HỘI CHỨNG CHÈN ÉP KHOANG
THS. BS. ĐỖ VĂN MINH
KHOA CTCH I- BỆNH VIỆN VIỆT ĐỨC
ĐẠI CƯƠNG
Hội chứng chèn ép khoang (compartment syndrome) tình trạng bệnh được đặc
trưng bởi sự tăng áp lực trong khoang kín, dẫn đến sự tổn thương không thể đảo
ngược của các thành phần chứa trong khoang kín đó.
Năm 1881, Richard von Volkman tả tình trạng co cứng các gấp không thể hồi
phục bàn tay xảy ra sau tình trạng thiếu máu nuôi dưỡng cẳng tay.
Năm 1888, Peterson thông báo phương pháp điều trị ngoại khoa đối với co rút
Volkman.
Năm 1906, Hildebrand người đầu tiên sử dụng thuật ngữ Volkman’s ischemic
contracture để chỉ giai đoạn cuối của hội chứng chèn ép khoang không được điều trị.
ĐẠI CƯƠNG
Năm 1909, Thomas tổng kết 112 trường hợp hội chứng Volkman nhận thấy gãy xương
nguyên nhân chính, các nguyên nhân khác bao gồm tổn thương động mạch, trệ tuần hoàn
tĩnh mạch, bang quá chặt... 107/112 BN xảy ra chi trên.
Năm 1910, Rowlands cho rằng nh trạng tái tưới máu sau một thời gian bị thiếu máu cấp
tính dẫn đến tình trạng sung huyết,phù nề thần kinh, dẫn đến hội chứng chèn ép
khoang.
Năm 1914, Murphy người đầu tiên cho rằng mở cân (fasciotomy) nếu tiến hành trước khi
bị co rút thể tránh được nh trạng co rút trong trong hội chứng chèn ép khoang.
Ông cũng người đầu tiên tìm hiểu mối quan hệ áp lực -mở cân-sự tiến triển của co rút
.
ĐẠI CƯƠNG
Brooks cộng sự tìm hiểu kỹ hơn về nguyên nhân gây nên hội chứng Volkman.
Năm 1928, Robert Jone cho rằng nguyên nhân của hội chứng Volkman do tăng áp
lực bên trong bên ngoài.
Sau này các tác giả khác (Matsen, Mubarak, Hagen)đã thông báo hội chứng chèn
ép khoang nhiều nơi khác của th.
Chandler Knapp (1967), Pathman Thomson (1970)mở cân chủ động cho
những trường hợp phục hồi lưu thông mạch máu sau tổn thương động mạch làm cải
thiện tốt n chức năng chi thể.
ĐẠI CƯƠNG
Co rút Volkman sau chèn ép khoang cẳng tay