
Dạy và học với máy tính (TLC)
Cách đây hơn 25 thế kỷ, Khổng Tử đã từng nói: "Tôi nghe, tôi quên. Tôi nhìn, tôi nhớ.
Tôi làm, tôi hiểu". Ba câu nói đơn giản này đã nêu ra ích lợi rõ ràng của việc học chủ
động.
Sau này các chuyên gia nghiên cứu về Phương pháp học chủ động đã đưa ra tỉ lệ mức
độ tiếp thu trung bình các phương thức truyền đạt như sau:
Nghiên cứu trên đã chỉ ra rằng nếu người học được trải nghiệm thông qua hoạt động và
có cơ hội được truyền đạt, dạy lại cho các bạn cùng học thì khả năng tiếp thu sẽ đạt ở
mức cao nhất.
Dạy và học với máy tính (TLC) là mô hình học tập tích cực, học sinh được học thông
qua các hoạt động trong một môi trường tích hợp công nghệ thông tin. Đây là mô hình
đã được triển khai từ năm 1998 đến nay tại một số địa phương của Việt Nam, trong đó
có Hà Nội thông qua dự án Phòng phát triển nghiệp vụ được kí kết giữa Bộ GD&ĐT
và tập đoàn IBM. Tại Hà Nội, có 10 trường phổ thông đã triển khai mô hình học tập
này. Mô hình đã được Viện Khoa học Giáo dục nghiên cứu và khẳng định là mô hình
tích cực của việc sử dụng Công nghệ thông tin trong dạy học.
1

Bài 1. Giới thiệu về TLC.
Bài 1. Giới thiệu về TLC.
MỤC TIÊU: Sau khi hoàn thành bài học này, bạn sẽ có khả năng:
−Hiểu biết cơ bản tích cực
−Hiểu biết cơ bản về Học tmô hình Dạy và học với máy tính, Nắm được các
đặc điểm của mô hình TLC.
1. Học tích cực (Active Learning):
Học tích cực là thuật ngữ được dùng nhiều trong từ vựng giáo dục. Trong cuộc đổi mới
về phương pháp dạy học hiện nay, chúng ta đã nói nhiều về phương pháp dạy học lấy
người học làm trung tâm, phát huy tính chủ động, tích cực của người học,...Vậy Học
tích cực là gì?
Trước hết, học tích cực không có nghĩa là học sinh tiếp thu kiến thức thông qua những
hoạt động cụ thể, chân tay,...Nếu hiểu như vậy thì phương pháp tích cực là một phương
pháp đòi hỏi vận động,...Thế nhưng, trong thực tế mọi hoạt động chân tay dù tích cực
đến mấy cũng trở thành thụ động nếu không có những hoạt động đó tư duy, sáng kiến
và kinh nghiệm của người thực hiện.
Học tích cực cũng không có nghĩa là hoàn toàn phải trực giác cụ thể như: sử dụng
những đồ vật cảm giác được, cho học sinh nhìn, sờ mó vào đồ vật, đặt học sinh trước
những hiện thực cụ thể,...Trẻ em có thể trông thấy, quan sát thấy, ngửi thấy mà vẫn
không tích cực. Tìm đến tự nhiên nhưng không tự đặt ra câu hỏi, không cố gắng để trả
lời những câu hỏi ấy chưa phải là thái độ tích cực theo đúng nghĩa của nó.
Giữa phương pháp phát vấn và Học tích cực cũng có sự khác nhau căn bản là: trong
phương pháp phát vấn, học sinh có thể trả lời tốt từng câu hỏi riêng lẻ mà vẫn không
nắm được cấu trúc nội tại của những chân lý mà các em phải lĩnh hội vì cấu trúc ấy
được đưa ra thông qua bản chất và trình tự các câu hỏi đặt ra. Trong thực tế, câu hỏi
càng nhiều và càng cụ thể thì học sinh càng kém tích cực.
"Phương pháp tích cực trong thực tế bao hàm một sự hoạt động mà qua đó trẻ em học
được đôi điều bằng cách khám phá ra nó. Tuỳ theo sự phát triển của trẻ, phương pháp
này làm cho trẻ tham gia tích cực vào việc xây dựng những kiến thức, huy động sáng
kiến, sáng tạo của các em thay vì các em thụ động tiếp thu chúng từ thầy giáo hay từ
sách giáo khoa....Phải hiểu phương pháp tích cực theo nghĩa phát huy sáng kiến cá
nhân, sức sáng tạo, sức khám phá của cá nhân" (Guy PalMade - Các phương pháp sư
phạm, T102, T103, NXB Thế Giới).
2

2. TLC (Teaching and Learning with Computer):
TLC – Dạy và học với máy tính là một cách tiếp cận đưa công nghệ vào lớp học. Trong
lớp học theo mô hình TLC, không phải mọi học sinh đều phải làm việc với máy tính
cùng một lúc, cũng không phải trong tiết học chỉ có một hoạt động làm việc với máy
tính.
TLC được thiết kế linh hoạt. TLC khuyến khích một môi trường học tập, trong đó các
học sinh tham gia tích cực, hợp tác và liên lạc với nhau. TLC giúp giáo viên:
−Khuyến khích học sinh tìm tòi, khám phá.
−Hỗ trợ nhiều góc học tập, nơi học sinh tiếp cận với nội dung học tập một cách tích
cực.
−Giới thiệu các hoạt động khác nhau để đáp ứng nhu cầu học sinh.
−Tạo điều kiện để học sinh có thể học một mình, nhóm hai người, nhóm nhỏ,... hay
cả lớp.
−Cung cấp khả năng truy cập vào máy tính được nối với nhau trong phòng học hay
được nối ra ngoài.
−Đưa công nghệ vào chiến lược giảng dạy.
−Cung cấp khả năng truy cập các phần mềm giáo dục khác nhau, giúp học sinh tiếp
cận các nội dung học tập khác nhau trong cùng một tiết học.
−Khuyến khích học sinh tìm ra mối liên hệ giữa các lĩnh vực khác nhau trong quá
trình học tập.
−Mở rộng những điều học được ở trường về nhà, lôi cuốn các thành viên gia đình
vào các hoạt động và các bài tập lớn.
Môi trường học tập TLC thường bắt đầu bằng các hoạt động Toàn lớp nhằm giới thiệu
cho học sinh những khái niệm mới, kế hoạch làm việc,... Sau đó, học sinh sẽ phân tán
về các góc học tập.
Hoạt động ở các góc học tập là đặc thù của môi trường học tập TLC. Tại các góc học
tập, học sinh có thể tham gia tích cực vào các hoạt động với máy tính, với các phương
tiện nghe nhìn, các tài liệu và các công cụ học tập khác,... Những hoạt động này được
thiết kế không chỉ để củng cố, mở rộng các khái niệm mà còn giúp học sinh làm quen
với các hoạt động đa dạng, làm nảy sinh tình huống có vấn đề, làm động lực cho quá
trình nhận thức tiếp theo.
Tại các góc học tập, học sinh có thể làm việc độc lập hay làm việc theo nhóm. Cách
học đó tạo ra những điều kiện để học sinh trao đổi ý kiến, học hỏi lẫn nhau cũng như
những cơ hội để giáo viên trao đổi trực tiếp với cá nhân hoặc với nhóm học sinh.
3

Mô tả về hoạt động toàn lớp và một số hình thức hoạt động khác ở các góc học tập.
Góc học tập Mô tả
Toàn lớp Giáo viên giới thiệu các khái niệm mới và hướng dẫn cả lớp thảo luận.
Máy tính được sử dụng như bảng đen điện tử để cả lớp hiểu được các
khái niệm cũng như những mối liên hệ. Thời điểm này có các hoạt
động để học sinh tìm tòi, hỏi và trao đổi.
Làm việc với
máy tính
Học sinh dùng các phần mềm để phát triển khái niệm cũng như kĩ
năng. Học sinh học theo nhóm (2 người một máy tính) để giúp đỡ lẫn
nhau, thảo luận các nội dung thông qua các hoạt động.
Học sinh có thể dùng các chương trình soạn thảo văn bản hay các phần
mềm học tập khác để mở rộng các kiến thức Toán sang lĩnh vực khác.
Hoạt động Học sinh hoạt động theo nhóm nhỏ, dùng các giáo cụ để phát triển các
khái niệm cũng như các cách giải bài tập khác nhau. Học sinh trong
mỗi nhóm giúp đỡ lẫn nhau và thảo luận về công việc của chúng. GV
di chuyển từ góc này sang góc khác để gợi ý học sinh tìm hiểu, đào sâu
suy nghĩ và kích thích trí thông minh.
Thực hành độc
lập
Học sinh làm việc độc lập để thực hành và phát triển kỹ năng. Giáo
viên dùng SGK hay các giáo trình khác để soạn các bài thực hành độc
lập cho HS
Đề án
(Bài tập lớn)
Mỗi chủ đề đều có các gợi ý cho một bài tập lớn. Những bài tập lớn
này được thiết kế để khuyến khích học sinh áp dụng các kỹ năng vừa
thu thập được và mở rộng những điều đã học sang lĩnh vực khác. GV
có thể giao bài tập cho từng học sinh hay cho các nhóm.
Trong mô hình TLC, học sinh giữ vai trò trung tâm lớp học. Học sinh tham gia mọi
hoạt động một cách chủ động, tích cực xây dựng, khám phá kiến thức. Giáo viên theo
đuổi các giá trị câu hỏi của học sinh. Giáo viên là người tổ chức, thúc đẩy quá trình học
tập của học sinh.
Trong một tiết học theo mô hình TLC, học sinh thu nhận kiến thức mới thay vì từ giáo
viên và SGK theo cách truyền thống thì nay do chính các em khám phá nhờ sự tích cực
tham gia các hoạt động tại các góc học tập. Chính vì vậy, một tiết dạy theo mô hình
TLC bao giờ cũng cần một phần lớn thời gian cho học sinh hoạt động xây dựng kiến
thức và tổng kết các kiến thức thu nhận được từ các hoạt động. Và do đó một tiết dạy
theo mô hình TLC bao giờ cũng đòi hỏi nhiều thời gian hơn và sự chuẩn bị công phu
hơn so với cách dạy truyền thống.
3. Đặc điểm của mô hình TLC
Lớp học theo mô hình TLC là một lớp học có môi trường Học tích cực và giàu công
nghệ. Trong lớp học TLC, ngoài hoạt động làm việc với máy tính còn có nhiều hình
thức hoạt động khác với những đồ dùng và tài liệu học tập phong phú giúp học sinh
chủ động, tích cực xây dựng kiến thức, sáng tạo và khám phá kiến thức. Có thể kể đến
một số đặc trưng của mô hình TLC như sau:
4

3.1 Tính liên môn trong nội dung học tập:
Trong mô hình lớp học TLC, nội dung học tập Tích hợp nhiều môn học. Đặc trưng này
xuất phát từ thực tế trong đời sống hàng ngày các hoạt động thường là những hoạt động
tổng hợp, do vậy con người cần kiến thức của nhiều môn học thay vì chỉ một môn.
Chẳng hạn, qua các hoạt động tìm hiểu chủ đề Kim tự tháp Ai Cập, học sinh có thể học
được về Lịch sử các Pharaon, vị trí Địa lý của các Kim tự tháp, các kiến thức về Toán
học như tam giác, tứ giác, mô hình hình học trong không gian,...Như vậy việc tích hợp
nhiều môn học trong một chủ đề một mặt làm cho những kiến thức các em thu nhận
được tổng hợp, mặt khác việc tích hợp nhiều môn có tác dụng tiết kiệm thời gian và
khắc sâu vì kiến thức nhiều môn được học sinh lĩnh hội song song trong một tình
huống thống nhất.
Tuy nhiên, sách giáo khoa của ta hiện nay chưa tích hợp. Ngoài ra, cũng chưa có sơ sở
nào đào tạo các thầy dạy những chương trình tích hợp như vậy, các tiết học bị buộc
phải bám sát chương trình quy định.
3.2 Ba giai đoạn học:
Trong mô hình lớp học TLC, nội dung học tập đưa đến cho học sinh đi theo con đường
của sự nhận thức biện chứng: từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy
trừu tượng trở về thực tiễn. Tức là bên cạnh các hoạt động xây dựng kiến thức, sáng tạo
và khám phá kiến thức, học sinh còn được tham gia các hoạt động giải quyết tình
huống thực, áp dụng kiến thức trong các lĩnh vực ứng dụng. Nội dung kiến thức trong
mô hình lớp học TLC thường đưa ra dưới dạng chủ đề hay một chủ điểm công việc.
Để tổ chức hoạt động cho học sinh, mỗi chủ đề được chia thành ba giai đoạn Giới
thiệu, Phát triển và Tiếp tục. Mỗi giai đoạn cung cấp một số hoạt động theo Toàn lớp
và các Góc học tập. Logic tự nhiên của trình tự Giới thiệu, Phát triển, Tiếp tục là rất
quan trọng vì nó đi theo logic của con đường nhận thức biện chứng.
Trong khi phân tích từng giai đoạn, ta sẽ xem xét những hoạt động thí dụ cho từng giai
đoạn của chủ đề Nhân phân số (môn Số học lớp 6).
−Giới thiệu
Các hoạt động giới thiệu giúp cho học sinh phát triển các khái niệm cơ sở. Các hoạt
động luôn cụ thể và thường có giáo cụ. Chúng tăng cường sự khám phá và không tập
trung vào việc phát triển các kỹ năng trừu tượng. Mỗi chủ đề giới thiệu các khái niệm
mới bằng cách đưa ra vấn đề cần giải quyết.
Với chủ đề Nhân phân số, các hoạt động trong phần này giới thiệu nhân phân số với
một số nguyên. Đây là nội dung dễ nhất để hiểu phép toán nhân phân số. Học sinh làm
việc với các que màu biểu diễn phân số để lên sơ đồ giải quyết vấn đề và rút ra qui tắc.
5