyết triết học đã chia thành hai trào lưu chính Duy vật và Duy tâm. Các nhà triết học Duy vật khẳng định vật chất có trước và quyết định đối với ý thức. Ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc người. Chủ nghĩa duy vật trong tiến trình phát triển từ cổ đại đến hiện đại đã trãi qua nhiều hình thức khác nhau: cổ đại, tầm thường, cơ học, máy móc... nói chung là duy vật siêu hình, và duy vật biện chứng.
  4. Ngược lại, các nhà triết học Duy tâm lại khẳng định ý thức có trước và quyết định đối với vật chất. Trong tiến trình phát triển của mình, chủ nghĩa duy tâm cũng đã trãi qua nhiều hình thức khác nhau: duy cảm chủ quan, duy lý, nhị nguyên, duy thức, duy ngã... nói chung là duy tâm chủ quan và duy tâm khách quan. Mặt thứ hai giải quyết về vấn đề nhận thức luận: tất cả các nhà triết học đều phải trả lời câu hỏi: Con người có khả năng nhận thức thế giới không? Tùy theo câu trả lời của các nhà triết học mà các triết thuyết đã chia thành hai phái: Khả tri (luận) gồm các nhà triết học trả lời con người có khả năng nhận thức thế giới. Thông thường họ là các nhà triết học duy vật và các nhà triết học duy tâm chủ quan. Bất khả tri (luận) gồm các nhà triết học trả lời con người không có khả năng nhận thức thế giới. Thông thường họ là các nhà triết học duy tâm khách quan. Trên cơ sở giải quyết vấn đề cơ bản của triết học, lịch sử triết học chỉ ra Triết học có hai nguồn gốc: Nguồn gốc nhận thức của chủ nghĩa duy vật là mối liên hệ của nó với các thành tựu của các khoa học cụ thể. Nguồn gốc xã hội của chủ nghĩa duy vật là các lực lượng xã hội, các giai cấp tiến bộ, cách mạng trong từng giai đoạn phát triển của lịch sử. Nguồn gốc nhận thức của chủ nghĩa duy tâm là mối liên hệ của nó với các đấng siêu nhiên, hoặc tuyệt đối hóa một hay một số yếu tố nào đó của ý thức. Nguồn gốc xã hội của chủ nghĩa duy tâm thông thường là mối liên hệ của nó với các lực lượng xã hội, các giai cấp phản tiến bộ, giai cấp thống trị đang trên đà tan rã trong từng giai đoạn phát triển của lịch sử.
  5. CHƯƠNG I: ĐẠI CƯƠNG LỊCH SỬ TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY 1.1. TRIẾT HỌC HY LẠP VÀ LA MÃ CỔ ĐẠI Sự phát triển của triết học La-mã và Hy-lạp cổ đại được chia thành ba thời kỳ: - Thời kỳ tiền Socrate: Trước thế kỷ IV tcn với các trường phái triết học tiêu biểu là Milê, Pitago, Hêraclit, Êlê... Thời kỳ này các nhà triết học đồng thời cũng là các nhà khoa học tự nhiên. Vấn đề được các nhà triết học quan tâm hàng đầu là vấn đề bản thể luận. - Thời kỳ Socrate: Từ thế kỷ IV tcn đến thế kỷ III tcn, đây là thời kỳ cực thịnh của triết học Hy-La, với các triết gia nổi tiếng Socrat, Platon, Aristote, Democrite và vấn đề mà họ quan tâm trong triết học của mình là vấn đề con người. - Thời kỳ Hy Lạp hoá: Đây là thời kỳ Hy Lạp bị La Mã chinh phục về lãnh thổ, nhưng La Mã lại bị Hy Lạp khuất phục bởi những giá trị của nề văn hoá rực rỡ của Hy Lạp cổ đại. Giai đoạn này các nhà triết học lãng tránh những vấn đề trung tâm của triết học, mà chìm đắm với những suy tư về định mệnh, chìm đắm trong đời sống tình cảm và ham muốn... nó báo hiệu cho sự suy tàn của triết học Hy-La. Triết học Hy Lạp và La Mã cổ đại có các đặc điểm sau: - Là sự kết tinh những gi tinh tuý nhất của nhận thức tổng hợp nhân loại từ cộng sản nguyên thuỷ đến chiếm hữu nô lệ ở phương Tây, nó dung chứa hầu hết các vấn đề cơ bản của thế giới quan, dù chưa thoát khỏi trạng thái phôi thai mộc mạc, nhưng vô cùng phong phú và đa dạng. - Con người là vấn đề trung tâm của triết học, nhưng chỉ là con người cá thể. Giá trị thẩm định con người mới chỉ chủ yếu là đạo đức, giáo tiếp và nhận thức. - Tính duy vật tự phát và biện chứng sơ khai là một trong các đặc điểm nổi trội của triết học Hy-La cổ đại.
  6. 1.2. TRIẾT HỌC TÂY ÂU THỜI TRUNG CỔ THẾ KỶ V ĐẾN THẾ KỶ XV: Sự hình thành của triết học Tây Âu trung cổ không tách rời những ảnh hưởng của triết học Cơ đốc giáo từ thế kỷ II đến thế kỷ IV (với các triết gia tiêu biểu là Téc- tu-liêng, Au-guyt-xtanh). Triết học kinh viện là điểm nổi bật của triết học Tây Âu thời trung cổ và nó chịu ảnh hưởng sâu sắc của triết học Platon, Arixtote. Sự phát triển của triết học Tây Âu thời trung cổ có thể chia thành ba thời kỳ: Thời sơ khai (IX-XII với các triết gia Giăng-Scốt, A-sen-me-de-Khan-to-be-ry, An-bê-la), Thời hưng thịnh (XII-XIII với các triết gia An-be-lơ-Grăng, Tô-mát-Đa-canh), Thời suy tàn (XIV-XV với các triết gia Rô-giê-Bê-cơn, Đôn-xcốt, Ốc-Cam). Những đặc điểm cơ bản của triết học Tây Âu thời Trung cổ là: - Là tiếng đồng vọng của tôn giáo, là sự biện minh của thần học. Đây là thời kỳ triết học phục tùng thần học và phục vụ tôn giáo, trên thực tế triết học đã là đầy tớ của thần học và tôn giáo. - Trung tâm của triết học Tây Âu thời trung cổ là mối quan hệ giữa niềm tin và tri thức: Triết lý thuần tuý, tư biện bị vấp chắn bởi các chân lý đời thường; Triết lý kinh viện bị nan giải khi lấy niềm tin làm tiền đề giải quyết các mối quan hệ riêng - chung; Đức tin đã không thể giải thích được tại sao con người luôn tư duy bằng khái niệm trong khi thế giới hiện thực chỉ tồn tại các sự vật cụ thể đơn nhất. - Cuộc đấu tranh của triết học trên vấn đề cơ bản được biểu hiện qua xung đột giữa chủ nghĩa duy danh và chủ nghĩa duy thực. Các nhà triết học duy danh khẳng định cái riêng có trước quyết định caí chung. Các nhà triết học duy thực lại khẳng định cái chung có trước quyết định cái riêng. - Con người trong triết học Tây Âu thời Trung cổ chỉ là những sinh linh nhỏ bé, tội nghiệp, thụ động, trĩu nặng tội tông truyền, phải ăn năn sám hối trong kiếp làm người.
  7. 1.3. TRIẾT HỌC TÂY ÂU THỜI PHỤC HƯNG THẾ KỶ XV-XVI Đây là thời kỳ giai cấp tư sản ra đời và lớn mạnh, họ gương cao ngọn cờ duy vật và vô thần cùng nông dân đấu tranh lật đổ chế độ phong kiến ở phương Tây. Các nhà triết học tiêu biểu thời kỳ này là: Ni-cô-lai-Cô- péc-ních, Bờ-ru-nô, Ga-li-lê. Triết học Tây Âu thời phục hưng vì thế có các đặc điểm: - Là vũ khí lý luận của giai cấp tư sản trong cuộc đấu tranh chống phong kiến và giáo hội. Do giương cao chủ nghĩa duy vật và vô thần mà nhiều nhà tư tưởng tiến bộ đã bị giáo hội sát hại, bắt bớ, cầm tù. - Phiếm thần và tự nhiên thần là biểu hiện của sự thoả hiệp với triết học duy tâm hữu thần và cũng là tính hai mặt của các nhà triết học duy vật Tây Âu thời kỳ phục hưng. - Con người trong triết học Tây Âu thời kỳ phục hưng là thước đo vẻ đẹp cường tráng của thân thể, sự tinh anh của trí tuệ và chỉ biết thờ phụng, chiêm ngưỡng chính bản thân mình, với một khát vọng cháy bỏng về tự do. - Chủ nghĩa nhân văn kiểu chủ nghĩa xã hội không tưởng là một trong những đặc điểm nổi bật của triết học Tây Âu thời phục hưng.
  8. 1.4. TRIẾT HỌC TÂY ÂU THỜI CẬN ĐẠI THẾ KỶ XVII-XVIII Đây là thời kỳ khai sinh các dân tộc tư sản, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa thay thế cho phương thức sản xuất phong kiến ở Tây Âu. Sự phát triển về kinh tế và xã hội cùng với sự phát minh vĩ đại trong khoa học tự nhiên đã tạo ra những tiền đề cần thiết cho sự ra đời của chủ nghĩa duy vật siêu hình ở Tây Âu cận đại. Sự trỗi dậy của triết học duy tâm chủ quan bất khả tri Anh chỉ là tiếng kêu thất thanh, giãy chết trước sự lớn mạnh như vũ bão của triết học duy vật Pháp. Những triết gia tiêu biểu của thời kỳ này là: Phờ-răng-xít-Bê-cơn, Tô-mát- Hốp-bơ, Giôn-Lốc-cơ, Béc-cơ-ly, Đa-vít-Hi-um, Rơ-nê-Đề-các, Pát- can, Mông-téc-ky-ơ, Vôn-te, Giăng-giắc-Rút-xô, Đi-đơ-rô, Hôn-bách, Spi-nô-gia, Lép-ních... Đặc điểm cơ bản của triết học Tây Âu thời cận đại là: - Giai cấp tư sản tiếp tục gương cao ngọn cờ duy vật và vô thần trong cuộc đấu tranh để thiết lập trật tự tư bản chủ nghĩa và giải phóng con người. Những quan niệm xã hội tiến bộ của chủ nghĩa duy vật trở thành cơ sở lý luận cho việc bác bỏ thần học và tôn giáo. Con người đã trở thành niềm kiêu hãnh của thời đại. Nhưng con người mới chỉ được đề cập ở khía cạnh cá thể, những bức bách được khẳng định về năng lực và giải phóng ở tính sinh vật, nhận thức và nhu cầu tình cảm, còn mặt bản chất xã hội ít được đề cập đến.
  9. - Triết học duy vật Tây Âu thời cận đại phát triển trong quan hệ gắn bó chặt chẽ với khoa học. Việc phân định nhà triết học và khoa học tự nhiên nhiều trường hợp chỉ có ý nghĩa tương đối. - Triết học duy vật Tây Âu thời cận đại chịu ảnh hưởng nặng nề sự thống tri của phương pháp siêu hình. - Triết học duy vật Tây Âu thời cận đại là triết học duy vật không triệt để, họ thường duy vật khi bàn về các hiện tượng tự nhiên, nhưng duy tâm khi giải quyết các vấn đề xã hội. - Triết học Tây Âu thời cận đại đặc biệt quan tâm đến vấn đề nhận thức luận và phương pháp luận. Trong nhận thức luận họ thường đề cao một trong hai giai đoạn của quá trình nhận thức cảm tính hay lý tính nên không thấy được tính biện chứng, thống nhất của quá trình nhận thức. Về mặt phương pháp thì lại tuyệt đối hoá một trong hai phương pháp nhận thức diễn dịch hay quy nạp do chủ thể mà không do đối tượng và mục đích nghiên cứu quyết định. - Cuộc đấu tranh tiêu biểu của triết học trong thời kỳ này là cuộc đấu tranh giữa hai đường lối triết học Béccơly và Điđơrô.
  10. 1.5. TRIẾT HỌC CỔ ĐIỂN ĐỨC CUỐI THẾ KỶ XVIII ĐẦU THẾ KỶ XIX: Triết học cổ điển Đức là đỉnh cao của triết học phương Tây, có ảnh hưởng sâu rộng và to lớn đến triết học hiện đại. Nó phản ánh sinh động tính độc lập tương đối của ý thức triết học với tồn tại xã hội. Các triết gia tiêu biểu của triết học cổ điển Đức gồm có: Hai-đơ, Lơ-sing, Sin-lơ, Gớt, Căng-tơ, Phích-tơ, Sê-ling, Hê-ghen, Phơ-bách. Triết học cổ điển Đức có các đặc điểm sau: - Là thế giới quan và ý thức hệ của giai cấp tư sản Đức cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. Thế giới quan và ý thức hệ này mang tính hai mặt, vừa chống lại, vừa thoả hiệp với giai cấp phong kiến Đức, nó mang tính bảo thủ, cải lương về chính trị-xã hội, mâu thuẫn với tính cách mạng và khoa học. - Đặc biệt đề cao vai trò vị trí tích cực của con người. Các nhà triết học cổ điển Đức đã khẳng định con người là chủ thể, là kết quả, là sản phẩm của hoạt động tự nó, cho nó, vì nó; Thực tiễn cao hơn lý luận; Lịch sử chỉ là phương thức tồn tại của con người; Cá nhân có thể làm chủ được vận mệnh của mình; Và cao hơn là tư tưởng về con người mang bản chất xã hội. Tuy nhiên, họ lại sùng bái tuyệt đối hoá vai trò của lý tính, của tư duy. Biến tư duy của con người thành một thực thể độc lập với đời sống thực của nó, thực thể tinh thần tối cao làm căn nguyên để giải thích cho tất cả mọi cái, mọi hiện tượng đang hiện tồn. - Dù là biện chứng duy tâm, nhưng các nhà triết học cổ điển Đức, lần đầu tiên đã làm cho phép biện chứng tồn tại với tư cách là một phương pháp nhận thức tự giác có tính đồng kết, được biểu hiện chặt chẽ qua hệ thống các khái niệm, phạm trù. Nó là một trong các cơ sở tiền đề lý luận của triết học Mác. - Cuộc đấu tranh tiêu biểu của triết học ở thời kỳ này là cuộc đấu tranh giữa hai đường lối triết học Hêghen và Phơbách.
  11. 1.6. TRIẾT HỌC HIỆN ĐẠI GIỮA CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẾN NAY Thời kỳ này, kể từ 1848 với sự ra đời của Tuyên ngôn Đảng Cộng sản, khai sinh CNXHKH vũ khí lý luận của giai cấp công nhân hiện đại, đấu tranh bảo vệ quyền lợi và lợi ích cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động, thì đây cũng là thời kỳ ra đời của hàng trăm trường phái triết học tư sản hiện đại chống lại triết học Mác-Lênin. Triết học Mác-Lênin là chủ nghĩa duy vật biện chứng cách mạng và khoa học nhất của tư duy triết học nhân loại. Các trường phái triết học tư sản hiện đại thì đang bằng cách này hay cách khác làm sống lại các trường phái triết học duy tâm trong lịch sử. Thậm chí họ sử dụng các thành tựu của khoa học kỹ thuật và công nghệ nhằm cố chứng minh cho sự vĩnh hằng của các đấng siêu nhiên. Từ 1848-1917 là sự ra đời và đi đến thắng lợi của chủ nghĩa Mác-Lênin trên thế giới, được đánh dấu bởi sự ra đời của nước Nga xô-viết 1917. Từ 1917-những năm 1970-1980 là sự thắng lợi rực rỡ của CNXH trên phạm vi toàn thế giới, với sự ra đời của hệ thống XHCN gồm khoảng 80 nước. Từ cuối những năm của thập niên 80 đến 1991 là sự khủng hoảng dẫn đến tan rã mang tính hệ thống của phe XHCN bởi tính bảo thủ của những người lãnh đạo trong QTCS trước sự tấn công ma mãnh CNTB. Từ 1991- nay là thời kỳ đầy khó khăn của CNXH cách mạng, tiến bộ, tiêu biểu cho xu hướng phát triển của nhân loại nhưng còn non yếu trước sự dũng mãnh đầy kinh nghiệm của CNTB.
  12. 1.7. MỘT SỐ CUỘC ĐẤU TRANH TIÊU BIỂU CỦA TRIẾT HỌC TRONG LỊCH SỬ a/ Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm xung quanh vấn đề cơ bản của triết học trong xã hội Hy-La cổ đại Nội dung cơ bản của sự phát triển triết học ở Hy-La cổ đại là cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, phản ánh cuộc đấu tranh giữa tầng lớp chủ nô dân chủ tiến bộ trong những điều kiện lịch sử đó và tầng lớp chủ nô quý tộc. Những nhà triết học duy vật tiêu biểu ở thời này là Anaxago, Ampêđôcơlơ, Đêmôcrit, Êpiquya... quan điểm triết học và tư tưởng chính trị của họ là cơ sở lý luận cho sự hoạt động tiến bộ của tầng lớp tiên tiến trong giai cấp chủ nô. Những đại biểu tiêu biểu cho chủ nghĩa duy tâm thời này là Xôcrát, Platôn... quan điểm triết học của họ thù địch với tiến bộ xã hội và khoa học. Triết học và quan điểm chính trị của họ làm cơ sở lý luận cho hoạt động tầng lớp chủ nô quý tộc. Đối lập về triết học tiêu biểu của giai đoạn này là giữa Đêmôcrít với Platon.
  13. Đêmôcrít (460-370) Ông hiểu biết sâu rộng về nhiều lĩnh vực: triết học, đạo đức học, tâm lý học, toán học, sinh vật học, vật lý, mỹ học,ngôn ngữ, kỹ thuật, âm nhạc. Mác, Ăngghen coi ông là bộ óc bách khoa toàn thư đầu tiên trong số những người Hy Lạp. Về triết học, ông coi nguyên tử là bản nguyên thế giới. Nguyên tử chỉ khác nhau về hình thức, trật tự và tư thế. Mỗi nguyên tử có một hình thức nhất định, vô hạn về số lượng, vô hạn về hình thức. Sự vật khác nhau là do nguyên tử cấu tạo được sắp xếp theo những hình thức khác nhau. Mọi biến đổi của sự vật, thực chất là sự thay đổi trình tự sắp xếp của nguyên tử cấu tạo. Nguyên tử là bất biến, và biến đổi không ngừng. Ông phỏng đoán, vận động không tách rời vật chất. Hoạt động của nguyên tử là vĩnh cửu. Lần đầu tiên trong lịch sử triết học, ông đã nêu ra khái niệm không gian. Đặc điểm chủ nghĩa duy vật của ông là quyết định luận chống lại mục đích luận. Ông thừa nhận tính nhân quả và tính tất yếu, tính quy luật trong giới tự nhiên. Về nhận thức, ông đặt ra và giải quyết một cách duy vật về đối tượng của nhận thức. Vai trò của cảm giác với tính cách là điểm bắt đầu của nhận thức và vai trò của tư duy trong nhận thức tự nhiên. Triết học của ông là gắn với chủ nghĩa vô thần. Ông bền bỉ đấu tranh cho quan niệm duy vật. Nó ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển tiếp theo của triết học duy vật.
  14. Pla tôn (427-347 TCN) Ông tên thật là Aristôcle. Ông từng hoạt động chống phái dân chủ chủ nô bảo vệ phái chủ nô quý tộc. Ông đã bị bắt và bị đem ra chợ nô lệ bán. Khi được giải thoát ông về Aten lập viện hàn lâm - trường đại học đầu tiên ở châu Âu. Ông là người đầu tiên xây dựng hoàn chỉnh chủ nghĩa duy tâm khách quan đấu tranh gay gắt chống chủ nghĩa duy vật (đặc biệt là Hêraclít và Đêmôcrít). Theo ông, giới tự nhiên bắt nguồn từ những thực thể tinh thần, vật thể cảm tính chỉ là cái bóng của ý niệm. Ông cho rằng, để nhận thức được tâm lý, người ta phải từ bỏ mọi cái hữu hình cảm tính; phải có “hồi tưởng” lại những gì mà linh hồn bất tử đã quan sát được trong thế giới ý niệm. Thuyết “hồi tưởng” thần bí được xây dựng trên cơ sở thừa nhận tính bất tử, tính độc lập của linh hồn với thể xác. Phép biện chứng của Platôn là biện chứng duy tâm, đường lối của ông chống lại đường lối của Đêmôcrít. Những hiện tượng của tự nhiên bị ông quy thành những quan hệ toán học. Đạo đức học được ông xây dựng trên cơ sở học thuyết về linh hồn bất tử. Kẻ thù của chế độ dân chủ Aten, ông coi “chế độ quý tộc” - Nhà nước của tầng lớp chủ nô thượng lưu - là nhà nước lý tưởng. Tuy đứng trên lập trường duy tâm khách quan, nhưng lịch sử ghi nhận triết học của ông đóng vai trò quan trọng trong việc nghiên cứu bản chất của khái niệm cũng như trong việc phát triển tư duy lý luận, thực hiệh một bước tiến trong việc chuyển triết học từ tư duy ẩn dụ tới tư duy khai niệm.
  15. b. Chủ nghĩa kinh viện trung cổ Tây Âu Những đặc điểm chung: Quá trình phát triển của chủ nghĩa kinh viện có thể chia làm ba thời kỳ: thời kỳ đầu (từ thế kỷ IX đến thế kỷ XII), thời kỳ hưng thịnh (thế kỷ XIII), thời kỳ suy tàn (thế kỷ XIV-XV). Vấn đề mối quan hệ giữa lý trí và niềm tin tôn giáo là vấn đề trung tâm chú ý của các nhà kinh viện. Họ có niềm tin tôn giáo giữ vị trí hàng đầu trong quan hệ với lý trí. Xuất phát từ quan điểm đó, họ giải quyết các vấn đề triết học có liên quan, nhất là vấn đề mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng. Xung quanh vấn đề trên đã diễn ra cuộc đấu tranh kéo dài nhiều thế kỷ và quyết liệt giữa “phái duy danh” với “phái duy thực” trong lịch sử của triết học trung cổ. Phái duy thực khẳng định cái chung hay khái niệm chung là tồn tại thực, nó là một thực thể tinh thần nào đó có trước sự vật đơn nhất. Phái duy thực lấy triết học Platôn làm nguồn gốc lý luận. Phái duy danh nhấn mạnh rằng, chỉ có sự đơn nhất, cá biệt là có thực, còn những cái chung chỉ là những tên gọi giản đơn mà người ta gán cho các hiện tượng riêng lẻ. Đó chỉ là những cái tên để chỉ một tổng số tương đương những cái nhà đơn nhất. Cuộc tranh cãi về mặt triết học, đằng sau cái vỏ thần học là sự vật tồn tại khách quan có thể tri giác được bằng cảm giác có trước tư tưởng (duy danh), hay ngược lại, tư tưởng có trước sự vật (duy thực),. Thiên chúa giáo chính thống có xu hướng nghiêng về phái duy thực. Còn phái duy danh có xu hướng duy vật.
  16. Cuộc đấu tranh tiêu biểu của hai trào lưu duy danh và duy thực trong triết học kinh viện Tô-mát Đa-canh (1225-1274). Ông sinh ở Italia, là nhà thần học, nhà triết học kinh viện nổi tiếng. Ngoài ra ông còn nghiên cứu những vấn đề pháp quyền, đạo đức, chế độ nhà nước và kinh tế. Học thuyết của Tô-mát Đa- canh được thừa nhận là triết học duy nhất chân chính của giáo hội Thiên chúa. Tô-mát Đa-canh cho rằng, đối tượng của triết học là nghiên cứu “chân lý của lý trí”, còn đối tượng của thần học là “chân lý của lòng tin tôn giáo”. Thượng đế là khách thể cuối cùng của triết học và thần học. Theo Tô-mát Đa-canh, giới tự nhiên là do trời “sáng tạo ra từ hư vô” và trật tự của nó, sự phong phú và hoàn thiện của nó đều được quyết định bởi sự thông minh của trời. Do đó, chúa Trời, Thượng đế là mục đích tối cao. Chính quyền nhà vua là do “ý của Trời”, thân xác con người phải phục tùng chính quyền nhà vua, còn quyền lực tối cao bao trùm hết thảy, thì thuộc về Giáo hội. Trong việc giải quyết vấn đề bản chất của cái chung. Tô-mát Đa-canh đứng trên lập trường duy thực ôn hòa. Về lý luận nhận thức, Tô-mát Đa-canh áp dụng học thuyết về “ hình dạng” của Arixtốt. Theo ông, mọi nhận thức diễn ra trong chủ thể là hình ảnh của vật chất, chứ không phải bản thân sự vật. Ông chia “hình dạng” thành hình dạng cảm tính và hình dạng lý tính , trong đó, hình dạng lý tính cao hơn hình dạng cảm tính.
  17. Đun X-cốt (1265-1308). Ông sinh ở Anh, nhà duy danh lớn nhất thế kỷ XIII. Vấn đề mối quan hệ giữa thần học và triết học là vấn đề chủ yếu mà ông quan tâm. Theo ông, đối tượng của thần học nghiên cứu Thượng đế, còn đối tượng của triết học nghiên cứu hiện thực khách quan - vật chất. Ông có ý tưởng cắt đứt mối liên hệ giữa triết học và thần học, muốn giải phóng triết học khỏi ách áp bức của Giáo hội. Tuy nhiên, ông vẫn đề cao vai trò của lòng tin, nhưng không hạ thấp quá đáng vai trò lý trí. Theo ông, Thượng đế là một tồn tại bất tận, có thể chứng minh được nhưng phải dựa vào lòng tin; Con người không có được một khái niệm nào về bản chất phi vật chất như chúa Trời, Thượng đế. Ông cho rằng cái chung không chỉ là sản phẩm của lý trí, nó có cơ sở trong bản thân các sự vật; nó vừa tồn tại trong sự vật với tính cách là bản chất của chúng, vừa tồn tại sau sự vật với tính cách là những khái niệm được lý trí con người trừu tượng hóa khỏi bản chất của sự vật. Về nhận thức luận, Đun X-cốt cho rằng, tinh thần, ý chí là hình thức của thân thể con người, gắn liền với thân thể con người đang sống và do Thượng đế ban cho từ khi con người mới sinh ra. Tri thức được hình thành từ tinh thần và từ đối tượng nhận thức. Tinh thần tuy có sức mạnh to lớn trong nhận thức, nhưng vẫn phải phụ thuộc vào đối tượng nhận thức; chỉ có những sự vật đơn nhất và cá biệt mới là thực tại cao nhất. Ông được coi là nhà duy danh nổi tiếng nhất của chủ nghĩa kinh viện giai đoạn hưng thịnh.
  18. c/ Triết học Tây Âu thế kỷ XVII-XVIII c1. Tình hình kinh tế-xã hội. Một là: Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa không thỏa mãn với những kiến thức khoa học tự nhiên còn ở tình trạng chưa đầy đủ, chưa sâu sắc, chưa cụ thể đã có từ trước. Thực tế đó đòi hỏi khoa học tự nhiên phải có bước phát triển mới. Thời kỳ này nảy sinh nhu cầu các khoa học tách khỏi triết học và trở thành những ngành khoa học độc lập. Từ đó làm xuất hiện sự thống trị của phương pháp tư duy siêu hình trong triết học. Hai là: Sự xuất hiện và phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã làm cho giai cấp tư sản thấy rằng cần phải nắm lấy chính quyền, để tăng lợi. Mặc dù nhu cầu nắm lấy chính quyền đã thôi thúc giai cấp tư sản, nhưng vào cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII giai cấp tư sản vẫn phải thỏa hiệp với giai cấp phong kiến quý tộc và với nhà thờ Thiên chúa giáo. Ba là: Bước sang thế kỷ XVIII, giai cấp tư sản đã lớn mạnh, và do điều kiện riêng của mình, nước Pháp trở thành trung tâm của cách mạng tư sản. So với cuộc cách mạng tư sản Anh (thế kỷ XVII), thì cách mạng tư sản Pháp (1789-1794) có tính triệt để hơn. Bốn là: Thế kỷ XVII và XVIII, là thế kỷ thắng lợi của chủ nghĩa duy vật đối với chủ nghĩa duy tâm, của phương pháp tư duy siêu hình đối với phương pháp tư duy trừu tượng duy lý thời trung cổ; và sau đó là thắng lợi của chủ nghĩa vô thần đối với hữu thần luận. Tuy nhiên, triết học duy tâm chủ quan của Béccli là một bước phát triển của chủ nghĩa duy tâm trong điều kiện lịch sử mới.
  19. c2. Cuộc đấu tranh tiêu biểu của triết học thời kỳ này là giữa hai đường lối triết học Beccơly và Điđờrô: Gioóc Béc-cli (1685-1753) Trước sự thắng lợi rực rỡ của chủ nghĩa duy vật ở thế kỷ XVII, giám mục Béc-cli có tham vọng "khôi phục trên toàn thế giới cái tinh thần đức hạnh đã bị xuyên tạc". Béc-cli là đại biểu điển hình của chủ nghĩa duy tâm chủ quan. Ông có nhiều tác phẩm như "Kinh nghiệm của thuyết thị giác mới", "Bàn về những nguyên tắc của nhận thức con người" v.v... Những nội dung chính của triết học Béc-cli là: Một là, phủ nhận sự tồn tại khách quan của thế giới vật chất. Theo ông, những cảm giác hay nhận thức cảm tính là thực tại khách quan chân chính. Hai là, không có chân lý khách quan. Nhiệm vụ chính của chủ nghĩa duy tâm Béc-cli là đấu tranh chống lại nhận thức luận duy vật. Ông cho rằng, tìm chân lý không phải trong sự phù hợp của tri thức với sự vật bên ngoài mà ở tính rõ ràng của các tri giác cảm tính, ở tiêu chuẩn "ý kiến chung" là so sánh sự thật của ý thức con người không phải với hiện thực khách quan, mà với ý thức của người khác.; ở sự đơn giản và dễ hiểu của các quan niệm; và ở sự phù hợp của tri thức với ý thức và tuân theo ý chúa. Triết học duy tâm chủ quan của Béc-cli về sau được Đavít Hium, Ma-khơ và những môn đồ của Ma-khơ phát triển và ngày nay được tồn tại dưới nhiều hình thức biến tướng mới.
  20. Triết học của Đê-ni Điđơrô Đêni Điđơrô (1713-1784) sinh ra trong một gia đình thợ thủ công, ông là một nhà duy vật tiêu biểu của triết học khai sáng, người chủ biên của bộ Bách khoa toàn thư (1751-1789) của Pháp. Về bản thể luận, Điđơrô đã phê phán chủ nghĩ duy tâm chủ quan của Béc-cli và phê phán tính không triệt để của chủ nghĩa duy vật Anh. "Trong vũ trụ chỉ có một thực thể vật chất. Vật chất bao gồm toàn bộ các vật thể có quảng tính, có hình thức, và luôn luôn vận động. Nguyên nhân của vận động là tự thân vật chất. Những quan điểm về bản thể luận trên đây của Đi-đơ-rô rất gần với quan điểm duy vật hiện đại. Về lý luận nhận thức, Điđơrô đã xây dựng lý luận nhận thức trên lập trường duy vật. Ông cho rằng, cơ thể con người là khí quan vật chất của tư duy, ý thức và các quá trình tâm lý. Điđơrô là nhà duy lý kiểu mới, đề cao khả năng nhận thức cảm tính. Về quan điểm chính trị-xã hội, Điđơrô cho rằng, bộ mặt trí tuệ và đạo đức của con người là do môi trường và hoàn cảnh xã hôi tạo nên. Chỉ có khoa học mới vũ trang cho chúng ta quan niệm đúng về thế giới, làm cho con người lớn mạnh thêm, còn tôn giáo thì làm cho con người mềm yếu đi. Điđơrô mới chỉ nhìn tôn giáo ở nguồn gốc tâm lý sợ chết của con người, chứ không nhìn thấy cơ sở kinh tế-xã hội của sự tồn tại tôn giáo. Đứng trên quan điểm về xã hội khế ước, Điđơrô đòi thực hiện cai trị theo dân chủ tư sản, mở mang hệ thống giáo dục trong nhân dân, và cần phải xây dựng các đạo luật tiến bộ.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2