Bài giảng Tài chính công: Chương 5 - ThS. Nguyễn Việt Dũng
lượt xem 19
download
Bài giảng Tài chính công: Chương 5 Tổng quan về thuế và các tác động của thuế nêu khái niệm thuế. Thuế có lịch sử rất lâu đời. Thuế đã phát sinh, tồn tại và phát triển cùng với sự ra đời, tồn tại và phát triển của nhà nước. Từ khi có nhà nước là phải có thuế.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Bài giảng Tài chính công: Chương 5 - ThS. Nguyễn Việt Dũng
- Lưu hành nội bộ Biên soan: Ths Nguyễn Việt Dũng CHƯƠNG 5 TỔNG QUAN VỀ THUẾ VÀ CÁC TÁC ĐỘNG CỦA THUẾ 5.1. TỔNG QUAN VÊ THUẾ 5.1.1. Khái niệm thuế Thuế có lịch sử rất lâu đời. Thuế đã phát sinh, tồn tại và phát triển cùng với sự ra đời, tồn tại và phát triển của nhà nước. Từ khi có nhà nước là phải có thuế. Tuy nhiên, môi trường tồn tại của thuế phải là nền kinh tế hàng hoá, tuỳ theo cách tiếp cận có khái niệm thuế như sau: Thuế là khoản đóng góp bắt buộc của các cá nhân và doanh nghiệp cho một hoạt động vì lợi ích chung nào đó. Khoản thu từ thuế sẽ được sử dụng để mua các đầu vào cần thiết nhằm sản xuất các hàng hóa và dịch vụ của Chính phủ hoặc để phân phối lại sức mua giữa các cá nhân. “thuế là gì?” không đơn thuần chỉ là một cầu hỏi mang tính học thuật, nó còn mang những ý nghĩa thực tiễn quan trọng. Thuế có hai đặc điểm cơ bản: Thứ nhất, nó mang tính bắt buộc chứ không có tính chất tự nguyện.. Thứ hai, thuế là khoản đóng góp không hoàn trả trực tiếp cho người nộp. Những đặc điểm này cho thấy, thuế thường bị coi là tạo ra gánh nặng lớn hơn so với giá cả. Vì thế, trong những trường hợp có thể được thì tài trợ cho các khoản chi tiêu bằng giá cả sẽ có lợi thế hơn là bằng thuế. Nhưng có những loại hàng hóa và dịch vụ không thể tài trợ được bằng cách đặt giá như nhiều loại hàng hóa công cộng và ngoại ứng, vì thế bắt buộc phải sử dụng thuế như một công cụ quan trọng để tạo dựng nguồn thu. Thuế có một số vai trò như sau: Thuế là nguồn thu chủ yếu và lâu dài của ngân sách quốc gia. Thuế là một công cụ tác động vào sự phân bổ nguồn lực trong xã hội. Thuế là công cụ để phân phối lại thu nhập giữa các cá nhân trong xã hội. Chương 5: Tổng quan về thuế và tác động của thuế 1
- Lưu hành nội bộ Biên soan: Ths Nguyễn Việt Dũng 5.1.2. Các nguyên tắc cơ bản khi đánh thuế a./ Nguyên tắc lợi ích và nguyên tắc khả năng thanh toán. Nguyên tắc lợi ích cho rằng nên đánh thuế các cá nhân tỷ lệ theo mức lợi ích mà họ nhận được từ các chương trình của Chính phủ. Theo quan điểm này, nếu như các cá nhân phải trả tiền túi cho các hàng hóa cá nhân tương ứng với lượng tiêu dùng hàng hóa đó của họ, Chính phủ cũng nên bắt họ phải trả thuế tương ứng với mức độ sử dụng các hàng hóa công cộng của họ như đường sá, công viên. Nguyên tắc khả năng thanh toán: Nguyên tắc này phát biểu rằng, thuế mà người dân phải đóng nên tùy thuộc vào khả năng chi trả, tức là phụ thuộc vào thu nhập và của cải tích lũy được của họ. Cá nhân nào có khả năng đóng thuế cao hơn thì sẽ có nghĩa vụ nộp thuế nhiều hơn so với những người có khả năng chi trả thấp. Theo nguyên tắc này, việc phân chia nghĩa vụ thuế giữa các cá nhân hoàn toàn không phụ thuộc vào mức lợi ích biên mà các cá nhân nhận được từ các dịch vụ của Chính phủ. b./ Nguyên tắc công bằng ngang và công bằng dọc. Cho dù được tổ chức theo nguyên tắc lợi ích hay khả năng thanh toán thì các hệ thống thuế hiện đại đều cố gắng phản ánh quan niệm về công bằng. Nhắc lại rằng, bất kể một chính sách nào cũng cần được xem xét theo hai tiêu chuẩn về công bằng: Tiêu chuẩn công bằng ngang cho rằng các cá nhân có năng lực kinh tế như nhau thì phải chịu thuế như nhau. Như vậy, nếu hệ thống thuế được xây dựng trên nguyên tắc lợi ích, thì hai người hưởng thụ các dịch vụ hoàn toàn như nhau, từ đường cao tốc đến công viên, sẽ phải trả thuế như nhau. Còn nếu hệ thống thuế xây dựng theo nguyên tắc khả năng thanh toán, công bằng ngang đòi hỏi những người có thu nhập như nhau sẽ phải đóng thuế như nhau. Tiêu chuẩn gây nhiều tranh cãi hơn là công bằng dọc vì nó cho rằng những người có năng lực kinh tế khác nhau sẽ phải trả những mức thuế khác nhau. Tuy nhiên, trả thuế khác nhau như thế nào được coi là công bằng là một vấn đề rất mơ hồ. Chương 5: Tổng quan về thuế và tác động của thuế 2
- Lưu hành nội bộ Biên soan: Ths Nguyễn Việt Dũng 5.1.3. Các cách phân loại thuế a./ Thuế trực thu và thuế gián thu. Thuế trực thu là loại thuế đánh trực tiếp vào các cá nhân hoặc các doanh nghiệp. Ví dụ, về thuế trực thu là thuế thu nhập, thuế bảo hiểm xã hội, các loại thuế đánh vào lương khác, thuế thừa kế và thuế quà tặng. Thuế thu nhập doanh nghiệp cũng được coi là thuế trực thu vì mọi người nhận thu nhập từ doanh nghiệp. Thuế gián thu là thuế đánh vào hàng hóa và dịch vụ, tức là chỉ đánh gián tiếp vào các cá nhân. Chẳng hạn như thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế nhập khẩu, thuế tài sản, thuế giá trị gia tăng là các loại thuế gián thu. b./ Thuế phổ cập và thuế chọn lọc. Để giải thích về cách phân loại này, cần bắt đầu với khái niệm về cơ sở tính thuế. Cơ sở tính thuế là một khoản mục hay một hoạt động kinh tế mà dựa vào đó, Chính phủ đánh thuế. Cơ sở tính thuế thường được chia làm ba loại chính là thu nhập, tiêu dùng và của cải. Ba loại cơ sở tính thuế này có quan hệ mật thiết với nhau. Thuế đánh vào các cơ sở này có thể là thuế phổ cập hay thuế chọn lọc. Thuế phổ cập là loại thuế đánh vào tất cả các bộ phận cấu thành của một cơ sở tính thuế, và không chấp nhận một trường hợp nào được loại trừ, được miễn hoặc giảm thuế từ cơ sở tính thuế đó. Thuế chọn lọc là loại thuế chỉ đánh vào một phần của cơ sở tính thuế, hoặc nó cho phép có các trường hợp miễn giảm thuế khỏi cơ sở tính thuế chung. c./ Thuế lũy tiến, lũy thoái và thuế tỷ lệ Một cách phân loại thuế cũng rất phổ biến khác là phân loại thuế theo thuế suất thành thuế lũy tiến, lũy thoái và thuế tỷ lệ. Tuy nhiên, một điều cần lưu ý ở đây là thuế suất dùng làm căn cứ phân loại là thuế suất trung bình (Average tax rate – ATR) là tỷ số giữa tổng số tiền thuế phải trả chia cho giá trị bằng tiền của cơ sở tính thuế. Còn thuế suất biên (Marginal tax rate – MTR) là doanh thu thuế thu được thêm trên giá trị tăng thêm của cơ sở tính thuế khi cơ sở tính thuế tăng lên. Dựa vào thuế suất trung bình, thuế được chia làm ba loại: Chương 5: Tổng quan về thuế và tác động của thuế 3
- Lưu hành nội bộ Biên soan: Ths Nguyễn Việt Dũng Thuế tỷ lệ: là loại thuế mà thuế suất trung bình không thay đổi theo giá trị của cơ sở tính thuế. Ví dụ, thuế 10% đánh vào mọi mức thu nhập là thuế tỷ lệ, vì thuế suất trung bình đối với người có thu nhập 100.000 đồng hay 1 triệu đồng đều bằng nhau là 10%. Thuế lũy tiến: là loại thuế mà thuế suất trung bình tăng lên khi giá trị cơ sở tính thuế tăng lên. Thông thường, một biểu thuế lũy tiến thường bao gồm nhiều thuế suất biên khác nhau, mỗi thuế suất được áp dụng cho các mức thu nhập nằm trong một giới hạn nhất định mà người ta gọi là khoang thuế. Khoang thuế càng cao thì thuế suất biên phải chịu thường là càng lớn. Ví dụ, một người đang quyết định làm nhiều giờ hơn, và lợi ích ròng mà người đó nhận được là phần thu nhập khả dụng sau thuế của anh ta. Nếu thu nhập của anh ta phải chịu thuế suất biên là 50% thì anh ta chỉ có khả năng giữ lại cho mình một nửa thu nhập đó, sau khi đã trả thuế. Tuy nhiên, vì chi khi thu nhập vượt quá một mức giới hạn nhất định thì mới chịu 50% thuế, nên thuế suất trung bình của anh ta sẽ thấp hơn 50%. Thuế lũy thoái: là loại thuế mà thuế suất trung bình giảm xuống khi giá trị cơ sở tính thuế tăng lên. Một số người cho rằng, nếu thu nhập cao hơn là do con người làm việc chăm chỉ hơn thì đánh thuế thu nhập lũy thoái có thể làm tăng tính hiệu quả, vì những người làm việc có hiệu suất đã được xã hội “thưởng” bằng một thuế suất thấp hơn khi họ lao động hăng say hơn. Tuy vậy, thuế lũy thoái lại bị rất nhiều người khác coi là không tiến bộ vì nó đã vi phạm nguyên tắc khả năng thanh toán, cho rằng thu nhập cao hơn thì khả năng trả thuế của cá nhân cũng cao hơn, vì thế người có thu nhập cao cần đóng góp nhiều hơn cho xã hội. Trong thuế lũy thoái, người giầu trả một tỷ lệ thuế thấp hơn trong thu nhập của mình so với người nghèo, nhưng điều đó không có nghĩa là họ trả một mức thuế tuyệt đối nhỏ hơn người nghèo. 5.1.4. Phạm vi ảnh hưởng của thuế Phạm vi ảnh hưởng của thuế là một khái niệm chung để chỉ tác động của thuế đến sự thay đổi thu nhập của các đối tượng có liên quan. Người ta thường đề Chương 5: Tổng quan về thuế và tác động của thuế 4
- Lưu hành nội bộ Biên soan: Ths Nguyễn Việt Dũng cập đến hai loại phạm vi ảnh hưởng của thuế. Phạm vi ảnh hưởng luật định của thuế là khái niệm để chỉ ai là đối tượng phải có nghĩa vụ trả thuế theo luật định. Sự thay đổi trong thu nhập thực tế của các cá nhân do thuế gây ra gọi là phạm vi ảnh hưởng kinh tế của thuế. Như vậy, chỉ có phạm vi ảnh hưởng kinh tế, chứ không phải phạm vi ảnh hưởng luật định, mới cho chúng ta biết thực chất gánh nặng thuế đã được phân chia như thế nào giữa các cá nhân trong xã hội. Từ đây, khi nói đến phạm vi ảnh hưởng của thuế nghĩa là chúng ta ngầm định về phạm vi ảnh hưởng kinh tế. 5.1.5. Sự chuyển thuế Sự khác nhau giữa phạm vi ảnh hưởng luật định và phạm vi ảnh hưởng kinh tế của thuế được gọi là chuyển thuế. Có thể có hai dạng chuyển thuế. Chuyển thuế thuận chiều: là sự chuyển thuế từ người sản xuất, khi họ là người chịu thuế theo luật định, sang cho người tiêu dùng dưới dạng nâng cao giá hàng. Chuyển thuế nghịch chiều: là sự chuyển thuế từ người tiêu dùng, khi họ là đối tượng chịu thuế luật định, sang cho người sản xuất hay người bán hàng bằng cách làm giảm giá hàng hóa chịu thuế. 5.1.6. Thuế đơn vị và thuế theo giá trị Thuế đánh vào các hàng hóa được trao đổi trên thị trường có thể thuộc về một trong hai loại: Thuế đơn vị và thuế theo giá trị. Thuế đơn vị là thuế đánh vào một lượng cố định trên từng đơn vị sản phẩm được bán. Thuế theo giá trị là thuế đánh theo một tỷ lệ phần trăm nhất định của giá bán. Như khái niệm của loại thuế này cho thấy, thuế theo giá trị phụ thuộc vào giá bán. Chương 5: Tổng quan về thuế và tác động của thuế 5
- Lưu hành nội bộ Biên soan: Ths Nguyễn Việt Dũng 5.2. TÁC ĐỘNG CỦA THUẾ ĐẾN PHÂN PHỐI THU NHẬP 5.2.1. Phân tích phạm vi ảnh hưởng của thuế bằng mô hình cân bằng cục bộ. 5.2.1.1. Phạm vi ảnh hưởng của thuế trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo. a./ Tác động của thuế đơn vị. Chúng ta bắt đầu bằng việc phân tích tác động của thuế đơn vị. Giả sử Chính phủ công bố, để hạn chế việc uống rượu, Chính phủ quyết định đánh thuế T đồng vào mỗi chai rượu được mua trên thị trường. Nhưng liệu trong thực tế, có phải bây giờ người tiêu dùng sẽ phải trả giá cho mỗi chai rượu cao hơn trước đây T đồng hay không? Điều này sẽ được làm rõ qua hình 5.1. Hình 5.1: Phạm vi ảnh hưởng của thuế đơn vị đánh vào người tiêu dùng P(đ) S T Pm H P0 G E Pb F D D’ Q1 Q0 (Chai rượu) Trước khi có thuế, thị trường cân bằng tại điểm E với giá mỗi chai rượu được bán là P0 đồng và lượng rượu trao đổi là Q0 chai. Chú ý rằng, đường cầu D của người tiêu dùng là đường thể hiện mức tối đa mà các cá nhân sẵn sàng trả cho mỗi chai rượu, không cần biết số tiền phải trả đó là cho ai, người bán hay Chính phủ. Vì thế, dù có thuế hay không thì tổng mức sẵn sàng trả của người tiêu dùng vẫn không thay đổi. Tuy nhiên, nếu trước thuế, họ chỉ có nghĩa vụ trả tiền cho người bán thì đường cầu D chính là đường cầu thể hiện mức độ sẵn sàng trả của người tiêu dùng cho người bán. Nhưng khi có thuế, người Chương 5: Tổng quan về thuế và tác động của thuế 6
- Lưu hành nội bộ Biên soan: Ths Nguyễn Việt Dũng mua biết rằng họ còn có nghĩa vụ nộp thuế T cho Chính phủ. Vì vậy, mức độ sẵn sàng trả cho người bán của họ tại mọi điểm dọc trên đường cầu ít hơn lúc trước một lượng bằng T. Kết quả, toàn bộ đường cầu D sẽ dịch chuyển song song xuống dưới đến đường cầu D’ một khoảng đúng bằng T. Cân bằng thị trường chuyển từ E xuống F, với số lượng rượu được bán trên thị trường chỉ còn Q1. Mức giá tại F là mức mà người mua sẵn sàng trả cho người bán sau khi có thuế, được ký hiệu là Pb để chỉ mức giá mà người bán thực sự nhận được sau khi có thuế, vì người mua còn phải trả thuế T cho Chính phủ nên mức giá mà người mua thực sự phải trả khi có thuế là Pm. Nhưng T lại chính là khoảng cách dọc giữa D và D’ nên: Nếu Pb tương ứng với điểm F thì Pm sẽ tương ứng với điểm H trong hình 5.1 Như vậy, thuế đã tạo ra một sự chênh lệch giữa giá người mua phải trả và giá người bán được nhận. Khoảng chênh lệch đó chính là thuế Chính phủ thu (T = Pm – Pb). So với trước thuế, người mua đã phải trả một mức giá cao hơn, nhưng người bán cũng chỉ nhận được một mức giá thấp hơn. Nói cách khác, tuy về danh nghĩa, người tiêu dùng trả thuế nhưng thực chất, gánh nặng thuế đã được chia sẻ giữa hai người. Tổng doanh thu thuế mà Chính phủ thu được bằng T nhân với số chai rượu bán ra (Q1) hay chính là diện tích hình chữ nhật PbPmHF. Hình chữ nhật này được chia làm hai phần: Diện tích P0PmHG là gánh nặng thuế mà người tiêu dùng phải trả, còn diện tích PbP0GF là gánh nặng thuế mà người sản xuất phải trả. Đến đây người ta sẽ hỏi nếu người trả thuế luật định là người sản xuất thì phân tích trên có thay đổi gì không? Giả sử Chính phủ vẫn đánh thuế T trên mỗi chai rượu sản xuất ra, nhưng không thu thuế này tại khâu tiêu thụ mà ngay từ khi rượu xuất xưởng (ví dụ, đây là thuế doanh thu). Khi đó, người bán sẽ phải trả thuế theo luật, như đã phản ánh trong hình 5.2. Cân bằng thị trường trước thuế vẫn tại điểm E. Đường cung S là đường thể hiện mức tối thiếu mà người sản xuất sẵn sàng bán hàng hóa của mình cho người tiêu dùng. Sau khi có thuế, người sản xuất biết rằng họ không được giữ lại toàn bộ số tiền mà người tiêu dùng trả cho họ, mà phải trích T đồng/chai rượu để trả thuế cho Chính phủ. Vì thế tại mọi điểm dọc theo Chương 5: Tổng quan về thuế và tác động của thuế 7
- Lưu hành nội bộ Biên soan: Ths Nguyễn Việt Dũng đường cung, bây giờ người sản xuất chỉ sản sàng bán cho người tiêu dùng với mức giá cao hơn trước khi có thuế một khoản bằng T. S’ P(đ) T S Pm H P0 G E Pb F D Q1 Q0 (Chai rượu) Hình 5.2: Phạm vi ảnh hưởng của thuế đơn vị đánh vào người sản xuất Kết quả, đường cung sẽ dịch chuyển song song lên trên đúng bằng mức thuế. Cân bằng mới của thị trường diễn ra tại H, và đó cũng là mức giá Pm mà người mua thực sự phải trả để mua được hàng hóa. Tuy nhiên, mức giá mà người sản xuất thực sự nhận được không phải là Pm mà là Pm – T, hay chính là Pb tương ứng với điểm F. So sánh hình 5.2 và hình 5.1 có thể thấy, cho dù thuế đánh vào người sản xuất hay người tiêu dùng thì phạm vi ảnh hưởng kinh tế của thuế cũng hoàn toàn tương tự như nhau. b./ Tác động của thuế theo giá trị. Tác động của thuế theo giá trị rất giống với thuế đơn vị. Nguyên tắc cơ bản vẫn là xác định xem thuế làm đường cung và cầu dịch chuyển thế nào, rồi sau đó tính toán điểm cân bằng mới của thị trường. Chỉ có điều cần nhớ rằng, vì thuế theo giá trị phụ thuộc vào giá bán, nên khi đường cầu (hoặc cung) dịch chuyển, nó không thể dịch chuyển song song như trường hợp thuế đơn vị, mà trái lại, các điểm trên đường cầu (hoặc cung) đó sẽ dịch chuyển cùng một tỷ lệ với mức giá tương ứng. Có nghĩa là, điểm nào trên đường cầu (hoặc cung) ứng với mức giá càng thấp thì mức dịch chuyển tuyệt đối của điểm đó xuống dưới (hoặc lên trên) càng ít, cho đến khi đường cầu (hoặc cung) đó cắt trục hoành thì mức giá tương ứng bằng 0, Chương 5: Tổng quan về thuế và tác động của thuế 8
- Lưu hành nội bộ Biên soan: Ths Nguyễn Việt Dũng nên đường cầu (hoặc cung) mới phải trùng với đường cũ. Còn sự phân chia gánh nặng thuế vẫn giống như trường hợp thuế đơn vị. Hình 5.3 (a) và (b) lần lượt mô tả phạm vi ảnh hưởng của thuế theo giá trị khi nó đánh vào người tiêu dùng và người sản xuất. S’ P(đ) P(đ) D D H S S Pm Pm H D’ E E G P0 G P0 Pb Pb F F O Q1 Q0 (Chai rượu) O Q1 Q0 (Chai rượu) Hình 5.3 (a): Phạm vi ảnh hưởng của thuế giá Hình 5.3 (b): Phạm vi ảnh hưởng của thuế giá trị đánh vào người tiêu dùng trị đánh vào người sản xuất Như vậy, việc phân chia gánh nặng của thuế hoàn toàn không phụ thuộc vào thuế đó là thuế đơn vị hay thuế theo giá trị, và nó được đánh vào người sản xuất hay người tiêu dùng. Nhưng nếu phạm vi ảnh hưởng của thuế không phụ thuộc vào những yếu tố trên thì yếu tố nào sẽ quyết định gánh nặng thuế phần lớn sẽ rơi vào ai? Như phần sau sẽ thấy, chỉ có độ co giãn của cung và cầu mới thực sự là yếu tố quyết định. c./ Độ co giãn của cung và cầu quyết định sự phân chia gánh nặng thuế. Quy luật chung: Thuế làm lượng hàng hóa được mua bán trên thị trường giảm xuống, đồng thời làm giá người mua phải trả tăng, giá người bán nhận được giảm so với trước khi có thuế. Tuy nhiên, giá người mua phải trả tăng bao nhiêu tùy thuộc vào độ co giãn của cầu. Nếu cầu co giãn nhiều thì với một mức độ tăng giá cho trước, lượng cầu sẽ giảm nhiều hơn. Nói cách khác, tương ứng với cùng một độ giảm xuống của lượng cầu thì giá mà người tiêu dùng thực sự phải trả sẽ tăng ít hơn, và người tiêu dùng sẽ phải chịu thiệt ít hơn. Tương tự, nếu cung càng ít co Chương 5: Tổng quan về thuế và tác động của thuế 9
- Lưu hành nội bộ Biên soan: Ths Nguyễn Việt Dũng giãn thì tương ứng với cùng một mức độ giảm xuống của lượng, giá mà người sản xuất thực sự được nhận sẽ giảm nhiều hơn, và người sản xuất sẽ phải chịu thiệt nhiều hơn. Vì vậy, có thể kết luận rằng cầu càng co giãn và cung càng ít co giãn thì gánh nặng thuế sẽ chủ yếu rơi vào người sản xuất, và ngược lại, cầu càng ít co giãn và cung càng co giãn thì gánh nặng thuế sẽ chủ yếu rơi vào người tiêu dùng. Tính quy luật này được thể hiện trong hình 5.4 (a) và (b). Cả hai trường hợp này đều lấy thuế đơn vị đánh vào người tiêu dùng làm ví dụ. Bằng trực giác cũng có thể thấy gánh nặng thuế của người tiêu dùng (P0PmHG) trong hình (a) nhỏ hơn, tương đối so với gánh nặng thuế của người sản xuất (PbP0GF), và lớn hơn tương đối trong hình (b). P(đ) S P(đ) Pm H H P0 E Pm G S G E Pb P0 F D Pb F D’ D’ D O Q1 Q0 (Chai rượu) O Q1 Q0 (Chai rượu) Hình 5.4 (a): Phân chia gánh nặng thuế khi cầu Hình 5.4 (b): Phân chia gánh nặng thuế khi cầu co giãn nhiều, cung co giãn ít co giãn ít, cung co dãn nhiều. 5.2.1.2. Phạm vi ảnh hưởng của thuế trong thị trường cạnh tranh không hoàn hảo. Tác động của việc đánh thuế phụ thuộc rất nhiều vào cơ cấu của thị trường. Trong phần trước, chúng ta đã nghiên cứu tác động của thuế trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Tuy nhiên, nếu thị trường là độc quyền hay độc quyền nhóm thì tác động của thuế lại có nhiều điểm khác biệt. Trong phần này, chúng ta sẽ tiếp tục xem xét hai cơ cấu thị trường này. a./ Phạm vi ảnh hưởng của thuế trong độc quyền. Chương 5: Tổng quan về thuế và tác động của thuế 10
- Lưu hành nội bộ Biên soan: Ths Nguyễn Việt Dũng Hãng độc quyền luôn tối đa hóa lợi nhuận bằng cách chọn sản xuất ở mức sản lượng mà tại đó, chi phí biên (MC) = Doanh thu biên (MR). P(đ) MC + T P1’ E’ E P1 P0’ F’ MC P0 F D MR O Q1’ Q1 Q0’ Q0 Q Hình 5.6: Thuế đơn vị đánh vào hãng độc quyền Điểm cân bằng của thị trường độc quyền tại điểm E, tại đó, hãng độc quyền định giá bằng P1 và sản xuất tại Q1. Nếu đây là thị trường cạnh tranh thì thị trường sẽ cân bằng tại F với giá cân bằng là P0 và sản lượng cung cấp là Q0. Nếu Chính phủ quyết định đánh thuế T vào từng đơn vị hàng hóa do hãng độc quyền sản xuất thì đường chi phí biên sẽ tăng lên bằng MC + T. Nếu là thị trường cạnh tranh thì điểm cân bằng mới sẽ là F’. Sản lượng cân bằng giảm xuống Q0’ và giá cân bằng tăng lên đến P0’. Nhưng nếu đây là thị trường độc quyền thì điểm cân bằng mới là E’ đạt tại mức giá P1’ và sản lượng Q1’. Nhưng, như có thể nhận thấy qua hình 5.6, thuế trong thị trường độc quyền sẽ làm giá tăng ít hơn và sản lượng giảm ít hơn so với trong thị trường cạnh tranh. Sở dĩ như vậy là vì đường doanh thu biên dốc hơn đường cầu, khiến cho cùng một mức thuế sẽ làm giảm sản lượng trong thị trường độc quyền giảm ít hơn so với thị trường cạnh tranh. Điều này có nghĩa là, người tiêu dùng trong thị trường độc quyền sẽ chịu gánh nặng thuế thấp hơn so với trong thị trường cạnh tranh. Nói cách khác, sự chuyển thuế thuận chiều trong môi trường độc quyền ít hơn trong môi trường cạnh tranh. Tuy nhiên, điều này chưa hẳn đã là điều tốt đối Chương 5: Tổng quan về thuế và tác động của thuế 11
- Lưu hành nội bộ Biên soan: Ths Nguyễn Việt Dũng với người tiêu dùng, vì ngay khi chưa có thuế, họ đã phải trả mức giá độc quyền cao hơn nhiều so với giá cạnh tranh. Nếu như trong thị trường cạnh tranh, phạm vi ảnh hưởng của thuế phụ thuộc vào độ co giãn của đường cung và cầu, thì trong thị trường độc quyền, nó cũng sẽ phụ thuộc vào độ dốc của đường chi phí biên và đường cầu. Mọi yếu tố khác không đổi, nếu đường chi phí biên càng dốc, tức là tốc độ tăng chi phí biên khi sản lượng tăng càng cao, thì khả năng chuyển thuế thuận chiều của hãng độc quyền càng nhỏ. Điều này có thể thấy rõ khi chúng ta so sánh ảnh hưởng của thuế đơn vị tương ứng với hai đường MC có độ dốc khác nhau. Trong hình 5.7 minh họa hai hãng độc quyền có đường chi phí biên khác nhau, lần lượt là MC1 và MC2. Để dễ dàng cho việc so sánh, giả sử cả hai hãng này đều đứng trước một đường cầu thị trường như nhau, và đều tối đa hóa lợi nhuận độc quyền tại một mức giá và lượng ban đầu, khi chưa có thuế, như nhau. MC1+ T MC1 P(đ) P2 E2 E1 P1 MC2+ T E0 P0 B MC2 A D MR O Q2 Q1 Q0 Q Hình 5.7: Phạm vi ảnh hưởng của thuế phụ thuộc vào độ dốc của MC Bây giờ, Chính phủ đánh thuế T vào cả hai hãng độc quyền. Khi đó, mức độ dịch chuyển dọc lên trên của cả hai đường MC này đều phải như nhau. Vì thế, nếu khi chưa có thuế, hai đường này đều đi qua điểm A thì có nghĩa là sau thuế, chúng đều phải đi qua điểm B. Một điểu hiển nhiên có thể thấy rõ qua hình 5.7 là với đường MC1 dốc hơn, mức độ tăng giá thị trường ít hơn, hay nói cách khác, hãng Chương 5: Tổng quan về thuế và tác động của thuế 12
- Lưu hành nội bộ Biên soan: Ths Nguyễn Việt Dũng độc quyền thứ nhất ít có khả năng chuyển thuế thuận chiều hơn so với hãng độc quyền thứ hai. Như vậy, khi đường chi phí biên thẳng đứng thì không có sự thay đổi giá và sản lượng do thuế, và hãng độc quyền sẽ phải chịu toàn bộ thuế. Trái lại, khi đường chi phí biên nằm ngang, giống như trong nhiều trường hợp các nhà kinh tế hay giả định để đơn giản hóa sự phân tích, thì khả năng hãng độc quyền có thể tăng giá hàng hóa sau thuế là cao nhất. Nhưng khi đó có phải người tiêu dùng sẽ phải gánh chịu phần lớn gánh nặng thuế hay không? Câu trả lời còn phụ thuộc vào hình dáng của đường cầu. Hình 5.8 minh họa hai khả năng. Với đường cầu tuyến tính như trong hình 5.8 (a) thì giá sẽ tăng đúng bằng một nửa mức thuế và người tiêu dùng và hãng độc quyền sẽ chia đôi gánh nặng thuế. Trái lại, với đường cầu co giãn đều như trong hình 5.8 (b) (tức là cứ 1% tăng giá sẽ làm lượng cầu giảm đi theo đúng một tỷ lệ phần trăm cố định) thì giá luôn là cấp số nhân của doanh thu biên. Do đó, thuế sẽ làm giá tăng nhiều hơn mức thuế, và người tiêu dùng sẽ phải chịu nhiều hơn 100% thuế. P(đ) P(đ) P1 P1 P0 P0 MC + T MC + T MC MC D D O Q1 Q0 Q O Q1 Q0 Q Hình 5.8 (a): Thuế đánh vào hãng độc quyền Hình 5.8 (b): Thuế đánh vào hãng độc quyền khi đường cầu tuyến tính đều khi đường cầu có độ co giãn đều b./ Phạm vi ảnh hưởng của thuế trong độc quyền nhóm Nằm giữa hai thái cực nói trên là thị trường độc quyền nhóm, trong đó chỉ có “một số ít” người bán. Cho đến nay vẫn chưa co một mô hình hoàn chỉnh nào nghiên cứu phạm vi ảnh hưởng của thuế trong cơ cấu thị trường này. Lý do là vì sự Chương 5: Tổng quan về thuế và tác động của thuế 13
- Lưu hành nội bộ Biên soan: Ths Nguyễn Việt Dũng phân chia gánh nặng thuế phụ thuộc chủ yếu vào mức độ thay đổi giá trên thị trường, mà điều này còn tùy thuộc vào hành vi của những người bán, xem họ sẽ cạnh tranh hay cấu kết với nhau. Tuy nhiên, ta vẫn có thể rút ra kết luận nhất định khi xem xét các khả năng ứng xử của các hãng trong thị trường độc quyền nhóm. Lý tưởng nhất đối với các hãng là cấu kết lại với nhau để sản xuất ra mức sản lượng tối đa hóa lợi nhuận cho cả ngành. Giải pháp này được gọi là cấu kết theo kiểu Các – ten. Để có được giải pháp theo kiểu các – ten, tất cả các hãng sản xuất phải tự nguyện cắt giảm sản lượng của mình để đẩy giá thị trường lên. Tuy nhiên, giải pháp kiểu các – ten này rất dễ bị phá vỡ trong thực tế, vì tất cả các hãng cấu kết đều có động cơ gian lận, muốn bán nhiều hơn mức sản lượng đã thỏa thuận với các hãng khác để tranh thủ mức giá cao thủ lợi cho mình. Vì thế, mức sản lượng của nhóm độc quyền cần thiết để tối đa hóa lợi nhuận cả ngành. Các hãng nói chung sẽ được lợi hơn nếu có một cơ chế nào đó buộc họ phải giảm sản lượng xuống gần với mức sản lượng kiểu cac –ten. Nếu sản xuất của ngành bị đánh thuế, thì như thường lệ, các hãng trong ngành sẽ buộc phải cắt giảm sản lượng. Tuy vậy, điều này chưa chắc đã là xấu đối với các hãng độc quyền nhóm. Mặc dù với mức lợi nhuận trước thuế cho trước, đánh thuế sẽ làm các hãng bị thiệt, nhưng khi các hãng phải cắt giảm sản lượng thì chúng lại đi đến gần với giải pháp kiểu các – ten hơn, do đó lợi nhuận trước thuế của chúng sẽ tăng lên. Nếu nhờ việc cắt giảm sản lượng mà lợi nhuận trước thuế của các hãng tăng lên cao hơn mức ngay cả sau khi trừ thuế, lợi nhuận của chúng vẫn tăng hơn trước thì thực chất, thuế đã làm các hãng được lợi. Tất nhiên, đây chỉ là một khả năng trong nhiều khả năng khác. Muốn chính xác các hãng có được lợi hay không thì cần biết thêm các thông tin chi tiết về thị trường độc quyền nhóm này. 5.2.1.3. Phạm vi ảnh hưởng của thuế trong thị trường yếu tố sản xuất. Chương 5: Tổng quan về thuế và tác động của thuế 14
- Lưu hành nội bộ Biên soan: Ths Nguyễn Việt Dũng Trên đây, chúng ta đã bàn đến thuế vào thị trường hàng hóa, tức là thị trường đầu ra. Trong phần này, chúng ta sẽ xem xét thuế đánh vào thị trường đầu vào, hay thị trường yếu tố sản xuất. a./ Thị trường lao động. Câu hỏi thường hay được đặt ra đối với thị trường lao động là liệu thuế sẽ làm cho cá nhân làm việc nhiều lên hay ít đi. Muốn trả lời câu hỏi này, cần xem xét đặc điểm về thị trường lao động, mà chủ yếu là cung lao động ở đây. Cung về lao động là số giờ mà người lao động muốn dành cho những công việc hữu ích tạo ra thu nhập trên thị trường. Vì công nhân vừa là người có cung về lao động vừa là người thụ hưởng những thành quả do lao động của mình tạo ra, nên khi giá trị giờ công tăng lên sẽ có hai hiệu ứng đối với họ. Thứ nhất, họ chịu tác động của hiệu ứng thay thế, khiến họ mong muốn làm việc nhiều giờ hơn vì mỗi giờ làm việc được trả khá hơn. Mỗi giờ nghỉ ngơi trở nên đắt hơn và cá nhân có xu hướng thay thế nghỉ ngơi bằng làm việc. Kết quả, cung về lao động tăng lên. Bên cạnh đó, công nhân còn chịu tác động của hiệu ứng thứ hai là hiệu ứng thu nhập. Với số tiền lương cao hơn, thu nhập nhiều hơn thì cá nhân muốn “mua” nhiều hàng hóa và dịch vụ hơn, trong đó có “hàng hóa” nghỉ ngơi. Hiệu ứng này còn được tăng cường thêm vì một lẽ số giờ làm việc của mỗi cá nhân chịu giới hạn về mặt sinh lý. Tức là, không ai có thể làm việc quá một số giờ nhất định trong ngày. Vì thế, khi số giờ làm việc đạt gần đến giới hạn sinh lý đó thì cầu về nghỉ ngơi của cá nhân càng tăng. Kết hợp hai tác động này cho thấy khi giờ công tăng, cá nhân có xu hướng giảm thời gian làm việc. Câu trả lời cuối cùng về việc giờ công tăng lên thì cung lao động tăng hay giảm còn tùy thuộc vào tương quan độ lớn giữa hiệu ứng thay thế và hiệu ứng thu nhập. Tuy nhiên, đa số các nhà kinh tế tin rằng, khi giờ công thấp hơn một mức nhất định thì cung lao động sẽ tăng theo tiền lương như mọi đường cung thông thường khác. Nhưng khi tiền lương vượt quá điểm giới hạn đó Chương 5: Tổng quan về thuế và tác động của thuế 15
- Lưu hành nội bộ Biên soan: Ths Nguyễn Việt Dũng thì hiệu ứng thay thế sẽ lấn át hiệu ứng thu nhập và tiền lương tăng sẽ làm cung lao động giảm. Kết quả, cung về lao động có dạng quay vòng như biểu diễn trong hình 5.9. Đến đây, tác động của thuế đến thị trường lao động sẽ phụ thuộc vào giao điểm cung cầu về lao động trước và sau thuế. Nếu đường cầu về lao động DL cắt đường cung SL trước khi đường cung quay vòng như hình 5.10 (a) thì thuế sẽ có tác động tương tự như trong các thị trường hàng hóa thông thường khác. SL SL Giờ công (w) Giờ công (w) C w0 DL DL C w1 + t w1 + t w1 w0 w1 O L1 L0 L O L1 L0 L (a) (b) Hình 5.10: Tác động của thuế trong thị trường lao động phụ thuộc vào giao điểm của cung cầu lao động Nói chung, thuế sẽ do cả người lao động và người sử dụng lao động cùng chịu. Tuy nhiên, nếu DL cắt SL sau khi đường cung quay vòng như hình 5.10 (b) thì thuế có thể làm giờ công giảm mạnh hơn mức thuế (w0 – w1 > t). Khi đó, thuế sẽ do Chương 5: Tổng quan về thuế và tác động của thuế 16
- Lưu hành nội bộ Biên soan: Ths Nguyễn Việt Dũng người lao động chịu toàn bộ. Đồng thời, thuế còn làm cung về lao động. Sự thay đổi hành vi của cá nhân để phản ứng lại với thuế sẽ được bàn đến kỹ hơn trong bài sau. b./ Thị trường vốn. Tương tự, phân tích tác động của thuế trong thị trường vốn cũng cần bắt đầu bằng việc phân tích lại đặc điểm của thị trường vốn. Nếu nền kinh tế đóng, không có quan hệ ngoại thương với các nước khác thì cung về vốn hoàn toàn do tiết kiệm trong nước đáp ứng. Khi đó, sẽ hợp lý nếu giả định đường cầu về vốn đi xuống và đường cung đi lên (lãi suất tăng lên các hãng sẽ có ít cầu về vốn hơn và cá nhân muốn tiết kiệm nhiều hơn). Khi đó, tác động của thuế giống như với các hàng hóa khác. Nhưng nếu nền kinh tế mở và vốn lưu động hoàn toàn giữa các nước thì sẽ chỉ có một thị trường về vốn, đó là thị trường vốn thế giới. Bất kể khi nào lãi suất trong nước cao hơn hoặc thấp hơn lãi suất thế giới thì đều xuất hiện một luồng vốn vào hoặc ra khỏi nước đó để cân bằng lãi suất trong nước với lãi suất quốc tế. Đường cung về vốn với mỗi nước là đường nằm ngang – doanh nghiệp trong nước có thể vay bất kỳ một lượng vốn nào tại lãi suất quốc tế. Kết quả, thuế vốn sẽ hoàn toàn do người vay vốn trong nước gánh chịu (hình 5.5 (c) ) P(đ) Pm S P0 Pb D D’ O Q1 Q0 (Chai rượu) Hình 5.5 (c): Cung hoàn toàn co giãn Khi đường cung nằm ngang, thuế không làm thay đổi giá cả thị trường nên người tiêu dùng phải chịu toàn bộ gánh nặng thuế. Chương 5: Tổng quan về thuế và tác động của thuế 17
- Lưu hành nội bộ Biên soan: Ths Nguyễn Việt Dũng Mặc dù trong một thế giới đang có xu hướng tự do hóa và toàn cầu hóa thương mại như ngày nay, vốn vẫn chưa thể lưu chuyển tự do hoàn toàn giữa các nước, tức là đường cung về vốn không hoàn toàn nằm ngang, nhưng từ phân tích trên, có thể rút ra những bài học thực tiễn nhất định. Chính phủ nào bỏ qua tác động của thương mại quốc tế sẽ thổi phồng khả năng đánh thuế vốn của mình. Nền kinh tế càng mở thì thuế vốn càng tạo thêm gánh nặng cho những người sản xuất trong nước đang rất cần vay vốn để phát triển sản xuất. c./ Thị trường đất đai. Một đặc điểm phổ biến đối với thị trường đất đai, nhất là đối với đất đai các vùng đô thị hoặc những nơi đã phát triển lâu đời, là lượng cung về đất thường cố định. Nói cách khác, đường cung về đất là đường thẳng đứng. Một yếu tố có đường cung thẳng đứng là người bán sẽ phải chịu toàn bộ thuế đánh vào yếu tố đó (xem hình 5.5 (d)). Theo hình vẽ này, giá thuê đất ban đầu cân bằng tại P0. Sau khi có thuế, đường cầu dịch chuyển xuống dưới làm giá thuê đất giảm xuống còn Pb. Người chủ đất đã phải gánh chịu toàn bộ thuế đất, còn người đi thuê đất vẫn trả một số tiền không thay đổi so với trước khi có thuế đất (Pm = Pb). P(đ) S P0 Pm Pb D D’ O Q1 Q0 (Chai rượu) Hình 5.5 (d): Cung hoàn toàn không co giãn Khi đường cung thẳng đứng, thuế làm giá trị thị trường giảm xuống đúng bằng mức thuế nên người sản xuất phải chịu toàn bộ thuế Điều này có thể giải thích là vì thuế đất đã được tính vào giá trị đất đai. Những người mua hoặc thuê đất tiềm năng sẽ hiểu rằng khi họ mua đất là đồng thời Chương 5: Tổng quan về thuế và tác động của thuế 18
- Lưu hành nội bộ Biên soan: Ths Nguyễn Việt Dũng họ cũng “mua” luôn một dòng trách nhiệm thuế hàng năm trên mảnh đất đó. Điều này sẽ làm giảm mức độ sẵn sàng trả giá cho mảnh đất. Vì thế, người chịu toàn bộ gánh nặng thuế này là chủ đất tại thời điểm ban hành thuế. Hiện tượng này được gọi là hiện tượng vốn hóa vào giá trị tài sản, hay là quá trình các dòng trách nhiệm thuế được phản ánh vào giá của một tài sản. Qúa trình vốn hóa đã làm việc xác định phạm vi ảnh hưởng thực sự của thuế đất thêm phức tạp. Biết được chủ nhân hiện tại của mảnh đất chưa đủ mà còn cần phải biết chủ đất tại thời điểm ban hành thuế đất nữa, nếu chúng ta muốn biết ai thực sự chịu thuế này. Nếu cung về đất không cố định, chẳng hạn có thể mở rộng thêm nhờ san lấp hồ ao, khai khoáng phục hóa…vv thì đường cung đất đai sẽ dốc lên chứ không thẳng đứng. Khi đó, thuế đất do cả chủ đất và người đi thuê cùng chịu, và mức độ chịu phụ thuộc vào độ co giãn của cung và cầu về đất đai. 5.2.2. Phân tích phạm vi ảnh hưởng của thuế bằng mô hình cân bằng tổng thể 5.2.2.1. Phân tích mô hình cân bằng tổng thể. Khởi đầu để minh họa mô hình cân bằng tổng thể của thuế, chúng ta lấy ví dụ thuế đánh vào nhà hàng được minh chứng trong hình 5.11. Giả sử đường cầu về suất ăn có độ co giãn cao. S2 Giá cả/bữa ăn (P) T S1 B P1 = 20$ D A O Q2 Q1 Số suất ăn/ngày (Q) Hình 5.11: Thị trường bữa ăn Trong trường hợp như thế, nếu như Chính phủ đánh thuế T đồng vào nhà hàng, nó sẽ làm thay đổi cung và nhà hàng gánh chịu toàn bộ gánh nặng thuế. Chương 5: Tổng quan về thuế và tác động của thuế 19
- Lưu hành nội bộ Biên soan: Ths Nguyễn Việt Dũng Trong thực tế, nhà hàng không thể tự một mình vận hành mà phải gắn kết với sự cung cấp lao động, vốn để hoạt động. Đối với nhà hàng, vốn được xem là vốn tài chính – dùng để đầu tư xây dựng và mua các dụng cụ lao động… Khi đánh thuế T đồng vào suất ăn thì nhà hàng phải gánh chịu thuế, đồng nghĩa là các yếu tố lao động và vốn đều gánh chịu thuế. Chúng ta trở lại thị trường các yếu tố sản xuất như hình 5.12 (a) và (b) dưới đây minh họa thị trường lao động và thị trường vốn. Tiền lương Tỷ suất sinh lời (r) S D1 (w) A D2 r1=10% B A w1 = 8$ S r2=8% B D1 D2 O H2 H1 Giờ lao động (H) O I1 = 50tr$ Đầu tư (I) Hình 5.11 (a): Thuế đánh vào nhà hàng: Xét Hình 5.11 (b): Thuế đánh vào nhà hàng: Xét theo yếu tố lao động theo yếu tố vốn Hình 5.11: Thuế đánh vào nhà hàng: Xét các yếu tố lao động và vốn Như hình 5.11(a) minh họa thị trường lao động. Ở điểm cân bằng ban đầu (điểm A), tiền lương lao động là w1 = 8$/giờ và số giờ lao động là H1 = 1000 giờ/năm. Khi Chính phủ đánh thuế vào nhà hàng, nhà hàng phải gánh chịu thuế hoàn toàn và họ giảm nhu cầu thuê mướn lao động. Điều này làm cho đường cầu dịch chuyển từ D1 xuống D2. Vì cung lao động co giãn hoàn toàn (do các nhân viên dễ dàng tìm kiếm ở chỗ khác/địa phương khác), nên tiền lương không giảm và người lao động không gánh chịu thuế. Nói tóm lại, thuế đánh vào đầu ra – suất ăn, sẽ làm giảm nhu cầu lao động, tức là giảm số người lao động ở đây. Như hình 5.11(b) minh họa thị trường vốn – cung cấp vốn cho nhà hàng. Trong ngắn hạn, các chủ nhà hàng bị “kẹt vốn” do đã đầu tư vào các tài sản như nhà cửa, dụng cụ phục vụ cho kinh doanh nhà hàng, trong khi cung vốn trên thị Chương 5: Tổng quan về thuế và tác động của thuế 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Bài giảng Tài chính công: Chương 1 - Ths. Vũ Xuân Thủy
28 p | 294 | 22
-
Bài giảng Tài chính công: Chương 1 - ĐH Thương Mại
25 p | 70 | 8
-
Bài giảng Tài chính công: Chương 6 - Th.S Trần Tấn Hùng
18 p | 212 | 8
-
Bài giảng Tài chính công: Chương 2 - Th.S Trần Tấn Hùng
15 p | 109 | 8
-
Bài giảng Tài chính công: Chương 5 - ĐH Thương Mại
19 p | 58 | 6
-
Bài giảng Tài chính công: Chương 7 - ĐH Thương Mại
22 p | 53 | 5
-
Bài giảng Tài chính công: Chương 3 - Th.S Trần Tấn Hùng
22 p | 111 | 4
-
Bài giảng Tài chính công: Chương 7 - Th.S Trần Tấn Hùng
14 p | 125 | 4
-
Bài giảng Tài chính công: Chương 2 - ĐH Thương Mại
20 p | 50 | 4
-
Bài giảng Tài chính công: Chương 4 - ĐH Thương Mại
25 p | 59 | 4
-
Bài giảng Tài chính công: Chương 3 - ĐH Thương Mại
18 p | 46 | 4
-
Bài giảng Tài chính công: Chương 8 - ĐH Thương Mại
23 p | 44 | 3
-
Bài giảng Tài chính công: Chương 6 - ĐH Thương Mại
9 p | 50 | 3
-
Bài giảng Tài chính công: Chương 4 - Th.S Trần Tấn Hùng
14 p | 116 | 3
-
Bài giảng Tài chính công: Chương 9 - Th.S Trần Tấn Hùng
16 p | 130 | 3
-
Bài giảng Tài chính công: Chương 5 - Th.S Trần Tấn Hùng
16 p | 122 | 3
-
Bài giảng Tài chính công: Chương 9 - ĐH Thương Mại
16 p | 40 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn