TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM TP. HỒ CHÍ MINH KHOA MÔI TRƯỜNG VÀ TÀI NGUYÊN BỘ MÔN QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG
TÀI LIỆU MÔN HỌC
GVPTMH: ThS. HOÀNG THỊ MỸ HƯƠNG
Tháng 9/2012
1
BÀI 1 - NHẬP MÔN SỨC KHOẺ MÔI TRƯỜNG
MỤC TIÊU
Sau khi học xong bài này, sinh viên có khả năng:
1. Trình bày được các thành phần chính của môi trường
2. Nêu được các khía cạnh lịch sử của sức khoẻ môi trường
3. Trình bày được mối quan hệ giữa sức khoẻ và môi trường, các chính sách về sức
khoẻ môi trường và quản lý môi trường
4. Giải thích được những vấn đề sức khoẻ môi trường mang tính cấp bách ở địa
phương và trên thế giới.
NỘI DUNG
Sức khoẻ môi trường là nền tảng của Y tế công cộng, cung cấp rất nhiều lý luận cơ bản nền
tảng cho một xã hội hiện đại. Quá trình cải thiện tình trạng vệ sinh, chất lượng nước uống,
vệ sinh và an toàn thực phẩm, kiểm soát bệnh tật và cải thiện điều kiện nhà ở là nhiệm vụ
trung tâm của quá trình thực hiện việc nâng cao chất lượng cuộc sống và tiếp tục những
kinh nghiệm quý báu của cả thế kỷ qua. Tuy nhiên, hiện nay cuộc sống của người dân
trong thời kỳ đổi mới có nhiều thay đổi: việc đô thị hoá, tăng dân số, thay đổi lối sống,
nạn phá rừng, tăng sử dụng hoá chất bảo vệ thực vật trong nông nghiệp, sử dụng các hoóc
môn tăng trưởng trong chăn nuôi, sự phát triển công nghiệp và không kiểm soát được
những chất thải công nghiệp v.v… làm cho môi trường ngày càng bị suy thoái.
Trong những năm qua, thảm hoạ thiên nhiên đã gây nên nhiều thiệt hại lớn như lũ quét ở
Lai Châu, Sơn La, úng lụt ở Đồng bằng Sông Cửu Long, hạn hán ở nhiều nơi như Tây
Nguyên. Tại một số tỉnh phía nam hiện nay, những trường hợp bị nhiễm độc hoá chất,
ngộ độc các hoá chất bảo vệ thực vật và ngộ độc thực phẩm vẫn xẩy ra thường xuyên.
Có nhiều chỉ thị và nghị quyết bàn về phương hướng phát triển bền vững, nghĩa là bảo đảm
cho môi trường và môi sinh trong sạch, giảm thiểu ô nhiễm nhằm nâng cao sức khoẻ con
người như Luật Bảo vệ môi trường Việt Nam, Nghị định hướng dẫn thi hành luật, v.v…
Bên cạnh đó còn phải kể đến môi trường xã hội, môi trường làm việc cũng có nhiều ảnh
hưởng đến sức khoẻ con người. Do vậy, việc nghiên cứu, xử lý, phòng chống ô nhiễm môi
trường và cải thiện môi trường xã hội là một việc hết sức cần thiết. Muốn làm được điều đó
mọi người, mọi tổ chức trong xã hội mà trước hết là học sinh, sinh viên - những người làm
chủ tương lai đất nước phải cùng nhau tham gia giải quyết thì mới đạt được kết quả.
Đó là những vấn đề môi trường ảnh hưởng đến đời sống xã hội, đến kinh tế đất nước.
Còn môi trường ảnh hưởng đến sức khoẻ con người cụ thể như thế nào? Thế nào gọi là
sức khoẻ môi trường? Chúng tôi sẽ trình bày những khái niệm này ở phần sau.
2
1. CÁC THÀNH PHẦN CƠ BẢN CỦA MÔI TRƯỜNG
1.1. Môi trường là gì?
Theo Luật Bảo vệ môi trường Việt Nam (2005), môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và
vật chất nhân tạo bao quanh con người, có ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại,
phát triển của con người và sinh vật.
1.2. Các thành phần của môi trường
Cũng theo Luật Bảo vệ môi trường Việt Nam (2005), thành phần môi trường
là yếu tố vật chất tạo thành môi trường như đất, nước, không khí, âm thanh, ánh
sáng, sinh vật, hệ sinh thái và các hình thái vật chất khác. Tóm lại, các thành phần
của môi trường bao gồm môi trường vật lý, môi trường sinh học và môi trường xã
hội.
1.2.1. Môi trường vật lý bao gồm các yếu tố vật lý như: khí hậu, tiếng ồn, ánh sáng, bức xạ,
gánh nặng lao động. Bên cạnh các yếu tố vật lý còn có những yếu tố hoá học như bụi,
hoá chất, thuốc men, chất kích thích da, thực phẩm, v.v...
1.2.2. Môi trường sinh học như động vật, thực vật, ký sinh trùng, vi khuẩn, vi rút, các yếu
tố di truyền, v.v...
1.2.3. Môi trường xã hội như stress, mối quan hệ giữa con người với con người, môi trường
làm việc, trả lương, làm ca, v.v...
2. CÁC KHÍA CẠNH LỊCH SỬ CỦA SỨC KHOẺ MÔI TRƯỜNG
2.1. Khái niệm về sức khoẻ môi trường
Sức khoẻ môi trường là gì? Theo quan điểm của nhiều người sức khoẻ môi
trường chính là sức khoẻ của môi trường. Đây là các ý niệm về đời sống hoang dã,
về rừng, sông, biển, v.v... . và theo họ thì sức khoẻ môi trường đồng nghĩa với việc
bảo vệ môi trường. Những người khác thì cho rằng sức khoẻ môi trường là các vấn
đề về sức khoẻ của con người có liên quan đến điều kiện sống, sự nghèo nàn, lạc
hậu, không đủ nước sạch, lũ lụt, sự phá hoại của côn trùng và súc vật có hại - tất cả
các thách thức đó chúng ta đã trải qua, đã chống trả trong suốt quá trình hình thành
và phát triển của con người và cuộc sống, nhất là những năm gần đây và chúng ta đã
chiến thắng.
Cả hai quan điểm này đều chưa đúng, chưa chính xác, sức khoẻ môi trường không đồng
nghĩa với sức khoẻ của môi trường và bảo vệ môi trường và cũng không bó hẹp trong
việc kiểm soát các loại dịch bệnh của thế kỷ qua. Cho đến hiện nay nhiều tác giả đưa ra
khái niệm về sức khoẻ môi trường như sau:“Sức khoẻ môi trường là tạo ra và duy trì một
môi trường trong lành, bền vững để nâng cao sức khoẻ cộng đồng”.
3
2.2. Lịch sử phát triển của thực hành sức khoẻ môi trường
Mỗi sinh vật trên trái đất đều có môi trường sống của riêng mình, nếu thoát ra khỏi
môi trường tự nhiên đó hoặc sự biến đổi quá mức cho phép của môi trường mà chúng đang
sống thì chúng sẽ bị chết và bị huỷ diệt. Do đó, đảm bảo sự ổn định môi trường sống là điều
kiện cơ bản để duy trì sự sống của mọi loài sinh vật trên trái đất. Những ví dụ rất giản đơn
mà mọi người đều biết là “ngộ độc ô xít các bon (CO) ở những người đi kiểm tra các lò gạch
thủ công đốt bằng than hoặc cá chết do nước bị ô nhiễm hoá chất của nhà máy phân lân Văn
Điển”, v.v... Điều đó có nghĩa là môi trường, con người và sức khoẻ con người có mối liên
quan mật thiết với nhau và có thể cái nọ là nhân quả của cái kia. Không phải đến bây giờ
con người mới biết tới mối quan hệ này, mà từ hàng ngàn năm trước người Trung Quốc,
Ấn Độ, Ba Tư, Ai Cập cổ đại đã biết áp dụng các biện pháp thanh khiết môi trường để
ngăn ngừa và phòng chống dịch cho cộng đồng và quân đội. Các tư liệu lịch sử cho thấy từ
những năm trước công nguyên, ở thành A-ten (Hy Lạp) con người đã xây dựng hệ thống
cống ngầm để thải nước bẩn, đã biết dùng các chất thơm, diêm sinh để tẩy uế không khí
trong và ngoài nhà để phòng các bệnh truyền nhiễm.
Người La Mã còn tiến bộ hơn: khi xây dựng thành La Mã, người ta đã xây dựng
một hệ thống cống ngầm dẫn tới mọi điểm trong thành phố để thu gom nước thải, nước
mưa dẫn ra sông Tibre, đồng thời xây dựng một hệ thống cung cấp nước sạch cho dân
chúng trong thành phố. Vào thời kỳ này, độ cao của nhà ở, bề rộng các đường đi lại trong
thành đều được qui định và tiêu chuẩn hoá, những người đem bán loại thực phẩm giả mạo,
thức ăn ôi thiu đều phải chịu tội.
Theo thời gian, cùng với sự phát triển của xã hội, dân số, ô nhiễm môi trường và
phòng chống ô nhiễm môi trường càng được tăng cường và phát triển. Như chúng ta
đã biết, các nhân tố sinh học, các hoá chất tồn tại một cách tự nhiên và các nguy cơ vật lý đã
tồn tại trong suốt quá trình phát triển của lịch sử loài người. Đồng thời các chất ô nhiễm
môi trường do hoạt động của con người sinh ra cũng có quá trình phát triển từ từ và lâu dài.
Cuộc khủng hoảng môi trường lần thứ nhất xuất hiện ở Châu Âu lần đầu tiên vào
thế kỷ 19, nguyên nhân là do thực phẩm kém chất lượng, nước bị ô nhiễm ảnh hưởng đến
sức khoẻ cộng đồng. Cuộc cách mạng công nghiệp ở Anh đã làm cho nước Anh trở
thành xứ sở sương mù do ô nhiễm không khí, thời gian này vấn đề ô nhiễm công nghiệp là
một vấn đề hết sức nghiêm trọng nhưng bị chính phủ lờ đi vì còn nhiều vấn đề xã hội khác
quan trọng hơn, mặc dù năm 1848 Quốc Hội Anh đã thông qua Luật Y tế công cộng đầu
tiên trên thế giới. Trong quá trình phát triển công nghiệp, ô nhiễm kéo dài cho đến giữa
thế kỷ 20 và hàng loạt những ô nhiễm mới song song với ô nhiễm công nghiệp là ô nhiễm
hoá học, hoá chất tổng hợp, nhất là trước và sau chiến tranh thế giới lần thứ 2. Những tiến
bộ của kỹ thuật, lĩnh vực hoá học, đặc biệt là ngành công nghiệp hoá chất đã tạo ra các hoá
chất tổng hợp như cao su tổng hợp, nhựa, các dung môi, thuốc trừ sâu v.v... đã tạo ra rất
4
nhiều chất khó phân huỷ và tồn dư lâu dài trong môi trường như DDT, 666, Dioxin v.v...
gây ra ô nhiễm môi trường nặng nề, dẫn tới sự phản đối kịch liệt của cộng đồng nhiều nước
trên thế giới trong suốt thời kỳ những năm 60 và 70 của thế kỷ 20.
Làn sóng lần thứ 2 về các vấn đề môi trường xẩy ra vào những năm giữa của thế
kỷ 20 với hai phong trào lớn là môi trường và sinh thái. Phong trào môi trường là việc
bảo tồn tài nguyên thiên nhiên, nhất là những tài nguyên không tái tạo. Kết quả là động
vật trên đất liền ở nhiều vùng thiên nhiên hoang dã, các vùng đất, biển quý hiếm khác,
cảnh quan thiên nhiên được bảo tồn và tôn tạo. Về phong trào sinh thái tập trung vào các
chất có thể gây độc cho con người hoặc có khả năng gây huỷ hoại môi trường. Kết quả
của những phong trào này cùng với Hội nghị của Liên hợp quốc về môi trường và con
người đã được tổ chức vào năm 1972 đã thuyết phục được nhiều chính phủ các nước
thông qua luật lệ nhằm hạn chế ô nhiễm công nghiệp và phát thải rác, phòng chống ô
nhiễm hoá học, đảm bảo chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm, thuốc, v.v...
Làn sóng lần thứ 3 về các vấn đề sức khoẻ môi trường là từ những năm 80, 90 đến nay,
ngoài những vấn đề ô nhiễm công nghiệp, hoá chất còn có các vấn đề về dioxit cac bon,
clorofluorocacbon gây thủng tầng ozon, vấn đề cân bằng môi trường, phát triển bền
vững, môi trường toàn cầu thay đổi, khí hậu toàn cầu nóng lên, v.v... sẽ còn phải giải quyết
trong nhiều thập kỷ tới.
HỘP 1.1. CÁC VÍ DỤ VỀ NHỮNG SỰ KIỆN SỨC KHOẺ MÔI TRƯỜNG
QUAN TRỌNG
- 1798 - Thomas Malthus xây dựng lý thuyết về phân bố tài nguyên và dân số
- 1848 - Quốc hội Anh thông qua Luật Y tế Công cộng
- 1895 - Svante Arrhenius mô tả hiện tượng hiệu ứng nhà kính
- 1899 - Hiệp định quốc tế đầu tiên về cấm vũ khí hoá học
- 1956 - Anh thông qua Luật Không khí Sạch
- 1962 - Việc xuất bản cuốn sách Mùa xuân Lặng lẽ (Silent Spring) của Rachel
Carson đã thu hút được sự chú ý tới vấn đề thuốc trừ sâu và môi trường
- 1969 - Hiệp định quốc tế đầu tiên về hợp tác trong trường hợp ô nhiễm biển
(Vùng Biển phía Bắc)
- 1972 - Hội nghị của Liên Hiệp Quốc về Môi trường và Con người, Stockholm;
DDT đã bị cấm sử dụng ở Mỹ
- 1982 - Hội nghị đa phương về sự a xít hoá môi trường đã khởi đầu quá trình dẫn
tới chính thức thừa nhận vấn đề ô nhiễm xuyên biên giới và nhu cầu về sự kiểm
soát quốc tế
- 1986 - Hội nghị quốc tế đầu tiên về nâng cao sức khoẻ (health promotion) thông
5
qua Hiến chương Ottawa, trong đó định nghĩa nâng cao sức khoẻ là tạo điều
kiện cho con người kiểm soát những yếu tố quyết định tới sức khoẻ của họ.
- 1987 - Báo cáo của Uỷ ban Brundtland "Tương lai chung của chúng ta" (Our
Common Future) đã kêu gọi hướng tới "phát triển bền vững"; Nghị định thư
Montreal về hạn chế phát thải clorofluorocacbon (CFC) vào không khí để giảm
tốc độ suy giảm tầng ozon ở tâng bình lưu
- 1992 - Hội nghị thượng đỉnh trái đất (Hội nghị của Liên Hiệp Quốc về Môi
trường và Phát triển), Rio de Janeiro
- 1994 - Hội nghị quốc tế về Dân số và Phát triển, Cairo
- 1995 - Hội nghị Thượng đỉnh của Liên Hiệp Quốc về Phát triển Xã hội,
Copenhagen
- 1996 - Hội nghị của Liện Hiệp Quốc về vấn đề định cư (HABITAT II), Istanbul
- 1997 - Hiệp định khung của Liên Hiệp Quốc về Thay đổi Khí hậu, Kyoto
Nguồn: Yassi và cộng sự, 2001
3. NỘI DUNG KHOA HỌC MÔN SỨC KHOẺ MÔI TRƯỜNG
Tất cả các khía cạnh của sức khoẻ môi trường là xác định, giám sát, kiểm
soát các yếu tố vật lý, hoá học, sinh học và xã hội có ảnh hưởng đến sức khoẻ con
người.
Thực hành sức khoẻ môi trường bao gồm đánh giá, kiểm soát và phòng ngừa các yếu tố
trong môi trường ảnh hưởng tiêu cực đến sức khoẻ con người, đồng thời phát huy các yếu
tố môi trường có lợi cho sức khoẻ. Việc này bao gồm tất cả các biện pháp cần thiết để đối
mặt với các vấn đề như suy thoái môi trường, thay đổi khí hậu, các nguy cơ môi trường như
ô nhiễm đất, nước, không khí, ô nhiễm thực phẩm, tiếp xúc với hoá chất và vấn đề rác thải
hiện nay. Thực hành sức khoẻ môi trường còn tạo điều kiện, cơ hội để nâng cao sức khoẻ
bằng cách lập kế hoạch nâng cao sức khoẻ và tiến tới xây dựng một môi trường có lợi cho
sức khoẻ. Các hoạt động sức khoẻ môi trường được thực hiện ở tất cả các cấp, bao gồm:
(cid:0) Xây dựng, phát triển các chiến lược và tiêu chuẩn, gồm:
- An toàn dân số
- Tư vấn cộng đồng, bảo vệ sức khoẻ trong các trường hợp khẩn cấp
- Theo dõi, quan trắc và xây dựng các tiêu chuẩn như tiêu chuẩn về nhà ở v.v...
- Nâng cao phát triển sức khoẻ
(cid:0) Phát triển và đưa ra các khuyến cáo về sức khoẻ môi trường:
- Cung cấp thông tin cho cộng đồng về sức khoẻ môi trường
- Nghiên cứu sức khoẻ môi trường
6
- Giáo dục sức khoẻ môi trường
Cần phải có kế hoạch xây dựng luật sức khoẻ môi trường (cid:0)
(cid:0) Quản lý môi trường vật lý:
- An toàn nước, nhất là an toàn nước ở khu giải trí - An toàn thực phẩm
- Quản lý chất thải rắn
- An toàn và sức khoẻ nghề nghiệp
- Phòng chống chấn thương
- Kiểm soát tiếng ồn
- Sức khoẻ và chất phóng xạ
(cid:0) Quản lý nguy cơ sinh học
Kiểm soát côn trùng và các động vật có hại
- Quản lý bệnh truyền nhiễm qua vật chủ trung gian truyền bệnh
- Kiểm soát vi sinh vật
(cid:0) Quản lý nguy cơ hoá học:
- Xây dựng các tiêu chuẩn an toàn hoá học cho không khí, đất, nước sinh hoạt,
nước thải và thực phẩm
- Sử dụng thuốc bảo vệ thực vật an toàn
- Đánh giá và quản lý các nguy cơ sức khoẻ ở các vùng bị ô nhiễm ví dụ như
dioxin, v.v...
- Kiểm soát thuốc, chất độc, các sản phẩm y dược khác - Chất độc học
- Kiểm soát thuốc lá
Bên cạnh đó còn nhiều các yếu tố khác cần phải kiểm soát như cung cấp đủ thức ăn dinh
dưỡng, cung cấp nước sạch, điều kiện vệ sinh và xử lý rác thải nhất là ở nông thôn hiện
nay; cung cấp nhà ở và bảo đảm mật độ dân số v.v...
Ngoài ra, còn một số các yếu tố khác nhất là khả năng tiềm tàng của các
nguy cơ môi trường và suy thoái môi trường tác động lên sức khoẻ do các đặc điểm
sau:
(cid:0) Thường xẩy ra sau một thời gian dài tiếp xúc
(cid:0) Các bệnh liên quan đến môi trường thường do hoặc liên quan đến nhiều nguyên
nhân khác nhau, ví dụ như viêm phế quản mãn tính có thể là do môi trường bị ô
nhiễm, do vi khuẩn, thể lực v.v.
Thực hành sức khoẻ môi trường sử dụng kiến thức và kỹ năng của nhiều lĩnh vực khác nhau
để tập trung giải quyết các vấn đề sức khoẻ tiềm tàng.
“Loài người là trung tâm của phát triển bền vững. Họ có quyền sống một cuộc sống khoẻ
7
mạnh và hoà hợp với tự nhiên”.
(Tuyên bố Rio de Janero về Môi trường và Phát triển)
4. QUAN HỆ GIỮA SỨC KHOẺ VÀ MÔI TRƯỜNG
Khi con người đầu tiên xuất hiện trên trái đất, tuổi thọ trung bình của họ chỉ
khoảng từ 30 đến 40 tuổi. Do sống trong môi trường khắc nghiệt, tuổi thọ của họ thấp
hơn nhiều so với tuổi thọ của con người trong xã hội hiện nay. Tuy vậy, 30 - 40 năm cũng đủ
để cho họ có thể sinh con đẻ cái, tự thiết lập cho mình cuộc sống với tư cách là một loài có
khả năng cao nhất trong việc làm thay đổi môi trường theo hướng tốt lên hay xấu đi.
Để có thể sống sót, những người tiền sử phải đối mặt với những vấn đề sau đây:
(cid:0) Luôn phải tìm kiếm nguồn thức ăn và nước uống trong khi tránh ăn phải những thực
vật có chứa chất độc tự nhiên (ví dụ nấm độc) hoặc các loại thịt đã bị ôi
thiu, nhiễm độc.
(cid:0) Bệnh nhiễm trùng và các ký sinh trùng được truyền từ người này sang người
khác hoặc từ động vật sang con người thông qua thực phẩm, nước uống hoặc các
côn trùng truyền bệnh
(cid:0) Chấn thương do ngã, hoả hoạn hoặc động vật tấn công
(cid:0) Nhiệt độ quá nóng hoặc quá lạnh, mưa, tuyết, thảm hoạ thiên nhiên (như bão lụt,
hạn hán, cháy rừng v.v.) và những điều kiện khắc nghiệt khác.
Những mối nguy hiểm đối với sức khoẻ con người luôn luôn xảy ra trong môi
trường tự nhiên. Trong một số xã hội, những “mối nguy hiểm truyền thống” trên đây vẫn
là những vấn đề sức khoẻ môi trường được quan tâm nhiều. Tuy nhiên, khi con người đã
kiểm soát được những mối nguy hiểm này ở một số vùng, thì những “mối nguy hiểm
hiện đại” do sự phát triển kỹ thuật, công nghiệp tạo ra cũng đã trở thành những mối đe doạ
đầu tiên đối với sức khoẻ và sự sống của con người. Một số ví dụ về các mối nguy hiểm môi
trường hiện đại là:
Môi trường đất, nước ở nông thôn bị ô nhiễm nghiêm trọng do sử dụng hóa chất
bảo vệ thực vật không đúng chủng loại, liều lượng và không đúng cách.
Các sự cố rò rỉ các lò phản ứng hạt nhân/ nhà máy điện nguyên tử, …
Sự thay đổi khí hậu toàn cầu, hiệu ứng nhà kính, v.v...
Trong một vài thập kỷ vừa qua, tuổi thọ của con người đã tăng lên đáng kể ở hầu hết
các quốc gia. Các nhà điều tra cho rằng có 3 lý do cơ bản dẫn tới việc tăng tuổi thọ
của con người:
Những tiến bộ trong môi trường sống của con người
Những cải thiện về vấn đề dinh dưỡng
Những tiến bộ trong chẩn đoán và điều trị y học đối với các loại bệnh tật
8
Những tiến bộ trong y tế luôn đi cùng với với những cải thiện về chất lượng môi
trường, dinh dưỡng và chăm sóc y tế. Ngày nay, những người ốm yếu có cơ hội sống sót cao
hơn nhiều do hệ thống chăm sóc y tế được cải thiện. Rất nhiều người luôn sống khoẻ mạnh,
do có nguồn dinh dưỡng tốt và kiểm soát tốt các mối nguy hiểm về sức khoẻ môi trường.
Khoa học môi trường là một môn học rất cần thiết và quan trọng dựa trên hai lý do
căn bản sau đây:
Nghiên cứu những mối nguy hiểm trong môi trường và những ảnh hưởng của
chúng lên sức khoẻ
Ứng dụng những phương pháp hiệu quả để bảo vệ con người khỏi những mối
nguy hại từ môi trường.
Muốn vậy chúng ta hãy xem xét thế nào là sức khoẻ và thế nào là môi trường?
Trước hết chúng ta hãy điểm qua vài nét về hệ sinh thái:
Ra đời từ những năm 1930, thuật ngữ “hệ sinh thái” có thể được định nghĩa như là
một hệ thống gồm những mối quan hệ tương tác qua lại giữa các sinh vật sống và môi
trường tự nhiên của chúng. Đó là một thực thể đóng đã đạt được các cơ chế tự ổn định và nội
cân bằng đã tiến hoá qua hàng thế kỷ. Trong Luật Bảo vệ Môi trường Việt Nam (2005), hệ
sinh thái được định nghĩa là “hệ quần thể sinh vật trong một khu vực địa lý tự nhiên nhất
định cùng tồn tại và phát triển, có tác động qua lại với nhau”.
Trong một hệ sinh thái ổn định, một loài này không loại trừ một loài khác, nếu
không thì nguồn cung cấp thức ăn cho những loài ăn thịt sẽ không tồn tại. Các hệ sinh thái
ổn định và cân bằng sẽ có tuổi thọ cao nhất. Một hệ sinh thái sẽ không thể duy trì được một
số lượng lớn vật chất và năng lượng được tiêu thụ bởi một loài mà lại không loại trừ một
loài khác, và thậm chí còn gây nguy hiểm cho khả năng tồn tại của toàn bộ hệ sinh thái.
Tương tự như vậy, khả năng của một hệ sinh thái trong việc chứa đựng chất thải và tái
tạo đất, nước ngọt không phải là vô hạn. Tại một thời điểm nào đó, những tác động từ bên
ngoài sẽ phá vỡ cân bằng của hệ sinh thái, dẫn đến sự thay đổi nhanh chóng hoặc làm huỷ
diệt hệ sinh thái đó.
Định nghĩa sức khoẻ và môi trường
Theo định nghĩa của Tổ chức Y tế Thế giới (1946) thì sức khoẻ là “trạng thái thoải
mái về cả tinh thần, thể chất và xã hội chứ không chỉ đơn thuần là vô bệnh, tật”. Khái
niệm bệnh, tàn tật và tử vong dường như được các nhân viên y tế đề cập tới nhiều hơn so
với khái niệm lý tưởng này về sức khoẻ. Do vậy “khoa học sức khoẻ” hầu như đã trở
thành “khoa học bệnh tật”, vì nó tập trung chủ yếu vào việc điều trị các loại bệnh và chấn
thương chứ không phải là nâng cao sức khoẻ.
Tương tự như vậy, nhiều định nghĩa về môi trường trong bối cảnh sức khoẻ đã
được đề cập. Theo một định nghĩa được đưa ra năm 1995, môi trường là “tất cả những gì ở
9
bên ngoài cơ thể con người. Nó có thể được phân chia thành môi trường vật lý, sinh học, xã
hội, văn hoá... Bất kì môi trường nào hay tất cả các môi trường trên đều có thể ảnh hưởng
tới tình trạng sức khoẻ của quần thể” (Theo Annalee, 2001).
Định nghĩa này được dựa trên quan điểm là sức khoẻ của con người chủ yếu được
xác định do yếu tố di truyền và môi trường. Yếu tố di truyền (gen) do cha mẹ truyền lại,
bao gồm ADN trong mỗi tế bào cơ thể. Các gen này tồn tại khi phôi được hình thành và
không có sự thay đổi nào về di truyền trong suốt quá trình phát triển của con người. Nếu
như có sự thay đổi gen (như trong trường hợp đột biến), nó có thể dẫn tới sự mất chức
năng, chết tế bào và ung thư (ở một số trường hợp đột biến cụ thể). Cơ sở vật chất di truyền
của một cá thể là một trong những yếu tố chính xác định việc cá thể đó bị ảnh hưởng như
thế nào bởi các yếu tố môi trường.
Một số cá thể sẽ bị ảnh hưởng khi tiếp xúc với các chất độc hại, các nguy hiểm môi
trường với hàm lượng lớn. Một số cá thể khác lại bị ảnh hưởng ở mức độ thấp hơn, bởi vì họ
có các yếu tố nguy cơ/ điều kiện kép hoặc nguy cơ/ điều kiện đã có từ trước. Một số
người bị ảnh hưởng ở một mức độ rất thấp do tính nhạy cảm di truyền. Điều đó minh
chứng cho những ảnh hưởng của môi trường đối với sức khoẻ. Tuy nhiên, đã một thời
chính con người đã làm huỷ hoại và suy thoái môi trường. Vì suy thoái môi trường nên có
ảnh hưởng tới sức khoẻ cộng đồng như ung thư da tăng lên ở Ôxtrâylia khi tầng ozon
bị suy giảm.
Con người đã phá rừng trong quá trình phát triển của mình và hậu quả là con người
phải chịu những hậu quả của lũ quét, của thay đổi khí hậu toàn cầu, của ô nhiễm các chất
thải công nghiệp. Khi con người huỷ hoại môi trường thì theo qui luật nhân quả học, con
người cũng phải chịu những mối đe doạ từ môi trường, đó là những mối nguy hiểm hiện
đại và truyền thống.
Khái niệm về sức khoẻ môi trường
Hiện nay trên thế giới, vẫn còn nhiều tranh cãi về các định nghĩa như môi trường
là gì? Sức khỏe môi trường là gì. Đặc biệt việc phân biệt sự khác nhau giữa hai phạm trù
môi trường và sức khỏe môi trường là rất khó khăn. Sức khỏe môi trường là một thuật
ngữ không dễ định nghĩa. Nếu chúng ta cho đó là “Sức khỏe của môi trường” thì dường như
chúng ta không quan tâm tới một loài nào cụ thể, ví dụ loài người. Nhưng nếu một ai đó lại
muốn định nghĩa thuật ngữ này ám chỉ tới sức khỏe con người thì điều này lại còn quá
nhiều chỗ để tranh cãi. Hai định nghĩa dưới đây, định nghĩa đầu tiên quan tâm tới những
ảnh hưởng của môi trường lên sức khỏe trong khi định nghĩa thứ hai quan tâm tới những
dịch vụ sức khỏe môi trường.
Định nghĩa 1:
Sức khỏe môi trường bao gồm những khía cạnh về sức khỏe con người, bao gồm
10
cả chất lượng cuộc sống, được xác định bởi các yếu tố vật lý, hóa học, sinh học, xã hội và
các yếu tố tâm lý trong môi trường. (theo định nghĩa trong Chiến lược Sức khỏe Môi
trường Quốc gia của Ôxtrâylia - 1999). Định nghĩa này cũng ám chỉ tới cả lý thuyết và
thực tiễn của việc quyết định, kiểm soát và phòng ngừa đối với những yếu tố trên trong
môi trường, những yếu tố có thể có ảnh hưởng tiềm tàng bất lợi đối với sức khỏe của các thế
hệ hiện tại cũng như các thế hệ tương lai.
Định nghĩa 2:
Các dịch vụ sức khỏe môi trường là những dịch vụ nhằm cải thiện các chính sách
về sức khỏe môi trường qua các hoạt động giám sát, kiểm soát. Chúng cũng thực hiện vai
trò tăng cường sự cải thiện những giới hạn của môi trường và khuyến khích việc sử
dụng các công nghệ sạch và khuyến khích những thái độ cũng như những cách cư xử tốt
đối với môi trường và sức khỏe. Những dịch vụ này cũng có vai trò quan trọng trong việc
phát triển và đề xuất những chính sách mới về sức khoẻ môi trường.
5. TÁC ĐỘNG CỦA DÂN SỐ, ĐÔ THỊ HOÁ LÊN SỨC KHOẺ CỘNG ĐỒNG VÀ
MÔI TRƯỜNG
Những thách thức về dân số Việt Nam là rất nghiêm trọng đối với tất cả các
vấn đề môi trường và tài nguyên thiên nhiên. Tăng dân số vẫn ở mức cao 1,7%
(1999) và di dân nội bộ từ các khu vực nghèo tài nguyên và kinh tế kém phát triển
vẫn đang tăng lên và không kiểm soát được. Theo Tổng cục Thống kê, cho đến cuối
năm 2006, dân số nước ta đã là hơn 84 triệu người. Theo dự báo đến năm 2020, dân
số nước ta xấp xỉ 100 triệu người, trong khi đó các nguồn tài nguyên đất, nước và
các dạng tài nguyên khác có xu thế suy giảm, vấn đề nghèo đói ở các vùng sâu,
vùng xa chưa được giải quyết triệt để. Hiện tại, cũng theo số liệu của Tổng cục
Thống kê (2006), thu nhập bình quân đầu người năm 2004 là 484.400 đồng/ tháng,
trong đó, sự chênh lệch về thu nhập giữa nông thôn và thành thị là gần 440.000
đồng/ tháng. Tỉ lệ hộ nghèo trong cả nước năm 2004 là 19,5%; và có sự chênh lệch
lớn giữa thành thị và nông thôn (3,6% ở thành thị và 25,0% ở nông thôn). Quá trình
đô thị hoá và phát triển kinh tế bằng con đường công nghiệp hoá đòi hỏi nhu cầu về
năng lượng, nguyên liệu ngày càng to lớn, kéo theo chất lượng môi trường sống
ngày càng xấu đi nếu không có các biện pháp hữu hiệu ngay từ đầu. Mặt khác, quá
trình đô thị hoá và công nghiệp hoá ở nhiều khu vực, vùng lãnh thổ lại không được
quán triệt đầy đủ theo quan điểm phát triển bền vững, nghĩa là chưa tính toán đầy đủ
các yếu tố môi trường trong phát triển kinh tế xã hội. Theo dự kiến, tốc độ tăng
trưởng GDP phải đạt xấp xỉ 7%/năm và được duy trì liên tục đến năm 2010. Theo
tính toán của các chuyên gia nước ngoài, nếu GDP tăng gấp đôi thì nguy cơ chất
thải tăng gấp 3 - 5 lần. Và nếu như trình độ công nghệ sản xuất, cơ cấu sản xuất,
trình độ quản lý sản xuất, trình độ quản lý môi trường không được cải tiến thì sự
11
tăng trưởng sẽ kéo theo tăng khai thác, tiêu thụ tài nguyên và năng lượng. Điều này
dẫn đến khai thác cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, tạo ra sự gia tăng các loại chất
thải và ô nhiễm môi trường gây nên sức ép cho môi trường. Trong khi đó môi
trường đô thị, công nghiệp và nông thôn tiếp tục bị ô nhiễm. Đến năm 2006, dân đô
thị đã là 27,1% so với dân số cả nước - tăng 2,18% so với cùng kỳ năm 2005 (Tổng
cục Thống kê, 2006), dự kiến năm 2010 là 33% và 2020 là 45%.
Môi trường đô thị ở nước ta bị ô nhiễm bởi các chất thải rắn, nước thải chưa được thu
gom và xử lý theo đúng qui định. Khí thải, bụi, tiếng ồn v.v... từ các phương tiện giao
thông nội thị và mạng lưới sản xuất qui mô vừa và nhỏ cùng với cơ sở hạ tầng yếu kém
càng làm cho điều kiện vệ sinh môi trường ở nhiều đô thị đang thực sự lâm vào tình trạng
đáng báo động. Hệ thống cấp và thoát nước lạc hậu, xuống cấp không đáp ứng được nhu
cầu. Mức ô nhiễm không khí về bụi, các khí thải độc hại nhiều nơi vượt tiêu chuẩn cho
phép nhiều lần, nhất là tại các thành phố lớn như Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh vượt
tiêu chuẩn cho phép 2 - 3 lần:
VD: Hà Nội, thành phố trong... bụi
Hà Nội đang trong quá trình đô thị hoá. Những công trình hạ tầng cơ sở về cấp, thoát
nước, điện lực, thông tin liên lạc, đường sá, nhà hát, sân thi đấu thể thao, nhà ở... liên tục
được sửa chữa, nâng cấp, cải tạo và xây dựng mới. Có thể ví Hà Nội hiện nay như một
đại công trường, hàng ngày tạo ra một lượng lớn bụi bẩn.
- Quá tải:
Nồng độ bụi bẩn ở Hà Nội ngày một nhiều hơn. Trung bình ở các nơi công cộng
trong thành phố nồng độ bụi vượt quá chuẩn cho phép từ 2 đến 4 lần (theo tiêu chuẩn
của các nước phát triển ở châu Âu, châu Mỹ, nồng độ bụi ở các thành phố chỉ được phép
vượt quá tiêu chuẩn cho phép 1-2 lần). Hứng chịu nhiều nhất là các khu vực đang xây dựng,
cải tạo, sửa chữa: Mai Động, Thượng Đình, ngã tư Vọng, Cầu Diễn, Bắc Thăng Long,
Chèm, Văn Điển, Láng - Hoà Lạc, Trần Duy Hưng..., vượt quá chuẩn cho phép 5 lần.
Nồng độ các chất ô nhiễm khác đều vượt chuẩn nhiều lần, cực độc có Pb, SO2. Ô nhiễm
do bụi cao nhất là vào hôm trời hành, gió mạnh.
- Nguyên nhân gây ra bụi
Ngoài chuyện đổ rác bừa bãi của dân, thì phế thải rắn trong xây dựng (đất, đá,
sỏi...), vật liệu thi công được coi là tác nhân chính gây bụi bẩn. Từ trung tâm đến ngoại ô, từ
các trục giao thông chính đến ngõ ngách, đâu đâu cũng thấy xây dựng. Thành phố đã quy
định về bảo đảm vệ sinh, tránh bụi bẩn, các công trình xây dựng nhà ở phải được che chắn
kỹ, nhưng không ít chủ công trình đã lờ đi. Nhiều chủ phương tiện chở vật liệu, phế thải
không che đậy kín, chở quá tải trọng, phóng nhanh làm rơi vãi ra đường phố.
Các công trình thi công, kè sông, đường giao thông, cầu vượt, đường hầm dành cho
12
người đi bộ không hoàn thành đúng tiến độ, đã tạo nên một lượng bụi rất lớn: cụ thể là
đường hầm ngã tư Vọng, hành lang Tây Sơn dài 6,8 km...
Ngoài ra còn có bụi, khói từ các khu công nghiệp tập trung (cũ và mới), ô tô, xe
máy. Đa phần các cơ sở sử dụng công nghệ lạc hậu, dùng than đá mà không có thiết bị thu
gom xử lý bụi. Các nhà máy đan xen với dân cư, cơ sở hạ tầng không được xây dựng
đồng bộ nên cũng gây ô nhiễm nặng.
Môi trường nông thôn đang bị ô nhiễm do các điều kiện vệ sinh và cơ sở hạ tầng
yếu kém. Việc sử dụng không hợp lý các hoá chất nông nghiệp đã và đang làm cho môi
trường nông thôn ô nhiễm và suy thoái. Việc phát triển các làng nghề tiểu thủ công nghiệp
đã làm ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Nước sinh hoạt và vệ sinh là vấn đề cấp bách,
tỷ lệ hố xí hợp vệ sinh ở nông thôn thấp, chỉ đạt 18% theo TC 08/QĐ-BYT (Cục YTDP
Việt Nam, 2006). Cho đến năm 2005, toàn quốc có 62% dân số nông thôn được sử dụng
nước sạch (Cục BVMT, 2005).
Nạn khai thác rừng bừa bãi, thậm chí xảy ra ở cả các khu rừng cấm, rừng đặc
dụng; nạn đốt phá rừng đã gây ra những thảm hoạ cháy rừng nghiêm trọng như vụ
cháy rừng nước mặn U Minh năm 2001. Đồng thời, việc săn bắt động vật hoang dã
cũng đang làm suy giảm đa dạng sinh học và gây huỷ hoại môi trường. Những vấn
đề của môi trường xã hội ngày càng trở nên bức xúc như ma tuý, HIV/AIDS, bạo
lực, và gần đây là các vụ dịch như SARS, cúm gia cầm H5N1... Những vấn đề môi trường
toàn cầu như tầng ozon bị suy giảm, hiệu ứng nhà kính, khí hậu toàn cầu
nóng lên, thay đổi khí hậu, mực nước biển dâng cao, hiện tượng El-Nino, La-Nina gây nên
các hiện tượng hạn hán, lũ lụt xẩy ra ở nhiều nơi trên thế giới trong đó có
Việt Nam. Đồng thời, nạn chuyển dịch ô nhiễm sang các nước đang phát triển cũng
là một vấn đề cần chú trọng.
Từ những vấn đề trên thực tế đòi hỏi phải có một chính sách về môi trường, sức
khoẻ môi trường một cách đúng đắn, đồng bộ và hợp lý trong giai đoạn phát triển mới
của đất nước ta.
6. NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG CƠ BẢN CHO MÔI TRƯỜNG LÀNH MẠNH
6.1. Bầu không khí trong sạch
Không khí rất cần thiết cho sự sống, nếu thiếu không khí, con người sẽ chết
chỉ sau một vài phút. Ô nhiễm không khí là một trong những vấn đề môi trường
trầm trọng nhất trong các xã hội ở tất cả các cấp độ phát triển kinh tế khác nhau.
Hàng ngày, có khoảng 500 triệu người phải tiếp xúc với một hàm lượng lớn ô nhiễm
không khí trong nhà ở các dạng như: khói từ các lò sưởi không kín hoặc lò sưởi
được thiết kế tồi. Có khoảng 1,5 tỉ người ở các khu vực thành thị phải sống trong
môi trường bị ô nhiễm không khí nặng nề. Sự phát triển của ngành công nghiệp đi
13
đôi với việc thải ra số lượng lớn các khí và các chất hạt từ quá trình sản xuất công
nghiệp và từ quá trình đốt cháy các nhiên liệu hoá thạch cho nhu cầu giao thông vận
tải và lấy năng lượng. Khi các tiến bộ công nghệ đã bắt đầu chú trọng đến việc kiểm
soát ô nhiễm không khí bằng cách giảm việc thải ra các chất hạt thì người ta vẫn
tiếp tục thải ra các chất khí, do vậy ô nhiễm không khí vẫn còn là vấn đề lớn. Mặc
dù hiện nay nhiều nước phát triển đã có những nỗ lực lớn để kiểm soát cả việc thải
khí và các chất hạt, ô nhiễm không khí vẫn là nguy cơ đối với sức khoẻ của nhiều
người.
Ở những xã hội phát triển nhanh chóng, việc kiểm soát ô nhiễm không khí
không được đầu tư thích hợp vì còn những ưu tiên khác về kinh tế và xã hội. Việc
phát triển công nghiệp nhanh chóng ở những nước này đã xảy ra đồng thời với việc
gia tăng lượng ô tô và các loại xe tải khác, nhu cầu điện thắp sáng tại các hộ gia
đình cũng tăng lên, dân số tập trung ở các khu đô thị hoặc các thành phố lớn. Kết
quả là một số thảm hoạ ô nhiễm không khí tồi tệ nhất trong lịch sử thế giới đã xẩy
ra.
Ở các quốc gia nơi mà việc sử dụng các nguồn năng lượng sạch ở các hộ gia đình
vẫn chưa được chú trọng, ô nhiễm không khí đã trở thành một vấn đề trầm trọng vì năng
lượng dùng để sưởi ấm và đun nấu còn thiếu và sản sinh ra rất nhiều khói, dẫn đến ô nhiễm
trong nhà và ngoài trời. Kết quả là con người có thể bị kích thích màng nhày, mắc các bệnh
hô hấp, bệnh phổi, các vấn đề về mắt và tăng nguy cơ bị ung thư. Phụ nữ và trẻ em ở
những cộng đồng nghèo khổ tại các nước đang phát triển là những người đặc biệt phải tiếp
xúc nhiều với ô nhiễm không khí.
Chất lượng không khí trong nhà cũng là vấn đề nghiêm trọng ở nhiều nước phát triển vì
các toà nhà được thiết kế theo kiểu kín gió và có hiệu quả cao về mặt năng lượng. Hệ thống
lò sưởi và hệ thống làm lạnh, khói, hơi từ các vật liệu tích trữ trong nhà tạo ra nhiều chất hoá
học và gây ra ô nhiễm không khí.
6.2. Có đủ nước sạch cho ăn uống và sinh hoạt
Nước cũng rất cần thiết cho sự sống. Trung bình mỗi người cần phải uống tối
thiểu 2 lít nước/ ngày. Nếu sau 4 ngày không có nước, con người sẽ chết. Nước
cũng cần thiết cho thực vật, động vật, và nông nghiệp. Trong suốt lịch sử phát triển,
con người luôn tập trung sống dọc theo các bờ sông, ven hồ để lấy nước cho sinh
hoạt và nông nghiệp. Nước cũng cung cấp phương tiện vận chuyển tự nhiên, được
sử dụng để xử lý chất thải và đóng một vai trò quan trọng trong các ngành công
nghiệp, ngư nghiệp và các trang trại. Mặc dù nước ngọt được coi là một nguồn tài
nguyên có thể tái sử dụng, nhưng nước ngọt cũng không phải là một nguồn vô hạn.
Hơn nữa, nước được phân bố không đồng đều ở các khu vực địa lý và dân cư trên
thế giới. Tại rất nhiều nơi, việc thiếu nước đã trở thành trở ngại lớn đối với việc
14
phát triển công nghiệp và nông nghiệp. Trong một số trường hợp, việc thiếu nước
đã gây ra nhiều cuộc xung đột (ví dụ: những xung đột tranh chấp nước ngọt ở các
nước khu vực Trung Đông). Việc khan hiếm nước dẫn đến đói nghèo và làm cằn cỗi
đất đai. Rất nhiều thành phố và các khu vực nông thôn đã khai thác nước từ các tầng
nước ngầm với số lượng rất lớn, lớn hơn cả khả năng mà bản thân các tầng nước
ngầm này có thể tự bổ sung lại được.
Chất lượng của nước ngọt có tầm quan trọng rất lớn trong việc duy trì sức khoẻ
con người. Rất nhiều bệnh truyền nhiễm đe doạ sự sống và sức khoẻ con người được
truyền qua nước hoặc thực phẩm bị nhiễm bẩn. Khoảng 80% các bệnh tật ở các nước đang
phát triển là do thiếu nước sạch và thiếu các phương tiện phù hợp để xử lý phân (WHO,
1992). Có khoảng một nửa dân số trên thế giới mắc phải các bệnh do thiếu nước hoặc
nước bị nhiễm bẩn, gây ảnh hưởng chủ yếu đối với tầng lớp người nghèo ở tất cả các
nước đang phát triển. Có khoảng 2 tỉ người trên trái đất có nguy cơ mắc phải các bệnh ỉa
chảy lây lan qua đường nước hoặc thực phẩm, đây là nguyên nhân chính gây ra tử vong
khoảng gần 4 triệu trẻ em mỗi năm. Các vụ dịch tả, thường được truyền qua nước uống bị
nhiễm bẩn, đang tăng lên nhanh chóng về mặt tần suất. Bệnh sán máng (200 triệu người
nhiễm bệnh) và bệnh giun (10 triệu người bị nhiễm bệnh) là 2 dạng bệnh phổ biến trầm
trọng nhất có liên quan tới nước. Các vectơ côn trùng sinh sản nhờ nước cũng truyền các
bệnh đe doạ sự sống của con người, chẳng hạn như sốt rét (267 triệu người bị nhiễm), giun
chỉ (90 triệu người nhiễm), giun dưới da (18 triệu người nhiễm) và sốt xuất huyết (30 60
triệu người nhiễm) (WHO, 1992).
Việc thiếu nước thường dẫn đến các vấn đề có liên quan tới chất lượng nước. Nước
thải sinh hoạt, nước thải công nghiệp, nông nghiệp và các khu đô thị đã làm vượt quá khả
năng của các vực nước tự nhiên trong việc phân huỷ các chất thải có khả năng phân huỷ
sinh học và hoà tan các chất thải không có khả năng phân huỷ sinh học. Ô nhiễm nước
xảy ra trầm trọng nhất ở các thành phố nơi mà việc kiểm soát các dòng thải công nghiệp
không chặt chẽ và thiếu các ống, rãnh dẫn nước thải, thiếu các nhà máy xử lý nước thải.
6.3. Đủ thực phẩm và thực phẩm an toàn
Thực phẩm cung cấp năng lượng cho cơ thể con người. Tuỳ vào trọng lượng cơ thể
và các hoạt động về thể lực mà cơ thể con người cần khoảng 1000-2000 calo năng lượng
mỗi ngày. Nếu như không có thực phẩm, con người sẽ chết sau 4 tuần. Thực phẩm cũng
cung cấp các vitamin và các chất vi lượng, nếu không có các chất này, con người cũng sẽ
mắc một số bệnh thiếu hụt.
Trong vài thập kỉ vừa qua, hệ thống sản xuất lương thực của thế giới đã đáp ứng đủ
so với nhu cầu tăng trưởng dân số (Hình 1.3). Tuy nhiên, những thành công trong nông
nghiệp toàn cầu cũng không được phân bố đồng đều. Các nước Châu Á và Châu Mỹ La
Tinh đã tăng sản lượng lương thực trên đầu người một cách đáng kể, nhưng sản lượng
15
lương thực của các nước châu Phi vẫn chưa theo kịp được mức tăng trưởng dân số của họ,
và các nước thuộc Liên Xô cũ cũng đã giảm sút sản lượng lương thực một cách đáng kể.
Đối với phần lớn dân số trên thế giới, suy dinh dưỡng và các bệnh liên quan tới suy
dinh dưỡng vẫn còn là một nguyên nhân chính gây ra tình trạng ốm yếu và chết yểu. Các
tác nhân gây bệnh qua thực phẩm gây ra hàng triệu ca ỉa chảy mỗi năm, bao gồm cả hàng
nghìn người ở những nước phát triển. Việc phân bố và sử dụng thức ăn không hợp lý là
thủ phạm chính gây ra các ca bệnh này. Việc suy thoái đất và cạn kiệt các nguồn nước một
cách nhanh chóng cũng tạo ra mối đe doạ nguy hiểm đối với việc sản xuất lương thực trong
tương lai.
8. KHÁI NIỆM MÔI TRƯỜNG HỖ TRỢ SỨC KHOẺ
Trong khái niệm môi trường hỗ trợ sức khoẻ, người ta bàn tới các yếu tố quyết định
sức khoẻ của toàn bộ quần thể, bao gồm các yếu tố sau:
(cid:0) Vai trò của các yếu tố môi trường địa phương trong sự phát triển lành mạnh của
một cộng đồng
(cid:0) Một cách tiếp cận tạo điều kiện nâng cao sức khoẻ cũng như bảo vệ khỏi tiếp xúc
với các yếu tố nguy cơ môi trường
(cid:0) Xây dựng công bằng trong y tế đối với một cộng đồng
(cid:0) Tầm quan trọng của phát triển bền vững như là một vấn đề sức khoẻ
(cid:0) Tầm hiểu biết của con người về môi trường trên một diện rộng
(cid:0) Nhận thức của con người về sự quan tâm và tham gia của cá nhân nhằm duy trì
hoặc tạo ra một môi trường lành mạnh
Nguồn: Haglund và cộng sự, 1992.
8. TỔNG QUAN VỀ CHÍNH SÁCH VÀ QUẢN LÝ SỨC KHOẺ MÔI TRƯỜNG
8.1. Tình hình thực hiện Chính sách và quản lý môi trường
Về chính sách bảo vệ môi trường. Vào những năm 80, lần đầu tiên các nhà khoa
học đã đưa ra dự thảo chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia. Tháng 12/1992, Hội nghị
Quốc tế về Môi trường và Phát triển Bền vững đã thông qua kế hoạch 10 năm về môi
trường, đây được coi như một chiến lược quốc gia về môi trường cho giai đoạn 1991 - 2000.
Trên cơ sở đó, nhiều chính sách, văn bản pháp luật, hàng loạt các hoạt động về quản lý môi
trường đã được ban hành như Luật Bảo vệ Môi trường (1993, sửa đổi bổ sung năm 2005),
Nghị định 175/CP về "Hướng dẫn thi hành luật bảo vệ môi trường", Nghị định 26/CP về
"Xử phạt hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường". Đặc biệt năm 1998, Bộ chính trị
Ban chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị 36/CT-TW về "Tăng cường công tác
bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước". Hệ thống quản lý
nhà nước về bảo vệ môi trường từ trung ương đến địa phương đã được hình thành và đi
16
vào hoạt động nề nếp. Những điều này đã góp phần không nhỏ ngăn chặn ô nhiễm, suy
thoái và sự cố môi trường, góp phần cải thiện đáng kể chất lượng môi trường ở nước ta.
Về chính sách quản lý sức khoẻ môi trường, trong thời gian qua, ngành y tế đã có
một số những chính sách, chiến lược riêng lẻ cho những hoạt động về sức khoẻ môi
trường như quản lý chất lượng vệ sinh và an toàn thực phẩm (Cục Quản lý
Chất lượng Vệ sinh An toàn Thực phẩm, Viện Dinh dưỡng,...), những chính sách về
vệ sinh học đường, xây dựng các chỉ số đánh giá chất lượng nước sinh hoạt, xây
dựng tiêu chuẩn về vệ sinh lao động và xác định những bệnh nghề nghiệp v.v... Một
vấn đề cơ bản là ngành y tế đã có một hệ thống hoàn chỉnh, hoạt động có hiệu quả
từ trung ương đến địa phương, đó là hệ thống y học dự phòng, các hoạt động về sức
khoẻ môi trường đều thông qua hệ thống này. Đây là điều kiện thuận lợi cho việc
thực thi các chính sách và chiến lược về sức khoẻ môi trường.
Tuy nhiên, cho đến nay chúng ta chưa có một hội nghị nào có tầm cỡ quốc gia bàn
về chiến lược, các chính sách riêng, cụ thể cho sức khoẻ môi trường bởi lẽ chúng ta cũng
chưa ra được một định nghĩa rõ ràng hay một khái niệm cụ thể về sức khoẻ môi trường ở
Việt Nam. Đây là một vấn đề trong thời gian tới các cấp, các cơ sở y tế trong toàn quốc
cần phải quan tâm và tiến hành. Cơ quan giữ vai trò quan trọng trong việc này là Cục Y
tế Dự phòng - Bộ Y tế trong việc phối hợp với ngành môi trường cần đề nghị
Chính phủ để có một Hội nghị quốc gia bàn về chính sách và chiến lược quốc gia về
sức khoẻ môi trường. Trong năm 2006, diễn đàn quốc gia về sức khoẻ môi trường
đã được tổ chức tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh với sự phối hợp của Cục Bảo
vệ Môi trường (Bộ Tài nguyên Môi trường) và Cục Y tế dự phòng (Bộ Y tế). Bản
thảo chiến lược quốc gia về sức khoẻ môi trường cũng đã được đưa ra bàn luận tại
diễn đàn để tiến hành thu thập ý kiến xây dựng.
8.2. Thực trạng và chiến lược về sức khoẻ môi trường
Tuy Việt Nam đã đạt nhiều kết quả về bảo vệ môi trường, tránh hiệu quả xấu tác
động lên sức khoẻ con người, nhưng còn nhiều vấn đề bất cập trong quản lý môi trường,
sức khoẻ môi trường như qui hoạch môi trường chưa lồng ghép với phát triển kinh tế -
xã hội, giáo dục-đào tạo, nâng cao nhận thức môi trường, qui hoạch phát triển đô thị, qui
hoạch quản lý tổng thể rừng, vùng ven biển, bảo tồn đa dạng sinh học, v.v... . Hệ thống tổ
chức quản lý, cơ chế và chính sách còn nhiều hạn chế. Kinh phí ít, đầu tư dàn trải nên kết
quả nhiều khi không thấy rõ ràng, làm cộng đồng dân cư thay đổi nhận thức còn quá chậm,
làm cho môi trường và sức khoẻ môi trường hiện tại còn nhiều điều cần bàn.
8.2.1. Thực trạng
(cid:0) Môi trường tiếp tục xuống cấp
- Rừng tiếp tục bị suy thoái
17
- Đa dạng sinh học trên đất liền và dưới biển tiếp tục bị suy giảm
- Chất lượng các nguồn nước tiếp tục xuống cấp
- Môi trường đô thị và công nghiệp tiếp tục bị ô nhiễm
- Chất lượng môi trường nông thôn có xu hướng xuống cấp nhanh
- Môi trường lao động ngày càng bị nhiễm độc -Sự cố môi trường gia tăng mạnh
- Môi trường xã hội: phân hoá giầu nghèo ngày càng tăng, tệ nạn xã hội, v.v...
(cid:0) Tác động của môi trường toàn cầu
- Vấn đề môi trường của lưu vực sông Mê Kông và sông Hồng - Vấn đề môi trường của
các rừng chung biên giới
- Vấn đề mưa a-xít
- Vấn đề ô nhiễm tầng khí quyển, hiệu ứng nhà kính và suy giảm tầng ozon,
hậu quả của vấn đề này gây ra:
+ Sự thay đổi khí hậu của trái đất đẫn đến sự mất cân bằng của hệ sinh thái + Mực
nước biển dâng cao do nhiệt độ trái đất tăng
+ Hiện tượng El-nino và La-nina làm gia tăng mưa bão và hạn hán nghiêm trọng
+ Vấn đề ô nhiễm biển và đại dương
- Vấn đề chuyển dịch ô nhiễm
(cid:0) Thách thức của môi trường nước ta trong thời gian tới
- Xu thế suy giảm chất lượng môi trường tiếp tục gia tăng
- Tác động của các vấn đề môi trường toàn cầu ngày càng mạnh và phức tạp
hơn
- Gia tăng dân số và di dân tự do tiếp tục gây áp lực lên môi trường
- Tăng trưởng nhanh về kinh tế cùng với việc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước đã và đang tác động mạnh lên môi trường
- Hội nhập quốc tế, du lịch và tự do hoá thương mại toàn cầu sẽ gây ra nhiều
tác động phức tạp về mặt môi trường
- Nhận thức về môi trường và phát triển bền vững còn thấp kém
- Năng lực quản lý môi trường và sức khoẻ môi trường chưa đáp ứng yêu cầu
- Mẫu hình tiêu thụ lãng phí hay khát tiêu dùng.
8.2.2. Chiến lược
(cid:0) Phòng ngừa ô nhiễm
(cid:0) Bảo tồn và sử dụng bền vững nguồn tài nguyên thiên nhiên, đa dạng sinh học
(cid:0) Cải thiện môi trường tự nhiên và xã hội.
18
8.2.3. Giải pháp
(cid:0) Tăng cường giáo dục và nâng cao nhận thức về môi trường và sức khoẻ môi trường
(cid:0) Tăng cường vai trò sự tham gia của cộng đồng, doanh nghiệp, tư nhân trong bảo
vệ môi trường
(cid:0) Tăng cường và đa dạng hoá đầu tư bảo vệ môi trường
(cid:0) Tăng cường năng lực quản lý nhà nước về môi trường và sức khoẻ môi trường
(cid:0) Mở rộng hợp tác quốc tế và thu hút tài trợ nước ngoài
(cid:0) Kết hợp chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia với chiến lược phát triển kinh tế
- xã hội
(cid:0) Cần có một chiến lược quốc gia về sức khoẻ môi trường
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia 2001-2010. Định hướng kế hoạch hành
động ưu tiên về bảo vệ môi trường giai đoạn 2001-2005 (Kế hoạch hành động
môi trường 2001-2005), Hà Nội, 2001.
2. UNEP, 2001. Báo cáo hiện trạng môi trường Việt Nam, 2001.
3. Annalee, Y. et al. Basic Environmental Heatlh, Oxford University Press, 2001.
4. Monroe T. Morgan. Environmental Health, 2nd Edition, Morton Publishing
Company, 1997.
5. The National Environmental Health Strategy, Publications Production Unit,
Commonwealth Department of Health and Aged Care, Commonwealth of
Australia, 1999.
19
BÀI 2. CƠ SỞ SINH THÁI HỌC CỦA SỨC KHOẺ VÀ BỆNH TẬT
MỤC TIÊU BÀI HỌC
Sau khi học xong bài này, sinh viên có khả năng:
1. Mô tả được mối quan hệ giữa các hoạt động của con người và mất cân bằng sinh
thái
2. Trình bày được những tác động của thay đổi hệ sinh thái lên sức khoẻ con người
3. Giải thích được mối quan hệ giữa sức khoẻ con người và môi trường xung quanh
4. Trình bày được một số bệnh truyền nhiễm và không truyền nhiễm liên quan đến
môi trường
1. CON NGƯỜI VÀ HỆ SINH THÁI
1.1. Thế nào là một hệ sinh thái
Theo luật Bảo vệ môi trường Việt Nam 2005, hệ sinh thái là hệ quần thể sinh vật
trong một khu vực địa lý tự nhiên nhất định cùng tồn tại và phát triển, có tác động qua lại
với nhau. Hệ sinh thái bao gồm cả thành phần lý học và hoá học như đất, nước và các chất
dinh dưỡng cung cấp cho các sinh vật sống trong nó. Những sinh vật này có thể là những
động vật, thực vật bậc cao, với cấu trúc cơ thể phức tạp nhưng cũng có thể là các vi sinh vật
nhỏ bé. Hệ sinh thái bao gồm những mối tác động qua lại giữa các sinh vật sống trong một
sinh cảnh nhất định và con người là một phần của hệ sinh thái. Sức khoẻ và sự phồn thịnh
của xã hội loài người phụ thuộc vào những lợi ích mà hệ sinh thái mang lại.
Con người đã được hưởng rất nhiều sản phẩm của các hệ sinh thái tự nhiên như thức
ăn, động - thực vật làm cảnh, gỗ để xây dựng và làm nhiên liệu, cùng vô vàn các loài động
vật, thực vật rất có giá trị trong công tác phòng và chữa bệnh. Những sản phẩm này chiếm
một phần quan trọng trong nền kinh tế của các quốc gia. Tuy nhiên, gần đây người ta mới
nhận thấy rằng các hệ sinh thái tự nhiên còn đóng nhiều vai trò hết sức quan trọng khác cho
sự tồn tại và phát triển của con người. Một số trong những vai trò này là khả năng làm sạch
không khí và nước, giải độc và phân giải các loại rác thải, điều hoà khí hậu, tăng sự màu
mỡ cho đất, kiểm soát hầu hết các động thực vật có hại cho nông nghiệp, tạo ra và
duy trì đa dạng sinh học cung cấp giống cho nông nghiệp, nguyên vật liệu cho công
nghiệp, dược liệu v.v. Những lợi ích này tương đương hàng nghìn tỉ đô la mỗi năm, tuy
nhiên hầu như không được quy ra tiền để có thể thức tỉnh nhận thức con người nhằm thay đổi các hành vi làm tổn hại tới hệ sinh thái.
1.2. Môi trường và sức khoẻ con người
Tần suất mắc các bệnh do các yếu tố môi trường gây ra phụ thuộc rất nhiều vào
điều kiện địa lý và tình trạng kinh tế của từng quốc gia. Việc phơi nhiễm với các nguy cơ
20
từ môi trường có liên quan chặt chẽ tới tình trạng phát triển của mỗi quốc gia và tình trạng
kinh tế - xã hội của từng cá nhân và từng cộng đồng. Những người nghèo thường ít được
bảo vệ khỏi các nguy cơ môi trường hơn những người giàu, cho dù đó là những nguy cơ
từ các nhà máy, chất thải độc hại, môi trường trong và ngoài nhà, nước sinh hoạt bị ô
nhiễm v.v…
Trong khoảng 3 - 4 thập kỷ trở lại đây, ở những quốc gia có nền công nghiệp phát
triển, việc kiểm soát ô nhiễm, thay đổi công nghệ, các quy định và luật môi trường được
thực hiện chặt chẽ đã góp phần làm giảm đáng kể việc phơi nhiễm của con người với các
tác nhân độc hại. Mặc dù những nước này đã cố gắng cắt giảm những nguy cơ trực tiếp
ảnh hưởng tới sức khoẻ con người từ các tác nhân môi trường, nhưng toàn thế giới hiện
đang phải đối mặt với việc thiếu nước sạch do dân số thế giới ngày một tăng, nhu cầu sử
dụng nước cũng ngày một tăng. Việc sử dụng nguyên liệu hoá thạch và thải ra những chất
khí gây ảnh hưởng tới tầng ô zôn là nguyên nhân dẫn tới hiện tượng “hiệu ứng nhà kính” và
“phá huỷ tầng ô zôn”.
Con người luôn chịu những ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp từ các nguy cơ môi
trường. Các nhà khoa học đã chứng minh rằng ô nhiễm không khí làm tăng nguy cơ mắc
các bệnh về đường hô hấp, tăng nguy cơ tử vong do các bệnh tim mạch và các bệnh phổi
mạn tính. Cũng theo thống kê của Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP, 2003),
cứ 6 người thì có 1 người thường xuyên không có được nguồn nước uống an toàn, hơn 1/3
dân số thế giới (khoảng 2,4 tỉ người) không có các điều kiện vệ sinh đầy đủ, cứ mỗi 8 giây
lại có 1 trẻ em chết vì các bệnh có liên quan tới nước và 80% các bệnh tật, tử vong tại các
nước đang phát triển là có liên quan đến nước. Công nhân và cộng đồng dân cư ở tất cả các
quốc gia trên thế giới đều đang phải chịu những nguy cơ tiềm ẩn từ các sự cố công nghiệp.
Vụ nổ ở nhà máy điện nguyên tử Chernobyl (Liên Xô cũ, 1986) hay vụ nổ ở nhà máy hoá
chất Bhopal (Ấn độ, 1984) là những ví dụ điển hình, với hàng trăm đến hàng nghìn người tử
vong, hàng trăm nghìn người phải chịu ảnh hưởng (hộp 1).
Ví dụ: Thảm hoạ Bhopal, Ấn Độ, 1984.
Vụ thảm hoạ xảy ra vào khoảng 22h đêm 2/3/1984 tại trung tâm thành phố Bhopal
với khoảng 900.000 dân, bang Madhya Pradesh, Ấn Độ, và trở thành vụ thảm hoạ sự cố
công nghiệp lớn nhất trong lịch sử. Vào lúc 22h đêm 2/3/1984, khoảng 40.000 tấn methyl
isocyanate (MIC) - một loại chất trung gian được sử dụng trong quy trình sản xuất hoát chất
bảo vệ thực vật -rò rỉ từ 2 hầm lưu trữ từ một nhà máy Liên hợp sản xuất hoá chất bảo vệ
thực vật. Đây là một loại hoá chất nguy hiểm, có đặc tính nhẹ hơn nước một chút, nhưng lại
nặng hơn không khí gấp 2 lần, do vậy, khi thoát ra không khí, đám khí này sẽ tồn tại ở gần
mặt đất. Sự rò rỉ này kéo dài gần 2 tiếng, bắt đầu từ 22h ngày 2/3/1984. Do hiện tượng
nghịch đảo nhiệt, khí MIC sau khi rò rỉ không thoát lên cao được, và đám mây khí này bao
phủ một diện tích khoảng 8km2 quanh nhà máy. Đám mây khí độc hại này dày đặc đến nỗi
21
mọi người gần như không nhìn thấy gì. Đám khí này gây ho kích ứng, ngạt thở, cay xè -
bỏng mắt. Khí độc này làm bỏng các mô ở mắt và phổi nạn nhân, tấn công hệ thần kinh
trung ương, làm con người mất khả năng tự điều khiển (đái, ỉa không tự chủ trong quá trình
chạy trốn).
Vụ rò rỉ xảy ra vào ban đêm, lúc hầu hết mọi người đang ngủ nên số lượng nạn nhân
rất lớn, 2.000 người chết vào ngay sáng hôm sau thảm hoạ, và trong vòng 1 tháng sau sự cố,
có thêm 1.500 người chết. 300.000 người phải nhập viện vì ngộ độc khí MIC.
Sau thảm họa, những nạn nhân còn sống sót bị ảnh hưởng nặng nề như: ung thư, rối
loạn kinh nguyệt, quái thai, dị dạng bẩm sinh v.v... 50.000 người không thể quay trở lại làm
việc do bị chấn thương, nhiều người thậm chí không thể đi lại được.
Đến năm 1989, Liên hợp sản xuất hóa chất bảo vệ thực vật đồng ý chi trả 470 triệu
đô la cho việc đền bù thiệt hại do vụ rò rỉ khí MIC gây ra. Tuy nhiên, các nạn nhân không
được tham gia ý kiến trong các buổi thương thảo về việc định cư của họ. Nhiều nạn nhân
cảm thấy mình bị lừa khi chỉ nhận được các khoản đền bù từ 300 đến 500 $ hoặc số tiền
tương đương với các điều trị về mặt y tế trong 5 năm.
(Nguồn: http://www.bhopal.org/whathappened.html, truy cập ngày 5/4/2007 và
http://en.wikipedia.org/wiki/Bhopal_Disaster, truy cập ngày 30/3/2007.)
1.3. Sự ổn định của hệ sinh thái: nền tảng của sức khỏe con người
Sức khỏe của con người không chỉ bị ảnh hưởng trực tiếp bởi những chất ô nhiễm
do con người hít phải, ăn phải, hay thấm qua da con người. Các chất độc hại còn ảnh hưởng
gián tiếp đến sức khỏe con người bằng cách phá vỡ sự ổn định của các hệ sinh thái, do vậy
làm giảm năng suất của hệ sinh thái và tạo điều kiện thuận lợi cho các tác nhân có hại cho
sức khỏe của con người sinh trưởng và phát triển.
Chẳng hạn, việc phá rừng lấy gỗ, đốn củi, lấy đất canh tác hoặc chăn nuôi làm giảm
khả năng giữ nước của rừng, tăng các dòng chảy xuống sông suối và gây nên lụt lội, trượt
đất, thậm chí lũ quét. Những hoạt động này đã gây ra các vụ lụt và trượt đất liên tiếp ở
Bangladesh và Philippines. Lụt lội làm giảm năng suất nông nghiệp, và ảnh hưởng lớn tới
sức khỏe con người, thậm chí tử vong do đuối nước hoặc do chấn thương. Lụt lội cũng làm
phá hủy các nhà máy xử lý nước và chất thải, tạo điều kiện cho các bệnh truyền
nhiễm lây lan. Ở những khu vực mà người dân sống quanh lưu vực các con sông, và
nguồn nước ăn, uống của họ là nước bề mặt tại các sông thì những ảnh hưởng tới sức
khỏe của dân cư tại vùng này trong và sau bão lụt lại càng nặng nề hơn. Việc phá các khu
rừng nhiệt đới cũng làm tăng sự lan truyền của bệnh sốt rét và một số bệnh do ký sinh
trùng, vì khi phá rừng con người đã làm tăng số lượng của các vũng nước tĩnh, nước đọng
xung quanh các khu rừng vừa bị đốn hạ và những con đường được tạo ra để chuyên chở
gỗ, củi.
22
Việc phá rừng, đô thị hóa nhanh chóng, đặc biệt là ở quanh các lưu vực sông, đã làm
tăng lượng các trầm tích lắng đọng và những chất ô nhiễm khác trong sông - nguồn nước
thường được sử dụng để làm nước ăn uống và sinh hoạt cho con người. Hậu quả là con
người lại phải đầu tư những trang thiết bị đắt tiền để xử lý nước nhằm bảo vệ sức khoẻ của
mình. Các nguồn nước thải từ đô thị cũng như các loại phân bón hoá học được thải vào
trong môi trường đã thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của các vi sinh vật trong các dòng
sông và trong các vùng biển nông, từ đó lại làm giảm nồng độ ô xy hoà tan trong nước, ảnh
hưởng tới cá và các loài sinh vật khác.
Ngoài những tác hại trên, phá rừng còn làm thay đổi điều kiện khí hậu trong khu vực
cũng như trên phạm vi toàn cầu. Theo hai nhà bác học Myers và Shulka, phá rừng làm thay
đổi lượng mưa trong một khu vực và làm tăng sự ấm nóng trên toàn cầu.
Những mất cân bằng trong hệ khí quyển toàn cầu cũng tạo ra những nguy cơ gián tiếp đối
với sức khoẻ con người. Khí thải có chứa các hợp chất hydrocarbon từ các loại máy lạnh, tủ
lạnh và từ các nhà máy làm phá huỷ ôzôn ở tầng bình lưu. Kết quả là nguy cơ mắc ung thư
da ở người có thể tăng lên.
1.4. Các hoạt động của con người và tác động lên hệ sinh thái
Các hệ sinh thái tự nhiên tham gia vào rất nhiều quá trình khác nhau và có ảnh
hưởng trực tiếp hay gián tiếp tới con người và các sinh vật khác. Những hoạt động của con
người trong môi trường đã, đang và sẽ làm thay đổi rất nhiều quá trình tự nhiên này theo
một chiều hướng bất lợi cho sức khoẻ và sự phồn thịnh của chính xã hội loài người. Bảng
sau đây sẽ tóm tắt một số quá trình tự nhiên và những tác động của con người lên những
quá trình này:
Bảng 1. Những ảnh hưởng của con người lên một số quá trình diễn ra trong hệ sinh thái
Các quá trình của hệ sinh thái Tác động của con người
Quá trình tạo đất Các hoạt động trong nông nghiệp đã tăng
sự tiếp xúc của lớp đất bề mặt với mưa
nắng làm giảm đáng kể lớp đất bề mặt màu
mỡ
Kiểm soát chu trình nước Việc chặt phá rừng bừa bãi và các hoạt
động khác của con người gây ra lụt lội, lũ
quét hay hạn hán ở nhiều nơi
Phân hủy các loại rác thải Nước thải, rác thải không qua xử lý và
23
nước thải chảy từ đồng ruộng, trang trại
chăn nuôi làm tăng ô nhiễm nước
Một số ngành công nghiệp và nhà máy hạt Dòng năng lượng
nhân đã làm tăng ô nhiễm nhiệt độ đối với
môi
trường xung quanh. Các hoạt động đốt cháy
các nhiên liệu hoá thạch sẽ phát thải ra các
khí nhà kính và có thể dần dần làm tăng
nhiệt độ trái đất (Hiệu ứng nhà kính)
Chu trình tự nhiên của các chất dinh Việc sử dụng các nguyên liệu không phân
dưỡng huỷ được và các hoạt động chôn lấp rác đã
ngăn cản quá trình hoàn trả lại môi trường
nhiều nguyên liệu hữu ích
Con người là một phần của hệ sinh thái trên trái đất. Những hoạt động của con
người có thể có lợi hay có hại đối với sự cân bằng của hệ sinh thái. Phá hoại nơi sinh sống
của các loài động - thực vật, có thể là do các hoạt động vô tình hay cố ý của con người, đều
đe doạ đến sự cân bằng của các hệ sinh thái trên trái đất. Nếu những tác động này không
được giải quyết thì sự ổn định của nhiều hệ sinh thái có thể không có khả năng phục hồi .
Con người có thể ảnh hưởng lên hệ sinh thái theo nhiều khía cạnh khác nhau như sau:
Bảng 2. Những tác động tiêu cực mà con người gây ra cho các hệ sinh thái
Hoạt động của con người Ảnh hưởng lên hệ sinh thái
Gia tăng dân số dẫn đến gia tăng tốc độ
Gia tăng dân số tiêu thụ nguồn tài nguyên thiên nhiên phục
hồi và không phục hồi trên trái đất.
Xã hội công nghiệp hoá ở những nước phát
Tiêu thụ ồ ạt triển tiêu thụ nhiều tài nguyên trên đầu
người hơn những nước nghèo và chậm phát
triển
Thông thường, chúng ta sản xuất ra và ứng Các kỹ thuật tiên tiến dụng vô vàn các kỹ thuật hiện đại mà không
hiểu rõ những tác động tiềm tàng mà nó sẽ
24
gây ra cho môi trường sinh thái
Làm mất đi một diện tích rất lớn rừng nhiệt Chặt phá rừng đới và các sản phẩm của đa dạng sinh học
trong các khu rừng này
Ô nhiễm đất, nước, không khí và phóng xạ Làm gia tăng ô nhiễm môi trường đã có nhiều ảnh hưởng tiêu cực tới hệ sinh
thái
Bao gồm sự gia tăng của các khí nhà kính
mà chủ yếu là hậu quả của quá trình đốt
cháy các loại nhiên liệu hoá thạch và sự suy Gây ra những thay đổi trong khí quyển giảm ô zôn ở tầng bình lưu. Các chất ô
nhiễm khác cũng gây nhiều tác động tiêu
cực tới sinh vật sống.
Gia tăng dân số tác động trực tiếp tới quá trình đô thị hoá và sự lan tràn bệnh dịch.
Trong vòng một nghìn năm qua, dân số thế giới gia tăng với một tốc độ chóng mặt. Gia tăng
dân số làm tăng tốc độ đô thị hoá, người dân ở nông thôn di cư ra thành phố để mưu cầu
một cuộc sống tốt đẹp hơn cho bản thân cũng như cho tương lai của thế hệ con cháu. Trước
những năm 1950, dân số sống ở đô thị trên thế giới chỉ chiếm khoảng dưới 30%, nhưng đến
năm 2050 thì con số này ước tính sẽ tăng lên tới hơn 60%. Vào năm 2000, trên thế giới có
khoảng 20 thành phố với số dân vượt quá 10 triệu người (McCartney, 2002). Điều kiện
sống đông đúc chật hẹp, vệ sinh môi trường kém do quá trình đô thị hoá xảy ra mạnh mẽ ở
nhiều nơi tạo điều kiện cho các bệnh truyền nhiễm phát triển và lây lan. Một số bệnh dịch
phổ biến trên thế giới làm nhiều người mắc và chết là các bệnh tiêu chảy, lao phổi, sốt rét và
tả. Ngoài ra còn có nhiều bệnh mới nảy sinh hay các bệnh cũ quay trở lại do sự thay đổi các
hệ sinh thái. Điều này chứng tỏ mối tương quan chặt chẽ giữa gia tăng dân số, thay đổi môi
trường sinh thái và sức khoẻ con người.
Các hoạt động của con người trong thời gian qua đã có những ảnh hưởng tiêu cực
tới trạng thái cân bằng của nhiều hệ sinh thái. Mối đe doạ trước mắt là sự phá hoại những
nơi sinh sống tự nhiên của sinh vật cũng như sự xâm nhập của các loài lạ xẩy ra sau khi sinh
cảnh bị tàn phá. Đối với hệ sinh thái biển thì việc đánh bắt cá và các loài hải sản tràn lan là
một mối đe doạ lớn tới sự cân bằng và phồn thịnh của các hệ sinh thái nơi đây. Một trong
những tác động lớn nhất mà con người gây ra cho hệ sinh thái đó là làm mất đa dạng sinh
học tự nhiên. Theo ước tính của Lawton và May (1995), cứ mỗi giờ qua đi trên thế giới sẽ
có một loài bị tuyệt chủng nhưng đáng tiếc là trong quá trình tiến hoá phải mất tới 10.000
năm hoặc thậm chí lâu hơn mới sinh ra được một loài mới. Các mối đe doạ khác tới hệ sinh
thái bao gồm sự thay đổi chu trình cacbon, nitơ và các chất hoá học khác trên trái đất do tác
25
động của quá trình đốt cháy các nhiên liệu hoá thạch, sử dụng phân bón chứa nitơ trong sản
xuất nông nghiệp với một lượng lớn v.v. Tuy nhiên, một trong những ảnh hưởng lớn nhất
do các hoạt động của con người gây ra và thường được bàn tới trong những năm gần đây đó
là sự thay đổi khí hậu trên toàn cầu. Tác động này sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới các hệ sinh thái
cũng như tới sức khoẻ của con người.
1.5. Hậu quả của thay đổi khí hậu và biến đổi hệ sinh thái
Theo nhiều nhà khoa học, hậu quả của sự thay đổi khí hậu mà nguyên nhân là do
chính các hoạt động của con người gây ra - đặc biệt là sự ấm lên trên toàn cầu (global
warming) do sự gia tăng nồng độ khí cacbon dioxit và các khí nhà kính khác trong khí
quyển là những tác động tiêu cực lên sức khoẻ của cộng đồng. Các nhà khí tượng học dự
đoán rằng, do sự tích tụ của các khí nhà kính mà khí hậu toàn cầu sẽ thay đổi với một tốc
độ nhanh hơn rất nhiều trong khoảng lịch sử kể từ 10.000 năm trở lại đây. Trong thế kỷ
qua, nhiệt độ trung bình trên bề mặt trái đất tăng khoảng 0,3 đến 0,6 0C. Theo Sidney và
Raso (1998), các mô hình thực hiện trên máy vi tính hiện đại về khí hậu của trái đất dự
báo rằng: nếu nồng độ các khí nhà kính vẫn tiếp tục tăng như dự đoán thì đến năm 2100
nhiệt độ trung bình trên trái đất sẽ tăng lên từ 1 đến 3,5 0C. Nhiệt độ tăng lên sẽ thay đổi
hệ sinh thái và ảnh hưởng tới sức khoẻ con người như thế nào? Liệu chúng ta có thể dự
đoán được một cách chính xác các hậu quả của sự thay đổi khí hậu lên cuộc sống để từ đó
có những hành động hay chương trình bảo vệ sức khoẻ của cộng đồng? Cho tới nay, có
rất nhiều người trong số chúng ta còn chưa hiểu được những tác hại mà việc thay đổi khí
hậu có thể gây ra cho sức khoẻ con người. Mối liên hệ sẽ trở nên rõ ràng hơn một khi
chúng ta nhận ra rằng sức khoẻ con người và sự phồn thịnh của xã hội phụ thuộc vào sự
phồn thịnh của các hệ sinh thái tự nhiên trên trái đất, đồng thời những thay đổi trong mô
hình khí hậu và những ảnh hưởng lên hệ sinh thái sẽ là nguy cơ cho sức khoẻ con người.
Các nhà khoa học dự đoán rằng khí hậu thay đổi sẽ có nhiều tác động mà hầu hết là tiêu
cực tới sức khoẻ cộng đồng. Xem Hộp 2 về tác động của El Nilno lên sức khoẻ cộng
đồng. Một số tác động tiêu cực của khí hậu thay đổi và mất cân bằng sinh thái lên xã hội
chúng ta sẽ được trình bày sau đây.
VD - El Nilno và sức khoẻ cộng đồng
Ở nhiều vùng trên thế giới, trong giai đoạn xẩy ra El Nilno thì các bệnh truyền qua
vector và các bệnh truyền qua nước tăng lên rõ rệt. Lũ lụt sinh ra nhiều nơi chứa nước ngọt
tạo điều kiện cho muỗi sinh sôi nảy nở. Đợt El Nilno xẩy ra vào năm 1997 - 1998 được xem
là mạnh nhất trong thế kỷ 20 và đã gây hậu quả nhiều nơi trên thế giới. Hạn hán nặng và
cháy rừng xẩy ra ở nhiều nước thuộc Châu Á các nước vùng Địa Trung Hải, vùng Amazon,
các khu rừng nhiệt đởi ở Mêhicô, Trung Mỹ và các bang California và Florida ở Mỹ. Ngứa
mắt dị ứng, các bệnh đường hô hấp và tim mạch tăng vọt ở những vùng này. Hạn hán và lũ
lụt xảy ra ở nhiều vùng nhiệt đới làm dịch tả lan tràn.
26
Sóng nhiệt làm hàng ngàn người bị tử vong ở Ấn Độ và hàng trăm người ở Châu Âu
và Mỹ. Ở Trung Quốc và Băng La Đét thì lũ lụt xẩy ra với sức tàn phá ghê gớm. Ở vùng
mỏm của Châu Phi, trận đại hồng thuỷ xảy ra gây lụt lội vào cuối năm 1997 làm gia tăng
bệnh dịch tả, sốt rét và sốt Thung lũng Rift (Rift Valley fever) làm nhiều người và gia súc bị
chết. Ở Châu Mỹ La Tinh, lụt lội xảy ra dọc theo biển Đại Tây Dương và vùng phía nam
Bra xin đã liên quan với sự bùng nổ bệnh tả và các bệnh truyền qua véc tơ, còn ở nhiều
vùng ở phía Nam nước Mỹ thì đã xảy ra các vụ dịch hantavirus do chuột truyền. Đây là
bệnh mới nảy sinh và xuất hiện lần đầu tiên ở nước Mỹ, là một quốc gia có nền Y tế công
cộng phát triển vào bậc nhất trên thế giới.
El Nilno hay còn gọi là Giao động Nam là một chu trình khí hậu tự nhiên. Tuy
nhiên, sự hấp thụ nhiệt của đại dương do nhiệt độ trái đất tăng lên có thể làm đảo lộn chu
kỳ tự nhiên của El Nilno và làm cho chúng xảy ra thường xuyên hơn và dữ dội hơn.
Trong thời gian xảy ra El Nilno, những thay đổi của thuỷ triều và gió ở vùng đông Thái
Bình Dương sẽ làm thay đổi gió xoáy và các mô hình khí hậu trên toàn cầu. Hạn hán bất
thường xảy ra ở nhiều nơi, còn nhiều vùng khác thì lại phải đối mặt với các trận hồng
thuỷ và bão lụt dữ dội. Cuối mỗi đợt El Nilno thường xảy ra một giai đoạn khác của chu
trình, gọi là La Nilna - sự kiện trái ngược với El Nilno. Ở Ấn Độ, Mê Hi Cô, và đông nam
nước Mỹ đã phải chịu cảnh hạn hán khốc liệt trong giai đoạn 1997 - 1998 do tác động của
El Nilno, sau đó lại xảy ra các trận lụt lớn vào tháng 8, tháng 9 năm 1998 do ảnh hưởng
của La Nilna. Theo số liệu thống kê của Trung tâm Dữ liệu Khí tượng Thuỷ văn Quốc gia
Hoa Kỳ thì trong suốt thế kỷ qua các thảm hoạ của thiên nhiên như hạn hán, lũ lụt, bão và
cháy đã gây thiệt hại nặng nề ở nhiều vùng trên thế giới cả về người và của.
1.5.1. Ảnh hưởng tới năng suất của mùa màng
Khí hậu thay đổi có thể gây tác động tới năng suất của một số mùa màng ở nhiều nơi.
Bất cứ thay đổi bất lợi nào trên diện rộng về công tác sản xuất, cung ứng và phân phối các
sản phẩm nông nghiệp - đặc biệt là ở những nước đang phát triển cũng có thể gây ra tác
động nghiêm trọng. Tỉ lệ suy dinh dưỡng và hộ bị đói cũng có khả năng tăng lên. Trái đất
nóng lên gây nhiều hậu quả trên trên toàn cầu và một trong số những tác động đáng chú ý là
sự gia tăng mực nước biển do băng ở hai cực tan ra và sự nở của nước biển do nhiệt độ. Các
nhà thuỷ văn học dự đoán rằng, đến năm 2100 thì mực nước biển trung bình trên toàn cầu sẽ
tăng lên từ 0,2 đến 1,0 mét và sẽ tiếp tục gia tăng hơn nữa trong những thế kỷ tới. Mực
nước biển gia tăng có thể làm tràn ngập các khu vực trước đây là khu dân cư đông đúc hay
làm ngập mặn các vùng đất canh tác vốn dĩ rất hạn hẹp ở một số quốc gia. Đặc biệt,
Bangladesh và một số quốc gia đảo khác là những nước rất dễ bị tổn thương. Hơn nữa, lụt
lội ở những cộng đồng dân cư sống đông đúc vùng ven biển sẽ làm cho nhiều gia đình bị
mất nhà cửa và buộc phải dời đến sống ở những vùng đông đúc chật hẹp nơi họ rất dễ bị
mắc các bệnh lao, bạch hầu và các bệnh tiêu chảy. Mặt khác, như chúng ta đã biết, ước tính
27
khoảng 99% các loài động thực vật có hại cho nông nghiệp có thể bị kiểm soát bởi các kẻ
thù trong tự nhiên, bao gồm chim, rắn, nhện, ong, nấm, các bệnh do virus và nhiều sinh vật
khác. Những tác nhân kiểm soát sinh học tự nhiên này đã giúp cho nông dân tiết kiệm được
hàng tỉ đô la mỗi năm bằng cách bảo vệ mùa màng khỏi bị thất thoát và giảm nhu cầu sử
dụng hoá chất bảo vệ thực vật (Naylor và Ehrlich, 1997). Khí hậu thay đổi, hệ sinh thái tự
nhiên bị mất cân bằng làm cho quá trình kiểm soát sinh học tự nhiên bị ảnh hưởng và điều
này sẽ trực tiếp làm giảm năng suất trong sản xuất nông nghiệp và gián tiếp tác động lên
nền kinh tế và sức khoẻ của cộng đồng.
1.5.2. Nhiệt độ quá cao và hậu quả sức khoẻ
Do sự gia tăng của nhiệt độ, càng ngày chúng ta càng thấy nhiều trường hợp bị căng
thẳng do nhiệt độ, nhiều trường hợp có thể dẫn tới tử vong, đặc biệt là ở người già, trẻ em
và đối tượng có thu nhập thấp. Sự nhạy cảm của các nhóm đối tượng này có thể do nhiều
yếu tố vật lý và xã hội khác nhau quyết định, bao gồm: khả năng họ phải sống trong điều
kiện môi trường không thoáng mát, không có hệ thống thông gió hay điều hoà nhiệt độ.
Những bệnh nhân bị các bệnh tim mạch và hô hấp mãn tính là những người có nguy cơ rất
cao. Chúng ta đã chứng kiến hậu quả của thời tiết quá nóng bức xảy ra ở Chicago năm 1995,
làm 500 người chết chỉ trong một thời gian ngắn. Những mô hình dự báo gần đây cho rằng
đến năm 2050 ở nhiều thành phố trên thế giới sẽ có thêm hàng ngàn người bị
chết mỗi năm do nóng bức.
1.5.3. Gia tăng ô nhiễm không khí và hậu quả của nó tới sức khoẻ
Nhiệt độ tăng lên làm giảm chất lượng không khí, chủ yếu là do vấn đề tăng ô nhiễm
khí cacbon dioxit, nitơ oxit, ô zôn v.v. ở những khu vực đô thị nơi môi trường bị ô nhiễm
nặng. Nhiệt độ và tia tử ngoại ở tầng thấp của khí quyển tăng lên tạo điều kiện cho các phản
ứng hoá học xẩy ra mạnh mẽ và sản xuất ra khí ô zôn. Ô zôn là một khí phản ứng rất mạnh
và có thể trực tiếp làm ôxy hoá các phân tử, tạo ra các gốc tự do chứa nhiều năng lượng và
có thể làm tổn thương đến tế bào. Nồng độ ô zôn cao trong không khí có thể làm gia tăng
các trường hợp bị bệnh hô hấp và bệnh tim mạch. Người ta thấy rằng, những tác động hô
hấp cấp tính do ô zôn gây ra có liên quan tới bệnh hen suyễn ở trẻ em. Khí hậu ấm hơn và
ẩm ướt hơn ở nhiều vùng có thể làm tăng nồng độ các loại phấn hoa trong không khí và rất
có khả năng sẽ có tác động tiêu cực lên những người bị rối loạn dị ứng, ví dụ những bệnh
nhân bị hen suyễn hay bị sốt mùa cỏ khô (sốt mùa hè).
1.5.4. Những thay đổi trong hệ sinh thái và các bệnh truyền nhiễm
Xuất hiện các bệnh dịch mới và các bệnh có nguy cơ xuất hiện trở lại (Sốt rét kháng thuốc)
Sốt xuất huyết Ebola)
Sự kết hợp của thay đổi khí hậu, suy thoái môi trường và mất cân bằng các hệ sinh thái đã
tạo điều kiện lý tưởng cho sự quay trở lại cũng như sự xuất hiện và lây lan của nhiều căn
28
bệnh truyền nhiễm - những bệnh đã làm hơn 17 triệu người bị tử vong hàng năm trên thế
giới. Khí hậu thay đổi làm thay đổi các hệ sinh thái, tỉ lệ giữa động vật săn mồi và con
mồi bị mất cân bằng dẫn tới các phương thức kiểm soát sinh học tự nhiên của các bệnh
truyền nhiễm và vector truyền bệnh cũng bị phá vỡ. Các loài cá nước ngọt, chim, lưỡng cư
và dơi là những loài giới hạn sự phát triển của muỗi (là vector truyền các bệnh sốt rét, sốt
xuất huyết, sốt vàng và viêm não). quạ, chó sói đồng cỏ và rắn giúp kiểm soát các quần thể
gặm nhấm. Một số loài gặm nhấm làm lây truyền các bệnh Lyme, hantavirus, arenavirus
(sốt xuất huyết), Leptospiroses và dịch hạch. Khi kẻ thù của các vector truyền bệnh bị giảm
về số lượng do tác động của thay đổi khí hậu trong lúc các quần thể vector truyền bệnh lại
phát triển mạnh mẽ thì các bệnh truyền qua vector sẽ có điều kiện lan tràn và chúng ta khó
có thể kiểm soát được. Các nhà khoa học cho rằng khí hậu ấm và ẩm hơn đã tạo điều kiện
mở rộng phạm vi hoạt động của nhiều loại bệnh truyền nhiễm. Tiến sỹ Epstein trong một
nghiên cứu gần đây về "Sức khoẻ con người và sự thay đổi khí hậu" đã cảnh báo rằng
"Thay đổi khí hậu sẽ có nhiều tác động lên sức khoẻ con người và hầu hết là các tác động có
hại" (Epstein, 1998).
1.5.5. Thay đổi mô hình bệnh tật
Trong quá khứ đã có nhiều giai đoạn bệnh tật tàn phá xã hội loài người, ví dụ như
bệnh dịch hạch thời trung cổ xảy ra ở Châu Âu. Vấn đề này đã xảy ra đồng thời với sự gia
tăng dân số, sự đô thị hoá và môi trường sống bị ô nhiễm trầm trọng. Với sự ấm lên của
toàn cầu như hiện nay cùng với sự thay đổi mạnh mẽ các hệ sinh thái đã tạo điều kiện cho
các mô hình bệnh tật thay đổi trên một diện rộng. Trong nghiên cứu của Tiến sỹ Epstein,
ông đã đưa ra 3 tác động chính mà sự thay đổi khí hậu có thể gây ra cho sức khoẻ cộng
đồng, đó là:
(cid:0) Tạo điều kiện thuận lợi cho sự bùng nổ các vụ dịch bệnh truyền nhiễm
(cid:0) Tăng khả năng lây truyền các bệnh truyền qua vector và làm hàng triệu người
bị phơi nhiễm với các bệnh mới nảy sinh cũng như phơi nhiễm với nhiều
nguy cơ sức khoẻ khác nhau.
(cid:0) Cản trở sự kiểm soát bệnh dịch trong tương lai
Ngoài ra, một trong những nhân tố không kém phần quan trọng trong việc làm lây
lan các bệnh mới nảy sinh, góp phần thay đổi mô hình bệnh tật trên thế giới đó là việc đi lại,
thông thương giữa các quốc gia bằng ô tô, tàu cao tốc hay máy bay. Thời xa xưa, phương
tiện vận tải chủ yếu giữa các nước là tàu biển hay xe thô sơ, vì vậy thời gian đi sang một
vùng khác hay một nước khác là khá lâu. Các vi sinh vật gây bệnh truyền nhiễm có thể bị
chết trên đường đi và làm hạn chế sự lây lan bệnh tật giữa các vùng. Trong xã hội hiện đại
ngày nay, việc đi lại giữa các nước bằng máy bay thuận tiện và nhanh hơn nhiều. Theo
Alleyne (1998), năm 1995 có hơn 1 triệu người sử dụng máy bay mỗi ngày. Mặc dù đem lại
nhiều lợi ích cho con người nhưng điều này cũng góp phần làm lây lan bệnh tật. Ngoài các
29
bệnh truyền nhiễm thì ngày nay ở nhiều nước mà nhất là ở những nước phát triển đang phải
đương đầu với các bệnh không truyền nhiễm nhưng có tỉ lệ tử vong cao như ung thư, tiểu
đường, tim mạch, béo phì v.v...
2. MÔ HÌNH BỆNH TẬT Ở VIỆT NAM THEO CÁC VÙNG SINH THÁI
Đặc điểm chung của nước ta là đồi núi chiếm 3/4 diện tích lãnh thổ và đồng bằng
chỉ chiếm 1/4 lãnh thổ. Khí hậu nhiệt đới, gió mùa, phía Bắc có 4 mùa, phía Nam có 2 mùa,
nhiệt độ trung bình năm cao 21 - 260C, độ ẩm cao. Do ảnh hưởng của gió mùa, địa hình
phức tạp nên khí hậu của nước ta luôn thay đổi trong năm, giữa năm này với năm khác, giữa
nơi này với nơi khác, từ Bắc xuống Nam, từ Đông sang Tây, từ thấp lên cao. Do đặc tính ấy
làm ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống xã hội như lề lối sinh hoạt: ăn, mặc, ở và bảo vệ sức
khoẻ. Theo địa lý và thống kê y tế (2001) nước ta được chia thành 8 vùng sinh thái như sau:
Vùng Đông Bắc, Tây Bắc, Đồng bằng Sông Hồng, Bắc Trung Bộ, Duyên hải Miền trung,
Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và Đồng bằng Sông Cửu Long.
2.1. Miền núi Trung du Bắc bộ (Đông Bắc và Tây Bắc)
Kể từ năm 2001, Miền núi Trung du Bắc Bộ được chia thành vùng Đông Bắc và
Tây Bắc, gồm 16 tỉnh thành: Hà Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Lai Châu, Lao
Cai, Yên Bái, Thái Nguyên, Bắc Cạn, Sơn La, Hoà Bình, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc Giang,
Bắc Ninh và Quảng Ninh, có đặc điểm về địa lý, kinh tế như sau:
(cid:0) Là nơi tiếp giáp với các nước Lào và Trung Quốc, liền kề với Đồng bằng
Sông Hồng, nên có điều kiện để giao lưu.
(cid:0) Địa hình núi non hiểm trở, giàu tài nguyên nhất là tài nguyên rừng và các
khoáng sản, nhiều sông, suối, biển
(cid:0) Khí hậu vẫn là khí hậu nhiệt đới, có 4 mùa
(cid:0) Là nơi sinh sống của nhiều dân tộc ít người như Tày, Nùng, Thái, Mường,
Dao, H’mông, v.v…
(cid:0) Là vùng còn nghèo và khó khăn, mặc dù có nhiều tiến bộ về đời sống văn hoá
xã hội, nhưng vẫn còn có những phong tục tập quán lạc hậu, ảnh hưởng đến
công việc bảo vệ sức khoẻ cộng đồng.
2.2. Đồng bằng Sông Hồng
Đồng bằng Sông Hồng gồm 9 tỉnh thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, Hà Tây, Hải Dương,
Hưng Yên, Thái Bình, Nam Định, Hà Nam và Ninh Bình, có đặc điểm sau:
(cid:0) Đồng bằng Sông Hồng rộng gần 1,3 triệu ha, chiếm 3,8% diện tích toàn quốc
với một vùng biển bao quanh ở phía đông và đông - nam.
(cid:0) Là nơi dân cư tập trung đông đúc nhất trong cả nước, mật độ dân số trung
bình 1180 người/km2 (1999)
30
(cid:0) Địa hình bằng phẳng có thế mạnh về phát triển lương thực, thực phẩm, khoa
học kỹ thuật, công nghệ. Do thế mạnh về phát triển lương thực thực phẩm,
chăn nuôi, canh tác nông nghiệp nên gây ra mô hình bệnh tật có khác với các
vùng khác.
(cid:0) Là vùng có ý nghĩa then chốt trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước.
2.3. Bắc Trung Bộ
Bắc trung bộ gồm 6 tỉnh là Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa
Thiên Huế. Với đặc điểm về địa lý, kinh tế - xã hội như sau:
(cid:0) Đây là vùng lãnh thổ hẹp theo chiều đông - tây nhưng dài theo chiều bắc
nam. Là vùng có cả đồng bằng, miền núi cao, là nơi có dãy Trường Sơn chạy
dọc theo chiều bắc nam, chạy dọc theo biển đông. Tiếp giáp với nước Lào.
Đường xá giao thông trong vùng còn nhiều khó khăn và có đường số 1 và
đường Hồ Chí Minh chạy qua
(cid:0) Khí hậu ảnh hưởng của gió lào về mùa hè nên nóng, ẩm, mưa lũ theo mùa. Là
vùng chịu ảnh hưởng khá nhiều thiên tai và bị tàn phá nhiều trong thời gian
chiến tranh.
(cid:0) Là vùng phát triển cả kinh tế rừng, biển và nông nghiệp.
(cid:0) Là nơi cư trú của nhiều dân tộc khác nhau và còn nhiều dân tộc ít người sống
rất sâu, xa có nhiều phong tục tập quán lạc hậu.
2.4. Duyên hải Nam Trung Bộ
Vùng địa lý Duyên hải Nam Trung Bộ gồm 8 tỉnh thành là Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng
Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận và Bình Thuận. Đặc điểm về địa lý,
kinh tế - xã hội như sau:
(cid:0) Khác với bắc trung bộ, qua đèo Hải Vân, Duyên hải Miền trung có khí hậu 2
mùa là mùa khô và mùa mưa. Không có mùa đông, khí hậu ôn hoà hơn,
nhưng vẫn là vùng chịu nhiều thiên tai và hậu quả của chiến tranh.
(cid:0) Lãnh thổ hẹp chạy dọc theo bờ biển Đông, địa hình có núi đồi, đồng bằng ven
biển
(cid:0) Là nơi sinh sống của nhiều dân tộc khác nhau, phong tục có những nét khác
của Bắc trung bộ
(cid:0) Thế mạnh là tài nguyên rừng, độ che phủ của rừng là 34%, ngư nghiệp và
nông nghiệp, chăn nuôi, đánh bắt thuỷ hải sản, nhiều ngành công nghiệp khai
thác, chế biến phát triển
(cid:0) Có nhiều khu có thể trở thành khu du lịch
31
(cid:0) Phát triển kinh tế - xã hội của vùng thực sự vẫn còn khó khăn.
2.5. Tây Nguyên
Tây Nguyên có 4 tỉnh là Gia Lai, Kon Tum, Đăk Lăk và Lâm Đồng. Đặc điểm về địa lý,
kinh tế - xã hội của vùng:
(cid:0) Đây là vùng duy nhất ở nước ta không giáp với biển.
(cid:0) Giáp với Lào và Cămpuchia, có vị trí quan trọng về quốc phòng và kinh tế.
(cid:0) Đa dạng về tài nguyên rừng và khí hậu, là nơi có thể phát triển thành những
khu du lịch và nghỉ mát, có tiềm năng to lớn về nông nghiệp và lâm nghiệp.
Có trữ năng thuỷ điện lớn.
(cid:0) Là nơi thưa dân nhất nước ta, là địa bàn cư trú của nhiều dân tộc ít người như
Xudăng, Ba na, Gia Rai, Ê Đê, Cơ Ho, Mạ, M’nông,… với truyền thống văn
hoá độc đáo
(cid:0) Hệ thống y tế phát triển tương đối tốt nhưng sử dụng của người dân còn thấp, đặc biệt là
các dân tộc ít người.
2.6. Đông Nam Bộ
Vùng Đông Nam Bộ gồm 6 tỉnh thành: Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Bương, Bình Phước,
Tây Ninh và Đồng Nai. Đặc điểm về địa lý, kinh tế - xã hội như sau:
(cid:0) Là khu vực có diện tích nhỏ, mật độ dân số trung bình nhưng phát triển nhất
trong cả nước về sản lượng công nghiệp, hàng xuất khẩu
(cid:0) Đất đai màu mỡ, có điều kiện để phát triển cây công nghiệp lâu năm và ngắn
ngày trên qui mô lớn
(cid:0) Là khu vực thu hút mạnh lực lượng lao động có chuyên môn cao, thợ lành
nghề, các nhà khoa học và là vùng có tài nguyên chất xám lớn.
(cid:0) Có điều kiện và khả năng phát triển công nghiệp, các hoạt động du lịch, dịch
vụ, chế biến, xuất, nhập khẩu,…
(cid:0) Khai thác kinh tế biển, bờ biển, phát triển nông nghiệp và ngư nghiệp
(cid:0) Khí hậu ôn hoà chỉ có 2 mùa mưa và khô, thời kỳ mùa khô kéo dài (4 tháng)
dẫn đến thiếu nước sinh hoạt, tưới cho cây trồng và công nghiệp.
2.7. Đồng bằng sông Cửu Long
Gồm 12 tỉnh là Long An, Đồng Tháp, An Giang, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà
Vinh, CầnThơ, Sóc Trăng, Kiên Giang, Bạc Liêu, Cà Mau. Đặc điểm về địa lý, kinh tế - xã
hội như sau:
(cid:0) Là đồng bằng châu thổ lớn nhất nước với diện tích 4 triệu ha, mùa mưa đồng
bằng bị ngập sâu trong nước, mùa khô chỉ là những vũng nước tù đứt đoạn,
32
đất rộng dân thưa, chưa được khai thác nhiều.
(cid:0) Có 16,1 triệu dân sinh sống chủ yếu là người Kinh và người Chăm, Kh’me,… (cid:0) Hệ
thống sông ngòi, kênh rạch chằng chịt cắt xẻ châu thổ thành những ô nên
việc giao thông bằng đường thuỷ dễ dàng.
(cid:0) Khí hâu cận xích đạo, nhiệt đới ẩm, mùa khô kéo dài làm cho đất nước bị
nhiễm mặn vào sâu đất liền.
(cid:0) Thảm thực vật, động vật phong phú chủ yếu là rừng ngập mặn và rừng tràm,
tài nguyên biển vô cùng phông phú.
(cid:0) Thiếu nước ngọt đang là một vấn đề vô cùng quan trọng của Đồng bằng Sông
Cửu Long.
Đây là những sơ thảo ban đầu về các vấn đề bệnh tật theo vùng sinh thái. Rõ ràng
theo số liệu thống kê thì mô hình bệnh tật ở các vùng sinh thái khác nhau là khác nhau và đã
có sự thay đổi trong những năm qua. Có tác giả đã nghiên cứu về đại tầng với sinh thái,
nhưng cho đến nay chưa có một nghiên cứu nghiêm chỉnh nào về những vấn đề này. Hiện
trên toàn quốc vẫn chưa có một nghiên cứu chi tiết nào về vào trò của những biến đổi của
sinh thái với những thay đổi của mô hình bệnh tật ở các vùng. Do vậy, những nghiên cứu về
mối quan hệ giữa ảnh hưởng sinh thái của các vùng khác nhau cũng như những thay đổi
sinh thái học ở từng vùng với sức khoẻ và mô hình bệnh tật của cộng đồng dân cư vùng sở
tại là rất cần thiết.
3. NHỮNG THAY ĐỔI SINH THÁI HỌC VÀ MỘT SỐ BỆNH PHỔ BIẾN LIÊN
QUAN ĐẾN MÔI TRƯỜNG
3.1. Các bệnh truyền nhiễm
3.1.1. Bệnh truyền qua các vật chủ trung gian
Nguyên nhân chính của việc gia tăng tỉ lệ mắc bệnh và tỉ lệ tử vong liên quan tới sự
nóng lên của trái đất có thể không phải là do tác động trực tiếp của sóng nhiệt. Có nhiều
bằng chứng cho thấy rằng một số bệnh truyền nhiễm nguy hiểm trước đây chỉ phổ biến ở
các nước có khí hậu nóng ấm thì nay có nguy cơ lan tràn sang nhiều vùng khác trên toàn thế
giới. Đây là một trong những vấn đề quan trọng hiện đang thách thức các chương trình sức
khoẻ công cộng. Với xu hướng đô thị hoá, các biện pháp kiểm soát vector không hiệu quả
và sự gia tăng của việc đi lại thông thương giữa các nước trên thế giới cũng như sự di cư
của người dân từ nước này sang nước khác là những yếu tố chính dẫn tới sự tái xuất hiện trở
lại các bệnh truyền qua vector. Sự mở rộng của các vùng không có sương tuyết có thể dẫn
tới sự di cư của các loài côn trùng và gặm nhấm làm lây lan các bệnh ở vùng có khí hậu
nóng ấm tới các vùng cao nguyên, đồi núi. Những gì có lợi cho vi sinh vật có hại thì hiếm
khi có lợi cho con người. Nhiệt độ ấm lên trong một thời gian dài do khí hậu thay đổi sẽ tạo
33
điều kiện lý tưởng cho các loài muỗi và nhiều loài vector truyền bệnh khác sinh sôi nảy nở,
làm lây lan các bệnh truyền nhiễm.
(cid:0) Bệnh sốt rét
Vấn đề đang thu hút được sự quan tâm rất lớn là bệnh sốt rét. Sốt rét hiện là một
trong những bệnh truyền nhiễm phổ biến nhất trên thế giới và ước tính có khoảng 300 đến
500 triệu người bị mắc và có thêm khoảng 1,5 đến 2,7 triệu người bị chết hàng năm vì căn
bệnh này. Hơn một nửa trong số các trường hợp bị tử vong là trẻ em, đặc biệt là trẻ em
sống ở những vùng nông thôn nghèo nàn ở Châu Phi - châu lục có nhiều người mắc bệnh
sốt rét nhất (Watson và cộng sự 1995). 60 trong số 380 loài muỗi được biết đến trên thế
giới có khả năng truyền bệnh sốt rét. ở Việt Nam có khoảng 20 loài muỗi truyền bệnh sốt
rét, trong đó một số loài chính là Anophel minimus, Anophel dirus và Anophel
balabasensis … Người ta cho rằng bệnh sốt rét là căn bệnh truyền qua vector chịu ảnh
hưởng lớn nhất của sự thay đổi khí hậu, vì muỗi rất nhạy cảm với những thay đổi thời tiết.
Những thay đổi khí hậu kéo theo thay đổi về nhiệt độ, lượng mưa, độ ẩm và gió sẽ ảnh
hưởng tới vòng đời và sự phát triển của muỗi và gián tiếp ảnh hưởng tới sự lan tràn của
bệnh sốt rét.
Sốt rét do muỗi truyền thường được tìm thấy ở những vùng có nhiệt độ thấp nhất
vào mùa đông không dưới 160C. Sự mở rộng của các vùng có nhiệt độ trên 160C vào mùa
đông đồng thời cũng nới rộng phạm vi hoành hành của căn bệnh sốt rét và gây ra hậu quả
nghiêm trọng cho sức khoẻ con người. Giữa những năm1950, nhiều quốc gia trên thế giới
tin chắc rằng họ sẽ thanh toán được căn bệnh này nhờ phun thuốc DDT liều cao để diệt trừ
muỗi Anopheles. Tuy nhiên, những quốc gia này đã chịu thất bại vì muỗi Anopheles nhanh
chóng trở nên kháng thuốc và càng nguy hiểm hơn cho sức khoẻ cộng đồng. Từ đầu những
năm 1970, căn bệnh này xuất hiện trở lại ở nhiều nơi trên thế giới và dưới dạng nguy hiểm
hơn. Sự gia tăng số trường hợp bị sốt rét trong những năm gần đây một phần là do sự ấm
lên trên toàn cầu, đồng thời do con người xây dựng nhiều đập nước và
các hệ thống tưới tiêu trong nông nghiệp tạo điều kiện thuận lợi cho các quần thể muỗi
sinh sôi phát triển mạnh mẽ làm lây lan căn bệnh này. Theo Tổ chức Y tế Thế giới thì đến
cuối thế kỷ 21, hàng năm sẽ có thêm khoảng 50 - 80 triệu trường hợp bị sốt rét (WHO,
1996).
(cid:0) Sốt xuất huyết
Sốt xuất huyết là căn bệnh nhiệt đới do muỗi truyền. Đây là căn bệnh nguy hiểm do
virus truyền qua muỗi vằn đốt người vào ban ngày. Khí hậu vùng nhiệt đới với nhiệt độ
giao động từ 15 đến 40 0C và độ ẩm cao kết hợp với môi trường sống đông đúc, mất vệ
sinh sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho căn bệnh này phát triển. Căn bệnh này có hai thể: Sốt
Dengue và sốt xuất huyết Dengue. Sốt Dengue có triệu chứng tương tự như cảm cúm,
thường xảy ra ở trẻ lớn, người lớn và ít khi gây tử vong. Trái lại, sốt xuất huyết Dengue là
34
thể thứ phát rất nguy hiểm, có xuất huyết và bệnh nhân có thể bị chết nếu không được
chẩn đoán và điều trị kịp thời (Nguyễn, 1996). Sốt xuất huyết là nguyên nhân hàng đầu
của các trường hợp nhập viện và tử vong của trẻ em ở các nước Đông Nam Á và Tây Á
Thái Bình Dương. Căn bệnh ước tính làm tổn hại tới khoảng 30 đến 60 triệu người hàng
năm (Rodhain, 1996). Ở Việt Nam, sốt xuất huyết xảy ra ở hầu hết các tỉnh thành phố vào
các tháng rải rác trong năm, nhưng tập trung chủ yếu vào các tháng mùa mưa từ tháng 6
đến tháng 10 (Hoàng, 2001). Theo dự đoán của tiến sỹ Epstein thì thay đổi khí hậu là một
nguyên nhân chính gây ra sự lan tràn bệnh sốt xuất huyết. Ngày nay, sốt xuất huyết xuất
hiện khá phổ biến ở các nước Châu Á và Châu Mỹ - La Tinh. Các bằng chứng cho dự
đoán này đó là người ta đã ghi lại các trường hợp bị sốt xuất huyết ở những vùng có độ
cao lớn hơn trước, ví dụ 1.240 mét ở Trung Mỹ, 1.000 mét ở Mêhicô và 2.200 mét ở
Colômbia. Vì hiện nay, sốt xuất huyết chưa có thuốc điều trị đặc hiệu cũng như chưa có
vắc xin phòng bệnh, do đó biện pháp phòng chống tích cực chủ yếu dựa vào sự tham gia
của cộng đồng để diệt muỗi truyền bệnh.
(cid:0) Viêm não truyền qua côn trùng
Đây là một vấn đề cần được đặc biệt quan tâm ở các nước ôn đới. Muỗi có thể
truyền một số loài virus gây các bệnh viêm não ở người. Một trong số các bệnh này là viêm
não Nhật Bản, Eastern Equine (Mỹ), Venezuelan Equine và nhiều bệnh khác. Phổ biến nhất
ở Mỹ là viêm não St. Louis. Các vụ dịch viêm não St. Louis xẩy ra ở Trung Đông có tương
quan với các giai đoạn thời tiết có nhiệt độ cao (trên 300C), đặc biệt là vào những tháng
cuối mùa đông nóng, ẩm ướt và theo sau là mùa hè hạn hán. Tác động sức khoẻ tiêu cực mà
căn bệnh này gây ra cho cộng đồng được chứng minh bằng nhiều vụ dịch xẩy ra hàng năm,
ví dụ như vụ dịch xẩy ra ở Mỹ vào năm 1975 làm 1.815 người bị mắc (WHO, 1996). Hiện
tại, căn bệnh này chỉ mới xảy ra chủ yếu ở các vùng phía Nam nước Mỹ, tuy nhiên với tác
động của sự ấm lên toàn cầu, sự biến đổi các hệ sinh thái thì căn bệnh có xu hướng lan tràn
lên một số vùng phía Bắc và có thể lên tận Canađa.
(cid:0) Hantavirus
Cùng với sự gia tăng của các bệnh phổ biến đã xuất hiện từ lâu thì gần đây có sự
xuất hiện của một số bệnh truyền nhiễm mới ở một số nước trên thế giới. Nhiều loài động
vật như gặm nhấm, dơi và động vật gây hại tham gia vào sự lây truyền các bệnh truyền
nhiễm.
Ví dụ, sự xuất hiện của hội chứng viêm phổi do hantavirus gây ra ở phía trên và
xung quanh vùng Navajo Indian ở Tây Nam nước Mỹ năm 1993 là có liên quan với những
biến đổi xẩy ra trong các quần thể gặm nhấm trong vùng. Hantavirus là một ví dụ điển hình
về vai trò của những thay đổi trong hệ sinh thái trong việc xảy ra các vụ dịch bệnh truyền
nhiễm trong những thập niên gần đây. Sự thay đổi khí hậu bị nghi ngờ là có liên quan tới
những biến đổi trong hệ sinh thái và góp phần làm nẩy sinh dịch bệnh này.
35
Hantavirus được truyền bởi chuột nhắt và con người có thể hít thở loại virus này vào nếu
trong môi trường không khí có nước tiểu hoặc phân của chuột nhắt. Dưới điều kiện bình
thường thì loài chuột nhắt ở sa mạc mang hantavirus sẽ bị kiểm soát bởi các loài thú săn
mồi trong tự nhiên. Tuy nhiên, ở vùng Tây Nam nước Mỹ năm 1991 - 1992, hiện tượng El
Nilno xẩy ra làm hạn hán kéo dài và hậu quả là làm giảm số lượng cá thể của các quần thể
chó sói đồng cỏ, quạ và rắn. Mùa xuân năm 1993, mưa nhiều hơn bình thường làm cho cây
cối và côn trùng phát triển mạnh cung cấp lượng thức ăn dồi dào cho chuột nhắt và tạo điều
kiện cho chúng phát triển sinh sôi nảy nở nhanh hơn các loài là kẻ thù của chúng như chó
sói đồng cỏ, quạ và rắn. Các quần thể chuột nhắt tăng số lượng cá thể lên khoảng 10 đến 15
lần và với số lượng đông đảo, chúng xâm nhập vào nhiều nhà ở vùng Tây Nam và đã dẫn
tới sự gia tăng của các trường hợp mới bị mắc hội chứng hantavirus ở phổi (HPS). Hơn 150
người đã mắc bệnh và hơn một nửa trong số họ bị chết (theo tạp chí Y tế Công cộng của Mỹ
số 85, tác giả Epstein, P. R.). Các vụ dịch HPS cũng đã xẩy ra ở nhiều nước thuộc Châu Mỹ
La tinh từ năm 1995.
3.1.2. Các bệnh truyền qua nước
Mối quan hệ giữa sức khoẻ con người với chất lượng và số lượng nước cung cấp
cũng như các vấn đề về vệ sinh môi trường là khá phức tạp. Do vậy, việc dự đoán những tác
động tiềm tàng mà sự thay đổi các hệ sinh thái và khí hậu có thể gây ra đối với các bệnh
truyền nhiễm liên quan đến nước là không dễ vì cơ hội tiếp cận với nguồn nước sạch và an
toàn phụ thuộc chủ yếu vào các yếu tố kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu cho
thấy các trận bão, lụt có thể làm gia tăng nguy cơ mắc bệnh truyền qua nước do nguồn nước
bị ô nhiễm, vệ sinh môi trường kém hoặc do các yếu tố liên quan khác. Mưa lớn sẽ tạo cơ
hội cho các vi sinh vật nhiễm bẩn nguồn nước uống. Ví dụ, một số vụ dịch cryptosporidiosis,
giardia, tả và các bệnh truyền nhiễm khác đã xảy ra sau các trận mưa lớn ở Anh và Mỹ
(Lisle và Rose, 2001).
Các bệnh truyền qua nước có thể do nhiều loại vi sinh vật gây ra, bao gồm virus, vi
khuẩn và động vật nguyên sinh. Một số bệnh truyền qua nước do virus gây ra bao gồm viêm
gan A, Rotavirus và bệnh do virus Norwalk. Một số vi khuẩn gây bệnh truyền trong nước
bao gồm Vibrio cholerae, Legionella, Salmonella typhi và Shigella. Hai loài động vật
nguyên sinh phổ biến gây bệnh truyền qua nước là Giardia và Cryptosporidum. Sự thay đổi
của khí hậu, mất cân bằng các hệ sinh thái và mối liên quan tới một số bệnh truyền qua
nước do virus, vi khuẩn và động vật nguyên sinh sẽ được bàn tới sau đây.
(cid:0) Rotavirus
Rotavirus thuộc họ Reoviridae gây viêm dạ dày ruột cấp tính. Có tất cả 6 nhóm khác
nhau và 3 trong số này (còn gọi là nhóm A, B và C) lây nhiễm và gây bệnh cho người.
Rotavirus nhóm A là một bệnh dịch phổ biến trên toàn thế giới. Đây là nguyên nhân hàng
đầu gây ỉa chảy ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ, và chiếm khoảng một nửa các ca bị bệnh đường
36
ruột phải đến bệnh viện. Chỉ riêng ở nước Mỹ thì hàng năm cũng có hơn 3 triệu ca viêm dạ
dày ruột do Rotavirus nhóm A gây ra. ở những vùng ôn đới, căn bệnh chủ yếu xẩy ra vào
mùa đông, nhưng ở các nước nhiệt đới thì Rotavirus gây bệnh quanh năm. Rotavirus nhóm
B, hay còn gọi là rotavirus gây tiêu chảy ở người lớn (ADRV) gây ra nhiều vụ dịch tiêu
chảy nguy hiểm. Rotavirus nhóm C lác đác gây ra một vài vụ dịch tiêu chảy ở trẻ em trên
nhiều nước. Tuy nhiên, những vụ dịch đầu tiên đã xẩy ra ở Nhật và Anh (Tổ chức Quản lý
Thuốc và Thực phẩm ở Mỹ, 2002).
Căn bệnh này có thể tự khỏi, mức độ có thể từ nhẹ đến nguy hiểm và thường gồm
các triệu chứng như nôn mửa, ỉa chảy và sốt nhẹ. Rotavirus được lây truyền qua đường
phân - miệng. Sự lây lan từ người này sang người khác thông qua tay bị nhiễm bẩn là con
đường lây truyền quan trọng nhất của Rotavirus trong các cộng đồng sống đông đúc, chật
hẹp. Liều lây nhiễm ước tính khoảng từ 10 đến 100 virus. Vì người bệnh thường thải ra
virus với số lượng lớn (khoảng 108 - 1010 virus/100ml phân), do đó chúng ta rất dễ mắc
bệnh khi tiếp xúc với tay, bát đũa hay các vật dụng khác bị nhiễm bẩn. Rotavirus tồn tại khá
bền vững trong môi trường và công tác vệ sinh an toàn thực phẩm và vệ sinh môi trường
yếu kém là một trong những nguyên nhân chính làm lây lan căn bệnh này. Tháng 8 năm
1998, Tổ chức Quản lý Thuốc và Thực phẩm ở Mỹ đã thông qua việc sử dụng vaccine
phòng rotavirus cho trẻ sơ sinh.
(cid:0) Bệnh tả
Sự ấm lên trên toàn cầu và những thay đổi về nhiệt độ bề mặt nước biển cũng có thể
dẫn tới sự gia tăng các bệnh lây truyền qua đường nước như bệnh tả do vi khuẩn tẩy.
Ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy các loài thực vật phù du là nơi trú ẩn của các vi
khuẩn tẩy giống bào tử ngủ. Chúng trú ngụ ở dưới các lớp tảo dày. Khi đại dương ấm lên,
các thực vật phù du sinh sôi nảy nở và theo đó các khuẩn hình que gây bệnh tả xuất hiện
trở lại dưới dạng lây nhiễm. Nói một cách khác, những thay đổi của hệ sinh thái đại
dương đóng vai trò hết sức quan trọng trong sự lây truyền bệnh tả (Colwell, 1996). Theo
tiến sỹ Paul Epstein, một số bệnh lây nhiễm qua nước như tả đang hoành hành ở nhiều
quốc gia và gây hậu quả nặng nề chưa từng thấy. Ông cho rằng đây là một trong những
hậu quả của thay đổi khí hậu và mất cân bằng sinh thái. Năm 1991, đại dịch tả đã lan
truyền tới các nước Châu Mỹ và trong vòng 18 tháng đầu tiên đã có hơn nửa triệu người
mắc bệnh ở Châu Mỹ - La Tinh, làm hơn 5000 người chết. Epstein cũng ghi lại rằng vào
cuối năm 1992, một dòng Vibrio cholera mới, được gọi là O 139 Bengal, xuất hiện ở ấn
Độ - dọc theo bờ của Vịnh Bengal. Nhiều cộng đồng dân cư không được tiêm phòng miễn
dịch từ trước nên căn bệnh này đã lan tràn sang nhiều nước khu vực lân cận và đe doạ trở
thành đại dịch tả lần thứ 8 xảy ra trên thế giới. Theo Epstein, sự xuất hiện của căn bệnh
mới này là kết quả của sự tương tác giữa vi sinh vật, con người và các yếu tố môi trường
sinh thái. Vụ dịch tả lớn nhất xảy ra ở Rwanda vào năm 1994 làm hơn 40.000 người bị
37
chết chỉ trong vài tuần.
(cid:0) Cryptosporidiosis
Cryptosporidiosis là một bệnh đường ruột do động vật ký sinh Cryptosporidium gây
ra. Khoảng 400 - 500 người bị nhiễm ở New York mỗi năm. Căn bệnh này được phát hiện
lần đầu tiên vào năm 1976 và được đưa vào danh sách các bệnh truyền nhiễm ở Mỹ vào
tháng 2 năm 1994. Triệu chứng chính của Cryptosporidiosis là ỉa chảy, đau bụng, buồn nôn,
nôn, nóng, đau đầu và ăn không ngon miệng. Nhiều người bị nhiễm Cryptosporidium nhưng
không có biểu hiện lâm sàng. Tất cả mọi người đều có nguy cơ bị nhiễm bệnh. ở những cá
thể khoẻ mạnh với hệ miễn dịch hoạt động bình htường thì các triệu chứng sẽ kéo dài trong
vòng 2 tuần hoặc ngắn hơn.
Tuy nhiên, ở những người bị suy giảm hệ miễn dịch thì căn bệnh có thể kéo dài và
nguy hiểm đến tính mạng. Cryptosporidium tồn tại trong phân của người bệnh hay phân của
động vật. Bệnh này được truyền từ người này sang người khác hay từ động vật sang người
thông qua môi trường nước. Nếu một người uống phải nước bị nhiễm bẩn có chứa
Cryptosporidium mà không được xử lý cẩn thận thì sẽ bị nhiễm bệnh. Để đề phòng căn
bệnh này, ngoài việc bảo vệ nguồn nước khỏi bị ô nhiễm phân người và động vật, các nhà
máy xử lý nước ống và sinh hoạt phải áp dụng các biện pháp lọc và xử lý hữu hiệu thì
chúng ta còn phải thực hiện tốt công tác vệ sinh cá nhân và luôn ăn chín uống sôi.
(cid:0) Ngộ độc thực phẩm do tảo độc
Sự ấm lên của nước biển cũng kích thích sự sinh trưởng và phát triển của các loài
tảo độc và sự kiện này thường được gọi là thuỷ triều đỏ "red tides". Các loài cá và động vật
có vỏ (như trai, sò, cua, tôm ...) ăn tảo độc và độc tố sẽ tích tụ lại trong cơ thể của chúng.
Đến lượt chúng ta ăn các loài hải sản này và bị nghộ độc thực phẩm. ở Ôxtrâylia và một số
nước khác trên thế giới đã xẩy ra nhiều vụ ngộ độc thực phẩm do thuỷ triều đỏ.
Tất cả những vấn đề đã nêu trên đây cho thấy: khí hậu thay đổi có thể tạo ra những
thách thức lớn nhất cho ngành y tế công cộng trong thế kỷ 21. Chúng ta có thể phải đối mặt
với nhiều vấn đề về sức khoẻ và môi trường ở một diện rộng lớn mà chúng ta chưa từng gặp
phải.
3.1.3. Bệnh truyền qua không khí
(cid:0) Lao kháng thuốc (Multidrug resistant tuberculosis)
Lao phổi (TB) là một bệnh dịch đe doạ sức khoẻ cộng đồng trên thế giới. Bệnh do vi
khuẩn Mycobacterium tuberculosis gây ra và lây lan từ người này sang người khác qua
đường hô hấp. Vi khuẩn Mycobacterium tuberculosis đã gây bệnh và tử vong ở người từ
hàng nhiều thế kỷ nay nhưng đến năm 1882 thì tubercle bacillus mới được biết tới. Đến
những năm cuối 1940 thì thuốc chống TB hữu hiệu đầu tiên (streptomycin và axit p –amino
- salicylic) mới được sản xuất. Đến năm 1952, người ta sản xuất ra isoniazid (INH) để điều
38
trị TB ( McCray et al. 1997).
Trước đây, người ta chỉ điều trị TB bằng một loại thuốc, tuy nhiên đến đầu những
năm 1950 thì có sự xuất hiện của các dòng vi khuẩn M. tuberculosis kháng thuốc (và gần
đây thì xuất hiện các dòng kháng từ 2 loại thuốc chính điều trị TB trở lên) nên đòi hỏi phải
có sự kết hợp của nhiều loại thuốc trong điều trị. ở Mỹ giai đoạn từ 1950 đến 1985 đã có
nhiều cải cách trong các chính sách y tế công cộng kết hợp với việc điều trị kết hợp nhiêù
loại thuốc nên số trường hợp mắc TB đã giảm đáng kể. Tuy nhiên, từ 1985 đến 1992, số
trường hợp bị TB lại tăng lên rất nhanh. Người ta cho rằng một số nguyên nhân dẫn đến sự
gia tăng dịch TB là do sự xuất hiện của đại dịch HIV AIDS, việc điều trị TB không đúng
hoặc không triệt để (làm gia tăng vi khuẩn kháng thuốc) và sự đi lại thông thương giữa các
nước trên thế giới làm lây lan căn bệnh này. Tỉ lệ mới mắc vi khuẩn lao kháng thuốc ở Mỹ
tăng lên từ 2% đến 9% trong 3 thập kỷ qua. TB là căn bệnh truyền nhiễm gây tử vong hàng
đầu trên thế giới và hàng năm thì có khoảng 3 triệu người chết vì căn bệnh này. Từ 1992
đến nay thì số trường hợp bị TB có xu hướng giảm xuống và ở Mỹ từ 1992 đến 2000 số
trường hợp bị TB giảm được 39%.
3.2. Các bệnh không truyền nhiễm
(cid:0) Ung thư
Ung thư là một bệnh mà cơ chế là có một số tế bào tăng sinh hỗn loạn, không kiểm
soát được và liên tục. Ung thư có hơn 100 dạng khác nhau, và là nguyên nhân thứ hai gây tử
vong ở Mỹ với hơn 500.000 ca tử vong hàng năm. Có nhiều nguyên nhân gây ung thư và
các nguyên nhân chính gây ung thư ở người được xếp vào 3 nhóm như sau: các chất hoá
học, virút và phóng xạ.
(cid:0) Các bệnh liên quan đến hoá chất
Với sự phát triển của ngành công nghiệp hoá chất, ngày càng có nhiều người làm
việc trong môi trường có nguy cơ phơi nhiễm cao với các hoá chất độc hại, đặc biệt là các
chất có khả năng gây ung thư. Ví dụ, công nghiệp hoá chất sản xuất thuốc nhuộm, các cơ sở
thuộc da, sản xuất rượu sopropyl, nhựa và các sản phẩm của dầu mỏ. Phơi nhiễm với các
hoá chất ở nơi làm việc ứơc tính gây ra 2 đến 8% số trường hợp ung thư. Thuốc lá gây ra
khoảng 1 phần 3 số trường hợp bị ung thư vì tất cả các nguyên nhân. Thuốc lá liên quan tới
ung thư phổi, ung thư miệng, cổ họng, thực quản, lách, bàng quang và thận. Những người
vừa nghiện thuốc và nghiện rượu thì có nguy cơ bị ung thư cao hơn những người khác 35
lần. Những chất hoá học trong thức ăn mà chúng ta ăn vào hàng ngày ước tính gây ra
khoảng một phần 3 tới một nửa số trường hợp bị tử vong. Chất Aflatoxin là một độc chất có
tự nhiên trong một số loài nấm mốc và ước tính là nguyên nhân hàng đầu gây ung thư gan ở
những nước đang phát triển.
(cid:0) Virus
39
Một số loài virus có liên quan mật thiết với ung thư ở người như virus viêm gan B, virus
Epstein - Barr, virus papiloma ở người, virus loại 1 và loại 2 tấn công tế bào lympho T
(HTLV - 1, HTLV - 2), và HIV.
(cid:0) Phóng xạ
Phóng xạ nguyên tử hoặc phóng xạ ion hoá và tia tử ngoài (UV) từ mặt trời có thể gây ung
thư. Nồng độ phóng xạ ion hoá cao làm tăng rủi ro bị ung thư ví dụ như trong các tai nạn nổ
nhà máy nguyên tử hay trong một số phương pháp điều trị bệnh Tuy nhiên, đối với phương
pháp điều trị bằng tia X - quang liều thấp thì nguy cơ bị ung thư là thấp.
Ô nhiễm môi trường là nguyên nhân gây ra khoảng 2% tử vong do ung thư. Một
trong những chất ô nhiễm chính đó là các hyđrocacbon vòng thơm, được tạo ra do hoạt
động đốt cháy gỗ, thuốc lá và các nhiên liệu hoá thạch. Các hợp chất chứa Clo cũng là một
trong những chất ô nhiễm chính trong nước có liên quan tới ung thư ở động vật. Một số
hocmon tổng hợp và thuốc cũng có thể gây ung thư hay có liên quan tới ung thư ở người.
Ví dụ một số thuốc chống ung thư, đặc biệt là các hợp chất ankyl như
cyclophosphamide và chlorambucil; steroids đồng hoá; estrogens tổng hợp như
diethylstilbestrol, conjugated estrogens, và thuốc tránh thai chứa estrogen. Môi trường ô
nhiễm, hệ sinh thái thay đổi đã có nhiều tác động đến bệnh ung thư. Nổi bật nhất là mối
tương quan giữa suy giảm tầng ô zôn và gia tăng tỉ lệ mắc bệnh ung thư da ở nhiều nơi trên
thế giới, đặc biệt là ở Ôxtrâylia, Newzeland, và Chilê v.v.
(cid:0) Ung thư da
Nồng độ của tia tử ngoại ngày nay cao hơn nhiều so với 50 năm hay 100 năm trước đây.
Đây là hậu quả của sự suy giảm tầng ô zôn ở tầng bình lưu (tạo ra các lỗ thủng tầng ô zôn).
Tầng ô zôn có tác dụng hấp thụ tia tử ngoại và làm giảm đáng kể lượng tia tử ngoại chiếu
vào trái đất. Do hoạt động của con người trong những thập niên gần đây, không khí bị ô
nhiễm, tầng ô zôn bị suy giảm và chúng ta phơi nhiễm với tia tử ngoại ở nồng độ cao hơn
trước đây. Một số yếu tố khác có tác động đến sự phơi nhiễm tia tử ngoại là: độ cao, vĩ độ
và sự bao phủ của mây. Độ cao tăng lên thì nồng độ UV cũng tăng lên, vì ở trên cao không
khí loãng hơn ở mực nước biển vì vậy chúng hấp thụ UV kém hơn. Tia tử ngoại cũng mạnh
nhất ở vùng gần xích đạo. Tuy nhiên, do lỗ thủng tầng ô zôn ở bán cầu nam nên Nam Cực,
Chi Lê, và New Zealand cũng có nồng độ UV cao hơn bình thường. Một yếu tố làm giảm
UV là sự che phủ của mây. Khí hậu và vi khí hậu với mây che phủ có thể làm giảm nồng độ
UV có thể tới 50%.
(cid:0) Hen suyễn
Trong những thập niên gần đây, ô nhiễm không khí với sự gia tăng nồng độ của khí
ô zôn và sưng mù hoá học cũng như sự ấm lên của toàn cầu đã làm gia tăng các trường hợp
bị hen suyễn cùng với nhiều bệnh hô hấp khác. Hen suyễn là bệnh hô hấp mãn tính với các
40
triệu chứng khó thở do viêm đường hô hấp. Có nhiều tác nhân gây kích thích sự nhạy cảm
của đường hô hấp, và làm cho bề mặt đường hô hấp bị sưng lên, lớp màng nhầy cản trở
không khí chuyển động và các cơ ở xung quanh đường hô hấp bị thắt chặt
(bronchospasm).
Những thay đổi này làm hẹp đường hô hấp và cuối cùng bệnh nhân sẽ cảm thấy khó
thở và có các triệu chứng của bệnh hen. Các triệu chứng của căn bệnh này có thể khác nhau
giữa các cá thể và bao gồm các triệu chứng sau đây:
- Thở khò khè
- Thở gấp
- Ngực bị nghẹt
- Ho khó kiểm soát
- Ho liên tục vào ban đêm
- Khó thở trong hoặc sau khi làm việc nặng nhọc hay tập thể dục quá sức
Những người bị bệnh hen rất nhạy cảm với các tác nhân mà có thể không hề ảnh
hưởng tới người khoẻ mạnh. Những tác nhân kích thích chứng hen suyễn có thể khác nhau
giữa các cá thể nhưng những tác nhân phổ biến nhất là:
- Các chất gây dị ứng - là các nhân tố gây phản ứng làm dị ứng bao gồm: bét/ve đất, nấm
mốc, gián và chất thải của chúng
- Chất gây kích thích trong không khí bao gồm: khói thuốc, khói từ đốt củi, than, cháy
rừng và các hơi khói hoặc mùi khó chịu khác như các dung dịch dùng để phun trong nhà,
sơn, dầu hoả, nước hoa và xà phòng thơm.
- Nhiễm khuẩn đường hô hấp như cảm lạnh, cúm, đau cổ họng và viêm xoang
- Tập thể dục hay một số hoạt động khác làm người bệnh thở mạnh hơn
- Thời tiết, đặc biệt là gió khô, không khí lạnh và thay đổi đột ngột
Ước tính ở Mỹ có 12,4 triệu người bị hen và 4,2 triệu trong số này dưới 18 tuổi. Hen
suyễn là một bệnh mãn tính phổ biến nhất ở trẻ em ở nhiều nước trên thế giới
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoàng, H. 'Đề phòng dịch bệnh sốt xuất huyết trong mùa mưa'. Báo Sức khoẻ và
Đời sống, số 138, tháng 8/2001, trang 7 - 8.
2. Nguyễn T. H. 'Sốt xuất huyết'. Báo Sức khoẻ và Đời sống. Số 6, tháng 9/1996, trang
15. 3. Alleyne, G. A. O. (1998) "Emerging diseases - What now?" in Emerging Infectious
Diseases, Vol 4, No. 3, Pan American Health Organisation, Washington, D.C., USA.
4. Centers for Disease Control (1994e). Written communication from Division "Vector -
borne Diseases Database." Atlanta, CDC, US Department of Health and Human Services.
41
5. Colwell, RR (1996). "Global Climate Change and Infectious Diseases: The Cholera
Paradigm." Science, 274:2025 - 2031.
6. Epstein, PR, "Emerging Diseases and Ecosystem Instability: New Threats to Public
Health." American Journal of Public Health, 85(2): 168 - 172.
7. Lawton, J. and R. May, editors. 1995. Extinction Raté. Oxford University Press,
Oxford
8. "Human Population Health." In: Watson, RT., Zinyowera, MC. & Moss, RH (eds.)
Climate Change 1995. Impacts, Adaptions and Mitigation of Climate Change: Scientific
technical Analyses (pp. 561 - 584). Contribution of Working Group II to the Second
Assessment Report of the Intergovernmental Panel on Climate Change. Cambridge,
New York: Cambridge University Press.
9. Naylor, R. and P. Ehrlich. 1997. The value of natural pest control services in
agriculture. Pages 151 - 174 in G. Daily, editor. Nature's Services: Social Dependence on
Natural Ecosystems, Island Press, Washington, D.C.
10. Sir McCartney P. (2002). Global Environmental Change: Human Impacts “...in this
ever-changing world in which we live in”.
11. McCray E, Weinbaum CM, Braden CR. The epidemiology of tuberculosis in the
United States. Clin Chest Med. 1997;18:99 - 113.
12. Rodhain, F. (1996). "Dengue: The situation of Dengue in the World." Bull Soc Pathol
Exot, 89(2): 87 - 90.
13. Sidney, S. and Raso, J. 1998. Global Climate Change and Human Health, American
Council on Science and Health.
14. U.S. Food & Drug Administration - Center for Food Safety & Applied Nutrition
15. Foodborne Pathogenic Microorganisms and Natural Toxins Handbook, 02/2002
16. World Health Organization (1996). "Climate Change and Human Health." Geneva,
Switzerland: World Health Organization.
42
CHƯƠNG 3: QUẢN LÝ SỨC KHOẺ MÔI TRƯỜNG
PHẦN I - LƯỢNG GIÁ NGUY CƠ SỨC KHỎE MÔI TRƯỜNG
(ENVIRONMENTAL HEALTH RISK ASSESSMENT)
Mục tiêu bài giảng: Sau khi học xong bài này, sinh viên có khả năng:
1. Trình bày được khái niệm nguy cơ sức khỏe môi trường (SKMT) và các yếu tố quyết
định nguy cơ SKMT
2. Trình bày được các yếu tố ảnh hưởng tới nhận thức nguy cơ SKMT
3. Trình bày được định nghĩa về lượng giá nguy cơ SKMT và những yếu tố cơ bản của các
khung lượng giá nguy cơ sức khỏe/SKMT
4. Trình bày được các bước trong khung lượng giá nguy cơ SKMT và mối quan hệ giữa
lượng giá nguy cơ SKMT với quản lý nguy cơ SKMT
5. Áp dụng được khung lượng giá nguy cơ SKMT để lượng giá nguy cơ SKMT trong các
trường hợp thực tế.
I. KHÁI NIỆM VÀ NHẬN THỨC VỀ NGUY CƠ SỨC KHỎE MÔI TRƯỜNG
1. Khái niệm nguy cơ sức khỏe môi trường
Bài này giới thiệu về phương pháp lượng giá nguy cơ sức khỏe do tiếp xúc với các
yếu tố hoặc chất ô nhiễm môi trường. Nhưng trước tiên, chúng ta cần tìm hiểu nguy cơ sức
khỏe môi trường (SKMT) là gì và các yếu tố nào quyết định nguy cơ SKMT. Theo Ropeik
và Grey (2002) nguy cơ được định nghĩa là “xác suất mà việc phơi nhiễm với yếu tố nguy
cơ sẽ để lại một hậu quả xấu”. Định nghĩa này bao gồm các yếu tố cơ bản tạo nên nguy
cơ như xác suất, yếu tố nguy cơ, phơi nhiễm và hậu quả. Xác suất là một yếu tố mang
tính thống kê nhằm mô tả khả năng một việc gì đó sẽ xẩy ra, ví dụ “nguy cơ bị ung thư
do tiêu thụ dioxin ở mức 0,01 pg TEQ/kg trọng lượng cơ thể/ngày trong suốt cuộc đời (70
năm) là 1 trên 1 triệu người tiếp xúc” (Center for Health 1999).
Yếu tố nguy cơ là khả năng một chất hay một yếu tố sẽ gây ra một tác động tiêu
cực lên sức khỏe nếu có sự tiếp xúc. Sự phơi nhiễm là sự tiếp xúc giữa chất hay yếu tố ô
nhiễm môi trường với yếu tố đích, dẫn đến sự thấm nhiễm; ví dụ trẻ em tiếp xúc với chì
trong đất dẫn đến bị nhiễm độc chì. Hậu quả là những tác động xấu tới sức khỏe do việc tiếp
xúc với yếu tố hay chất ô nhiễm môi trường.
Hội đồng Sức khỏe Môi trường Ôxtrâylia đưa ra định nghĩa nguy cơ SKMT như
sau:
“Nguy cơ SKMT là xác suất một hậu quả xấu sẽ xẩy ra trong một khoảng thời gian nào
đó, trên một người, một nhóm người, hay trên cây cối, động vật hay hệ sinh thái của một
43
vùng nào đó do tiếp xúc với một yếu tố nguy cơ ở một liều hay nồng độ nhất định”
(Australian enHealth Council 2004).
Như vậy, nguy cơ phụ thuộc vào mức độ độc hại của chất phơi nhiễm và mức độ
phơi nhiễm (được quyết định bởi thời gian và tần suất phơi nhiễm). Nếu không có sự
phơi nhiễm thì sẽ không có nguy cơ. Theo hai định nghĩa ở trên, nguy cơ được mô tả bằng
công thức sau đây:
Nguy cơ = Xác suất x Hậu quả x Yếu tố nguy cơ x Tiếp xúc
(Risk = Probability x Consequences x Hazard x Exposure)
Công thức này giúp chúng ta hiểu các yếu tố quyết định nguy cơ, còn trên thực tế
không thể dùng để tính nguy cơ định lượng.
Ngoài hai định nghĩa nêu trên, Ủy ban Quốc hội Mỹ cũng đưa ra định nghĩa về
Lượng giá và Quản lý Nguy cơ (U.S. P/CCRARM 1997) và được sử dụng khá rộng rãi
trong lĩnh vực y tế công cộng. Theo đó nguy cơ được định nghĩa là “xác suất mà một
chất hay một tình huống nào đó, trong một số điều kiện nhất định, sẽ để lại tác hại”. Nguy
cơ được tạo thành bởi hai yếu tố, đó là xác suất một tác động có hại sẽ xẩy ra (ví dụ xác
suất một bệnh hay một chấn thương nào đó sẽ xẩy ra) và hậu quả của tác động đó (ví
dụ chấn thương sọ não, tử vong). Theo định nghĩa này, nguy cơ được mô tả bằng công thức
sau:
Nguy cơ = Xác suất một tác động có hại xẩy ra x hậu quả của tác động có hại
(Risk = Probability of an adverse event x Consequences of the adverse event)
2. Nhận thức về nguy cơ sức khỏe môi trường
Theo các nhà khoa học, nguy cơ SKMT có thể được lượng giá một cách định lượng
và khách quan. Việc lượng giá nguy cơ khách quan giúp xác định nguy cơ đó ảnh hưởng
tới sức khỏe như thế nào. Tuy nhiên, có rất nhiều bằng chứng từ các nghiên cứu xã hội học
cho thấy nhận thức về nguy cơ còn mang tính chủ quan và được quyết định bởi nhiều yếu
tố định tính như nhận thức của mỗi cá nhân, các giá trị văn hóa, các quan niệm xã hội, sự
xúc cảm, khả năng kiểm soát tình huống v.v. (Slovic 1997; Thomas & Hrudey 1997). Tất
cả mọi người, bất kể là chuyên gia hay là cộng đồng, trong quá trình lượng giá nguy cơ đều
bị tác động bởi những cảm xúc, niềm tin, cũng như cách nhìn nhận về thế giới xung
quanh. Mỗi người nhận thức về nguy cơ khác nhau và cộng đồng thường nhận thức về
nguy cơ khác với các nhà khoa học. Cách đây gần hai thập kỷ, Sandman (1987) đã đưa
ra định nghĩa về nguy cơ mà hiện vẫn được áp dụng rộng rãi, nhất là trong lĩnh vực truyền
thông nguy cơ. Theo Sandman thì nguy cơ được quyết định bởi yếu tố nguy cơ (là đánh giá
định lượng và khách quan về nguy cơ của các nhà khoa học) và phản ứng bất bình của cộng
đồng (là đánh giá mang tính chất định tính và chủ quan của cộng đồng). Như vậy, theo
Sandman thì nguy cơ được thể hiện theo công thức sau:
44
Nguy cơ = Yếu tố nguy cơ + Phản ứng bất bình của cộng đồng.
(Risk = Hazard + Outrage)
Thông thường, mỗi cá nhân thường nhận thức về một nguy cơ nào đó khác nhau
do mỗi người có đánh giá khác nhau về xác suất xẩy ra tác động có hại cũng như hậu quả
của nó. Cách nhìn nhận và đánh giá hậu qủa của những hoạt động mà chúng ta tham gia (ví
dụ đua xe, vượt đèn đỏ, hút thuốc lá, uống rượu,ăn thịt gia cầm bị bệnh, ăn gỏi cá v.v.) sẽ
quyết định việc nguy cơ đó có được chúng ta chấp nhận hay không. Có rất nhiều mô hình
khác nhau giải thích về việc nhận thức nguy cơ của con người. Tác giả Renn (2004) đưa ra
các mô hình nhận thức sau đây để giải thích việc mỗi người nhận thức một nguy cơ nào đó
theo các cách khác nhau: nguy cơ như là một mối nguy hiểm chết người, nguy cơ như là số
mệnh, nguy cơ như là sự thử thách sức mạnh và lòng dũng cảm, nguy cơ như là trò chơi
của sự may rủi, hay nguy cơ như là một chỉ số cảnh báo sớm.
Như vậy, tùy thuộc vào mô hình nhận thức nguy cơ được sử dụng trong quá trình lượng
giá nguy cơ SKMT sẽ ảnh hưởng rất lớn tới quyết định của chúng ta về những nguy cơ
này.
Ví dụ:
Rất nhiều người hiểu rằng hút thuốc lá trong thời gian dài sẽ tăng nguy cơ bị ung
thư ở các cơ quan khác nhau như phổi, họng, thực quản, thanh quản v.v.; uống rượu sẽ
tăng nguy cơ bị ung thư gan, hầu, thực quản; ăn gỏi cá sẽ có nguy cơ bị nhiễm sán lá gan,
hay phơi nắng ở những nước có vấn đề về lỗ thủng tầng ô zôn như ở Ôxtrâylia sẽ tăng nguy
cơ bị ung thư da. Tuy nhiên, trong thực tế, nhiều người coi những nguy cơ này là số mệnh,
là trò chơi của sự may rủi và sẵn sàng chấp nhận nguy cơ để đổi lấy những giây phút thư
giãn, cảm giác ngon miệng, hay để có làn da nâu được coi là khỏe mạnh và quyến rũ.
Ngoài những mô hình nhận thức nguy cơ trên đây còn có nhiều yếu tố ảnh
hưởng đến cách cộng đồng lượng giá nguy cơ SKMT. Thông thường, cộng đồng phản
ứng mạnh mẽ với những nguy cơ mang tính chất áp đặt hơn nguy cơ tự nguyện, nguy cơ do
con người tạo ra hơn là nguy cơ do thiên tai, nguy cơ không quen thuộc hơn nguy cơ quen
thuộc, nguy cơ ảnh hưởng đến trẻ em hay phụ nữ mang thai hơn nguy cơ ảnh hưởng đến
nam giới ở tuổi trưởng thành v.v. (Starr và cộng sự 2000).
Bảng 3.1 mô tả 10 yếu tố phổ biến ảnh hưởng đến nhận thức nguy cơ sức khỏe
môi trường của cộng đồng và do đó làm giảm hoặc tăng nguy cơ:
Các yếu tố làm giảm sự bất bình/lo lắng Các yếu tố làm tăng sự bất bình/lo lắng
của cộng đồng của cộng đồng
Nguy cơ tự nguyện Nguy cơ bị ép buộc
Cộng đồng có khả năng kiểm soát Cộng đồng không có khả năng kiểm
45
soát
Phân bố công bằng Phân bố bất công, chỉ mốt số
người/nhóm người hứng chịu nguy cơ
Nguy cơ thông thường Nguy cơ đáng nhớ
Nguy cơ không gây sợ hãi Nguy cơ gây sợ hãi
Nguy cơ tự nhiên Nguy cơ nhân tạo
Nguy cơ chưa được hiểu rõ, còn có Nguy cơ được hiểu rõ nhiều điểm nghi ngờ, không chắc chắn
Nguy cơ quen thuộc Nguy cơ không quen thuộc
Nguy cơ chấp nhận được về mặt đạo Nguy cơ không chấp nhận được về
đức, luân lý mặt đạo đức, luân lý
Nguy cơ được truyền thông từ nguồn Nguy cơ được truyền thông từ nguồn
đáng tin cậy không đáng tin cậy
Những yếu tố mô tả ở Bảng 3.1 cùng với trình độ nhận thức của mỗi cá nhân và các
yếu tố văn hóa xã hội khác nhau dẫn tới một thực tế là mỗi người nhận thức về nguy cơ
khác nhau và cộng đồng nhận thức về nguy cơ khác với các chuyên gia. Hiện nay, tình
hình dịch cúm gia cầm và cúm A (H5N1) trên người đang diễn biến phức tạp ở Việt Nam và
một số nước trên thế giới. Tổ chức Y tế thế giới cảnh báo về nguy cơ biến thể của virut gây
bệnh cúm gia cầm H5N1 để lây từ người sang người và gây ra đại dịch cúm trên toàn
cầu. Mặc dù theo thống kê của WHO (2006), kể từ khi cúm gia cầm xuất hiện tại châu
Á vào cuối năm 2003 thì trên thế giới mới có hơn 150 người tử vong vì bệnh này. So với
bệnh sốt xuất huyết dengue với khoảng 500.000 ca mắc phải nhập viện và ít nhất là 12.000
ca tử vong mỗi năm (riêng năm 1998, Việt Nam có 234.920 ca mắc và 377 ca tử vong do
sốt xuất huyết) (Secretariat of Fifty-fifth World Health Assembly 2002, Vũ Sinh Nam &
Kay 2005) thì cúm gia cầm hiện gây thiệt hại về người nhỏ hơn nhiều so với bệnh sốt xuất
huyết dengue.
Tuy nhiên, trong mấy năm qua, thế giới rất quan tâm tới dịch cúm gia cầm và đánh
giá đây là nguy cơ cao vì cộng đồng chưa được hiểu rõ về bệnh này và nếu virut biến thể
để lây từ người sang người thì rất khó để kiểm soát bệnh dịch. Ngoài ra, đây cũng là
nguy cơ không quen thuộc và dễ gây hoang mang sợ hãi vì một khi mắc bệnh thì nguy cơ
bị tử vong là rất cao. Những yếu tố này làm tăng sự lo lắng/quan tâm của cộng đồng và
do đó làm tăng nguy cơ. Trong khi đó, bệnh sốt xuất huyết mặc dù chưa có vacxin phòng
bệnh và thuốc điều trị đặc hiệu, cũng như có tỉ lệ mắc và tử vong trên 100.000 dân cao
hơn rất nhiều so với bệnh cúm A (H5N1) nhưng đây là nguy cơ quen thuộc, không gây
46
hoang mang lo lắng trong cộng đồng nên bệnh ít được quan tâm hơn và cộng đồng cũng
đánh giá nguy cơ thấp hơn so với thực tế.
Ngoài ra, một số nghiên cứu khoa học cũng chỉ ra rằng trong các tổ
chức, người quản lý cũng thường có nhận thức về nguy cơ khác với những người làm công
tác chuyên môn (Mertz và cộng sự 1998). Như vậy, các chuyên gia lượng giá nguy cơ cũng
cần phải cân nhắc kỹ và đưa ra thông điệp truyền thông nguy cơ phù hợp khi họ báo cáo
kết quả lượng giá nguy cơ với người làm công tác quản lý cũng như khi truyền thông tới
cộng đồng. Mục tiêu của lượng giá nguy cơ SKMT là ước lượng nguy cơ đúng với thực
tế; còn mục tiêu của truyền thông nguy cơ là giúp cho cộng đồng và các bên liên quan
nhận thức đúng mức độ nguy cơ. Hai khái niệm lượng giá nguy cơ SKMT và truyền thông
nguy cơ SKMT sẽ được mô tả chi tiết ở phần tiếp theo.
II. LƯỢNG GIÁ NGUY CƠ VÀ KHUNG LƯỢNG GIÁ NGUY CƠ SKMT
1. Định nghĩa về lượng giá nguy cơ SKMT
Hội đồng SKMT Ôxtrây đưa ra định nghĩa về lượng giá nguy cơ SKMT như
sau:
“Lượng giá nguy cơ là một quy trình và phương pháp nhằm ước lượng những tác động
tiềm tàng của việc tiếp xúc với một yếu tố nguy cơ hóa học, vật lý, sinh học, hay tâm lý xã
hội lên một cộng đồng cụ thể dưới một số điều kiện và trong một khoảng thời gian xác
định” (Australian enHealth Council 2004).
Theo Hội đồng này, quy trình lượng giá nguy cơ sức khỏe môi trường gồm 5
bước chính, đó là: xác định vấn đề, xác định yếu tố nguy cơ, lượng giá mối quan hệ
liều-đáp ứng, lượng giá phơi nhiễm và mô tả nguy cơ. Năm bước này sẽ được mô tả chi tiết
ở mục III.
Ngoài ra, định nghĩa về Lượng giá và Quản lý nguy cơ của Ủy ban Quốc hội Mỹ
(1997) cũng được sử dụng rộng rãi trong lĩnh vực SKMT. Theo đó, lượng giá nguy cơ
SKMT được định nghĩa là:
“Một quy trình có tổ chức nhằm mô tả và ước lượng khả năng của việc tiếp xúc với yếu tố
nguy cơ sức khỏe môi trường sẽ để lại hậu quả xấu cho sức khỏe. Quy trình này bao gồm 4
bước chính, đó là: xác định yếu tố nguy cơ, lượng giá mối quan hệ liều-đáp ứng, lượng giá
phơi nhiễm và mô tả nguy cơ” (U.S. Presidential/ Congressional Commission 1997).
2. Các khung lượng giá nguy cơ sức khỏe
Trên thế giới hiện có rất nhiều khung lượng giá nguy cơ sức khỏe khác nhau được
sử dụng như là những công cụ thiết thực cho việc phân tích, lượng giá và truyền thông
nguy cơ sức khỏe một cách có hệ thống. Mặc dù những khung lượng giá nguy cơ này
được xây dựng để lượng giá các loại nguy cơ khác nhau, nhưng cách tiếp cận cũng như các
bước của những khung lượng giá này lại có nhiều điểm tương đồng.
47
Tác giả Jardine và cộng sự (2003) đã nghiên cứu kỹ 12 khung lượng giá và quản lý
nguy cơ sức khỏe được coi là chuẩn mực trên thế giới và đưa ra 7 yếu tố chính cần có của
khung lượng giá và quản lý nguy cơ sức khỏe môi trường, sinh thái và sức khỏe nghề
nghiệp, đó là: bước xác định vấn đề, sự tham gia của các bên liên quan, truyền thông
nguy cơ, các bước lượng giá nguy cơ, đánh giá, cung cấp thông tin cho việc ra quyết định
và tính linh hoạt. Bảng 3.2 so sánh các bước của một số khung lượng giá và quản lý nguy
cơ sức khỏe/SKMT được áp dụng rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới.
Bảng 3.2. Các bước của khung lượng giá và quản lý nguy cơ sức khỏe/SKMT
(Nguồn: enHealth Council 2004; U.S Presidential/ Congressional Commission 1997; U.S.
National Research Council, 1983)
Khung lượng giá và quản lý nguy cơ sức Khung lượng giá và quản lý nguy cơ khỏe của Hội đồng Nghiên cứu SKMT của Hội đồng Sức khỏe Môi Quốc gia Mỹ (U.S. trường Ôxtrâylia (enHealth Council 2004) National Research Council, 1983)
Xác định vấn đề Xác định vấn đề
Xác định yếu tố nguy cơ Xác định yếu tố nguy cơ
Lượng giá mối quan hệ liều-đáp ứng Lượng giá mối quan hệ liều-đáp ứng
Lượng giá phơi nhiễm Lượng giá phơi nhiễm
Mô tả nguy cơ Mô tả nguy cơ
Quản lý nguy cơ Quản lý nguy cơ
Truyền thông, thăm dò ý kiến và lôi Truyền thông, thăm dò ý kiến và lôi
cuốn sự tham gia của các bên liên quan. cuốn sự tham gia của các bên liên quan.
Giám sát, xem xét và đánh giá. Giám sát, xem xét và đánh giá.
III. KHUNG LƯỢNG GIÁ NGUY CƠ SỨC KHỎE MÔI TRƯỜNG
1. Giới thiệu nguồn gốc và ứng dụng của khung lượng giá nguy cơ SKMT
Khung lượng giá nguy cơ SKMT ở Ôxtrâylia do Hội đồng SKMT Ôxtrâylia xây
dựng và bắt đầu áp dụng từ năm 2002 (Australian enHealth Council 2004). Đó là một quy
trình lô gíc và hệ thống nhằm lượng giá nguy cơ sức khỏe do việc tiếp xúc với các yếu tố
nguy cơ từ môi trường. Khung lượng giá này được sử dụng để xây dựng các tiêu chuẩn và
hướng dẫn SKMT (ví dụ tiêu chuẩn phát thải ô nhiễm không khí, tiêu chuẩn nước ăn uống
và sinh hoạt v.v.). Trong trường hợp những chất ô nhiễm chưa có tiêu chuẩn quy định nồng
độ tối đa cho phép thì khung lượng giá nguy cơ SKMT cũng được sử dụng để lượng giá
48
các nguy cơ sức khỏe của việc tiếp xúc với các chất ô nhiễm môi trường. Ngoài ra, khung
lượng giá nguy cơ SKMT cũng được ứng dụng trong các tình huống thực tế, tình huống
giả định, hay được thực hiện như là một cấu phần của quy trình đánh giá tác động sức khỏe
(Health Impact Assessment).
Khung lượng giá nguy cơ SKMT được xây dựng dựa vào mô hình lượng giá và quản
lý nguy cơ sức khỏe của của Hội đồng Nghiên cứu Quốc gia Mỹ (U.S. NRC 1983) và
của Ủy ban Quốc hội Mỹ về Lượng giá và Quản lý Nguy cơ (P/CCRARM 1997). Đây là
hai mô hình được cho là có tầm ảnh hưởng lớn nhất và được sử dụng rộng rãi trong lĩnh
vực lượng giá và quản lý nguy cơ sức khỏe. Hình 12.1 mô tả 5 bước chính của khung lượng
giá nguy cơ SKMT, bao gồm xác định vấn đề, lượng giá yếu tố nguy cơ (được chia làm 2
bước là xác định yếu tố nguy cơ và lượng giá mối quan hệ liều-đáp ứng), lượng giá phơi
nhiễm và mô tả nguy cơ. Ngoài 5 bước chính này, mô hình lượng giá nguy cơ SKMT còn
bao gồm một yếu tố hết sức quan trọng và cần được thực hiện ở tất cả các bước đó là huy
động sự tham gia của các bên liên quan, truyền thông nguy cơ và tư vấn cộng đồng.
2. Khung lượng giá nguy cơ SKMT
2.1. Sự tham gia của cộng đồng và các bên liên quan trong lượng giá nguy cơ
Trong khoảng một thập kỷ trở lại đây, sự tham gia của cộng đồng và các bên liên
quan cũng như truyền thông nguy cơ được đặc biệt chú trọng và được xem là thành phần
không thể thiếu trong các mô hình lượng giá và quản lý nguy cơ sức khỏe/SKMT (ví dụ mô
hình của U.S. P/CCRARM 1997; U.S. NRC 1996; Health Canada, 2000). Các bên liên
quan và cộng đồng có thể cung cấp những thông tin hữu ích trong suốt quá trình lượng giá
và quản lý nguy cơ. Ngoài ra, theo Ủy ban Quốc hội Mỹ về Lượng giá và Quản lý Nguy
cơ (P/CCRARM 1997) thì sự tham gia của cộng đồng và các bên liên quan tạo cơ hội rút
ngắn khoảng cách về nhận thức, hiểu biết cũng như sự khác biệt về ngôn ngữ sử dụng
trong lượng giá và quản lý nguy cơ SKMT. Hơn nữa, việc quản lý nguy cơ SKMT thường
được thực hiện thông qua thay đổi hành vi. Do đó, sự tham gia của cộng đồng ngay từ giai
đoạn đầu và duy trì trong suốt quá trình lượng giá nguy cơ SKMT sẽ tăng hiệu quả, sự
chấp nhận của cộng đồng, cũng như tính bền vững của các giải pháp quản lý nguy cơ.
2.2. Truyền thông nguy cơ
Truyền thông nguy cơ là quá trình trao đổi thông tin nguy cơ giữa các bên liên
quan và cộng đồng. Qúa trình này sử dụng rất nhiều các phương tiện truyền thông khác
nhau, tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể. Sự tham gia của các bên liên quan và tư vấn
cộng đồng là phương tiện chính giúp cho việc truyền thông các thông tin nguy cơ. Theo
Tenkate (2006), truyền thông nguy cơ trong các mô hình lượng giá nguy cơ trước đây
thường là một chiều và là bước cuối cùng của quá trình. Trong các mô hình này, thông tin
nguy cơ chủ yếu là mang tính chất khoa học, được diễn đạt bằng ngôn ngữ chuyên môn, và
được truyền thông một chiều từ các chuyên gia/các nhà khoa học tới cộng đồng nhằm thuyết
49
phục cộng đồng thực hiện theo một quyết định nào đó để quản lý nguy cơ. Tuy nhiên, thực
tế trong những năm gần đây cho thấy để truyền thông nguy cơ SKMT đạt hiệu quả cao,
truyền thông phải mang tính chất hai chiều, với ngôn ngữ dễ hiểu và cần phải được đưa
vào ngay từ bước xác định vấn đề cũng như duy trì trong suốt quá trình lượng giá và quản lý
nguy cơ. Theo Jardine và cộng sự (2003), truyền thông nguy cơ hiệu quả sẽ giúp cho việc
phòng tránh hoặc giảm thiểu sự bất bình và mất lòng tin của cộng đồng, những mâu
thuẫn giữa các bên liên quan, những khó khăn trong việc đưa ra giải pháp quản lý nguy cơ,
những thất bại trong việc thực thi các hành vi giảm thiểu nguy cơ cũng như những lo
lắng sợ hãi không đáng có trong cộng đồng.
2.3 Xác định vấn đề (Issue Identification)
Bước xác định vấn đề nhằm thu thập và tổng hợp thông tin từ các nguồn khác nhau
để tìm hiểu các yếu tố liên quan và thiết lập bối cảnh cho lượng giá nguy cơ. Đây có thể
được coi là bước đầu tiên của lượng giá nguy cơ SKMT và gồm năm phần chính, đó là: xác
định các yếu tố nguy cơ từ môi trường, lấy mẫu môi trường và phân tích, xem xét yếu tố
nguy cơ, xác định khả năng tương tác giữa các yếu tố nguy cơ và giải thích rõ lý do cần thực
hiện lượng giá nguy cơ.
2.3.1. Xác định các yếu tố nguy cơ SKMT
Các yếu tố nguy cơ SKMT có thể ở dưới nhiều dạng khác nhau như yếu tố hóa học,
vật lý, sinh học, hay xã hội. (như đã trình bày kỹ ở bài Nhập môn SKMT) và được xác
định dựa vào số liệu từ nhiều nguồn khác nhau. Theo Hội đồng SKMT Ôxtrâylia (2004),
các nguồn số liệu chính sử dụng trong bước xác định các yếu tố nguy cơ từ môi trường bao
gồm: số liệu từ quan trắc môi trường, bản kê nồng độ và lượng phát thải, giám sát sinh học
(ví dụ giám sát nồng độ chì trong máu ở trẻ em), giám sát bệnh tật (ví dụ giám sát các
chủng Salmonella gây ngộ độc thực phẩm, giám sát tỉ lệ ung thư da v.v.), giám sát sức khỏe
(ví dụ kiểm tra chức năng phổi), các nghiên cứu dịch tễ học nhằm xác định các yếu tố nguy
cơ chưa được biết đến và thông tin về các yếu tố nguy cơ tương tự.
2.3.2. Lấy mẫu môi trường và phân tích
Lấy mẫu môi trường và phân tích mẫu là cấu phần quan trọng trong việc xác định
sự tồn tại, nồng độ và sự phân bố của các yếu tố nguy cơ trong môi trường. Kết quả
lấy mẫu và phân tích sơ bộ sẽ hỗ trợ cho bước xác định vấn đề và đồng thời định hướng
quá trình phân tích nguy cơ. Ngoài ra, công tác lấy mẫu và phân tích mẫu cũng đóng
vai trò hết sức quan trọng trong cấu phần lượng giá phơi nhiễm
2.3.3. Xem xét yếu tố nguy cơ
Cấu phần này bao gồm việc xem xét các nguồn phát sinh yếu tố nguy cơ
(Australian enHealth Council 2004). Một chất ô nhiễm nào đó có thể được thải ra từ một
hoặc nhiều nguồn khác nhau và tồn tại ở các môi trường khác nhau.
50
Ví dụ, thuốc trừ sâu có thể được thải ra từ nhà máy sản xuất, từ khâu vận
chuyển, từ hoạt động nông nghiệp và làm ô nhiễm môi trường đất, nước, không khí,
thực phẩm. Ngoài ra, bước này cũng cần xem xét các bên liên quan nhận thức vấn đề
như thế nào, cũng như cân nhắc so sánh các yếu tố nguy cơ khác nhau cùng tác động
tới một cộng đồng nào đó để lựa chọn nguy cơ ưu tiên và quyết định việc lượng giá
và quản lý yếu tố nguy cơ là cần thiết hay không.
2.3.4. Xác định khả năng tương tác giữa các yếu tố nguy cơ
Theo Hội đồng SKMT Ôxtrâylia (2004), quá trình lượng giá nguy cơ cần xem xét
khả năng tương tác giữa các yếu tố nguy cơ vật lý, hóa học, sinh học và xã hội. Có một số
dạng tương tác khác nhau giữa các yếu tố nguy cơ môi trường. Tương tác cộng gộp
(additive) xẩy ra khi tác động tổng hợp của 2 hay nhiều yếu tố nguy cơ bằng chính tổng
tác động của từng yếu tố nguy cơ (ví dụ 2 + 5 = 7). Một số yếu tố nguy cơ lại có tương tác
cộng hưởng (synergistic) khi tác động tổng hợp của hai hay nhiều yếu tố sẽ lớn hơn rất
nhiều tổng tác động của từng yếu tố (ví dụ 2 + 3 + 5 = 100). Thực tế cho thấy nguy cơ bị
ung thư phổi của một người vừa hút thuốc và vừa tiếp xúc với amiăng là lớn hơn rất
nhiều so với tổng nguy cơ của việc phơi nhiễm với từng yếu tố nguy cơ riêng lẽ. Tương
tác hoạt hóa (potentiation) khi một chất cụ thể nào đó không gây tác động xấu, nhưng khi
tương tác với một chất khác thì lại làm tăng mức độc hại của chất này (ví dụ 0 + 2 = 10).
Tương tác hoạt hóa thường được xem xét và đề cập tới trong các nghiên cứu về ung thư.
Ngoài ra còn có tương tác đối kháng (antagonistic) là tương tác mà tác động tổng hợp
của hai hay nhiều yếu tố yếu hơn tổng tác động của từng yếu tố. Ví dụ theo Klaassen (1996),
nguy cơ nhiễm độc xyanua của một người sẽ thấp hơn rất nhiều nếu trước khi tiếp xúc
với xyanua, trong cơ thể người đó đã có chất giải độc ví dụ như Kelocyanor. Nguy cơ tiềm
tàng của sự tương tác giữa các chất đã được nghiên cứu trong nhiều năm nay. Tuy nhiên,
theo Hội đồng SKMT Ôxtrâylia (2004) thì hiện vẫn chưa có phương pháp nào được công
nhận một cách chính thống nhằm đánh giá và dự đoán ảnh hưởng của những tương tác này
trong quá trình lượng giá nguy cơ SKMT.
2.3.5. Lý do cần thực hiện lượng giá nguy cơ
Theo Ủy ban Quốc hội Mỹ về Lượng giá và Quản lý Nguy cơ (U.S.
P/CCRARM 1997, được trích dẫn trong Australian enHealth Council 2004), trước khi tiến
hành lượng giá nguy cơ SKMT thì cần phải xác định rõ vấn đề ở đây là gì, nguyên nhân
của vấn đề là gì, tại sao đây lại là vấn đề, vấn đề này cấp bách như thế nào, và các bên
liên quan nhìn nhận vấn đề ra sao. Theo Ủy ban này thì không nên tiến hành lượng giá
nguy cơ khi không có hoặc không đủ thông tin, khi không có khả năng hành động hoặc
đã quá muộn để hành động, khi không có đủ nguồn lực và khi không phù hợp về mặt
văn hóa hay chính trị. Như vậy, bước xác định vấn đề SKMT cần cung cấp thông tin về vấn
đề cần quan tâm cũng như bối cảnh của vấn đề để giúp cho các nhà quản lý
51
nguy cơ có thể ra quyết định đúng đắn về việc có cần tiến hành lượng giá nguy cơ hay
không, đồng thời hỗ trợ việc xác định phạm vi và mục tiêu của quá trình lượng giá.
2.4. Xác định yếu tố nguy cơ (Hazard Identification)
Xác định yếu tố nguy cơ là một trong hai cấu phần của bước lượng giá yếu tố nguy
cơ (cấu phần còn lại là lượng giá mối quan hệ liều-đáp ứng và sẽ được trình bày ở phần
tiếp theo). Bước lượng giá yếu tố nguy cơ cùng với bước lượng giá phơi nhiễm sẽ
giúp cho việc mô tả nguy cơ, dựa vào công thức: “nguy cơ = yếu tố nguy cơ x phơi
nhiễm” (Australian enHealth Council 2004). Bước xác định yếu tố nguy cơ nhằm xem xét
khả năng một chất có thể gây tác động tiêu cực lên sức khỏe con người. Mục tiêu của việc
xác định yếu tố nguy cơ là cân nhắc xem có đủ bằng chứng để trả lời câu hỏi liệu một
chất/yếu tố nào đó có gây tác động tiêu cực tới sức khỏe của cá nhân/cộng đồng bị phơi
nhiễm hay không. Để đạt được mục tiêu này, người làm công tác lượng giá nguy cơ cần
sử dụng cả kết quả nghiên cứu trên động vật (độc chất học) và các nghiên cứu trên quần thể
người (nghiên cứu dịch tễ học).
Trên thực tế, kết quả nghiên cứu dịch tễ học được đánh giá là quan trọng hơn
nghiên cứu độc chất học vì nghiên cứu dịch tễ học nghiên cứu trực tiếp trên quần thể người
và do đó giúp trực tiếp trả lời câu hỏi trên.. Tuy nhiên, theo Samet và cộng sự (1998), so với
nghiên cứu trên động vật thì nghiên cứu dịch tễ học cũng có nhiều điểm hạn chế như
thường tốn kém hơn, tiến hành trong thời gian lâu hơn, khó kiểm soát các yếu tố nhiễu hơn
và dễ đưa đến những kết quả gây tranh cãi hơn. Để có thể hiểu thêm về vai trò của dịch
tễ học và độc chất học trong lượng giá nguy cơ sức khỏe môi trường, học viên có thể tìm
đọc thêm những tài liệu về dịch tễ học môi trường hoặc tài liệu hướng dẫn lượng giá nguy
cơ SKMT do Hội đồng Sức khỏe Môi trường Ôxtrâylia biên soạn năm 2004.
Ở Việt Nam, việc áp dụng kết quả của các nghiên cứu dịch tễ học vào bước xác
định yếu tố nguy cơ SKMT còn có nhiều hạn chế do các nghiên cứu đã được tiến hành chủ
yếu là nghiên cứu mô tả cắt ngang hoặc nghiên cứu bệnh-chứng và có rất ít nghiên cứu
thuần tập.
Các khía cạnh cần xem xét trong bước xác định yếu tố nguy cơ là: yếu tố nguy cơ
có thể gây ra những tác động tiêu cực nào tới sức khỏe của cộng đồng bị phơi nhiễm,
những tác động tiêu cực này sẽ xẩy ra bao lâu sau khi tiếp xúc, các tác động này sẽ kéo dài
trong bao lâu, yếu tố nguy cơ (ví dụ hóa chất) sẽ được hấp thụ, phân bố, chuyển hóa và bài
tiết như thế nào trong cơ thể người bị phơi nhiễm và các sản phẩm trung gian của quá trình
chuyển hóa sẽ gây ra những tác động sức khỏe gì.
2.5. Lượng giá mối quan hệ liều-đáp ứng (Dose-response Assessment)
Mục tiêu của bước lượng giá mối quan hệ liều-đáp ứng trong mô hình lượng giá
nguy cơ SKMT là kết hợp các tài liệu định lượng và định tính về độc chất học để xác định
52
mối quan hệ giữa các mức độ phơi nhiễm khác nhau (liều) và tác động của chúng (đáp
ứng), đặc biệt là những tác động tiêu cực (Tenkate 2006).
“Liều” là một khái niệm hết sức cơ bản và quan trọng trong các nghiên cứu độc chất
học. Theo Klaassen (1996), liều là tổng khối lượng của một chất tồn tại trong cơ thể
người hay động vật và thường được thể hiện trên đơn vị trọng lượng cơ thể và thời gian
tiếp xúc (ví dụ 3 ng/kg trọng lượng cơ thể/ngày). Liều có thể được tính bằng nhiều cách
khác nhau, ví dụ là tổng lượng một chất nào đó mà cơ thể tiếp xúc (liều tiềm năng -
potential dose), là tổng lượng chất được hấp thụ vào trong cơ thể (liều hấp thụ hay liều
bên trong - absorbed/internal dose), hay tổng lượng chất tương tác với cơ thể để tạo ra
đáp ứng (liều ảnh hưởng sinh học hay liều đích - biologically effective dose/target dose).
Ngoài ra, khi mô tả liều thì cần nói rõ đặc điểm về tần suất và thời gian, ví dụ liều cấp tính,
liều bán mãn tính, hay liều mãn tính.
“Đáp ứng” là tác động của một chất/yếu tố lên cơ thể người hay động vật. Đáp ứng
có thể ở nhiều mức khác nhau, từ triệu chứng ở mức có thể nhận biết được khi cơ thể tiếp
xúc với một chất/yếu tố nào đó (ví dụ nhịp tim chậm) cho tới mức gây chết (Tenkate
2006). Các cá thể khác nhau có thể có đáp ứng khác nhau với một yếu tố ở cùng một liều
nhất định. Mức đáp ứng tùy thuộc vào các
đặc điểm cá nhân ví dụ như yếu tố di truyền, tuổi, giới, chế độ dinh dưỡng, trọng lượng
cơ thể, lối sống, tình trạng miễn dịch, tình trạng sức khỏe v.v. (enHealth 2004). Như
vậy, trong lượng giá mối quan hệ liều-đáp ứng cần cân nhắc tới đặc điểm của quần thể bị
phơi nhiễm. Ví dụ, cùng một loại thuốc trừ sâu sử dụng trong nông nghiệp và một nồng
độ tiếp xúc nhất định trong quá trình phun thuốc, mức đáp ứng của thanh niên sẽ khác
người già, người ốm yếu sẽ khác người khỏe mạnh, phụ nữ mang thai sẽ khác với phụ nữ
không mang thai v.v.
Theo Klaassen (1996), có rất nhiều cách khác nhau để mô tả mối quan hệ liềuđáp
ứng, ví dụ như các liều gây tác hại (như liều gây chết một nửa - LD50, liều gây tác hại ở
10% cá thể tiếp xúc - ED10, nồng độ gây chết một nửa - LC50, ), liều không gây tác hại
quan sát được (NOAELs), các giới hạn an toàn (margins of safety), mức tiêu thụ hàng ngày
chấp nhận được (Acceptable Daily Intake ADI) và các mô hình để lượng giá mức đáp
ứng của liều tiếp xúc thấp trong môi trường dựa vào kết quả của các nghiên cứu trên động
vật với mức tiếp xúc cao, v.v. Trong lĩnh vực y tế công cộng, liều gây chết một nửa LD50
thường chỉ được dùng để đánh giá độc tính chung của một chất độc hay thuốc chứ không
dùng cho bước mô tả nguy cơ.
Trên thế giới hiện có rất ít tài liệu về mức độ phơi nhiễm ở người nên quá trình
lượng giá mối quan hệ liều-đáp ứng chủ yếu vẫn dựa vào kết quả của các thí nghiệm trên
động vật, với mức độ phơi nhiễm thường cao hơn rất nhiều so với mức độ phơi nhiễm
trong thực tế. Như vậy, để lượng giá mối quan hệ liều-đáp ứng ở người, các nhà lượng giá
53
nguy cơ cần thực hiện phép ngoại suy các kết quả nghiên cứu trên động vật sang quần thể
người và ngoài ra còn phải xem xét cân nhắc các đáp ứng ở liều phơi nhiễm cao trong phòng
thí nghiệm so với liều phơi nhiễm thấp trong môi trường xung quanh.
2.6. Lượng giá phơi nhiễm (Exposure Assessment)
Theo Hội đồng SKMT Ôxtrâylia (2004), lượng giá phơi nhiễm nhằm xác định mức
độ, tần suất, quy mô, đặc điểm và khoảng thời gian phơi nhiễm trong quá khứ, hiện tại và
trong tương lai. Bước lượng giá phơi nhiễm cũng cần xác định rõ đặc điểm của quần thể bị
phơi nhiễm cũng như các đường phơi nhiễm.
Lượng giá phơi nhiễm với các yếu tố ô nhiễm môi trường có thể được thực hiện
một cách định lượng hoặc định tính. Thông thường, bước này lượng giá tốc độ cũng như
cách thức một chất được đưa vào trong cơ thể (ví dụ được hít thở vào, được ăn vào, uống
vào, hoặc ngấm qua da, mắt) và ước tính lượng chất được hấp thụ vào trong máu. Việc
lượng giá phơi nhiễm có thể được thực hiện với 3 phương pháp khác nhau đó là: phương
pháp trực tiếp, phương pháp dựa vào tình huống phơi nhiễm giả định, và phương pháp
giám sát sinh học (Cục Bảo vệ Môi trường Mỹ - U.S. EPA 1992).
2.6.1. Phương pháp trực tiếp
Phơi nhiễm có thể được lượng giá ngay tại thời điểm tiếp xúc bằng cách đo
nồng độ tiếp xúc và thời gian tiếp xúc (Tenkate 2006). Phương pháp này thường
được sử dụng trong lĩnh vực y học lao động và được coi là phương pháp lượng giá phơi
nhiễm đáng tin cậy nhất nếu các thiết bị đo nồng độ phơi nhiễm chính xác và được sử
dụng đúng kỹ thuật. Trong thực tế, nếu áp dụng rộng rãi trong cộng đồng thì phương pháp
này đòi hỏi chi phí rất lớn và cho đến này thì các thiết bị này cũng chỉ đo đạc được một số
chất ô nhiễm nhất định.
2.6.2. Phương pháp dựa vào các tình huống giả định
Với phương pháp áp dụng các tình huống giả định (scenario), các nhà lượng giá
nguy cơ ước lượng hoặc dự đoán nồng độ của một chất nào đó trong môi trường hoặc tại
một địa điểm nào đó và kết hợp thông tin này với khoảng thời gian quần thể bị phơi nhiễm
để từ đó lượng giá mức độ phơi nhiễm (U.S. EPA 1989; U.S. EPA 1992). Ví dụ, một nhà
máy hóa chất dự kiến sẽ được xây dựng tại huyện A và đưa vào hoạt động trong vòng 5
năm tới. Chúng ta không thể biết một cách chắc chắn và chính xác lượng khí thải, rác thải
và nước thải mà nhà máy này sẽ thải vào môi trường. Tuy nhiên, dựa vào nguồn nguyên liệu
mà nhà máy sẽ sử dụng, quy trình sản xuất, các loại và lượng sản phẩm dự kiến sản xuất, các
thiết bị xử lý chất thải sẽ được lắp đặt và các thông tin phát thải từ các nhà máy tương tự ở
những nơi khác mà các nhà lượng giá nguy cơ có thể dự đoán được mức độ ô nhiễm môi
trường xung quanh cũng như mức độ phơi nhiễm của cộng đồng dân cư sống gần nhà
máy này. Cho tới nay thì đây là phương pháp được sử dụng phổ biến nhất trong bước
54
lượng giá phơi nhiễm.
2.6.3. Giám sát sinh học
Phương pháp này dựa vào lượng hóa chất trong cơ thể (ví dụ trong máu, trong tóc,
hay trong móng tay, móng chân) hoặc lượng hóa chất được thải ra trong hơi thở, trong
nước tiểu và trong phân để ước lượng mức độ phơi nhiễm trong quá khứ. Ví dụ, trong thực
tế, lượng giá phơi nhiễm chì được thực hiện bằng cách đo nồng độ chì trong máu, lượng
giá phơi nhiễm phenol bằng cách đo nồng độ phenol trong nước tiểu, hay lượng giá
phơi nhiễm với các chất hyđrocacbon bay hơi bằng cách đo nồng độ các chất này trong
hơi thở. Nhìn chung, nếu có thể đo được nồng độ các chất trong hơi thở, máu, nước
tiểu, phân, tóc, móng chân móng tay v.v. và nếu thời gian bán hủy của một chất là tương
đối dài thì mức độ chính xác của phương pháp này chấp nhận được. Ở Việt Nam đã có
nhiều nghiên cứu đánh giá mức độ phơi nhiễm với các hóa chất độc hại bằng phương
pháp giám sát sinh học, ví dụ đo nồng độ chì, asen, thiếc, kẽm trong máu và nước tiểu của
dân cư sống gần các khu khai thác mỏ (Nông Thanh Sơn 2001), nồng độ dioxin trong máu
(Nguyễn Văn Tường và cộng sự 2004), hay đo hoạt tính men Cholinesterase trong máu
để xác định mức độ nhiễm độc hóa chất bảo vệ thực vật của người dân (Lê Thanh Hương
và cộng sự 2004) v.v.
Ba phương pháp trên đây là độc lập và mỗi phương pháp đều có ưu và nhược điểm
riêng. Do đó, nếu kết hợp các phương pháp này thì có thể lượng giá phơi nhiễm một cách
toàn diện. Ví dụ, chúng ta có thể dùng mô hình toán học trong tình huống giả định để ước
lượng mức độ chì trong máu của trẻ em phơi nhiễm với chì, sau đó kiểm tra lại bằng cách
lấy mẫu máu trong quần thể trẻ em bị tiếp xúc với chì và phân tích.
2.7. Mô tả nguy cơ (Risk Characterisation)
Mô tả nguy cơ là bước cuối cùng của quá trình lượng giá nguy cơ SKMT. Mục tiêu
của bước này là tổng hợp tất cả những thông tin từ những bước trên đây (bước xác định
vấn đề, xác định yếu tố nguy cơ, lượng giá mối quan hệ liều đáp ứng và lượng giá phơi
nhiễm) để mô tả nguy cơ về mặt bản chất, quy mô và mức độ ảnh hưởng sức khỏe tới cá
nhân và cộng đồng. Ngoài ra, bước mô tả nguy cơ cũng nhằm đánh giá chất lượng và độ tin
cậy của quá trình lượng giá nguy cơ SKMT, cũng như xem xét lại những giả định, những
điểm hạn chế và kết luận đưa ra ở từng bước nhằm ước lượng nguy cơ (Australian
enHealth Council 2004). Để đạt hiệu quả cao, nguy cơ cần được mô tả một cách chính
xác nhất dựa vào những thông tin hiện có và với ngôn ngữ dễ hiểu nhất đối với các đối
tượng khác nhau trong cộng đồng. Có 3 phương pháp chính để mô tả nguy cơ, đó là
phương pháp định tính, bán định lượng và định lượng (Standards Australia &
Standards New Zealand 2004).
Phương pháp định tính được sử dụng khi không thể hoặc không đủ nguồn lực cũng như số
liệu để lượng giá và mô tả nguy cơ một cách định lượng. Phương pháp này sử dụng các từ
55
ngữ hoặc nhóm từ chỉ mức độ khác nhau để mô tả hậu quả của từng sự kiện (ví dụ nhẹ, vừa,
và trầm trọng) cũng như khả năng xẩy ra sự kiện (chắc chắn xẩy ra, có thể xẩy ra, hiếm
khi xẩy ra). Với phương pháp định tính, nguy cơ có thể được mô tả theo nhiều cách khác
nhau ví dụ “nguy cơ cao”, “nguy cơ trung bình” và “nguy cơ thấp”; hay “trầm trọng”,
“nặng”, “vừa”, “nhẹ” và “không đáng kể” tùy thuộc vào khả năng xẩy ra sự kiện cũng như
hậu quả của nó (xem ví dụ ở Bảng 3.3).
Mức độ Mô tả Mô tả
Được cho là sẽ xẩy ra trong hầu hết các Gần như chắn chắn A tình huống
Có khả năng xẩy ra trong hầu hết các Rất có khả năng B tình huống
Có thể Có thể xẩy ra C
Ít khả năng Có thể xẩy ra nhưng ngoài sự mong đợi D
Hiếm khi Chỉ xẩy ra trong những trường hợp ngoại lệ E
Thước đo định tính của hậu quả khi sự kiện xẩy ra
Ví dụ mô tả mức độ hậu quả Mức độ Mô tả
Gây tử vong; chất độc hại thải ra Rất trầm trọng ngoài môi trường trên diện rộng gây 1 hậu quả trầm trọng; thiệt hại rất lớn về
kinh tế
Gây đa chấn thương; chất độc hại
thải ra ngoài môi trường trên diện
2 Trầm trọng rộng nhưng không gây hậu quả
trầm trọng; mất khả năng lao
động; thiệt hại lớn về kinh tế v.v.
Gây chấn thương cần có sự chăm
sóc của y tế;chất độc hại rò rỉ/thải
ra tại chỗ nhưng cần có sự hỗ trợ 3 Vừa của bên ngoài, thiệt hại kinh tế ở
mức cao
56
Gây chấn thương cần sơ cấp cứu ban
đầu; chất độc hại rò rỉ/thải ra tại Nhẹ 4 chỗ và nhanh chóng được kiểm
soát, thiệt hại kinh tế ở mức vừa
Không gây chấn thương; ít thiệt hại
Không đáng kể về kinh tế; ảnh hưởng không đáng kể 5
tới môi trường
Ma trận mô tả nguy cơ định tính
Khả năng xẩy ra sự
kiện Hậu quả của sự kiện
Rất trầm Trầm trọng Vừa Nhẹ Không đáng
trọng kể
Gần như chắn chắn E E E H H
E E H H M Rất có khả năng
Có thể E E H M L
E H M L L Ít khả năng
Hiếm khi H H M L L
Ghi chú:
E = nguy cơ rất cao (Extreme risk), cần phải hành động ngay
H = Nguy cơ cao (High risk), đòi hỏi quản lý nguy cơ ở cấp cao
M = Nguy cơ vừa (Medium risk), cần phân rõ trách nhiệm quản lý nguy cơ L = Nguy cơ thấp
(Low risk), quản lý bởi các quy trình theo định kỳ
(Nguồn: Standards Australia & Standards New Zealand 2004)
Phương pháp bán định lượng gắn giá trị cho thước đo định tính và áp dụng các công
thức khác nhau để từ đó có thể xếp hạng nguy cơ theo các mức khác nhau. Phương pháp
định lượng sử dụng số để mô tả hậu quả và khả năng xẩy ra sự kiện. Dựa vào phương pháp
này, các nhà lượng giá nguy cơ có thể ước lượng hậu quả của một sự kiện bằng cách sử
dụng các mô hình khác nhau hoặc bằng cách ngoại suy từ kết quả của các nghiên cứu trên
động vật hoặc các số liệu trước đây. Ví dụ, đối với mô tả nguy cơ hóa học, bằng cách so
sánh mức độ phơi nhiễm đã được lượng giá trong bước lượng giá phơi nhiễm (thường
được thể hiện dưới dạng liều trung bình hằng ngày -ADD) với giá trị cho phép như mức
57
tiêu thụ hàng ngày chấp nhận được (ADI), người làm công tác lượng giá nguy cơ SKMT có
thể đưa ra kết luận cá nhân/quần thể phơi nhiễm bị nguy cơ cao hay thấp. Nếu ADD của
một chất cao hơn ADI có nghĩa là chất đó gây ra nguy cơ cao hơn mức cho phép, còn nếu
ADD thấp hơn ADI thì mức độ nguy cơ ở đây là không đáng kể.
Hiện nay, các phương pháp lượng giá nguy cơ SKMT không cho phép ước
lượng chính xác nguy cơ đối với tiếp xúc ở nồng độ thấp. Hơn nữa, phương pháp định
lượng cũng chưa được phổ biến do những hạn chế về thông tin tiếp xúc trong cộng đồng
cũng như hạn chế về số lượng nghiên cứu độc chất học và dịch tễ học môi trường. Hiện còn
có rất nhiều chất chưa được nghiên cứu toàn diện trên động vật và quần thể người và do đó
không thể thực hiện lượng giá và mô tả nguy cơ định lượng. Ngoài ra, phương pháp định
lượng cũng phần lớn được áp dụng đối với các chất hóa học, còn đối với các yếu tố nguy
cơ vật lý, sinh học và xã hội học thì còn rất hạn chế.
Nhìn một cách tổng thể, bước mô tả nguy cơ cung cấp thông tin về kết quả của quá
trình lượng giá nguy cơ cho các nhà quản lý nguy cơ. Các nhà quản lý nguy cơ sử dụng
thông tin này kết hợp với các yếu tố khác như tính khả thi về mặt kỹ thuật, kinh tế, chính
trị, xã hội, luật pháp v.v. để đánh giá nguy cơ và đưa ra các giải pháp quản lý nguy cơ
hiệu quả nhất. Mối quan hệ giữa lượng giá nguy cơ SKMT và quản lý nguy cơ SKMT.
KHUNG LƯỢNG GIÁ NGUY CƠ Ở VIỆT NAM
Ở Việt Nam, việc lượng giá nguy cơ dựa trên nhiều tiêu chí, ví dụ như:
1. Có yếu tố nguy cơ hay không? có ở đâu? (tương đương với bước xác định vấn đề trong
khung lượng giá nguy cơ SKMT).
2. Yếu tố đó là gì và mức độ ô nhiễm trong các môi trường (đất, nước, không khí, thực
phẩm, mỹ phẩm v.v.).
Tiêu chí này tương đương với bước xác định yếu tố nguy cơ (thuộc bước lượng giá
yếu tố nguy cơ và một phần của lượng giá phơi nhiễm). Chúng ta bỏ qua bước lượng giá
liều-đáp ứng. Để đo mức độ ô nhiễm cần phải áp dụng các quy trình lấy mẫu chuẩn mực.
Nếu lấy mẫu sai thì kết quả phân tích sẽ sai hàng chục, thậm chí hàng ngàn lần. Sau khi
lấy mẫu là phân tích mẫu trong phòng thí nghiệm. Việc chuẩn hóa các phương tiện phân
tích cũng rất quan trọng, nhất là độ nhạy và độ chính xác của các thiết bị xét nghiệm. Tuy
nhiên, nếu sai số do phương tiện phân tích thì thường chỉ làm lệch kết quả không nhiều và
không đáng kể so với trường hợp sai vì lấy mẫu. Hiện nay cũng có nhiều máy phát hiện
nhanh cho kết quả ngay tại hiện trường nhưng những máy này cũng có nhiều nhược
điểm. Quy trình lấy mẫy xét nghiệm môi trường vì vậy cần phải thật nghiêm ngặt nhưng
thực tế ở Việt Nam người làm công tác đánh giá chất lượng môi trường nhiều khi chưa chú
ý. Ví dụ thực tế nhiều trường hợp chỉ lấy 3 mẫu rau ở một khu vực hàng trăm hecta rồi
đưa ra kết luận là nồng độ các hóa chất bảo vệ thực vật vượt quá mức cho phép và rau
58
không đảm bảo an toàn cho người tiêu dùng. Điều này là không thể chấp nhận được. Thực
tế phải quy định rõ:
Vị trí lấy mẫu (ở đâu, độ cao, độ sâu, khoảng cách từ nhà dân v.v.)
Số mẫu mỗi vị trí
Thời điểm lấy mẫu trong ngay, trong mùa, trong năm
Hướng gió khi lấy mẫu
Các điều kiện vi khí hậu khi lấy mẫu v.v.
Ở Việt Nam, các điều kiện trên thường ít được tuân thủ do trình độ của người đi lấy
mẫu và nhiều khi do điều kiện kinh tế (phân tích mẫu môi trường nhiều khi rất tốn kém). Vì
vậy, mỗi khi nhận được kết quả đo môi trường cần phải tìm hiểu kỹ quy trình lấy mẫu để
đưa ra nhận xét.
3. Xác định đối tượng tiếp xúc, số người tiếp xúc, tuổi giới của đối tượng tiếp xúc và
phương thức tiếp xúc. Ở đây còn bao gồm cả tần suất tiếp xúc, phương tiện bảo hộ khi
tiếp xúc, kiến thức thái độ và thực hành của người bị tiếp xúc đối với chất ô nhiễm.
4. Xác định mức độ hấp thụ yếu tố ô nhiễm. Áp dụng exposure test, là test tiếp xúc thường
được dùng để trả lời cho câu hỏi này. Đây cũng là một phần của đánh giá liều -hậu quả.
5. Xác định xem đã có những ai chịu hậu quả của tiếp xúc và hậu quả ở mức độ nào. Hậu
quả trên sức khỏe có thể là tổn thương chức năng sinh lý, sinh hóa tiền lâm sàng, tổn
thương lâm sàng, tàn phế hoặc tử vong. Trong rất nhiều trường hợp rất khó có thể lượng
giá được quan hệ nhân-quả do hậu quả xẩy ra sau một thời gian tiếp xúc hoặc chỉ xẩy ra
với mức độ tiếp xúc đủ lớn và đã xẩy ra từ rất lâu. Để hỗ trợ cho việc đánh giá hậu quả sức
khỏe của việc tiếp xúc với các yếu tố nguy cơ cần có các hệ thống lưu trữ thông tin môi
trường, lý lịch môi trường của các cơ sở sản xuất, các địa phương, cũng như hệ thống theo
dõi giám sát bệnh tật và tử vong.
Các bước lượng giá nguy cơ này có một số điểm giống với các bước của khung
lượng giá nguy cơ SKMT của Hội đồng SKMT Ôxtrâlia (2004). Tuy nhiên, do điều kiện
kinh tế xã hội, khoa học kỹ thuật ở Việt Nam còn hạn chế nên công tác lượng giá nguy cơ
sức khỏe môi trường vẫn còn gặp nhiều khó khăn.
KẾT LUẬN
Bài này giới thiệu những khái niệm cơ bản về nguy cơ, nguy cơ SKMT, lượng giá
nguy cơ SKMT và các bước trong khung lượng giá nguy cơ SKMT. Như đã trình bày ở trên,
hiện có rất nhiều mô hình lượng giá và quản lý nguy cơ được sử dụng rộng rãi trên thế
giới. Trong lĩnh vực y tế công cộng, để lượng giá nguy cơ sức khỏe thì mô hình của Ủy
ban Quốc hội Mỹ về Lượng giá và Quản lý nguy cơ (P/CCRARM 1997) và mô hình của
Hội đồng Nghiên cứu Quốc gia Mỹ (NRC 1983) là hai mô hình được coi là có tầm ảnh
59
hưởng lớn nhất. Trong lĩnh vực SKMT, mô hình của Hội đồng SKMT Ôxtrâlia (2004)
thường được sử dụng vì đây là mô hình được xây dựng riêng cho lượng giá nguy cơ
SKMT. Nguy cơ SKMT có thể là nguy cơ hóa học, vật lý, sinh học, hay xã hội. Tuy
nhiên, cho đến nay, mô hình này vẫn chủ yếu được ứng dụng để lượng giá nguy cơ hóa học,
còn việc lượng giá nguy cơ vật lý, sinh học hay xã hội vẫn còn nhiều hạn chế.
Ngoài việc lượng giá nguy cơ SKMT theo quy trình kỹ thuật gồm năm bước chính
(xác định vấn đề, xác định yếu tố nguy cơ, lượng giá mối quan hệ liều đáp ứng, lượng
giá phơi nhiễm, và mô tả nguy cơ) thì người làm công tác lượng giá nguy cơ cũng cần
xem xét thực tế cộng đồng và các bên liên quan nhận thức về nguy cơ như thế nào để từ
đó có chiến lược truyền thông nguy cơ phù hợp. Hơn nữa, chúng ta cũng cần nhớ rằng kết
quả của quá trình lượng giá nguy cơ chỉ là một trong những thông tin đầu vào giúp cho quá
trình đánh giá và quản lý nguy cơ SKMT. Trong thực tế, việc quản lý nguy cơ SKMT
không chỉ dựa vào kết quả của lượng giá nguy cơ mà còn bị chi phối bởi nhiều yếu tố khác
như yếu tố khoa học kỹ thuật, kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội v.v.
Ở Việt Nam, lượng giá nguy cơ nói chung và lượng giá nguy cơ SKMT nói riêng
là một lĩnh vực khá mới mẻ. Hiện còn thiếu các cán bộ được đào tạo về lĩnh vực này cũng
như thiếu các thông tin và số liệu về phơi nhiễm. Ngoài công tác đào tạo nhân lực và dành
kinh phí phù hợp cho lượng giá và quản lý nguy cơ SKMT, Việt Nam cần phải mở rộng
hơn nữa mạng lưới các trạm quan trắc môi trường không khí, đất và nước cũng như tăng
cường giám sát sức khỏe, bệnh tật của các khu dân cư sống gần những khu vực đặt các
trạm quan trắc này để có thể thiết lập mối quan hệ giữa việc tiếp xúc các yếu tố nguy cơ
từ môi trường và sức khỏe cộng đồng. Ngoài ra, việc đầu tư và sử dụng hiệu quả các phòng
thí nghiệm phân tích mẫu môi trường là rất cần thiết nhằm cung cấp bằng chứng cho quá
trình lượng giá nguy cơ SKMT ở Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Australian enHealth Council 2004, Environmental Health Risk Assessment:
Guidelines for Assessing Human Health Risks from Environmental Hazards, Department
of Health and Ageing, Canberra,
2. Blake ER 1995, ‘Understanding outrage: How scientists can help bridge the risk
perception gap’, Environmental Health Perspectives, supps vol. 103, supp. 6, pp. 123-125.
3. Center for Health, Environment and Justice 1999, The American People’s
Dioxin Report - Technical Support Document, Environment and Justice, Falls Church, VA.
Jardine CG, Hrudey SE, Shortreed JH, Craig L, Krewski D, Furgal C & McColl S
2003, ‘Risk management frameworks for human health and environmental risks’,
Journal of Toxicology and Environmental Health, Part B, vol.6, no. 6, pp. 569-641.
60
4. Klasen CD (Ed) 1996, Casarett and Doull’s Toxicology: the Basic Science of Poisons, 5th Ed. McGraw Hill, New York, p. 4.
5. Merzt CK, Slovic P & Purchase IF 1998, ‘Judgements of chemical risks:
comparisons among senior managers, toxicologists and the public’, Risk Analysis, vol.
18, no.4. pp. 391-404.
6. Lê TH, Nguyễn NB, Trần TTH 2004, Cộng đồng tham gia sử dụng an toàn hóa chất
BVTV ở huyện Tiền Hải, Thái Bình. Trường Đại học Y tế công cộng (tài liệu chưa xuất
bản)
7. Nguyễn VT, Trịnh VB, Nguyễn VN, Đỗ TP, Văn ĐH, Nguyễn TH và cộng sự 2004,
Nghiên cứu các biến đổi về mặt di truyền, miễn dịch, sinh hóa, huyết học và tồn lưu dioxin
trên các đối tượng phơi nhiễm có nguy cơ cao, Bộ Y tế & Bộ Khoa học và Công nghệ (tài
liệu chưa xuất bản)
8. Renn O 2004, ‘Perception of risks’, Toxicology Letters, vol. 149, pp. 405-413.
9. Ropeik D. & Gray G. 2002, Risk: A Practical Guide for Deciding What’s Really
Safe and What’s Really Dangerous in the World Around You, Houghton Mifflin,
New York.
10. Samet LM, Schnatter R & Gibb H 1998, ‘Invited commentary: Epidemiology and risk
assessment’, American Journal of Epidemiology, vol. 148, no.10, pp. 929-936.
11. Secretariat of Fifty-fifth World Health Assembly 2002, ‘Dengue prevention and
control’, Dengue Bulletin, vol. 26, pp. 218-220.
12. Slovic P. 1987, ‘Perception of risk’, Science, vol. 236, pp. 280-285.
13. Standards Australia & Standards New Zealand 2004, AS/NZS 4360:2004 Risk
Management, Standards Australia, Sydney.
14. Starr G, Langley A & Taylor A 2000, Environmental Health Risk Perception in Australia,
enHealth Council, Canberra.
15. Tenkate T 2006, Public Health Risk Assessment - study guide, Queensland
University of Technology, Brisbane.
16. Thomas SP & Hrudey SE 1997, Risk of Death in Canada: What we know and how we
know it, University of Alberta Press, Edmonton.
17. United States Environmental Protection Agency 1989, Exposure Factors Handbook,
EPA 600/8-89/043. Washington, US EPA.
18. United States Environmental Protection Agency 1992, Guidelines for Exposure
Assessment, notice, part VI, Federal Register, vol. 57, no. 104, pp. 22888-
22938.
U.S. National Research Council 1983, Risk Assessment in the Federal
61
Government: Managing the Process, National Academy Press, Washington
DC.
19. U.S. Presidential/ Congressional Commission on Risk Assessment and Risk
Management, 1997
20. Vu Sinh Nam & Kay B 2005, ‘New strategy against Aedes aegypti in Vietnam’, The
Lancet, vol. 365, no. 9459, pp. 613-617.
62