TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - S6(35).2009
112
VỀ MÔ HÌNH CẤU TRÚC NHÂN CÁCH TRONG TÂM LÝ HỌC
ON PSYCHOLOGICAL PERSONALITY STRUCTURE
Lê Quang Sơn
Trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng
TÓM TT
Cấu trúc nhân cách luận điểm trung tâm của bất k thuyết nhân cách nào. Trong
các lý thuyết tâm lý h c, do chcác nhà nghiên cứu khi đề xuất mô hình cấu trúc nhân cách
đều xuất phát từ nhiệm vụ cụ thể mà họ giải quyết, nên tồn tại nhiều hình khác nhau. Trong
điều kiện của công tác tham vấn tâm giáo dục nhân cách ngày nay cần thiết phải nghiên
cu đxuất các mô hình mới về cấu trúc nhân ch. Bài viết, trên sở phân tích các mô
hình đã có, và xuất phát tgóc nhìn phương pháp tác động đến con người, đề xuất mô hình
mới về cấu trúc nhân cách mô hình HB2010. Mô hình HB2010 có khnăng gợi m phương
hướng, cách thức tác động nhận định, đánh giá hiệu qutác động lên nhân cách. hình
được k vọng góp phần tạo thêm những công cụ mới cho tâmhọc trên con đường khám phá
và can thiệp vào đời sống tâm lý đầy bí ẩn của con người.
ABSTRACT
Personality structure is the central issue of any personality theory. In popular
psychological theories, each theorist designed a model of personality structure according to his
concrete tasks; therefore, different models came into being. In recent conditions for personality
education and psychological counseling, there has been a pressing need for new models of
personality structure. This research , based on the analysis of existing models, suggests a new
model, called HB2010, with the orientation on personality intervention and educational
methodology. The HB2010 model of personality structure is used for suggesting strategies and
directions on intervention as well as assessing intervention effects on personality. It is hoped
that the HB2010 model will serve as an effective means for researching and intervening in the
human mysterious psychological world.
1. Đặt vấn đề
Nhân cách và phát triển nhân cách, nói như L.X.Vygotxky, nhà tâm học kiệt
xuất người Nga, vấn đề tập trung cao nhất của toàn bộ tâm lý học. Ở đây tổng hợp và
hợp nhất những luận điểm tính ngun tắc của tất cả các lĩnh vực khác của tâm lý
học. Chính trong việc nghiên cứu nhân cách các nhà nghiên cứu kết hợ p các lĩnh vực
của tâm lý học lại trong nỗ lực hiểu con người với cách một thể trọn vẹn mang tính
tổng hợp.
Trong nghiên cứu nhân cách, vấn đề cấu trúc nhân cách luôn vấn đề trung tâm
do lchỉ ra những yếu tố tương đối ổn định trong tâm con người, chỉ ra cách
mà các yếu tố này liên kết với nhau, tác động qua lại với nhau chi phối hành vi của
con người. Cấu trúc nhân cách, do đó, tạo ra công cụ thao tác trong tư duy và hành động
thực tiễn. Nhà nghiên cứu, dựa trên hình cấu trúc nhân cách thu thập, tả, giải
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - S6(35).2009
113
các hiện tượng tâm lý đa dạng của con người cũng trên hình cấu trúc nhân cách
đưa ra các định hướng, chiến lược biện pháp can thiệp, tạo thay đổi tro ng tâm lý và
hành vi cá nhân.
Hầu hết các nhà nhân cách học đều đề cập đến vấn đề cấu trúc nhân cách. Trong
các lý thuyết tâm lý học tồn tại nhiều mô hình cấu trúc nhân cách do chỗ các nhà nghiên
cứu khi đề xuất mô hình đều xuất phát từ mục đích riêng của mình. Mỗi mô hình, do đó,
đều gắn với mục đích và nhiệm vụ cụ thể nnghiên cứu giải quyết. Trong điều
kiện của công tác tham vấn tâm lý giáo dục nhân cách ngày nay, việc nghiên cứu
đề xuất các mô hình mới về cấu trúc nhân cách có ý nghĩa quan trọng góp phần tạo thêm
những công cụ mới cho tâm học trên con đường khám phá can thiệp vào đời sống
tâm lý đầy bí ẩn của con người.
2. Mô hình cấu trúc nhân cách trong tâm lý học
Cấu trúc nhân cách luận điểm trung tâm của bất klý thuyết nhân cách o
[8]. Nó gắn với các đặc điểm tương đối bất biến con người thể hiện trong các nh
huống khác nhau các thời điểm khác nhau. Các đặc điểm ổn định này đóng vai trò
những khối kiến tạo bản tạo nên tâm người. Với ý nghĩa y chúng tương tự như
những khái niệm nguyên t“tế bàotrong các khoa học tự nhiêncái kiến tạo nên
các svật các thể sống. Tuy nhiên các luận điểm cấu trúc nhân cách vbản chất
mang tính giđịnh ngặt. Không thể nhìn thấy chúng qua kính hiển vi như những tế bào
thần kinh. Để dễ thao tác các nhà nghiên cứu đề xuất luận điểm cấu trúc nhân cách dưới
dạng những mô hình cấu trúc nhân cách.
Mô hình cấu trúc nhân cách, như vậy, sự giả định về các yếu tố tương đối ổn
định trong tâm lý con người, v cách mà các yếu tố y liên kết với nhau, tác động qua
lại với nhau chi phối hành vi của con người. Mô hình hướng đến lý giải những sự
kiện xác định được quan sát từ hiện thực làm scho việc đưa ra các can thiệp vào
hiện thực. Về bản chất, tất nhiên, hình luôn mang tính suy đoán, và do đó không th
là “đúng” hay “không đúng”. Mô hình được đánh giá ở góc độ phù hợp nhiều hay ít đối
với việc lý giải các sự kiện quan sát được từ thực tiễn trong khi vẫn tuân thủ tính nhất
quán bên trong, và tgóc độ tính hiệu quả của các biện pháp can thiệp vào hiện thực
xuất phát từ mô hình.
Trong các lý thuyết tâm lý học ngày nay có thể chỉ ra một số kiu xây dựng mô
hình cấu trúc nhân cách sau.
Mô hình “tranh ghép”
Đtnhân cách các nhà nghiên cứu đề xuất một kiểu tranh ghép từ các khái
niệmcác nét nhân cách. Nét nhân cách được xem xét như một chất lượng ổn định hay
một khuynh hướng xử theo một cách nhất định trong các nh huống khác nhau.
đây một sự tương đồng với những định nghĩa thông thường khi người ta nói về
những hành vi ứng xử đặc trưng của một người nào đó. Những dphổ biến về nét
nhân cách là: tính xung động, tính trung thực, tính nhạy cảm, tính e thẹn. Gordon
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - S6(35).2009
114
Allport, Raymond Cattell, Hans Eysenck - ba đại diện nổi tiếng trong lĩnh vực nghiên
cứu các t nhân cách, - cho rằng tốt nhất nên trình bày bằng đồ cấu trúc nhân cách
dựa trên các chất lượng giả định - những chất ợng tạo scho hành vi. G.Allport,
R.Cattell và H. Eysenck phân biệt 16 cặp nét nhân cách bao gồm: 1) đóng m; 2) duy
lý phi lý; 3) không ổn định về cảm xúc - ổn định; 4) quy thuận lãnh đạo; 5) nghiêm
túc cạn nghĩ; 6) nh toán, tháo vát - thực hiện tận tâm; 7) thận trọng tìm kiếm
phiêu lưu; 8) thô lậu - nhạy cảm; 9) cả tin đa nghi; 10) thực tế - mng; 11) thẳng
thắn ranh mãnh; 12) t tin hay lo sợ; 13) bảo thủ - thích thnghiệm; 14) phụ thuộc
người khác - độc lập; 15) không điều khiển được có thể điều khiển được; 16) thư thả -
căng thẳng. Dựa theo 16 cặp nét nhân cách y thể vẽ được chân dung tâm lýca
từng con người cụ thể [2]. R.Cattell sau này n đề cập đến loạt 16 cặp nhân tố cấu
thành – được coi là nét đặc trưng của nhân cách gồmc nhân tố đưc ký hiệu: A, B, C,
E, F, G, H, I, L, M, N, O, Q1, Q2, Q3 và Q4 [4].
Mô hình kiểu nhân cách
Ở một mức độ phân tích khác, cấu trúc nhân cách được mô tả nhờ vào luận điểm
kiểu nhân cách. Kiểu nhân cách được tả dưới dạng một tập hợp nhiều nét khác nhau
tạo thành một phạm trù độc lập với các giới hạn phân định rõ ràng. So với các luận điểm
xem xét cấu trúc nhân cách tgóc độ c nét nhân cách thì các luận điểm y hàm chỉ
những đặc điểm hành vi ổn định khái quát hơn. Do lẽ con người nhiều nét khác
nhau, thhiện nhiều mức độ khác nhau, nên họ được tả như thuộc về một kiểu
nhất định. W.H.Sheldom, E.Kretschmer, C.G.Jung đi theo ớng nghiên cứu y.
dụ, C. G. Jung chia con người làm 2 phạm trù: hướng nội hướng ngoại. E.Spranger,
dựa trên định hướng giá trị của nhân, nói đến 6 kiểu nhân cách: người thuyết,
người chính trị, người kinh tế, người thẩm mỹ, người vị tha người tôn giáo.
P.Drucker phân biệt: người tâm linh, người trí tuệ, người tâm lý, người kinh tế và người
hùng. C.Horney, theo định hướng giá trị trong quan hệ người - người, phân biệt: người
nhường nhịn, người công kích người hờ hững [12]. Đáng chú ý là trong các tư tưởng
cđại về nhân cách cũng đã thấy tồn tại kiểu duy y. Chẳng hạn thuyết Ngũ hành
phân biệt các kiểu người : Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ trong đó mỗi kiểu hai loại
vượng và suy [1], hay Hypocrat phân biệt các kiểu người theo khí chất của họ.
Mô hình tầng bậc
Các lý thuyết nhân ch được phân biệt với nhau theo các luận điểm được sử
dụng để tả cấu trúc nhân cách. Một số nhà luận đưa ra những cấu trúc được xây
dựng đặc biệt phức tạp và cặn ktrong đó các bphận cấu trúc liên kết với nhau bởi
scon đường. Cấu trúc nhân cách do S.Freud đxuất gồm 3 tầng: Id (cái Nó), Ego (cái
Tôi) và Super Ego (cái Siêu Tôi), là một dụ về ch tả cấu trúc nhân ch theo
tầng bậc đặc biệt phức tạp [13]. Eric Berne, tương tự, phân biệt các tầng trong nhân
cách gồm: Cha mẹ (P) - Nời lớn (A) - Trẻ con (E) [3].
Mô hình các thành phần nội dung
Nhiều nhà lý luận khác, ngược lại, lại đề xuất những hệ thống tổ chức đơn giản
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - S6(35).2009
115
hơn, với một số lượng giới hạn các bộ phận và chỉ một số các liên hệ giữa chúng. Ví dụ:
luận điểm về các cấu trúc nhân cách do đại điện của tâm lý học nhận thức George Kelly
đề xuất [9]. A.G.Kovaliev đề xuất cấu trúc nhân cách gồm bốn thuộc tính: xu hướng,
khí chất, năng lực, tính cách. X.L.Rubinstein thì phân biệt: nhận thức (tri thức năng
lực trí tuệ); nh cảm; ý chí, hành động ý chí. K.K.Platonov cgắng kiên kết hình
tầng bậc hình các thành phần nội dung trong một giđịnh khá phức tạp. Theo
ông cấu trúc nhân cách bao gồm 4 tiểu cấu trúc khác nhau đồng thời cũng là những trình
độ của nhân cách. Đó là: 1) tiểu cấu trúc nguồn gốc sinh học (khí chất, giới tính, lứa
tui, bnh lý...); 2) tiểu cấu trúc về các đặc điểm của quá trình tâm lý (trí nhớ, cảm giác,
tư duy, cảm xúc…); 3) tiểu cấu trúc về vốn kinh nghiệm, tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, ng
lực; 4) tiểu cấu trúc xu hướng nhân cách. Tương tự, Fridman Volkov phân biệt: 1)
thái đvới thế giới; 2) những khnăng; 3) hành vi; 4) tự ý thức; 5) c quá trình
trạng thái tâm [11]. Ở Việt nam khi bàn về nhân cách phần lớn các nhà nghiên cứu sử
dụng mô hình Đức (các phẩm chất đạo đức) Tài (các năng lực của nhân cách).
Sđa dạng của các cách tiếp cận mô hình cấu trúc nhân ch phản ánh một
thực tế là nhân cách là một cấu tạo rất phức tạp. Các hình thức, phương pháp con
đường làm bộc lộ nhân cách rất đa dạng diễn ra trên nhiều bình diện. Mặt khác, nói
như E.V.Shorokhova, “trình độ của những công trình nghiên cứu tâm học cụ thể cho
đến nay còn chưa cho phép mô tả có logic chặt chẽ luận chứng thực tế về cấu trúc
của nhân cách” [5].
Mô hình tranh ghép đặt ra nhiệm vụ đo lường khách quan các thông số cơ bản của
nhân cách, điều này gợi ý việc sử dụng các phương pháp đo lường khách quan trong
tâm lý học. hình tranh ghép, một mức độ nhất định, khi đặt vấn đề về tính thứ bậc
của các nhân tố - nét nhân cách, bị nhập vào lập trường của mô hình kiểu nhân cách.
Mô hình kiểu nhân cách cho phép quy tính đa dạng của các hình thức cá thể vào
một slượng không lớn các nhóm được thống nhất lại xung quanh một kiểu đại diện
(tiêu biểu). Điều y làm cho việc nhận diện từng cá nhân được dễ dàng. Tuy nhiên,
cách làm này lại không cho phép thu được một biểu tượng chính xác về cấu trúc của
nhân cách.
Chai hình, tranh ghép và kiểu nhân cách, về ngun tắc, đều tính thống
kê. Các nét nhân cách hay kiểu nhân cách đều chỉ có thể giải quyết nhiệm vụ mô tả hình
thức của nhân cách. Mô hình tầng bậc chú ý đến những động lực mà sự tác động qua lại
của chúng với nhau và với môi trường bên ngoài đã tạo n cấu trúc của nhân cách. Từ
góc đphương pháp tác động đến nhân, với việc chỉ ra các chế hình thành nhân
cách, đây là mô hình đáng chú ý. Đáng tiếc, c tác giả theo lập trường này ít nhiều đều
xuất phát từ quan điểm phân tâm học về tính quy định của các yếu tố sinh học đối với
nhân cách, và do vậy khó thể được sử dụng như nền tảng triển vọng để xây dựng
các đường hướng can thiệp vào sự hình thành và phát triển nhân cách. hình cấu trúc
theo các thành phần nội du ng là một gợi ý quan trọng trong việc thiết kế các nội dung
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - S6(35).2009
116
giáo dc hình thành phát triển nhân cách, nhưng lại không gợi mở hướng ứng dụng
từ góc độ phương pháp tác động đến nhân cách.
Tóm lại, từ góc nhìn phương pháp tác động đến con người, bao gồm cả tác động
giáo dc tác động tham vấn, cần thiết phải một hình cấu trúc nhân cách
chuyên biệt, khả năng gợi mở phương hướng, cách thức tác động và nhận định, đánh
giá hiệu quả tác động lên nhân cách. Dưới đây là mô hình đề xuất của tác giả với tên gọi
mô hình cấu trúc nhân cách HB2010.
3. Đề xuất mô hình HB2010
Mô hình cấu trúc nhân cách HB2010 (hình 1) có dạng hình nhân (giống như búp
неваляшка của người Nga) trong đó yếu tố trọng tâm là giá trị cá nhân (khối giá trị).
Theo thtmở rộng từ hạt nhân lần lượt các yếu tố cấu thành là: tự ý thức; năng lực;
cảm xúc, tri thức, kỹ năng, kỹ xảo; ngoài cùng là các cảm giác.
Giá trnhân (hay các định hướng giá trị cá nhân) được hiểu như những thái
độ ý nghĩa của nhân cách đối với mình và với thế giới trong quá khứ, hiện tại, tương
lai, được kết tinh lại trong các rung động biểu tượng của nhân cách. Giá trnhân
được xem xét với cách kết quả của sự tiếp nhận bởi chủ thể những giá trị cội nguồn
(những định hướng xã hội-lịch sử của nền văn hóa trong đó con người phát triển
hành động), những giá trị ý nghĩa về mặt hội, với cách kết quả của sự tạo
dựng bởi chính chủ thể hệ thống giá trị riêng của mình. Tgóc độ này có thể nói đến
những cấu trúc chung đặc trưng cho toàn bộ loài ngưi trong hthống giá trị của nhân
cách. Những cấu trúc này được xác định bởi những gtrị xuất hiện tính quy luật
trong bất cứ hệ thống quan hệ hội nào của con người, tạo thành hạt nhân cấu trúc
tự ý thức của nhân cách [14].
Giá trị, trong cấu trúc nhân cách, xuất hiện với cách yếu tố tạo hệ thống, liên
kết các thuộc tính nhân cách, các dạng hoạt động khác nhau của con người, quyết định
sphát triển lĩnh vực động -nhu cầu, tạo ra xu hướng nhân cách, đồng thời một
trong những chế tự điều khiển quan trọng nhất của nhân cách. Giá trị thực hiện chức
năng thúc đy và điều khiển hoạt động của con người. Giá trị bao hàm trong nó sự đánh
giá và tđánh giá của nhân cách, mọi sự tự đánh giá đều xuất hiện trong quá trình
hoạt động, trong quá trình chthể ý thức kết quả hoạt động của nh, định hướng
vào tương lai. Như vy gtrị chính khởi nguồn của hành vi tương lai. Nếu như một
lý thuyết nhân cách tìm kiếm những phương diện ổn định, bất biến của nh vi của con
người, phương diện ảnh hưởng quyết định đến sự vận động của thể thì đó chính là
giá tr ca cá nhân [6]. Đó cũng là lý do đ giá tr đứng vị trí trọng tâm của mô hình
HB2010.
Tự ý thức được xem xét với tưch một cấu trúc tâm phức hợp có tính lịch sử
và tính xã hội, hiện hữu mọi thể đã được hội hóa. Cấu trúc của tự ý thức bao
gồm một hệ thống các đơn vị. Các đơn vị y tạo nên nội dung của những trải nghiệm
bản của nhân cách xuất hiện với cách yếu tố bên trong của sphản ánh bởi