
Bài 2: Cung, cầu và cơ chế hoạt động của thị trường
ECO101_Bai2_v2.3014106226 29
0
Nội dung
Trong bài này, người học sẽ được tiếp cận
các nội dung:
Các khái niệm cầu, lượng cầu, cung,
lượng cung và quy luật cung – cầu.
Các nhân tố tác động đến cầu và đến
cung. Phân biệt sự di chuyển trên
đường cầu (đường cung) với sự dịch
chuyển đường cầu (đường cung).
Các khái niệm, ý nghĩa và cách tính độ
co dãn của cầu. Chỉ ra mối quan hệ
giữa độ co dãn của cầu theo giá với sự
thay đổi của doanh thu khi giá cả của
hàng hóa thay đổi.
Các tác động của chính sách quy định
giá (giá trần/giá sàn) và chính sách
thuế/trợ cấp đến thị trường.
Mục tiêu Hướng dẫn học
Giúp người học giải thích các khái niệm,
vấn đề cơ bản về cung cầu, các yếu tố tác
động đến cung cầu và cân bằng thị trường.
Sau khi học bài này, người học sẽ trình
bày được các khái niệm, ý nghĩa và cách
tính độ co dãn của cầu. Chỉ ra được mối
quan hệ giữa độ co dãn của cầu theo giá
với doanh thu.
Ngoài ra, người học có thể xem xét được
tác động của chính sách giá (giá trần/giá
sàn) và của chính sách thuế/trợ cấp đến
thị trường của từng loại hàng hóa.
Thời lượng học
10 tiết
Đọc giáo trình trước lúc nghe giảng.
Sử dụng tốt các phương pháp và công
cụ trong kinh tế học (bao gồm kiến
thức đại số và hình học lớp 12) để
phân tích và nghiên cứu bài học.
Thực hành thường xuyên và liên tục
các bài tập vận dụng để hiểu được lý
thuyết và bài tập thực hành.
BÀI 2: CUNG, CẦU VÀ CƠ CHẾ HOẠT ĐỘNG
CỦA THỊ TRƯỜNG

Bài 2: Cung, cầu và cơ chế hoạt động của thị trường
30 ECO101_Bai2_v2.3014106226
Trong hoạt động mua – bán, kinh doanh hàng ngày có 2 đối tượng chính đó là người mua và
người bán. Người mua bao gồm người tiêu dùng (mua hàng hóa, dịch vụ nhằm mục đích sử
dụng) và hãng (thuê mua vốn, lao động, các nguyên nhiên vật liệu phục vụ cho quá trình sản xuất
và kinh doanh). Người bán bao gồm các hãng (bán hàng hóa, dịch vụ); người lao động (cung ứng
sức lao động); chủ sở hữu các nguồn lực như: đất đai, ruộng vườn, các nguyên liệu sản xuất. Như
vậy, có nghĩa là hầu hết mọi cá nhân và các hãng đều là người bán và đồng thời là người mua
nhưng chúng ta coi họ là người mua khi họ mua một thứ gì đó và là người bán khi họ bán một
thứ gì đó. Bài này giới thiệu cho người đọc kiến thức cơ bản về thị trường, cung và cầu, sự hình
thành giá cả và sản lượng cân bằng trên thị trường. Bên cạnh đó, nội dung bài cũng đề cập đến
một số công cụ can thiệp của Chính phủ vào thị trường và tác động của chúng đến thị trường.
2.1. Thị trường
2.1.1. Khái niệm
Thị trường là một thuật ngữ đã xuất hiện từ rất lâu và chúng ta thường xuyên nhắc tới
trong mọi khía cạnh của nền kinh tế. Khái niệm thị trường rất đa dạng, mỗi quan điểm
khác nhau, trường phái khác nhau có những cách tiếp cận khác nhau.
Gegory Mankiw (2003) lại đưa ra một khái niệm khá đơn giản: “Thị trường là tập hợp
của một nhóm người bán và người mua một hàng hóa hoặc dịch vụ nhất định”.
S.Pindyck và Rubinfeld (2005), khái niệm thị trường được hiểu theo nghĩa tương tự:
“Thị trường là tập hợp người mua và người bán tác động qua lại lẫn nhau dẫn đến khả
năng trao đổi”. Có nhiều quan điểm khác nhau nhìn nhận về thị trường, căn cứ vào
những quan điểm đó cũng như dựa trên thực tế chúng ta có thể thống nhất chung một
khái niệm về thị trường như sau: “Thị trường là một tập hợp các dàn xếp mà thông qua
đó những người bán và người mua tiếp xúc với nhau để trao đổi hàng hóa và dịch vụ”.
Thị trường không nhất thiết phải là một địa điểm cụ thể và bị giới hạn trong một không
gian cụ thể mà chính là những thỏa thuận giữa người mua và người bán. Nơi nào có sự
thỏa thuận giữa người mua và người bán để mua bán hàng hóa, dịch vụ thì nơi đó có là
thị trường. Do đó, thị trường có thể là một quán cà phê, một chợ, một cuộc ký kết hợp
đồng mua bán, chợ trái cây, tiệm cắt tóc, quán ăn, một số thị trường lại được vận hành
thông qua các trung gian như thị trường chứng khoán, thị trường vô hình như thương
mại điện tử (ebay.com)...
Hình thức của thị trường khác nhau nhưng các thị trường có cùng một chức năng kinh tế
đó là điều tiết nền kinh tế: Xác lập mức giá và số lượng hàng hóa hay dịch vụ mà tại đó
người mua muốn mua và người bán muốn bán. Giá cả và số lượng hàng hóa hay dịch vụ
được mua bán trên thị trường thường song hành với nhau. Ứng với một mức giá nhất
định, một số lượng hàng hóa nhất định sẽ được mua bán. Trên thị trường tồn tại các quy
luật kinh tế cơ bản như: quy luật cung cầu, quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, quy luật
giá cả. Những quy luật này luôn tác động, hạn chế và thúc đẩy nhau tạo thành tập hợp
các mối quan hệ hết sức phức tạp.
Giá thị trường (P): Mối quan hệ trên thị trường là mối quan hệ giữa cung, cầu – hàng
và tiền được biểu hiện thông qua giá cả, khi mối quan hệ này thay đổi sẽ tác động đến
giá cả thị trường. Giá cả của hàng hóa phản ánh lợi ích kinh tế, là tiêu chuẩn để các
doanh nghiệp lựa chọn các mặt hàng trong sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó, giá cả còn

Bài 2: Cung, cầu và cơ chế hoạt động của thị trường
ECO101_Bai2_v2.3014106226 31
biểu hiện tổng hợp các quan hệ kinh tế lớn như quan hệ giữa cung – cầu, quan hệ tích
lũy – tiêu dùng, quan hệ trong – ngoài nước.
Đối với thị trường cạnh tranh hoàn hảo, giá duy nhất là giá thị trường, mức giá này có
thể dễ dàng tìm thấy hàng ngày trong các bản tin kinh tế ví dụ giá của các sản phẩm như
lúa mỳ, ngô, hay vàng… Còn trên thị trường cạnh tranh không hoàn hảo, các hãng có thể
định ra các mức giá khác nhau cho cùng một sản phẩm. Điều này xảy ra khi một hãng
chinh phục được nhóm khách hàng từ các đối thủ cạnh tranh hoặc nhóm khách hàng
trung thành đối với một số sản phẩm mà họ ưa thích, khi đó các hãng này có thể định giá
cao hơn so với sản phẩm cùng loại của hãng khác.
2.1.2. Phân loại thị trường
Như chúng ta đã thấy, thị trường được tạo nên bởi người bán và người mua đồng thời
mỗi một thị trường riêng biệt có những đặc điểm khác nhau. Dựa vào những tiêu chí,
tiêu thức khác nhau như: phạm vi địa lý, đối tượng hàng hóa được trao đổi, mức độ cạnh
tranh… mà người ta có thể phân loại thị trường như sau:
Các căn cứ và tiêu thức phân loại thị trường:
o Số lượng người mua và người bán;
o Loại hình sản phẩm đang sản xuất và bán;
o Sức mạnh thị trường của người mua và người bán;
o Các trở ngại của việc gia nhập thị trường;
o Hình thức cạnh tranh giá cả và phi giá cả.
Phân loại thị trường dựa theo mức độ cạnh tranh:
Trên các thị truờng này, có sự khác nhau về số
lượng người bán, người mua, tính chất của hàng
hóa dịch vụ trao đổi từ đó dẫn tới sự khác nhau về
sức cạnh tranh – sức mạnh thị trường.
o Thị trường cạnh tranh hoàn hảo (thuần túy):
Đây là một thị trường có rất nhiều người mua
và nhiều người bán, trao đổi một loại sản phẩm
đồng nhất, mọi thông tin trên thị trường này
đều được người bán người mua nắm rõ và họ
không có quyền quyết định đến mức giá cũng như sản lượng hàng hóa trao đổi
trên thị trường.
o Thị trường độc quyền thuần túy (độc quyền mua hoặc độc quyền bán): Chỉ có
một người mua và nhiều người bán hoặc chỉ có một người bán và nhiều
người mua.
o Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo: Bao gồm cạnh tranh độc quyền và độc
quyền tập đoàn.
Phân chia theo đối tượng hàng hóa hay dịch vụ được trao đổi: Phân chia theo đối
tượng được trao đổi ở đây là phân chia theo loại hàng hóa hay dịch vụ được trao đổi,
ví dụ như: thị trường gạo, thị trường bất động sản, thị trường dịch vụ viễn thông, thị
trường dịch vụ vận tải, thị trường chứng khoán…
Phân chia theo phạm vi, quy mô thị trường: thị trường địa phương, thị trường trong
nước, thị trường quốc tế…
Cầu cá nhân

Bài 2: Cung, cầu và cơ chế hoạt động của thị trường
32 ECO101_Bai2_v2.3014106226
Ngoài ra còn rất nhiều cách phân chia thị trường theo những tiêu chí khác nhau khác
như: mức độ tập trung, tính tiềm năng của tập khách hàng… Việc phân loại thị trường
rất quan trọng bởi một hãng phải xác định được đâu là các đối thủ cạnh tranh trong thực
tế cũng như tiềm tàng đối với các sản phẩm mà hãng đang bán và sẽ bán. Bên cạnh đó,
hãng cũng cần nắm rõ được những nhược điểm của sản phẩm, định vị được phạm vi địa
lý của thị trường mình đang kinh doanh để có các chính sách giá, chiến lược quảng cáo
và ra các quyết định đầu tư về vốn sao cho phù hợp.
2.2. Cầu về hàng hóa và dịch vụ
2.2.1. Khái niệm cầu và luật cầu
Cầu (D) là số lượng hàng hóa hoặc dịch vụ mà
người mua muốn mua và có khả năng mua tại các
mức giá khác nhau trong một khoảng thời gian
nhất định, các yếu tố khác không đổi.
Vậy, nếu thiếu một trong hai yếu tố muốn mua và
có khả năng mua thì sẽ không tồn tại cầu. Muốn
mua biểu thị nhu cầu của người tiêu dùng về một
hàng hóa hoặc dịch vụ nào đó. Có khả năng mua
biểu thị khả năng thanh toán. Cầu khác nhu cầu,
nhu cầu là những mong muốn, sở thích của người
tiêu dùng, nhưng có thể không có khả năng thanh toán. Nhu cầu của con người là vô
tận. Chẳng hạn một sinh viên tranh thủ mấy ngày nghỉ lễ muốn vào thành phố Đà
Nẵng bằng máy bay để thăm họ hàng nhưng anh ta không có đủ tiền để mua vé máy
bay, vì vậy không có cầu của sinh viên này về vé máy bay.
Ngoài ra, khi phân tích cầu của người tiêu dùng nào đó chúng ta phải ứng vào một
không gian và thời gian cụ thể. Ví dụ, cầu về phở buổi sáng khác với buổi trưa.
Trong thực tế người ta hay nói đến cầu thị trường thay vì cầu cá nhân bởi các hiện
tượng kinh tế thường được dự đoán bởi hành vi của một đám đông chứ không phải
của một cá thể.
Lượng cầu (QD): là số lượng hàng hóa hoặc dịch vụ cụ thể mà người mua muốn
mua và sẵn sàng mua tại mức giá đã cho trong một khoảng thời gian nhất định.
Nhu cầu là những mong muốn, sở thích của người tiêu dùng về hàng hóa và dịch vụ,
nhưng có thể không có khả năng thanh toán.
Biểu cầu: là bảng chỉ số lượng hàng hóa hoặc dịch vụ mà người tiêu dùng sẵn sàng và
có khả năng mua ở các mức khác nhau trong một thời gian nhất định (Ceteris Paribus).
Ví dụ:
Bảng 2.1. Cầu về cà phê trên thị trường X trong 1 tháng như sau:
Giá ($/tấn) Lượng (tấn)
45 670
44 680
43 690
42 700
41 710
40 720
Cầu về hoa quả

Bài 2: Cung, cầu và cơ chế hoạt động của thị trường
ECO101_Bai2_v2.3014106226 33
Luật cầu: Số lượng hàng hóa được cầu trong khoảng thời gian đã cho tăng lên khi
giá của hàng hóa đó giảm xuống và ngược lại, giả định các yếu tố khác không đổi.
Giá cả tăng thì lượng cầu giảm: P QD
Giá cả giảm thì lượng cầu tăng: P QD
Vì sao lại có luật cầu? Lý do là phần lớn mọi loại hàng hóa đều có khả năng thay thế
bởi loại hàng hóa khác cùng chủng loại. Ví dụ: Mỗi một que kem Tràng Tiền giá là
5000 đồng/que, một sinh viên tên là An có thể ăn cùng một lúc 3 que cho thỏa thích,
nhưng do chi phí đầu vào tăng nên nhà quản lý của hãng kem quyết định tăng giá
mỗi que kem lên 7000 đồng/que, tâm lý bị chi phối về khả năng thanh toán nên sinh
viên đó giảm tiêu dùng xuống còn 2 que hoặc chuyển sang mua kem của hãng
Merino với giá rẻ hơn.
Hình 2.1.
Hàng hóa Giffen
Hầu hết các loại hàng hóa (dịch vụ) trên thị trường đều tuân theo luật cầu, chỉ có một số
rất ít hàng hóa không tuân theo luật cầu, ngược với luật cầu, được gọi là hàng hóa
Giffen. Hàng hóa Giffen: Do nhà thống kê và kinh tế học Sir Rober Giffen (1837–1910)
người Anh đưa ra. Hàng hóa gọi là Giffen khi mà tác động thu nhập đủ lớn để làm lượng
cầu giảm khi giá giảm. Điều này có nghĩa là đường cầu dốc lên (như đường cung).
Trường hợp này hiếm khi xảy ra và ít được quan tâm trong thực tế. Ví dụ: Lũ lụt và bị cô
lập dẫn đến giá lương thực, thực phẩm tăng nhưng cầu về những mặt hàng này không hề
giảm mà lại tăng.
2.2.2. Phương trình và đồ thị đường cầu
Giả định các yếu tố khác không đổi chỉ có mối quan hệ giữa giá cả và lượng cầu, khi đó
chúng ta có thể xây dựng hàm cầu tuyến tính có dạng đơn giản: Qx = f(Px).
Dạng hàm cầu tuyến tính cơ bản nhất là: QD = a – bP hoặc
Hàm cầu ngược: P = (a/b) – (1/b)QD
Trong đó: a và b là các tham số, a > 0 và b ≥ 0. Tham số chặn a cho biết giá trị của QD
khi biến P có giá trị bằng 0. Các tham số b được gọi là hệ số góc: Chúng đo ảnh hưởng
đối với lượng cầu khi một trong biến P thay đổi, khi các yếu tố khác giữ nguyên. Ví dụ,
hệ số góc b đo sự thay đổi trong lượng cầu khi giá thay đổi một đơn vị, có nghĩa là
b = QD/P. Như đã nhấn mạnh ở trên, QD và P tỉ lệ nghịch, b có giá trị âm vì QD và
P trái dấu.