Bài giảng Phân bón và độ phì - Chương 4: Nâng cao hiệu quả sử dụng phân bón
lượt xem 29
download
Nội dung "Bài giảng Phân bón và độ phì - Chương 4: Nâng cao hiệu quả sử dụng phân bón" tập trung vào những kiến thức về cải thiện PH đất chua và sử dụng đất chua, cải thiện và sử dụng đất mặn, đất kiềm và đất mặn kiềm.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Bài giảng Phân bón và độ phì - Chương 4: Nâng cao hiệu quả sử dụng phân bón
- CHƯƠNG 4 NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG PHÂN BÓN BÀI 1: CẢI THIỆN pH ĐẤT CHUA VÀ SỬ DỤNG ĐẤT CHUA pH đất và các tính chất đi cùng với pH đất có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng hữu dụng của các chất dinh duỡng đối với cây trồng và độ phì nhiêu của đất. Vì vậy nghiên cứu về độ chua và độ kiềm của đất có một tầm quan trọng để quản lý một cách thích hợp khả năng sản xuất của đất và cây trồng một cách tối hảo. 1 Các khái niệm tổng quát về độ chua và độ kiềm 1.1 AcidBase Trong các hệ thống dung dịch, acid được định nghĩa là một chất cho H + đến một chất khác. Ngược lại một base là chất nhận H+. Một acid khi hoà tan trong nước sẽ ion hoá phân ly H+ và các anion đi kèm, ví dụ sự phân ly của acetic acid và hydrochloric acid như sau: CH2COOH CH2COO + H+ HCl Cl + H+ Khả năng phân ly H của một acid mạnh như HCl là 100 %, trong khi đó khả năng + phân ly H+ của một acid yếu như acetic acid chỉ khoảng 1 %. Các ion H+ (hay độ chua hoạt động) tăng theo lực acid. Khi một acid không phân ly có nghĩa là acid đó có một độ chua tiềm tàng cao. Tổng độ chua của một dung dịch là tổng nồng độ acid tiềm tàng và hoạt động. Ví dụ, độ chua hoạt động và độ chua tiềm tàng của một acid là 0,099 M và 0,001 M. Tổng nồng độ acid là 0,100 M, vì hoạt độ của H + (độ chua hoạt động) gần bằng với tổng độ chua, nên acid này là một acid mạnh. Ngược lại, với các acid yếu, hoạt độ của H+ thấp hơn rất nhiều so với độ chua tiềm tàng. Ví dụ, 0,100 M acid yếu với chỉ 1 % phân ly có nghĩa là hoạt độ của H+ là: 0,1 x 0,01 = 0,001M. Nước nguyên chất luôn tự phân ly nhẹ: H2O H+ + OH Ion H+ này sẽ tấn công vào phân tử nước khác để hình thành H2O + H+ H3O+ Do cả hai ion H+ và OH đều được hình thành trong dung dịch, nên nước vừa có tính chất của 1 acid yếu và đồng thời có tính chất của 1 base yếu. Nồng độ của H+ (hay H3O+) và OH của nước nguyên chất trong điều kiện không cân bằng với CO2 trong khí quyển là 107M. Sản phẩm của nồng độ H+ và OH, được trình bày trong phương trình sau, là hằng số phân ly (Kw) đối với nước là: [H+][OH] = [107][107] = 1014 = Kw p H của H2O trong trạng thái cân bằng với CO2 trong khí quyển dao động trong khoảng 5,7, như phản ứng sau đây: H2CO3 H2O + CO2 H + + HCO3 Khi cho thêm một acid vào H2O sẽ làm tăng [H+] nhưng [OH] sẽ giảm vì Kw là một hằng số (1014). Ví dụ, trong một dung dịch 0,1M HCl, có [H+] là 101M vì thế [OH] là: Kw = [H+][OH] = 1014 [101][OH] = 1014 [OH]= 1013M 1
- 1.2 Khái niệm pH [H+] thường được diễn tả bằng cách dùng thuật ngữ pH vì cách diễn tả này sẽ thuận lợi hơn, và pH được định nghĩa như sau: pH = log 1 / [H+] = log[H+] Từ định nghĩa này ta thấy mỗi khi tăng 1 đơn vị pH sẽ tương ứng với việc giảm10 lần [H+]. Ví dụ, một dung dịch có [H+] = 105 sẽ có pH là 5,0. Các dung dịch có pH 7 là các dung dịch có tính kiềm, các dung dịch có pH = 7 là các dung dịch trung tính. pH là thuật ngữ chỉ thể hiện nồng độ H+ trong dung dịch và không đo được độ chua không phân ly hay độ chua tiềm tàng của dung dịch. Ví dụ, pH của 0,1 M HCl phân ly hoàn toàn là 1,0, ngược lại pH của 0,1M CH2COOH, một acid yếu là 3,0. Tương tự, pH của 0,1 M NaOH, một base mạnh, là 13,0, trong khi đó pH của 0,1 M NH4OH, một base yếu là 11,0. Bảng 4.1 Quan hệ giữa pH và nồng độ [H+] và [OH] pH Nồng độ H+ OH 1 101 1013 2 10 1012 3 103 1011 4 104 1010 5 105 109 6 106 108 7 107 107 8 1018 106 9 109 105 10 1010 104 11 1011 103 12 1012 102 13 1013 101 14 1014 100 Khi các acids và bases kết hợp với nhau, cả hai ion H+ và OH đều bị trung hoà, hình thành một muối và nước: HCl + NaOH H2O + Na+ + Cl H+ Cl Na+ OH Nếu 1 lượng acid được chuẩn độ với 1 base và pH của dung dịch được xác định theo từng quá trình chuẩn độ, chúng ta sẽ thu đường cong trên một đồ thị với trục y là giá trị pH và trục x là các giá trị lượng base được thêm vào. Đường cong chuẩn độ của các acid yếu và mạnh khác nhau rất rõ ràng. Ví dụ, phản ứng trung hoà của HCl và NaOH được trình bày trong phương trình trên, và phản ứng của CH3COOH với NaOH như sau: CH3COOH + NaOH H2O + CH3COO + Na+ CH3COO + H+ Na+ OH 2
- 2 Tính đệm pH Một hệ thống có tính đệm có thể duy trì được pH của dung dịch trong một khoảng biến thiên nhất định khi 1 lượng nhỏ acid hay base được thêm vào. Khả năng đệm pH được định nghĩa là khả năng chống lại sự thay đổi đột ngột về pH của hệ thống. Một ví dụ về một hệ thống đệm là hỗn hợp CH3COOH và CH3COONa. CH3COOH H+ + CH3COO CH3COONa Na+ + CH3COO Ví dụ, một dung dịch chứa 1 M CH 3COOH có pH là 2, nhưng khi dung dịch ấy có nồng độ 1M CH3COOH và 1M CH3COONa sẽ có pH là 4.6. Khi cho thêm một muối có tính phân ly mạnh CH3COONa vào dung dịch chứa CH3COOH, sẽ làm tăng nồng độ của CH3COO, sự gia tăng nồng độ CH3COO này sẽ thay đổi sự cân bằng để hình thành CH3COOH acid không phân ly. Nhưng chú ý là pH vẫn giữ ở 4,6 ngay cả khi pha loãng dung dịch này gấp 10 lần với nước; tuy nhiên, khi chỉ pha loãng dung dịch 1M CH3COOH có thể sẽ làm tăng pH lên 3,0. Vì vậy, khi cho CH3COONa vào CH3COOH, hổn hợp này sẽ đệm được pH của dung dịch. Hỗn hợp dung dịch này ta gọi là dung dịch đệm. Nếu thêm 10 ml 1M HCl vào dung dịch đệm CH 3COOH/CH3COONa, pH sẽ chỉ giảm đến 4,5, bởi vì khi H+ được thêm vào sẽ làm thay đổi cân bằng CH3COOH H+ + CH3COO về bên trái và do nồng độ CH3COO giảm nên CH3COO sẽ phân ly từ CH3COONa và giải phóng vào dung dịch (sự cân bằng thay đổi về phía phải CH 3COONa CH3COO + Na+). Ngược lại, nếu thêm 10ml 1M NaOH vào dung dịch CH3COOH/CH3COONa, OH sẽ trung hoà H+ trong hỗn hợp để hình thành nước. Do có sự cung cấp 1 lượng CH 3COOH acid không phân ly lớn, nên sự cân bằng sẽ thay đổi về phía phải, để bù đắp lượng H + bị trung hoà; vì vậy pH chỉ tăng lên đến 4,7. Đất có tính chất như là 1 acid yếu do CEC của chất mùn và các khoáng sét làm cho dung dịch đất có tính đệm pH. 3 Đất chua Khoảng 25 % 30 % diện tích đất trên thế giới bị chua, phân bố tại các khu vực sản xuất lương thực quan trọng. 3.1 Nguồn gốc phát sinh độ chua của đất Nguồn gốc phát sinh độ chua của đất bao gồm chất hữu cơ, các khoáng sét, các oxides Fe và Al, Al3+ trao đổi, các muối hoà tan, CO2 và khoáng pyrite bị oxi hóa. 3.1.1 Mùn Chất hữu cơ hay mùn trong đất chứa các nhóm carboxyl và phenol tạo nên các phản ứng hoá học và có tính chất như các acids yếu. Chúng sẽ phân ly, giải phóng H +. Hàm lượng chất hữu cơ trong đất thay đổi theo điều kiện môi trường, thảm thực vật, và loại đất; vì vậy mức độ gây chua của mùn đối với đất sẽ thay đổi tùy theo hàm lượng chất hữu cơ. Trong đất than bùn và đất khoáng có chứa nhiều chất hữu cơ, các acid hữu cơ góp phần lớn vào việc tạo nên độ chua của đất. Chất hữu cơ C RCOOH RCOO + H+ 3.1.2 Các khoáng sét Các khoáng sét trong đất tiêu biểu là kaolinite (1:1) và montmorillonite (2:1) có thể đệm pH của đất. Sự phân ly H+ từ các “cạnh bị vỡ” của các khoáng sét, các bề mặt của các oxides Fe, Al, và chất hữu cơ góp phần tạo nên khả năng đệm pH trong đất. Đất có chứa 3
- sét và/hay chất hữu cơ cao sẽ thể hiện khả năng đệm (BC) lớn hơn là đất có sa cấu thô và/hay chứa chất hữu cơ thấp. Điện tích phụ thuộc pH và BC của các khoáng sét, các oxides Fe, Al, và chất hữu cơ được diễn tả như sau: Trên các oxides Fe và Al OHH+ OH O H+ OH [ Fe, Al ] [ Fe, Al ] [ Fe, Al ] OHH+ OH O Chua Trung tính Kiềm Trên các khoáng sét: O O O Si Si Si + + O HH H O H OH O Al Al Al + O HH O H O Chua Trung tính Kiềm Trên chất hữu cơ: OH R COOH R COO Chua Kiềm OH R OH R O Chua Kiềm 3.1.3 Các polymers Fe và Al Các ions Al3+ được thay thế từ bề mặt hấp phụ của các khoáng sét (CEC) sẽ bị thủy phân thành các phức hydroxyaluminum. Quá trình thủy phân Al3+ sẽ giải phóng H+ và sẽ làm giảm pH dung dịch đất, trừ khi có nguồn OH trung hoà ion H+ này. Mỗi bước thủy phân tiếp theo sau sẽ xảy ra ở một pH cao hơn bước trước đó. Các phản ứng sau đây trình bày sự cân bằng giữa các dạng Al trong đất: Al3+ + H2O Al(OH)2+ + H+ Al(OH)2+ + H2O Al(OH)2+ + H+ Al(OH)2+ + H2O Al(OH)30 + H+ Al(OH)30 + H2O Al(OH)4 + H+ Nếu thêm một base vào trong đất, H + trong dung dịch đất sẽ bị trung hoà trước tiên. Khi tiếp tục cho thêm base vào, Al3+ sẽ bị thủy phân, và sẽ hình thành H+ với hàm lượng đương lượng với hàm lượng Al3+ bị thủy phân. Cần chú ý là Al(OH)3 không hoà tan và sẽ kết tủa ở pH >6.5, khi sản phẩm hoà tan của Al(OH)3 vượt quá mức cân bằng. Tương tự như H2O, Al3+ cũng là 1 chất lưỡng tính, vừa có tính acid vừa có tính base, như trình bày trong các phương trình sau: Al là 1 base: Al(OH)3 + H+ Al(OH)2+ + H2O Al(OH)2+ (OH)2+ + H2O 4
- Al(OH)2+ + H+ Al3+ + H2O Al(OH)3 + 3H+ Al3+ + 3H2O Al là 1 acid: Al3+ + OH Al(OH)2+ Al(OH)2+ + OH Al(OH)2+ Al(OH)2+ + OH Al(OH)3 Al là 1 anion: Al(OH)3 + OH Al(OH)4 Các ion hydroxyl nhôm kết hợp với nhau hình thành nên các polymers mang nhiều điện tích khác nhau. Quá trình polymer hoá được gia tăng khi có sự hiện diện của các bề mặt khoáng sét. Cơ chế hình thành các polymers là sự chia sẽ các nhóm OH trên các khoáng với các ion Al3+, như trình bày trong các phương trình sau: Các polymer Al có điện tích (+) chiếm tỉ lệ cao và chủ yếu là dạng không trao đổi. CEC của đất có thể chịu ảnh hưởng bởi sự hấp phụ của các polymers mang điện tích (+) này. Ở pH cao, CEC tăng do Al(OH) 3 kết tủa và giảm sự hình thành polymer Al mang điện tích (+) hay không có sự hiện diện của các polymer Al. Nhưng khi pH đất giảm sẽ làm tăng sự hình thành polymer mang điện tích (+), nên làm giảm CEC của đất. OH 2+ H2O 2+ OH 4+ (H2O)Al + Al(H2O)4 (H2O)4Al A l(H2O)4 +2H2O H2O OH OH O 2+ (H2O)4Al Al(H2O)4 +2H+ O Sự thủy phân Fe tương tự như sự thủy phân Al như trình bày trong phương trình sau. Mặc dù phản ứng thủy phân Fe sẽ gây chua cao hơn sự thủy phân Al về mặt nguyên lý, nhưng độ chua này được đệm bởi các phản ứng thủy phân của Al. Vì vậy, sựï thủy phân của Fe có ảnh hưởng rất ít đến pH đất cho đến khi phần lớn Al trong đất bị phản ứng thủy phân. Fe3+ + H2O Fe(OH)2+ + H+ Các polymers Fe và Al có thể hiện diện dưới dạng các keo vô định hình hay tinh thể, các keo này che phủ các bề mặt sét và các khoáng khác. Chúng cũng có thể được giữ giữa các mạng lưới của các khoáng sét có tính trương nở trong đất, ngăn cản sự sụp đổ của các mạng lưới này khi các khoáng bị mất nước. 3.1.4 Các muối hoà tan Các muối acid, muối trung tính, hay muối base trong dung dịch đất thường phát sinh từ sự phong hoá của khoáng, sự phân giải chất hữu cơ, hay do sự bón phân hoá học và phân hữu cơ của con người. Các cations của các muối này sẽ thay thế các ion Al3+ hấp phụ trên đất chua và vì thế làm giảm pH của dung dịch đất (do Al bị đẩy ra ngoài dung dịch). Vì vậy, khi bón các cations có hoá trị 2 vào đất sẽ làm giảm pH dung dịch đất mạnh hơn so với các cation kim loại có hoá trị 1 (do lực thay thế Al của các cation hoá trị 2 cao hơn cation hoá trị 1). Bón phân theo hàng sẽ tạo ra một nồng độ muối hoà tan cao trong vùng đất có bón phân, nên sẽ làm giảm pH dung dịch đất rất mạnh ngay tại cùng đó do sự thủy phân của 5
- Al. Vì vậy, việc bón phân theo hàng với liều lượng cao trên đất có pH
- Bảng 4.2 Độ chua hình thành do các loại phân N Dư lượng gây chua cho đất Trung Tối đa Tối thiểu Loại phân N Phản ứng Nitrate hoá bình* Dư Đương Dư Đương Đương lượng lượng lượng lượng lượng acid CaCO3 (kg acid CaCO3 (kg CaCO3 (kg CaCO3/kgN) CaCO3/kgN CaCO3/ kgN NH3 lỏng NH3(khí) + 2O2 H+ + H+ 50/14=3,6 0 0 1,8 khan NO3 + H2O NO3 Urea (NH2) 2CO +4O2 2H+ 2H+ 100/28=3,6 0 0 1,8 +2NO3 + CO2 + H2O 2NO3 Ammonium NH4NO3 + 2O2 2H+ + 2H+ 100/28=3,6 0 0 1,8 nitrate 2NO3 + H2O 2NO3 Ammonium (NH4) 2SO4 + 4O2 4H+ + 4H+ 200/28=7,2 2H+ 100/28=3,6 5,4 sulfate 2NO3 + SO42 +2H2O 2NO3 SO42 SO42 MAP NH4H2PO4 + O2 4H+ + 2H+ 100/14=7,2 H+ 50/14=3,6 5,4 NO3 + H2PO4 + H2O NO3 H2PO4 H2PO4 DAP (NH4) 2HPO4 + O2 3H+ + 3H+ 150/28=5,4 H+ 50/28=1,8 3,6 2NO3 + H2PO4 +H2O 2NO3 H2PO4 H2PO4 Giá trị trung bình: áp dụng theo Hiệp Hội Các nhà Hoá Học Phân Tích. Phương pháp này giả định rằng sự sinh trưởng của cây trồng sẽ bị giảm do độ chua được hình thành bởi quá trình nitrate hoá phân NH4+ và do sự hấp thu các cation và anion không cân bằng của cây trồng. Nếu tính cả hàm lượng khá lớn NH4+ được hấp thu trực tiếp bởi cây trồng, xem như lượng NH4+ này không bị nitrate hoá, 1,8 kg CaCO3 cần để trung hoà sự hoá chua do 1 kg phân NH4N gây nên. Nhưng khi không xét đến ảnh hưởng của sự hấp thu không cân bằng trong tỉ lệ cation/anion, thì cần đến 3,75 kg CaCO 3 để trung hoà sự hoá chua của 1 kg NH4N bị nitrate hoá thành NO3. 3.2.2 Sự mất đi các cation base Do các dung dịch có chứa các loại muối luôn phải được trung hoà về mặt điện tích [bằng nhau trong tổng điện tích (+) và ()], khi nước rửa trôi xuống bên dưới vùng rễ có chứa cả hai cation và anion. Nên mỗi 1 kg NO3N bị rửa trôi sẽ lấy đi theo 7,1 kg CaCO3 hay một đương lượng cation khác. Sự hấp thu cation của cây trồng có thể làm giảm hoặc tăng độ chua của đất được hình thành do quá trình nitrate hoá NH4+ từ phân bón, từ các chất thải của cây trồng và động vật, hay trong chất hữu cơ. Sự biến động này được giải thích là do sự khác nhau trong quá trình hấp thu N và các base của cây trồng. Chỉ số các base hấp thu (EB) được định nghĩa là tổng các cation hấp thu (Ca2+, Mg2+, K+, và Na+) trừ tổng các anion hấp thu (Cl, SO42, NO3, và H2PO4). Các cây có tỉ số EB/N 1,0 làm gia tăng độ chua này. Chỉ có rất ít cây trồng có giá trị EB/N > 1,0. Các cây ngũ cốc và họ hoà thảo có tỉ số EB/N trung bình là 0,43 và 0,47, có nghĩa là chỉ có 43 và 47 % N được hấp thu sẽ gây chua cho đất. 3.2.3 Ảnh hưởng của thời gian 7
- Độ chua của đất không hình thành trong 1 2 năm, và khác nhau giữa các loại đất. Sự hoá chua có thể hình thành trong 5 năm đối với đất cát, hay 10 năm đối với đất thịt, nhưng có thể 15 năm hay hơn đối với đất thịt pha sét. Độ chua của đất ngày càng gia tăng do việc sử dụng vôi ngày càng giảm trong nông nghiệp, đồng thời sự sử dụng phân N ngày càng gia tăng. Một ví dụ về việc sử dụng lâu dài các loại phân NaNO3 , (NH4)2SO4 trong điều kiện có và không có bón vôi. Với (NH 4)2SO4, pH đất trong lớp đất mặt 15 cm giảm 1,6 1,8 đơn vị sau 32 năm canh tác, so với sử dụng (NH 4)2SO4 nhưng có bón vôi. Với NaNO3 , pH chỉ giảm 0,71,0 đơn vị, so với NaNO3 có bón vôi. Bảng 4.3 Ảnh hưởng của các loại phân N và bón vôi đến độ chua của đất (sau 32 năm canh tác bông vải bắp) Nghiệm thức bón N và vôi pH đất Loại đất 1 Loại đất 2 0- 15- 30- 45- 0- 15- 30- 45- 15cm 30cm 45cm 60cm 15cm 30cm 45cm 60cm (NH4)2SO4 4,8 4,8 4,3 4,3 4,8 4,8 4,9 4,9 (NH4) 2SO4 + VÔI 6,2 5,4 4,7 4,6 6,0 5,5 5,3 5,1 NaNO3 5,7 5,5 5,1 5,0 5,8 5,5 5,3 5,1 NaNO3 + VÔI 6,4 6,4 6,3 6,3 6,8 6,6 5,8 5,2 pH ban đầu của 2 loại đất = 6,0 Lượng N bón 40 kg N/ha trong 15 năm đầu, sau đó bón 53 kg N/ha trong 17 năm sau. Lượng vôi bón hàng năm là 500 kg/ha trong 15 năm đầu, và 800 kg/ha trong 17 năm kế tiếp. 4 Đất phèn Đất phèn được hình thành ở những nơi có địa hình thấp, có thời gian dài bị nước biển xâm nhập, có sự tích lũy các trầm tích biển, thảm thực vật là sú, vẹt, đước. Có sự hiện diện của khoáng pyrite, khoáng này là vật liệu trung tính chỉ hóa chua trong điều kiện có oxy. Lưu huỳnh trong xác bã thực vật được vi sinh vật phân giải trong điều kiện yếm khí hình thành H2S và trong điều kiện có Fe thì sẽ tạo thành FeS.H2O theo quá trình như sau H2S + Fe(OH)3 FeS.nH2O. Khi có sự xuất hiện của oxy pyrite bị oxy hóa do các vi khuẩn phân giải lưu huỳnh như Thibacillus thiooxidans hình thành nên acid sulfuric FeS2 + 7/2 O2 + H2O FeSO4 + H2SO4. Khi có sự hiện diện của vi khuẩn Thiobacillus ferroxidans, FeSO4 sẽ bị oxy hóa thành Fe3+. FeSO4 + H2SO4+ ½ O2 Fe(SO4)3 + H2O Và Fe sẽ tác dụng nhanh với FeS2 để hình thành acid sulfuric 3+ FeS2 + 14Fe3+ + 8H2O 15Fe2+ + 16H + 2SO42 Fe2+ + SO42 + 1/2 O2 + 3/2 H2O + ½ K+ 1/3 KFe(SO4)2(OH)6 + H+ + ½ SO42. Sản phẩm oxy hóa của khoáng pyrite là khoáng jarosite và acid sulfuric. Jarosite là đặc điểm để nhận biết đất phèn và acid sulfuric làm cho đất bị chua. 4.1 Đặc điểm đất phèn Đất phèn thường có sa cấu sét, cấu trúc kém đến không cấu trúc, đất phèn thường có hàm lượng chất hữu cơ tương đối cao nhưng do trong điều kiện yếm khí chất hữu cơ kém bị phân giải dẫn đến hàm lượng mùn trong đất phèn thấp (tỉ số C/N cao, > 25). 8
- Đất phèn có pH thấp (≤ 3,5 ở tầng sinh phèn), hàm lượng các độc chất (Al3+, Fe2+, SO42) cao, hàm lượng các chất dinh dưỡng cao nhưng khả năng hữu dụng thấp. Do đất phèn có sa cấu sét và có lượng chất hữu cơ cao nên có CEC cao và tính đệm cao. Trong đất phèn hầu hết các vi sinh vật đều không có ích cho quá trình chuyển hóa chất dinh dưỡng cho cây trồng. 4.2 Sử dụng và các biện pháp cải tạo đất phèn Đẩy tầng sinh phèn xuống thấp bằng cách giữ cho đất luôn ngập nước, một số biện pháp cải tạo đất phèn đã được sử dụng như: Chọn giống chịu phèn hay kháng phèn Ngâm nước, cày không lật, làm đất tối thiểu Bón vôi và các vật liệu có chứa vôi Rửa phèn 5 Đất là một hệ thống có tính đệm Đất có tính chất như là một acid yếu nên có tính đệm pH. Trong các loại đất chua, Al hấp phụ trên bề mặt keo đất sẽ duy trì sự cân bằng với Al3+ trong dung dịch đất, trong 3+ dung dịch Al3+ bị thủy phân để hình thành H+. Nếu H+ được trung hoà bởi 1 base và Al3+ trong dung dịch bị kết tủa dưới dạng Al(OH)3, Al3+ trao đổi trên bề mặt keo đất sẽ được giải phóng để tái cung cấp Al3+ cho dung dịch. Vì thế, pH dung dịch đất vẫn được duy trì hay được gọi là pH đất có tính đệm. Nếu base được tiếp tục thêm vào, phản ứng trên sẽ tiếp tục, càng nhiều Al 3+ hấp phụ được trung hoà và được thay thế trên CEC bởi các cation của base bón vào. Kết quả là pH sẽ tăng dần. Al3+ Ca2+ Sét Mg2+ Al3+ + H2O AlOH2+ + H+ K+ Al3+ Phản ứng trên cũng xảy ra theo hướng ngược lại. Khi thêm một lượng acid vào một loại đất trung tính, OH trong dung dịch đất sẽ được trung hoà bởi H + của acid, Al(OH)3 hoà tan dần nên làm tăng nồng độ Al3+ trong dung dịch và sau đó là trên CEC. Nếu phản ứng tiếp tục xảy ra, pH dung dịch đất vẫn sẽ tiếp tục tăng nhưng với tốc độ rất chậm vì Al3+ thay thế các cation base hấp phụ. Tổng hàm lượng sét và chất hữu cơ trong đất và bản chất của các khoáng sét sẽ quyết định mức độ đệm của đất. Các loại đất có hàm lượng sét và chất hữu cơ cao sẽ có tính đệm cao, nhưng khi muốn nâng pH đất cần phải bón 1 lượng vôi lớn hơn rất nhiều so với các loại đất có tính đệm thấp hơn. Các loại đất cát có hàm lượng sét và chất hữu cơ thấp sẽ có tính đệm kém và chỉ cần 1 lượng vôi thấp có thể thay đổi pH nhanh chóng. Các loại đất chứa phần lớn sét 1:1 (Ultisols và Oxisiols) thường có khả năng đệm thấp so với các loại đất chứa chủ yếu các khoáng sét 2:1 (Alfisols và Mollisols). 9
- 5.1 Xác định độ chua hoạt động và độ chua tiềm tàng trong đất 5.1.1 Độ chua hoạt động (hiện tại) Phương pháp tương đối chính xác nhất và được dùng rộng rãi để xác định pH là đo pH bằng pH kế với điện cực thủy tinh trong 1 hỗn hợp đất nước. pH đất là 1 chỉ thị sự hiện diện của Al3+ và H+ trao đổi. H+ trao đổi hiện diện ở pH
- HCl. Sau khi cân bằng, pH được xác định và các giá trị pH này được vẽ lên 1 đồ thị với trục tung là giá trị pH và trục hoành là hàm lượng meq acid hay base được cho vào đất. Từ các số liệu này ta có thể dễ dàng xác định được nhu cầu vôi của đất nhằm đưa pH đến một giá trị mong muốn. Ví dụ, để tăng pH từ 5,7 đến 6,5 cần bón 1,0meq base/100 g đất. Vậy lượng vôi nguyên chất CaCO3 cần để làm tăng pH từ 5,7 đến 6,5 sẽ là: 1,0 meq CaCO3 (5 mg CaCO3) = 5 mg CaCO3 100 g đất meq 100 g đất = 1.000 kg CaCO3/ha15 cm Dung dịch đệm đơn giản của Shoemaker, McLean, và Pratt (SMP) được sử dụng rộng rãi để xác định nhu cầu vôi của đất chua. Dung dịch đệm là một hỗn hợp có nồng độ loãng của triethanolamine, paranitrophenol, và Kchromate. Phương pháp SMP đặc biệt thích hợp cho đất có các tính chất sau: nhu cầu vôi > 4 meq/100 g đất (> 4.000 lb/a), pH< 5,8, chất hữu cơ
- 12
- 5.3 Các vật liệu có chứa vôi Các vật liệu được sử dụng phổ biến để cung cấp vôi cho đất là Ca và/hay Mg oxides, hydroxides, carbonates, và silicates. Các anion đi kèm trong vôi phải có đặc tính làm giảm hoạt độ H+ và Al3+ trong dung dịch đất. Gypsum (CaSO4.2H2O) và các muối trung tính khác không thể trung hoà H+ như phản ứng sau: CaSO4.2H2O + 2H+ Ca2+ + 2H+ + SO42 + 2H2O. Thực ra khi bón các muối trung tính vào đất sẽ làm giảm pH đất. Đặc biệt là khi bón theo hàng, do vôi thay thế Al3+ hấp phụ trong đất, vì vậy, đôi khi bón các loại muối trung tính làm giảm pH đất cục bộ một cách đáng kể. Bảng 4.5 Giá trị trung hoà (CCE) của 1 số loại vôi nguyên chất Loại vôi Trọng lượng Trọng lượng Giá trị trung Hàm lượng phân tử đương lượng hoà (%) Ca (g/mole) (g/eq) CaO 56 28 179 71 Ca(OH) 2 74 37 135 54 CaMg(CO3)2 184 46 109 22 (13 % Mg) CaCO3 100 50 100 40 CaSiO3 116 58 86 46 Các phản ứng khi bón vôi vào đất, bắt đầu là sự trung hoà H+ trong dung dịch đất do cả ion OH hay HCO3 có trong vôi. Ví dụ, CaCO3 có tính chất như sau: CaCO3 + H2O Ca2+ + HCO3 + OH Tốc độ của phản ứng có quan hệ trực tiếp đến tốc độ các ion OH bị mất đi (trung hoà) trong dung dịch. Khi có đủ ion H+ trong dung dịch đất, Ca2+ và HCO3 sẽ tiếp tục được phân ly từ CaCO3 và đi vào dung dịch. Tuy nhiên khi nồng độ ion H+ trong dung dịch giảm, sự hình thành ion Ca2+ và HCO3 cũng bị giảm tương ứng. H+ tiếp tục bị mất đi khỏi dung dịch đất nên kết quả cuối cùng là sự kết tủa của Al và Fe3+ dưới dạng Al(OH)3 và Fe(OH)3 và sự thay thế chúng trên CEC bởi Ca2+ và/hay 3+ Mg2+. Phản ứng tổng hợp của sự trung hoà Al trong đất chua có thể được viết như sau: Al3+ K+ Ca2+ Ca2+ Sét Mg2+ + CaCO3 + 3H2O Sét Ca2++2Al(OH)3+ CO2 K+ Mg2+ Al3+ Ca2+ Ca2+ 5.3.1 Calcium Oxide Calcium oxide (CaO) còn được gọi là vôi sống, vôi nung. CaO có dạng bột màu trắng, được đóng bằng các bao giấy do CaO có tính ăn da. Được sản xuất bằng cách nung CaCO3 (đá vôi) trong lò nung, nhằm đẩy khí CO2 ra. CaO là là vôi hữu hiệu nhất, có giá trị trung hoà hay đương lượng Calcium carbonate (CCE) là 179%, so với CaCO 3 nguyên chất. Nhưng trong trường hợp bón không cần thiết phải có hiệu quả nhanh, cả hai chất loại vôi CaO hay Ca(OH)2 đều có thể sử dụng được. Nhưng vấn đề khó khăn trong sử dụng vôi là việc trộn đều vôi trong đất, vì ngay sau khi bón vào đất vôi hấp thụ nước rất nhanh và hình thành dạng hạt nhỏ hay vữa. Các hạt này có thể bị hoá cứng do sự hình thành CaCO 3 trên bề mặt chúng, dạng CaCO3 này có thể tồn tại một thời gian rất dài trong đất. 13
- 5.2.3 Calcium Hydroxide Calcium hydroxide [Ca(OH)2] thường được gọi là vôi chết, vôi tôi, có dạng bột màu trắng. Có hiệu lực nhanh trong khả năng trung hoà độ chua của đất. Vôi tôi được sản xuất bằng cách cho CaO ngậm nước và có giá trị trung hoà (CCE) là 136. 5.2.4 Calcium và CalciumMagnesium Carbonates Calcium carbonate (CaCO3) hay calcite và calciummagnesium carbonate [CaMg(CO3)2] hay dolomite là những chất chứa vôi được sử dụng phổ biến. Đá vôi phần lớn được khai khác từ các mỏ đá vôi. Chất lượng đá vôi phụ thuộc vào mức độ tinh khiết của chúng. Giá trị trung hoà của đá vôi biến thiên từ 65 100 %. Giá trị trung hoà của CaCO 3 nguyên chất về mặt lý thuyết được qui ước là 100 %, trong khi đó dolomite nguyên chất có giá trị trung hoà là 109 %. Tuy nhiên, CCE của phần lớn vôi sử dụng trong nông nghiệp biến động khoảng 90 – 98 % do luôn có lẫn một số tạp chất. 5.2.5 Marl Marls là trầm tích của đá vôi, xốp thường lẫn với đất và thường có ẩm độ cao. Trầm tích marls thường hình thành từng mảng và được phủ bởi bột vỏ sò, ốc.... có giá trị trung hòa trung bình từ 70 – 90 % tùy thuộc vào hàm lượng sét chứa đựng. 5.3 Giá trị trung hoà hay đương lượng Calcium Carbonate của các vật liệu có chứa vôi Giá trị của một loại vôi phụ thuộc vào lượng acid được trung hoà bởi một đơn vị trọng lượng vôi, nên giá trị trung hoà có liên quan đến thành phần cấu tạo phân tử và độ tinh khiết của vôi. CaCO3 nguyên chất là mức chuẩn qui ước để xác định giá trị trung hoà các loại vôi khác, và giá trị trung hoà của CaCO3 qui ước là 100 %. CCE được định nghĩa là khả năng trung hoà độ chua của vôi được biểu thị bằng % trong lượng của CaCO3. Xem các phản ứng sau đây: CaCO3 +2H+ Ca2+ + H2O + CO2 MgCO3 +2H+ Mg2+ + H2O + CO2 Trong mỗi phản ứng, 1 mole CO32 sẽ trung hoà được 2 mole H+. Trọng lượng phân tử gram của CaCO3 là 100 g, trong khi đó trọng lượng phân tử của MgCO3 chỉ là 84 g; vì vậy, chỉ với 84 g MgCO3 sẽ trung hòa được một lượng acid tương đương với 100 g CaCO 3. Vì thế, giá trị trung hoà hay CCE của một trọng lượng bằng nhau của 2 loại vôi trên được tính như sau: 84 = 100 100 x x = 119 Vậy khả năng trung hoà của MgCO3 lớn hơn gấp 1,19 lần CaCO3 với vùng 1 trọng lượng; do đó CCE của MgCO3 là 119 %. Ta có thể tính giá trị trung hoà của các loại vôi khác theo cách tính tương tự. Thành phần của các loại vôi đôi khi cũng được diễn tả bằng hàm lượng Ca và Mg của khoáng nguyên chất. Ví dụ, CaCO3 nguyên chất có chứa 40 % Ca và MgCO3 nguyên chất chứa 28,6 % Mg, được tính bằng tỉ lệ của trọng lượng phân tử: 24 g/m Mg x 100 = 28,6 % 84 g/m MgCO3 Để chuyển đổi % Ca thành CCE, ta nhân % Ca với 100/40 hay 2,5; để đổi % Mg thành MgCO3, nhân % Mg với 84/24 hay 3,5. 14
- 5.3.1 Hàm lượng Ca và Mg oxide Chất lượng của các vật liệu vôi cũng có thể diễn tả bằng đương lượng Ca và Mg dạng oxide của chúng. Ví dụ, CaCO3 nguyên chất có chứa 40 % Ca. CaO có trọng lượng phân tử là 56, trong đó có nghĩa là O có trọng lượng là 16 g được kết hợp với 40 g Ca. Vì vậy, nếu Ca trong CaCO3 được diễn tả dưới dạng oxide sẽ chứa (56/100) x 100, hay 56/40 đương lượng của CaO. Vì vậy, để đổi % CaCO3 thành % CaO, ta nhân % CaCO3 với 56/100, hay 0,56. Ta có thể tính tương tự với các loại vôi có chứa Mg. 5.3.2 Carbonates tổng số Chất lượng của vôi cũng liên quan đến hàm lượng tổng CO 32 chứa trong vôi. Ví dụ, có 1 loại vôi chứa 78 % CaCO3 và 12 % MgCO3. Tổng hàm lượng CO3 sẽ là 90 %. Có thể sử dụng tất cả các yếu tố chuyển đổi sao cho tiện lợi trong tính toán và sử dụng. 5.4 Độ mịn của vôi Hiệu quả trung hoà độ chua của vôi trong nông nghiệp tùy thuộc vào độ mịn của vôi, do tốc độ phản ứng của vôi phụ thuộc vào diện tích bề mặt tiếp xúc với đất. CaO và Ca(OH)2 có dạng bột mịn , nên độ mịn không ảnh hưởng nhiều đến hiệu quả trung hoà, nhưng đá vôi cần phải được nghiền mịn trước khi bón. Khi đá vôi nghiền được trộn đều vào đất, tốc độ phản ứng sẽ gia tăng theo mức độ mịn của vôi. Các kết quả nghiên cứu về độ mịn của vôi cho thấy hiệu quả trung hoà của các thành phần thô thấp hơn thành phần mịn theo thời gian ủ trong đất. Hiệu quả tương đối, dựa trên cơ sở sự thay đổi pH của đất, chịu ảnh hưởng bởi mức độ thay đổi pH được sử dụng để so sánh. Hệ số chuyển đổi sử dụng trong tính toán đương lượng trung hoà của các loại vôi. %CaO = %Ca x 1,40 (56/40= 1.40) %Ca(OH)2 = %Ca x 1,85 %CaCO = %Ca x 2,50 %MgO = %Mg x 1,67 %Mg(OH) 2 = %Mg x 2,42 %MgCO3 = %Mg x 3,50 %Ca = %Mg x 1,67 %CaCO3 = %Mg x 4,17 %CaCO3 = %MgO x 2,50 %CaCO3 = %MgCO3 x 1,19 Vì giá thành của vôi sẽ tăng theo độ mịn, nên trong thực tế chỉ cần nghiền tối thiểu, có nghĩa là chỉ cần sản xuất các loại vôi có tỉ lệ thành phần mịn đủ để làm thay đổi nhanh pH. Vì vậy vôi sử dụng trong nông nghiệp luôn chứa cả 2 thành phần mịn và thô. Độ mịn của vôi được định lượng hoá bằng cách xác định sự phân bố các kích thước hạt trong 1 mẫu vôi. Yếu tố độ mịn là tổng lượng vôi có trong cả 3 kích cỡ hạt nhân với 1 hệ số hữu hiệu. Tỉ lệ Calcium Carbonate hữu hiệu (ECC) của đá vôi chính là CCE của chúng. 5.5 Lợi ích của việc sử dụng vôi trong nông nghiệp Vôi rất ít khi cần trong các vùng đất có vũ lượng hàng năm thấp, sự rửa trôi không đáng kể, và các vùng đất mặn, khô hạn, mặn kiềm. 15
- Sự gia tăng sinh trưởng của cây trồng do bón vôi thường là do vôi làm hạn chế tính chất của độc chất Al3+, mặc dù giá trị dinh dưỡng đối với cây trồng của Ca và Mg trong vôi cũng quan trọng. 5.5.1 Lợi ích trực tiếp Tính độc của Al có thể là yếu tố chính hạn chế sự sinh trưởng của cây trồng trong nhiều loại đất chua, đặc biệt là khi pH đất
- Phần lớn vi sinh vật tham gia vào quá trình biến đổi NH4+ thành NO3 cần 1 lượng Ca lớn; vì vậy, quá trình nitrate hoá sẽ được tăng cường khi đất được bón vôi, pH nâng lên đến 5,56,5. Sự phân giải các tàn dư thực vật và chất hữu cơ trong đất cũng sẽ xảy ra nhanh hơn trong khoảng pH này so với đất chua. Ảnh hưởng của bón vôi đến cả 2 quá trình khoáng hoá N hữu cơ và nitrate hoá được trình bày trong bảng 4.6. Bảng 4.6 Ảnh hưởng của Vôi đến sự khoáng hoá N hữu cơ và nitrate hoá trong 3 loại đất chua N hữu cơ được % N bị nitrate Loại đất Nghiệm thức khoáng hoá (ppm) hoá 1(pH 5,5, 0,20 % Không bón vôi 36 8 N tổng số) Bón vôi 4 tuần lễ 61 66 Bón vôi 2 năm trước 33 94 2(pH 5,4, 0,13 Không bón vôi 40 7 % N tổng số) Bón vôi 4 tuần lễ 72 64 Bón vôi 2 năm trước 44 93 3(pH 5,7, 0,83 % Không bón vôi 90 28 N tổng số) Bón vôi 4 tuần lễ 107 83 Bón vôi 2 năm trước 134 94 Bón vôi ngay trước khi ủ chất hữu cơ sẽ làm tăng gấp đôi sự khoáng hoá N hữu cơ. Tuy nhiên, sau 12 năm, bón vôi không còn ảnh hưởng đến sự giải phóng N khoáng trong cả hai loại đất. Mặc dù bón vôi ngay khi bắt đầu ủ làm tăng sự nitrate hoá, nhưng bón sớm sẽ hiệu quả hơn. Sự cố định N Khi bón vôi đầy đủ sẽ gia tăng sự cố định N 2 cộng sinh và không cộng sinh. Sự hoạt động của nhiều nòi vi khuẩn Rhizobium bị giảm đáng kể khi pH đất 6,0, do đó bón vôi làm tăng pH sẽ làm tăng sự sinh trưởng của các cây họ đậu do sự cố định N 2 được tăng cường. Với các sinh vật cố định N2 tự do (không cộng sinh), sự cố định N2 cũng gia tăng khi đất được bón vôi đầy đủ, đồng thời quá trình phân giải các dư thừa thực vật cũng gia tăng. Tình trạng lý tính đất Khi đất được bón vôi, cấu trúc của đất có sa cấu mịn có thể được cải thiện, thể hiện qua việc tăng hàm lượng chất hữu cơ và sự hình thành các phức sét bão hoà Ca. Ảnh hưởng tốt của bón vôi đến cấu trúc đất bao gồm việc làm giảm hiện tượng đóng váng của đất sau khi mưa hay tưới, làm cho hạt giống nẩy mầm tốt hơn, và giảm được chi phí năng lượng trong làm đất. Tuy nhiên, nếu bón quá nhiều vôi cho các loại đất Oxisols và Ultisols có thể cấu trúc đất bị phá hủy, hậu quả là làm giảm khả năng thấm nước của đất. Ca cũng cải thiện phần nào tình trạng lý tính của đất mặn kiềm. Nồng độ các chất điện ly tăng do sự hoà tan của CaCO3 sẽ kiềm hãm sự phân tán sét và làm giảm khả năng thấm nước của các loại đất này. Bệnh cây Bón vôi cho đất chua có 1 vai trò rất quan trọng trong việc kiểm soát 1 số bệnh cây. Nhưng ngược lại, bón vôi cũng có thể làm tăng tỉ lệ 1 số bệnh khác như bệnh nấm vẩy trên rễ cây, ghẻ trên khoai tây 5.6 Phương pháp bón vôi 17
- Bón vãi trên mặt ruộng không cày vùi vào đất sẽ không có hiệu quả nhanh để hiệu chỉnh độ chua của các tầng đất sâu. Trong một số nghiên cứu cho thấy nếu bón vãi vôi không cày vùi, 10 15 năm sau pH các tầng đất sâu 15 cm mới được nâng lên. Khi bón với lượng vôi cao, nên chia làm 2 lần, mỗi lần bón ½ và cày vùi ngay, sau đó bón ½ còn lại và cũng cày vùi, đây là phương pháp tốt nhất để vôi có tác dụng ngay trong tầng đất cày. Giữ pH tầng đất mặt thích hợp trong một thời gian dài nhiều năm là một phương pháp có ý nghĩa thực tiễn để khắc phục độ chua của tầng đất sâu bên dưới. Nhiều dẫn chứng cho thấy khi duy trì pH tầng đất mặt ở 6,0, 6,5, và 7,2 sẽ làm giảm được độ chua ở các tầng đất sâu hơn. Bảng 4.7 Ảnh hưởng của các phương pháp làm đất, liều lượng bón phân N và bón vôi đến pH của 1 loại đất thịt sau 7 năm trồng bắp liên tục Làm đất theo Nghiệm thức bón Độ sâu tầng đất phương pháp cổ Không làm đất N (cm) truyền Không Không Bón vôi Bón vôi bón vôi bón vôi Bón N cao (336 kg 05 cm 5,3 4,9 5,5 4,3 N/ha) 515 cm 5,9 5,1 5,3 4,8 1530 cm 6,0 5,5 5,8 5,5 Bón N trung bình 05 cm 5,9 5,2 5,9 4,8 (168 kg N/ha) 515 cm 6,3 5,6 5,9 5,5 1530 cm 6,2 5,7 6,0 5,9 Có thể dùng các thiết bị làm đất phổ biến kết hợp với bón vôi để trung hoà độ chua tầng đất sâu bằng cách cày vùi vôi ngay sau khi bón. Ảnh hưởng của việc cày sâu để vùi vôi sau bón đến sự sinh trưởng của bông vải cho thấy trọng lượng và độ sâu của rễ cây gia tăng khi cày vùi đến độ sâu 45 cm. Khi cày vùi vôi sâu hơn (60 cm) sẽ làm tăng năng suất bắp. Với những hệ thống canh tác không làm đất, pH lớp đất mặt có thể giảm đáng kể sau vài năm do việc sử dụng phân N và do sự phân giải các dư thừa thực vật. Nhưng sự hoá chua này chỉ tập trung ở lớp đất mặt, và điều này có thể dễ dàng hiệu chỉnh bằng cách bón vôi cho lớp đất này. Trộn một phần vôi với đất là một phương pháp giảm bớt lượng vôi bón nhưng có thể vẫn làm tăng pH thích hợp cho cây trồng sinh trưởng tốt. Một trong những yếu tố góp phần vào việc làm giảm năng suất cây trồng trên đất chua là sự khó khăn trong việc kiểm soát cỏ dại. Kiểm soát cỏ dại kém trên đất chua là do tốc độ phân giải và hấp phụ thuốc diệt cỏ gia tăng ở pH đất thấp. Trên đất có pH cao, hiệu lực của 1 số thuốc diệt cỏ có thể kéo dài trong nhiều năm, nhưng điều này có thể có vấn đề đối với các cây nhạy cảm với thuốc diệt cỏ. Một phương pháp bón vôi khác là vôi được tạo thành dạng huyền phù với nước, thường được gọi là vôi lỏng. Thiết bị bón phân dạng lỏng có thể dùng cho việc bón vôi lỏng này. Có thể trộn các loại vôi thật mịn với 50 % nước và bón bằng thiết bị bón phân lỏng. Một số đặc điểm của vôi dạng lỏng như sau: 1. Phân bố rất đều. 2. Vôi được nghiền mịn nên phản ứng rất nhanh với đất. 3. Chỉ cần bón 1 lượng nhỏ vôi ở bất cứ thời điểm nào. 4. Có thể hiệu chỉnh pH đất một cách nhanh chóng. 18
- 5. Bón hàng năm giúp duy trì pH. 6. Giá thành vôi lỏng thường cao 24 lần vôi dạng khô. Ureaammonium nitrate (UAN) có thể trộn thành huyền phù với vôi. Cày vùi ngay sau khi bón huyền phù này sẽ hạn chế rất lớn việc mất NH 3 khi urea bị thủy phân. Các huyền phù NKvôi được sử dụng rất thành công. 5.7 Các yếu tố quyết định bón vôi 5.7.1 Cây trồng Mức độ nhạy cảm đối với độ chua của đất rất khác nhau tùy loại cây trồng, vì thế lượng vôi bón cho đất cũng khác nhau tùy thuộc vào loại cây trồng đang canh tác. Loại, giống cây trồng là yếu tố quan trọng nhất để xây dựng chương trình bón vôi cho đất. 5.7.2 Sa cấu và chất hữu cơ của đất Đất có sa cấu thô, hàm lượng chất hữu cơ thấp, nhu cầu vôi sẽ thấp hơn so với đất có sa cấu mịn và hàm lượng chất hữu cơ cao. Thường ít khi xảy ra việc bón vôi với liều lượng quá cao cho đất có sa cấu thô, nhưng nếu hiểu biết về hóa học đất cơ bản có thể hạn chế được vấn đề này. 5.7.3 Thời gian và chu kỳ bón vôi Đối với các hệ thống luân canh có cây họ đậu, có thể bón vôi 3 6 tháng trước khi gieo trồng; điều này có tầm quan trọng đặc biệt trên đất có độ chua cao. Nếu bón vôi quá cận thời gian gieo trồng, có thể không đủ thời gian để vôi phản ứng với đất. Nếu cây họ đậu được trồng sau một cây họ hoà thảo thì thời gian bón vôi tốt nhất là bón khi gieo trồng cây họ hoà thảo. Các dạng vôi dễ hoà tan như CaO và Ca(OH)2 có thể bón vãi đều trước khi gieo trồng để tránh sự tổn thương cho cây con vừa nẩy mầm. Chu kỳ bón vôi cho một vùng đất thường tùy thuộc vào sa cấu của đất, loại phân N và lượng phân N bón cho đất, sản lượng cây trồng thu hoạch, chế độ mưa, và hàm lượng vôi bón cho mỗi lần bón. Trên đất cát, thường bón một lượng vôi ít, nhưng bón nhiều lần, ngược lại đất có sa cấu mịn, có thể bón ít lần hơn nhưng với lượng cao trong mỗi lần bón. Vôi được nghiền mịn sẽ có phản ứng nhanh hơn, nhưng hiệu quả thường chỉ duy trì trong thời gian ngắn hơn so với vôi nghiền thô hơn. Phương pháp hoàn hảo nhất để quyết định chu kỳ bón vôi cho một vùng đất là thử nhanh pH đất. Có thể lấy mẫu đất thử nhanh pH đất với khoảng thời gian 3 năm 1 lần. 5.7.4 Độ sâu làm đất Thường lượng vôi được khuyến cáo cho nông dân bón được dựa trên cơ sở độ sâu của tầng đất cày 15 cm. Nhưng nếu khi đất được cày sâu đến 25 cm, lượng vôi khuyến cáo có thể phải tăng lên 50 %. 5.8 Làm chua đất có pH cao Sự hoá chua của đất có thể có lợi đối với các loại đất có chứa hàm lượng carbonate cao, như các loại đất vùng khô hạn và bán khô hạn. Việc san lấp đất để thuận tiện cho việc tưới tiêu và các mục đích khác có thể làm cho các tầng đất bên dưới có pH cao được phơi bày lên trên, nên ảnh hưởng không tốt đến sự sinh trưởng của cây trồng. Do đó các vấn đề gây ra do pH đất cao không chỉ hạn chế trong các vùng khô hạn và bán khô hạn. Sự hoá chua của đất lúa ngập nước làm tăng năng suất lúa, thường là do khả năng hữu dụng của các nguyên tố vi lượng tăng. Trên một số vùng khác, các loại đất chua trung bình có 19
- thể cần thiết phải hoá chua hơn nữa để thích hợp cho sự sinh trưởng của cây trồng thích hợp với điều kiện chua như khoai tây, dâu tây, họ thập tự. Có thể làm đất hoá chua bằng việc sử dụng 1 số hoá chất sau: 5.8.1 Bón S nguyên tố (S) Bón S nguyên tố có ảnh hưởng rất lớn đến mức độ hoá chua của đất. Khi S được bón vào đất, sẽ xảy ra phản ứng sau: S + H2O + 3/2O2 2H+ + SO42 Với 1 mole S bị oxi hoá, sẽ hình thành nên 2 mole H +, nên làm giảm pH đất. Vì vậy trong việc tính toán lượng S bón cho đất, cần phải xác định tính đệm pH của đất đó. Bột S nghiền mịn có thể bón vãi và cày vùi vài tuần lễ trước khi gieo trồng vì phản ứng oxi hoá S của vi sinh vật có thể xảy ra chậm, nhất là trên các vùng có khí hậu lạnh và đất có pH kiềm. Trong một số trường hợp, người ta khuyến cáo nên làm chua hoá vùng rễ cây nhằm làm tăng tính thấm nước của đất và tăng khả năng hữu dụng của P và các nguyên tố vi lượng khác trong đất. Để cải thiện cả hai trường hợp này thường cần phải hoá chua cho các loại đất mặn kiềm. S nguyên tố cũng có thể bón theo hàng dưới dạng bột mịn hay dạng huyền phù. Khi bón S theo hàng, hàm lượng phân S cần bón thường thấp hơn nhiều so với phương pháp bón vãi. Bón SO2 cho đất cũng làm tăng sự hấp thu dinh dưỡng của cây cao lương. Trong nghiên cứu này, chỉ cần trung hoà 25 – 50 % độ kiềm cải thiện đáng kể khả năng hấp thu dinh dưỡng của cây. 5.8.2 Sulfuric acid Sulfuric acid (H2SO4) được dùng để cải tạo đất bị nhiễm B và Na, làm tăng khả năng hữu dụng của P và các nguyên tố vi lượng khác, giảm sự bay hơi NH 3, tăng tính thấm nước của đất, kiểm soát được một số loại cỏ dại và nguồn bệnh, và tăng cường sự phát triển của cỏ trên các đồng cỏ chăn nuôi. Ảnh hưởng của H2SO4 làm tăng năng suất cao lương và lúa gạo chủ yếu là do tăng khả năng hữu dụng các nguyên tố vi lượng trong đất. H2SO4 có thể bón trực tiếp cho đất nhưng có bất lợi là sự nguy hiểm cho người sử dụng và cần phải có thiết bị đặc biệt chịu được acid. H2SO4 cũng có thể được tưới nhỏ giọt trên mặt đất hoặc bón với thiết bị tương tự như thiết bị bón NH3 lỏng khan. H2SO4 cũng có thể được hoà vào nước tưới trực tiếp. H 2SO4 có ưu điểm là phản ứng tức thời với đất, nên có tác dụng hoá chua rất nhanh. Bảng 4.7 Ảnh hưởng của việc bón H2SO4 và FeSO4 đến năng suất cao lương (kg/ha) trên đất đá vôi H2SO4 Fe (kg/ha) 0 112 560 0 434 1,460 2,275 112 605 1,538 2,274 560 2,169 2,429 2,230 5,600 1,885 1,971 1,810 5.8.3 Aluminum sulfate Aluminum sulfate [Al2(SO4)3] được sử dụng phổ biến trong nghề trồng hoa, dùng để làm chua đất trong sản xuất azaleas (đỗ quyên), camellias (hoa trà), và các loại hoa kiểng chịu được điều kiện chua. Khi hoà vào nước, Al 2(SO4)3bị thủy phân tạo nên một dung dịch rất chua: 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
BÀI GIẢNG KHOA HỌC PHÂN BÓN
108 p | 600 | 253
-
Bài giảng khoa học phân bón - chủ đề 1
17 p | 462 | 185
-
Bài giảng Độ phì nhiêu đất đai và phân bón - ThS. Lê Trọng Hiếu
40 p | 380 | 76
-
Bài giảng Vai trò và ý nghĩa của các nguyên tố đa trung vi lượng
18 p | 401 | 74
-
Bài giảng Phân bón và độ phì - Chương 3: Các quan hệ cơ bản giữa đất và cây trồng
17 p | 254 | 52
-
Bài giảng Phân bón và độ phì - Chương 8: Chất hữu cơ trong đất và phân bón hữu cơ
33 p | 161 | 46
-
Bài giảng Phân bón và độ phì - Chương 9: Quản lý độ phì nhiêu đất đai và phân bón
6 p | 140 | 39
-
Bài giảng Phân bón và độ phì - Chương 5: Các nguyên tố dinh dưỡng và phân bón đa lượng
68 p | 144 | 35
-
Bài giảng Đất trồng-Phân bón - ĐH Phạm Văn Đồng
75 p | 134 | 32
-
Bài giảng Phân bón và độ phì - Chương 2: Các yếu tố ảnh hưởng đến sinh trưởng cây trồng
34 p | 184 | 31
-
Bài giảng Phân bón và độ phì - Chương 7: Các nguyên tố dinh dưỡng và phân bón vi lượng
32 p | 135 | 31
-
Bài giảng Chương 5: Các nguyên tố dinh dưỡng và phân bón đa lượng
80 p | 186 | 25
-
Bài giảng Phân bón và độ phì - Chương 6: Các nguyên tố dinh dưỡng và phân bón trung lượng
20 p | 105 | 22
-
Bài giảng Phân bón và độ phì - Chương 1: Giới thiệu môn học
8 p | 133 | 19
-
Bài giảng Phần 7: Duy trì độ phì đất
11 p | 82 | 12
-
Bài giảng Hệ thống quản lý chất lượng nông nghiệp: Chương 2.2 - Bùi Hồng Quân
28 p | 29 | 2
-
Kết quả tuyển chọn giống và ảnh hưởng của mật độ trồng, công thức phân bón đến giống đậu tương ĐT32 trồng xen trong vườn bưởi Diễn giai đoạn kiến thiết cơ bản tại Việt Yên, Bắc Giang
10 p | 7 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn