
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Số 9 (Tháng 5/2024) GẶP GỠ Y KHOA ǀ 63
BÁO CÁO CA LÂM SÀNG
HOẠI TỬ RUỘT DO THIẾU MÁU MẠC TREO CẤP TÍNH
Võ Hồng Nhung
Bệnh viện Đa khoa Tâm Trí Nha Trang
Tóm tắt:
Thiếu máu mạc treo cấp tính là tình trạng de doạ tính mạng do giảm hoặc tắc hoàn toàn nguồn cấp máu cho ruột từ động mạch
mạc treo tràng trên và dưới. Có nhiều nguyên nhân gây nên tình trạng này và việc chẩn đoán sớm giúp cải thiện kết cục lâm
sàng. Mặc dù có nhiều thông tin về bệnh học cũng như các cận lâm sàng để chẩn đoán, thiếu máu mạc treo cấp tính vẫn có tỉ
lệ tử vong cao. Trong bài báo này chúng tôi đề cập đến một bệnh nhân nhập viện vì đau bụng với CT bụng cho thấy tình trạng
hoại tử ruột do tắc mạch mạc treo cấp tính.
Summary:
Acute Mesenteric Ischemia (A.M.I.) is a potentially life-threatening condition syndrome due to inadequate or completely
absent blood supply through superior or inferior mesenteric artery. The etiologies are various. Early diagnosis is essential to
improve the clinical outcome. Despite advances in knowledge of pathophysiology, laboratory diagnosis and imaging
techniques, acute intestinal ischemia is still associated with mortality rates. We report a case of a 40-year-old man admitted
to the emergency department for abdominal pain and computed tomography showed mesenteric venous thrombosis with signs
of small bowel ischemia.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Thiếu máu cục bộ mạc treo cấp tính (AMI) thường
được định nghĩa là một nhóm bệnh đặc trưng bởi
sự gián đoạn cung cấp máu đến các phần khác
nhau của ruột, dẫn đến thiếu máu cục bộ và những
thay đổi viêm thứ phát. Nếu không được điều trị,
quá trình này sẽ dẫn đến hoại tử đường ruột có thể
dẫn đến nhiễm trùng huyết và đe dọa tính mạng.
Do đó, mặc dù mặc dù đây là một nguyên nhân ít
gặp gây đau bụng với tỉ lệ mắc bệnh thấp, ước tính
khoảng 0,09–0,2% trong tổng số ca nhập viện
phẫu thuật cấp tính, nhưng luôn cần phải kiểm tra
cẩn thận vì nếu không điều trị, tỷ lệ tử vong được
báo cáo trong khoảng 50%[1].
Tuần hoàn nội tạng chiếm khoảng 25% cung
lượng tim khi nghỉ ngơi và 35% cung lượng tim
sau bữa ăn và sự điều hòa của nó rất phức tạp. AMI
xảy ra khi lưu lượng máu trong ruột giảm đáng kể
hoặc bị gián đoạn. Nó có thể dẫn đến nhồi máu
ruột, suy đa cơ quan và tử vong. Có năm loại AMI.
được chia theo mạch giải phẫu hoặc nguyên nhân:
Thiếu máu mạc treo ruột không tắc nghẽn
(N.O.M.I.) (20% - 30%), Thuyên tắc động mạch
mạc treo cấp tính (A.M.A.E.) (50%), Huyết khối
động mạch mạc treo cấp tính (A.M.A.T) (15% -
25%) và Huyết khối động mạch mạc treo ruột cấp
tính (A.M.A.T) (15% - 25%) Huyết khối tĩnh
mạch (M.V.T.) (5%). Loại thứ năm chỉ chiếm 3%
và là một thực thể lâm sàng xảy ra do hậu quả của
các tình huống cơ học như lồng ruột, xoắn ruột,
khối u hoặc chấn thương. Phần lớn AMI là do có
liên quan đến chứng xơ vữa động mạch. AMI
thường được coi là căn bệnh của người lớn tuổi,
với độ tuổi khởi phát điển hình là trên 60 tuổi[2].
Vì triệu chứng lâm sàng không điển hình và không
có xét nghiệm đặc hiệu làm cho việc chẩn đoán trở
nên khó khăn. Hình ảnh học, đặc biệt là chụp cắt
lớp vi tính có thể giúp xác nhận chẩn đoán.
BÁO CÁO CA BỆNH
Bệnh nhân nam, 40 tuổi, nhập viện vì đau bụng
quặn từng cơn quanh rốn kèm nôn ói và đi tiêu
phân lỏng lẫn ít máu nhiều lần. Tiền sử không ghi
nhận bệnh lý hay dùng thuốc gì trước đó. Tình
trạng lâm sàng và cận lâm sàng ghi nhận khi vào
viện: Mạch: 72 l/ph, Huyết áp 180/100 mmHg,
Nhiệt độ 37.2 oC. Bụng mềm, chướng nhẹ, ấn đau
nhẹ quanh rốn không đề kháng. WBC 24.55 G/L,
NEU 21.71 G/L, CRP: 7.75 mg/L, siêu âm bụng
tổng quát ghi nhận các quai ruột tăng nhu động,
tăng tiết dịch. Bệnh nhân được chẩn đoán Nhiễm
trùng đường ruột và điều trị với giảm đau, kháng
sinh. Tuy nhiên, triệu chứng đau bụng không
giảm, bệnh nhân đau nhiều, vã mồ hôi, khám bụng
ghi nhận bụng mềm, không đề kháng, không
tương xứng với mức độ đau, bệnh nhân được chỉ
định chụp CT bụng không tiêm thuốc cản quang,
kết quả chưa ghi nhận bất thường.
Sau 1 ngày điều trị, bệnh nhân vẫn còn đau bụng
nhiều, bụng chướng tăng dần, chưa đi đại tiện lại,
xuất hiện tiểu máu, khám lâm sàng ấn bụng đau ít,
không đề kháng thành bụng, bụng chướng căng.
Bệnh nhân được đặt sonde dạ dày ra lượng lớn
dịch xanh rêu và được chỉ định chụp CT bụng có