ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ THỊ DÂN B¶O §¶M QUYÒN Tù DO TÝN NG¦ìNG, T¤N GI¸O ë VIÖT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2016

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ THỊ DÂN B¶O §¶M QUYÒN Tù DO TÝN NG¦ìNG, T¤N GI¸O ë VIÖT NAM Chuyên ngành: Luật Hiến pháp - Luật Hành chính Mã số: 60 38 01 02

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS CHU HỒNG THANH

HÀ NỘI - 2016

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.

Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công

trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo

tính chính xác, tin cậy và trung thực.

Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có

thể bảo vệ Luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN

LÊ THỊ DÂN

MỤC LỤC

Trang

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Mục lục

Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt

MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 1

Chƣơng 1: CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, PHÁP LÝ CƠ BẢN VỀ BẢO ĐẢM

QUYỀN TỰ DO TÍN NGƢỠNG, TÔN GIÁO .............................................. 9

1.1. Khái niệm, đặc điểm về bảo đảm quyền tự so tín ngƣỡng, tôn .................... 9

1.1.1. Khái niệm ............................................................................................................ 9

1.1.2. Đặc điểm của quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ............................................... 15

1.2. Quy định của pháp luật quốc tế .................................................................... 17

1.2.1. Quy định quốc tế ............................................................................................... 17

1.2.2. Các văn kiện khu vực ....................................................................................... 22

1.3. Kinh nghiệm bảo đảm quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo trong pháp

luật một số nƣớc trên thế giới ........................................................................ 24

1.3.1. Hợp chủng quốc Hoa Kỳ .................................................................................. 24

1.3.2. Cộng hòa Pháp .................................................................................................. 26

1.3.3. Trung Quốc ........................................................................................................ 29

1.3.4. Một số quốc gia Hồi giáo tiêu biểu ................................................................... 31

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN TỰ DO TÍN NGƢỠNG,

TÔN GIÁO TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM ......................................... 33

2.1. Khái quát về tín ngƣỡng, tôn giáo ở Việt Nam ............................................ 33

2.1.1. Đặc điểm của tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam ...................................... 33

2.1.2. Khái quát về tình hình tín ngưỡng........................................................... 35

2.1.3. Khái quát về tình hình tôn giáo ở Việt Nam ..................................................... 36

2.2. Bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong pháp luật Việt Nam ........ 42

2.2.1. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong Hiến pháp Việt Nam ......................... 42

2.2.2. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong các văn bản Luật, Nghị định ............. 46

2.3. Những thành tựu và hạn chế về bảo đảm quyền tự do tín ngƣỡng,

tôn giáo ở Việt Nam ........................................................................................ 52

2.3.1. Thành tựu .......................................................................................................... 52

2.3.2. Hạn chế ............................................................................................................. 58

Chƣơng 3: QUAN ĐIỂM, ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM BẢO

ĐẢM QUYỀN TỰ DO TÍN NGƢỠNG, TÔN GIÁO TRONG PHÁP

LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY ..................................................................... 67

3.1. Quan điểm về bảo đảm quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo ............................. 67

3.2. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền tự do tín ngƣỡng,

tôn giáo trong pháp luật Việt Nam ................................................................ 73

3.2.1. Giải pháp nâng cao hiệu quả đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở

Việt Nam ........................................................................................................... 73

3.2.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền tự do tín

ngưỡng, tôn giáo ............................................................................................... 84

KẾT LUẬN ................................................................................................................. 90

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................. 93

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ACHPR (The African Commission on Human and Peoples Rights) Hiến chương Châu Phi về quyền con người

ACHR (The American Convention on Human Rights) Công ước Châu Mỹ về quyền con người

ECHR (The European Convention on Human Rights) Công ước Châu Âu về bảo vệ quyền con người và tự do cơ bản

ICCPR (International Convenat on Civil and Political Rights) Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị

ICESCR Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hóa và xã hội (International Convenat on Economic, Social and Cultual Rights)

ILO (International Labour Organization) Tổ chức lao động quốc tế

UDHR (Universal Declaration of Human Rights) Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người

UNESCO (United Nations Educational Tổ chức giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc

Scientific and Cultural Organization)

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu

Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và

sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta; đồng bào

tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Lịch sử dựng nước và giữ

nước của dân tộc Việt Nam là lịch sử thống nhất và đoàn kết của cộng đồng dân tộc,

giữa các tôn giáo và tín ngưỡng bản địa với các tôn giáo du nhập từ bên ngoài. Các

dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam đều có những tín ngưỡng riêng gắn

liền với đời sống kinh tế và tâm linh của mình.

Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một quyền cơ bản của con người, được

ghi nhận trong pháp luật quốc tế về quyền con người cũng như trong pháp luật của

nhiều quốc gia trên thế giới. Liên hợp quốc đề cao và bảo đảm quyền tự do tín

ngưỡng, tôn giáo trong Tuyên ngôn về nhân quyền năm 1948 và Công ước quốc tế về

các quyền dân sự và chính trị năm 1966. Hầu hết các quốc gia đều ghi nhận và bảo

đảm thực hiện quyền này trong hệ thống pháp luật của mình.

Việt Nam là quốc gia đa tôn giáo, số lượng người theo tôn giáo khá đông (chỉ

tính riêng 6 tôn giáo lớn, số tín đồ đã chiếm khoảng ¼ dân số) và đang có xu hướng

phát triển mạnh. Với vị trí nằm giữa ngã ba của Đông Nam Á, giáp biển Đông, là nơi

giao lưu của nhiều luồng tư tưởng văn hóa khác nhau và có vị trí thuận lợi cho việc

tiếp thu hai nền văn minh của phương Đông là văn minh Trung Hoa và văn minh Ấn

Độ. Những đặc điểm tự nhiên, lịch sử và văn hóa đó đã tác động sâu sắc đến tín

ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam làm cho chúng trở nên đa dạng và phong phú hơn. Mặc

dù có nguồn gốc khác nhau, phương châm hành đạo không giống nhau nhưng các tôn

giáo đều có giá trị nhân văn cao đẹp, đạo đời hòa hợp, đều mong muốn sống “tốt đời,

đẹp đạo”, làm cho “nước vinh, đạo sáng”. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước luôn quan

tâm, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho tín đồ tôn giáo, bảo đảm cho các tôn

giáo phát triển hài hòa, đồng hành cùng dân tộc. Giáo hội các tôn giáo khi được Nhà

1

nước công nhận tư cách pháp nhân đều được chính quyền các cấp quan tâm và tạo

thuận lợi để hoạt động tôn giáo bình thường trong khuôn khổ pháp luật. Cùng với đó,

Đảng và Nhà nước luôn tôn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của

đồng bào các dân tộc để đáp ứng những nhu cầu, nguyện vọng tôn giáo chính đáng

của các tín đồ. Đó là nhân tố quan trọng để động viên đồng bào có tín ngưỡng, tôn

giáo tích cực tham gia sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

Xuất phát từ nhận thức mới về vấn đề tôn giáo, năm 1990 Bộ chính trị ra Nghị

quyết 24 về công tác tôn giáo đã khẳng định “Tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài.

Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đạo đức tôn

giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới”. Từ trước đến nay,

đồng bào các tôn giáo luôn sống chung hòa hợp, gắn bó, đồng hành cùng dân tộc; kề

vai sát cánh bên nhau đấu tranh chống kẻ thù xâm lược và chế ngự thiên nhiên, hình

thành một truyền thống tốt đẹp: “Nước vinh, đạo sáng”, “Sống phúc âm trong lòng

dân tộc”. Trên cơ sở xác định chính sách đối với tín ngưỡng, tôn giáo là một bộ phận

quan trọng của công tác vận động quần chúng nhân dân, cho nên trong quá trình lãnh

đạo, Đảng và Nhà nước luôn coi đây là kim chỉ nam cho mọi hành động của hệ thống

chính trị trong ứng xử đối với các đồng bào các tôn giáo.

Từ kinh nghiệm bảo đảm quyền tự do của các nước trên thế giới và từ chính

sách mở rộng đối ngoại, đa dạng hóa, đa phương hóa các mối quan hệ quốc tế với

việc Việt Nam tham gia hầu hết các công ước quốc tế, Việt Nam cần xây dựng và

hoàn thiện chính sách pháp luật đối với vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo, đồng thời cụ thể

hơn nữa những biện pháp bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Với phương

châm chủ động của Đảng và Nhà nước ta trong nhiều kỳ Đại hội vừa qua đã không

ngừng khẳng định “Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng

quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực”. Thực tế, Việt

Nam có quan hệ ngoại giao với hầu hết các nước trên thế giới. Bên cạnh đó, quan hệ

quốc tế của các tổ chức tôn giáo cũng phát triển rộng mở trên nhiều lĩnh vực khác

nhau trong đời sống xã hội. Theo đó, hoạt động đối ngoại tôn giáo đòi hỏi tương xứng

và phù hợp với đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và nhà nước ta và phải phải

2

phù hợp với thông lệ quốc tế, trong đó có quan hệ quốc tế của các tổ chức tôn giáo.

Cùng với sự nghiệp đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy, Đảng đã từng bước

đổi mới về vấn đề tôn giáo và công tác tôn giáo. Trong quá trình đó, tư duy lý luận

của Đảng ta về vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo ngày càng được thể hiện một cách đầy đủ,

hoàn thiện hơn theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Xuất phát từ nhu cầu hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân trong thời kỳ đổi

mới và thực hiện chính sách về tôn giáo: Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín

ngưỡng, tôn giáo là một xu thế tiến bộ của nhân loại đã trở thành một chính sách lớn

của nhiều nhà nước. Bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một nguyên tắc

trong quan hệ của Nhà nước Việt Nam và các tổ chức tôn giáo; là động lực quan

trọng giúp đồng bào tôn giáo nhận thức rằng: Nhà nước không phân biệt đối xử, luôn

bình đẳng giữa đồng bào có tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo; là

một nhân tố quan trọng phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Chính

vì vậy, Đại hội lần thứ XII của Đảng gần đây tiếp tục chỉ rõ: “Tiếp tục hoàn thiện

chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo, phát huy những giá trị văn hóa, đạo

đức tốt đẹp của các tôn giáo” [18].

Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện chính sách tín ngưỡng, tôn giáo

của Đảng và Nhà nước ta cũng đã và đang bộc lộ một số hạn chế, chưa phù hợp với

tình hình thực tế. Chính sách của Đảng về tự do tín ngưỡng và tự do tôn giáo chưa

được cụ thể hóa kịp thời thành pháp luật; hoặc chưa rõ ràng, cụ thể dẫn đến việc áp

dụng không thống nhất giữa các địa phương, thậm chí sai chủ trương, chưa đáp ứng

được nhu cầu tôn giáo ngày càng tăng của tổ chức, cá nhân tôn giáo. Ở nhiều nơi, các

hình thức hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo diễn ra phức tạp. Một số quan hệ Nhà nước

với các tổ chức tôn giáo, giữa một số tổ chức tôn giáo với nhau hoặc giữa các cộng

đồng thù địch mang màu sắc tín ngưỡng, tôn giáo đã có lúc biến thành xung đột bạo

lực, cản trở sự phát triển của xã hội.

Trình độ văn hóa dân chủ, văn hóa pháp luật, văn hóa nhân quyền của

người dân đến nay vẫn chưa cao, chưa đồng đều, ngay cả cán bộ trong bộ máy nhà

nước cũng chưa nhận thức đúng đắn, đầy đủ về tín ngưỡng, tôn giáo; về chủ trương,

3

chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về tự do tín ngưỡng và tự do tôn giáo;

đặc biệt là khuôn khổ pháp luật quốc tế về tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo. Ngoài ra,

các thế lực thù địch vẫn cố tình xuyên tạc tình hình dân tộc, tôn giáo ở nước ta nhằm

phục vụ cho âm mưu “Diễn biến Hòa Bình” của chúng dẫn đến khó khăn trong việc

luật pháp hóa hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo. Một bộ phận tín đồ, chức sắc trong tôn

giáo đã bị các thế lực xấu tìm cách lợi dụng để chống phá công cuộc xây dựng đất

nước, gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc; những phần tử cực đoan ở nước

ngoài cấu kết với bọn phản động trong nước lợi dụng vấn đề tôn giáo với chiêu bài

“tự do, dân chủ, nhân quyền”, coi đó như là con bài gây sức ép với Việt Nam

trong thảo luận về các vấn đề kinh tế, chính trị, ngoại giao để can thiệp sâu vào công

việc nội bộ của ta. Cùng với hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo đang diễn ra bình thường

trong khuôn khổ pháp luật thì đã xuất hiện nhiều hiện tượng đáng lo ngại, tiềm ẩn

nhiều nguy cơ đối với xã hội. Chẳng hạn như đã có tình trạng nhân danh truyền giáo

để thực hiện những mục đích phi tôn giáo, gây mất ổn định xã hội, phá vỡ kết cấu xã

hội truyền thống, ảnh hưởng đến bảo tồn sắc thái văn hóa cổ truyền. Các hoạt động

hành lễ mang tính chất mê tín, dị đoan; các hiện tượng tệ nạn xã hội ăn theo sự bùng

phát lễ hội làm méo mó đời sống lễ hội, ảnh hưởng xấu đến thuần phong mĩ tục và

trật tự an toàn xã hội.

Như vậy, từ những nhận thức lý luận mới về tôn giáo, về bảo đảm quyền tự

do tín ngưỡng, tự do tôn giáo; từ kinh nghiệm quốc tế về quyền tự do tín ngưỡng, tự

do tôn giáo; từ thực trạng chính sách và việc thực hiện chính sách đối với tôn giáo,

mặc dù có nhiều thành tựu, song chưa tạo được hành lang pháp lý vững chắc, tính khả

thi và hiệu quả chưa cao. Với những lí do trên, tác giả đã chọn đề tài “Bảo đảm

quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình,

với mục đích góp phần khắc phục những hạn chế trong nghiên cứu khoa học về bảo

đảm quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo của cá nhân, tổ chức tôn giáo trước yêu

cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay, nhằm

bổ sung, hoàn thiện và phát triển các quan điểm, chính sách đã có, đề xuất giải pháp

nhằm nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo ở Việt Nam

4

trong tình hình hình hiện nay.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Tín ngưỡng, tôn giáo là một vấn đề nhạy cảm, được pháp luật quốc tế và các

quốc gai tôn trọng và bảo vệ, trong đó có Việt Nam. Hiện nay, có rất nhiều công trình

nghiên cứu lý luận về tôn giáo, nhiều bài viết về tôn giáo và ảnh hưởng của tôn giáo

đối với các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.

Liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo và chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà

nước về tôn giáo ở Việt Nam đã thu hút sự quan tâm của nhiều học giả trong nước

như: Tình hình và thực trạng tôn giáo ở Việt Nam hiện nay của PGS.TS Nguyễn Đức

Lữ; GS.TS Đặng Nghiêm Vạn với Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt

Nam, Nxb Chính trị Quốc gia; Trần Minh Thư với Tìm hiểu Pháp luật Việt Nam về

tôn giáo, tín ngưỡng.

Ngoài ra còn có Tôn giáo và tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo ở Việt Nam,

Viện Khoa học xã hội nhân văn quân sự thuộc Bộ quốc phòng, Nxb Quân đội nhân

dân, Hà Nội, 2005. Ban tôn giáo Chính phủ với cuốn sách Tôn giáo và chính sách tôn

giáo ở Việt Nam đã giúp tác giả có cái nhìn toàn diện hơn về tình hình tôn giáo, hiểu

rõ quan điểm, nhận thức tư duy lý luận mới của Đảng ta về vấn đề tôn giáo, tôn trọng

tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo trong thời kỳ đổi mới.

Bên cạnh đó, nhiều bài viết đã đề cập đến quan điểm, đường lối của Đảng và

Nhà nước ta, nhất là trong thời kỳ đổi mới, trong đó là bài viết Tôn trọng tự do tín

ngưỡng, tự do tôn giáo – Chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước của Đặng Tài

Tính (Công tác tôn giáo, số 1/2005); PGS.TS Nguyễn Hồng Dương với cuốn sách

Quan điểm, đường lối của Đảng về tôn giáo và những vấn đề tôn giáo ở Việt Nam

hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia.

Luận văn thạc sĩ của Lê Quang Hưng về "Pháp luật Việt Nam về quyền tự do

tín ngưỡng, tôn giáo" năm 2014.

Tuy nhiên, các công trình trên mới nghiên cứu, phân tích về chính sách, hoặc

pháp luật Việt Nam về tín ngưỡng, tôn giáo hoặc về tình hình tôn giáo, chưa có công

trình nào nghiên cứu tổng thể về vấn đề bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo

5

trong pháp luật Việt Nam hiện nay cũng như cập nhật các quy định mới của pháp luật

3. Mục tiêu nghiên cứu

3.1. Mục tiêu tổng quát

Nghiên cứu tổng quát về pháp luật Việt Nam, về quyền tự do tín ngưỡng, tôn

giáo. Đánh giá lại hệ thống chính sách, pháp luật liên quan đến tôn giáo và thực hiện

chính sách tôn giáo trong thời kỳ mới, từ đó đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả

bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam hiện nay.

3.2. Mục tiêu cụ thể

Tập trung làm sang tỏ những vấn đề lý luận về tín ngưỡng, tôn giáo; quyền tự

do tín ngưỡng, tôn giáo.

Nghiên cứu, phân tích những quy định của pháp luật quốc tế về tự do tín

ngưỡng, tôn giáo.

Quan điểm, chính sách, pháp luật liên quan đến việc bảo đảm quyền tự do tín

ngưỡng, tôn giáo. Từ đó đối chiếu, so sánh pháp luật Việt Nam về bảo đảm quyền tự

do tín ngưỡng, tôn giáo với các chuẩn mực quốc tế.

Đánh giá thực trạng bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong pháp luật

Việt Nam hiện nay; trên cơ sở đó rút ra nguyên nhân của những bất cập trong việc

bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.

Kiến nghị, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc bảo đảm

quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những quy định pháp luật Việt Nam về

hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo và chính sách của Nhà nước về hoạt động tín

ngưỡng, tôn giáo.

- Phạm vi nghiên cứu của đề tài về không gian là trên lãnh thổ Việt Nam; về

thời gian là từ khi có Pháp lệnh về tín ngưỡng, tôn giáo năm 2004 đến nay.

5. Nội dung và phƣơng pháp nghiên cứu

5.1. Nội dung nghiên cứu

Những vấn đề lý luận cơ bản về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Thông qua

thực trạng bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, đề xuất một số giải pháp nhằm

6

nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

- Đề tài được tiến hành dựa trên cơ sở phương pháp luận: Chủ nghĩa Mác –

Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tôn giáo và tự do tín ngưỡng, tôn giáo;

quan điểm của cộng đồng quốc tế về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; quan điểm,

đường lối, chính sách của Đảng về và Nhà nước ta về bảo đảm thực hiện quyền tự do

tín ngưỡng, tôn giáo của công dân.

- Luận văn được thực hiện dựa trên việc vận dụng phương pháp phân tích,

tổng hợp, xã hội học, so sánh, đánh giá để làm sáng tỏ những vấn đề liên quan. Luận

văn cũng khai thác những thông tin tư liệu của các công trình nghiên cứu đã công bố

để chứng minh cho các luận điểm.

6. Tính mới và những đóng góp của đề tài

Luận văn góp phần:

- Đưa ra cái nhìn tổng thể về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo: khái niệm; đặc

điểm của quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo

- Luận văn phân tích những quy định quốc tế và kinh nghiệm bảo đảm quyền

tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong pháp luật một số nước và sự tương thích của pháp

luật Việt Nam.

- Luận văn phản ánh những vấn đề thực tiễn, cập nhập những thành tựu và hạn

chế liên quan đến việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong pháp luật Việt

Nam hiện nay; trên cơ sở đó rút ra nguyên nhân của những bất cập trong việc bảo

đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo..

- Phân tích, làm rõ nhận thức lý luận mới về tín ngưỡng, tôn giáo; chính sách

mới về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam.

- Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu, phân tích, đánh giá, luận văn cũng đưa ra

các nhóm giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc bảo đảm quyền tự do tín

ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay.

- Về mặt thực tiễn: Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo để

tiếp tục xây dựng và hoàn thiện chính sách về tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt

7

Nam hiện nay.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn kết cấu

làm 3 chương như sau:

Chương 1: Các vấn đề lý luận, pháp lý cơ bản về bảo đảm quyền tự do tín

ngưỡng, tôn giáo.

Chương 2: Thực trạng bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong pháp

luật Việt Nam.

Chương 3: Quan điểm, mục tiêu và đề xuất một số giải pháp nhằm bảo đảm

8

quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong pháp luật Việt Nam hiện nay.

Chƣơng 1

CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, PHÁP LÝ CƠ BẢN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN

TỰ DO TÍN NGƢỠNG, TÔN GIÁO

1.1. Khái niệm, đặc điểm về bảo đảm quyền tự so tín ngƣỡng, tôn

1.1.1. Khái niệm

1.1.1.1. Khái niệm về tín ngưỡng

Theo Chủ nghĩa Mác – Lênin thì tín ngưỡng, tôn giáo là một loại hình thái ý

thức xã hội phản ánh một cách hoang đường, hư ảo hiện thực khách quan.

Một số nhà thần học thì xem tín ngưỡng, tôn giáo là niềm tin vào cái thiêng,

cái huyền bí ở đó chứa đựng những yếu tố siêu nhiên, nó có một sức mạnh, một

quyền lực to lớn có thể cứu giúp con người khỏi khổ đau và có được hạnh phúc và

sự bình yên.

Ở Việt Nam, tín ngưỡng cũng có nhiều quan điểm khác nhau:

- Theo GS.TS Đặng Nghiêm Vạn, thuật ngữ tín ngưỡng có thể có hai nghĩa.

Khi nói đến tự do tín ngưỡng, người nước ngoài có thể hiểu đó là niềm tin nói chung

(belief, believe, croyance) hay niềm tin tôn giáo (belief, belive, croyance riligieuse).

Nếu hiểu tín ngưỡng là niềm tin thì có một phần ở ngoài tôn giáo, nếu hiểu là niềm

tin tôn giáo thì tín ngưỡng chỉ là một bộ phận chủ yếu nhất cấu thành của tôn giáo.

- Các học giả như Toan Anh, Phan Kế Bính… xem tín ngưỡng là tín ngưỡng

dân gian với các nghi lễ thờ cúng thể hiện qua lễ hội, tập quán, phong tục truyền

thống của dân tộc Việt Nam.

- Tác giả Nguyên Chính cho rằng tín ngưỡng là niềm tin, sự trông cậy và yêu

quý một thế lực siêu nhiên mà với tri thức con người và kinh nghiệm chưa đủ để giải

thích và lý giải được.

- Trong từ điển Hán – Việt, Đào Duy Anh đã giải nghĩa: “Tín ngưỡng là lòng

ngưỡng mộ mê tín đối với một tôn giáo hay một chủ nghĩa nào đó”.

Hiện nay, Nhà nước ta cũng phân biệt rõ ràng trong Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn

giáo năm 2004: “Hoạt động tín ngưỡng là hoạt động thể hiện sự tôn thờ tổ tiên;

9

tưởng niệm và tôn vinh những người có công với nước, với cộng đồng; thờ cúng thần,

thánh, biểu tượng có tính truyền thống và các hoạt động tín ngưỡng dân gian khác

tiêu biểu cho những giá trị tốt đẹp về lịch sử, văn hóa, đạo đức xã hội”.

Như vậy, có thể hiểu tín ngưỡng là niềm tin của con người và của cả cộng

đồng người vào những gì siêu nhiên hay thần thánh, thiêng liêng cũng như những đạo

lý, lễ nghi, tục lệ và tổ chức liên quan đến niềm tin đó. Tín ngưỡng là một niềm tin có

hệ thống mà con người tin vào để giải thích thế giới và để mang lại sự bình yên cho

bản thân và mọi người. Tín ngưỡng còn là thể hiện giá trị của cuộc sống, ý nghĩa của

cuộc sống bền vững. Tín ngưỡng mang tính dân tộc, dân gian, không có tổ chức chặt

chẽ như tôn giáo. Khi nói đến tín ngưỡng, người ta thường nói đến tín ngưỡng của

một dân tộc hay một số dân tộc có một số đặc điểm chung còn tôn giáo thì không

mang tính dân gian.

1.1.1.2. Khái niệm về tôn giáo

“Tôn giáo” là thuật ngữ không thuần Việt, được du nhập từ nước ngoài vào từ

cuối Thế kỷ XIX. Thuật ngữ “tôn giáo” vốn có nguồn gốc từ phương Tây, Tiếng Anh

là “religion” và “religion” lại xuất phát từ thuật ngữ “relege” (tiếng Latinh) có nghĩa

là “thu lượm thêm sức mạnh siêu nhiên”, “tôn trọng điều linh thiêng, tôn kính thần

linh” hay “bổn phận, sự gắn kết giữa con người với thần linh”, xét trên một cách thức

nào đó, đây là phương cách để giúp con người sống và tồn tại với sức mạnh siêu

nhiên. Trong lịch sử đã từng tồn tại rất nhiều quan niệm khác nhau về tôn giáo: Các

nhà thần học cho rằng: “Tôn giáo là mối liên hệ giữa thần thánh và con người”. Một

số nhà tâm lý học lại cho rằng: “Tôn giáo là sự sáng tạo của mỗi cá nhân trong nỗi

cô đơn của mình, tôn giáo là sự cô đơn, nếu anh chưa từng cô đơn thì anh chưa bao

giờ có tôn giáo”. C.Mác trong tác phẩm “Góp phần phê phán Triết học Pháp quyền”

của Hêghen viết: “Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của

thế giới không có trái tim, cũng giống như nó là tinh thần của những trật tự không có

tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” [4]. P. Ăngghen thì cho rằng: “Tôn

giáo là sự phản ánh hoang đường vào trong đầu óc con người những lực lượng bên

ngoài, cái mà thống trị họ trong đời sống hàng ngày”.

10

Ở Việt Nam, gần đây một số nhà nghiên cứu tôn giáo cũng đưa ra những lý

giải hoặc chia sẻ quan điểm của mình về tín ngưỡng, tôn giáo. Trong Từ điển tiếng

Việt xuất bản năm 1992, tác giả Hoàng Phê đưa ra định nghĩa: “Tôn giáo là hình thức

xã hội, gồm những quan niệm dựa trên cơ sở tin và sùng bái những lực lượng siêu

nhiên, cho rằng lực lượng siêu tự nhiên quyết định số phận con người, con người phải

phục tùng, tôn thờ”.

Theo Giáo sư Đặng Nghiêm Vạn thì “Tôn giáo có nghĩa là thu lượm thêm sức

mạnh siêu nhiên”. Trong cuốn “Những vấn đề lý luận và thực tiễn tôn giáo ở Việt

Nam” xuất bản năm 1998 ông cho rằng:

Tôn giáo là thế giới siêu nhiên vô hình được chấp nhận một cách

trực giác và tác động qua lại hư ảo giữa con người và thế giới đó nhằm lý

giải những vấn đề trên trần thế, cũng như ở thế giới bên kia trong những

hoàn cảnh lịch sử, địa lý khác nhau, của từng cộng đồng tôn giáo hay xã

hội khác nhau [50, tr.23].

Tiến sĩ Nguyễn Thanh Xuân, Phó trưởng ban Tôn giáo Chính phủ đã đưa ra

một định nghĩa về tôn giáo khá bao trùm: “tôn giáo là niềm tin của con người vào thế

giới siêu nhiên và hành vi thực hiện những niềm tin đó. Tôn giáo là “đức tin vào sự

thờ phụng”. Như vậy, với định nghĩa trên thì tôn giáo bao gồm hai phạm trù đó là

niềm tin và hành vi của con người để thực hiện niềm tin vào thế giới siêu nhiên và

đấng siêu nhiên.

Như vậy, tôn giáo hành vi hay hoạt động của con người để thực hiện niềm tin

vào thế giới siêu nhiên và đấng siêu nhiên. Những hoạt động của con người như thờ

phụng, cúng bái, cầu nguyện và việc thực hiện các nghi lễ khác. Niềm tin đó được

biểu hiện rất đa dạng, tùy thuộc vào những thời kỳ lịch sử, hoàn cảnh địa lý – văn hóa

khác nhau, phụ thuộc vào nội dung từng tôn giáo, được vận hành bằng những nghi lễ,

những hành vi tôn giáo khác nhau của từng cộng đồng xã hội tôn giáo khác nhau.

1.1.1.3. Khái niệm về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo

Nếu như “tôn giáo” (religion) là một thuật ngữ không thuần Việt, được du

nhập từ nước ngoài vào Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX thì “quyền tự do tôn giáo” là

một quan niệm còn đến muộn hơn, song lại gây ra không ít tranh cãi trong giao tiếp

11

quốc tế, trong đời sống xã hội Việt Nam đương đại và nhiều quốc gia khác.

“Tự do” là một giá trị phổ quát của nhân loại, song sự thật đã có nhiều lập luận

khác nhau về cái gọi là tự do trong cuộc sống. Vì vậy, để bàn về “tự do tôn giáo”

trong bối cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam, trước tiên cần tìm hiểu về khái niệm “tự

do”. Theo Montesquieu: “Tự do là quyền được làm tất cả những điều mà luật cho

phép”, “tự do là nhận thức được cái tất yếu”. Tuy nhiên, tự do ở đây bị giới hạn bởi

luật. “Luật” theo nghĩa rộng là “quy luật” của cuộc sống: luật của tự nhiên và luật của

xã hội (luật của các tổ chức xã hội, của cộng đồng, luật của Nhà nước…). Con người

không thể và không bao giờ có tự do tuyệt đối, bởi lẽ con người luôn sống trong mối

quan hệ với tự nhiên và với cộng đồng. Việc đặt ra giới hạn như trên là nảy sinh từ

quá trình sinh hoạt và căn tính văn hóa của mỗi cộng đồng. Tự do của một người chỉ

có được khi hành vi của người đó không xâm hại đến lợi ích của người khác và thực

tế tự do của một người sẽ bị giới hạn bởi tự do của người khác.

Tự do tín ngưỡng hay tự do tôn giáo thường được coi là một nguyên tắc ủng

hộ quyền tự do của cá nhân hay cộng đồng trong việc công khai hoặc hoặc bí mật

thực hành, thờ phụng, rao giảng hay tu tập một tôn giáo hay tín ngưỡng. Khái niệm

này thường được thừa nhận là có bao gồm cả việc tự do thay đổi tôn giáo hoặc tự do

không theo một tôn giáo nào. Tại nhiều quốc gia, tự do tín ngưỡng được nhiều người

coi là một quyền cơ bản của con người.

Quan niệm về tự do tín ngưỡng, tôn giáo được hình thành ở Châu Âu với các

cuộc cách mạng tư sản Thế kỷ XVII- XVIII. Những nhà tư tưởng như John Locker đã

đặt nền móng cho quyền tự do tôn giáo khi cho rằng tôn giáo là vấn đề của cá nhân hơn

là của xã hội. Vai trò của nhà nước không phải là khuyến khích phát triển tôn giáo mà

là bảo vệ quyền của mỗi cá nhân có thể sở hữu niềm tin tôn giáo của chính mình và

cách tốt nhất là hãy để cá nhân, mỗi người hãy tự lựa chọn tôn giáo cho mình.

Quan niệm về tự do tín ngưỡng, tôn giáo dần dần trở nên hoàn thiện hơn theo

tiến trình vận động của lịch sử. Tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ năm 1776 đã đề cập

đến tự do, song chưa nói cụ thể về tự do tôn giáo. Tuyên ngôn nhân quyền và dân

quyền của Pháp năm 1789 đã nói đến tự do cá nhân, tự do tư tưởng, tự do tôn giáo

12

song cũng chưa đề cập đến một cách cụ thể:

Mỗi người đều được phát biểu tư tưởng tự do, về tôn giáo cũng vậy,

miễn là những tư tưởng phát biểu đó không làm tổn thương đến nền trật tự

công cộng đã được pháp luật ấn định phân minh [27].

Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền định nghĩa về tự do tín ngưỡng như sau:

Mỗi người có quyền tự do tư tưởng, lương tâm và tín ngưỡng,

quyền này bao gồm tự do thay đổi tín ngưỡng và tự do thể hiện tôn giáo

hay tín ngưỡng của mình một cách cá nhân hoặc công khai trong việc rao

giảng, thực hành, thờ phụng và tu tập [28].

Tuyên bố về tự do tôn giáo của Hội đồng nhà thờ thế giới năm 1948:

Mọi người đều có quyền bày tỏ niềm tin tôn giáo của mình trong

giảng dạy, thờ phụng và thực hành, và công bố tác động của niềm tin của

mình cho mối quan hệ trong một cộng đồng xã hội hay chính trị.

Theo Công đồng Vatincan II thì:

Tự do tôn giáo có nghĩa là các cộng đoàn tôn giáo không bị ngăn

cản trong việc tự do biểu lộ các hiệu năng riêng của giáo thuyết mình trong

việc tổ chức xã hội và làm cho toàn thể sinh hoạt nhân loại được sống. Sau

hết, theo bản tính xã hội của con người, cũng như theo bản chất của tôn

giáo, con người có quyền tự do hội họp hay thành lập những hiệp hội giáo

dục, văn hóa, từ thiện và xã hội do cảm thức tôn giáo thúc đẩy [19].

Trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013 ghi nhận:

“Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo

nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật”. Theo đó, các tôn giáo đều bình đẳng

trước pháp luật, không một tôn giáo nào hoạt động đúng pháp luật mà bị ngăn cấm.

Người có tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam được yên tâm và an toàn hành đạo theo

đúng nghĩa của một đạo giáo chân chính và điều này trở thành nguyên tắc hiến định

trong từng giai đoạn phát triển của đất nước, trở thành một trong những quyền cơ bản

của con người. Mọi người dân hoàn toàn tự do lựa chọn theo hoặc không theo một tín

13

ngưỡng, tôn giáo nào" [40].

Như vậy, quyền tự do tín ngưỡng bao gồm quyền theo hoặc không theo một

tôn giáo; quyền tự do thay đổi tôn giáo; quyền tự do thể hiện, bày tỏ tín ngưỡng, tôn

giáo (quyền tự do thực hiện các hoạt động tôn giáo). Đó là một trong những quyền cơ

bản của con người, thuộc nhóm các quyền dân sự và chính trị, được ghi nhận trong

các văn bản pháp luật quốc tế về quyền con người cũng như trong pháp luật của hầu

hết các quốc gia trên thế giới.

1.1.1.4. Khái niệm về bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.

Cho đến đầu Thế kỷ XX, quan niệm về tự do tôn giáo mới chỉ mang tính quốc

gia riêng lẻ, cho đến khi Liên hợp quốc thông qua Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền

ngày 10 - 12 - 1948 thì tự do tôn giáo mới trở thành một quyền mang tính quốc tế.

Hiến chương Liên hợp quốc năm 1945, tại phần mở đầu đã tuyên bố: “Khẳng

định một lần nữa sự tin tưởng vào những quyền cơ bản, nhân phẩm và giá trị của con

người, vào quyền bình đẳng giữa nam và nữ”. Khoản 3, Điều 1 đã đề cập đến nội

dung quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo hướng “khuyến khích phát triển sự tôn

trọng các quyền của con người và các tự do cơ bản cho tất cả mọi người, không phân

biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ hoặc tôn giáo”. Điều 55, mục c ghi nhận Liên hợp

quốc khuyến khích “sự tôn trọng và tuân thủ triệt để các quyền và tự do cơ bản của

tất cả mọi người, không phân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ hay tôn giáo” [34].

Trong Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948, lần đầu tiên Đại hội

đồng Liên hợp quốc có một văn bản tuyên ngôn chính thức về nhân quyền, tạo cơ sở

để Liên hợp quốc cụ thể hóa thành các công ước mang tính chất pháp lý bắt buộc đối

với các quốc gia thành viên trong việc bảo đảm, bảo vệ quyền con người nói chung,

các quyền về dân sự, chính trị nói riêng trong đó có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.

Điều 18 ghi nhận như sau: “Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng và

tôn giáo, kể cả tự do thay đổi tín ngưỡng hoặc tôn giáo của mình bằng các hình thức

như truyền giảng, thực hành, thờ cúng và tuân thủ các nghi lễ, dưới hình thức cá

nhân hay tập thể, tại nơi công cộng hoặc riêng tư” [28]. UDHR đã xác định các bảo

đảm như tôn trọng và thực thi các nguyên tắc quan trọng nhất trong việc bảo vệ

14

quyền con người:

Mọi người sinh ra đều được tự do và bình đẳng về nhân phẩm và

các quyền, Mọi người đều được hưởng tất cả các quyền và tự do nêu trong

bản Tuyên ngôn này mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào về chủng

tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo..., Mọi người đều bình đẳng

trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng chống lại bất

kỳ sự phân biệt đối xử nào vi phạm bản Tuyên ngôn này, và chống lại bất

kỳ sự kích động phân biệt dối xử nào như vậy [28].

Ở Việt Nam, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật ghi nhận phù

hợp với quy định của Công ước quốc tế về các quyền dân sự. Pháp luật Việt Nam một

mặt thừa nhận và bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân, mặt khác

cũng đề ra những phạm vi, giới hạn của việc thực hiện quyền đó. Nhìn chung, pháp

luật về tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam đã thể hiện được khá đầy đủ quyền tự do tín

ngưỡng, tôn giáo được nêu trong Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948 và

Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966.

Như vậy, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là việc Nhà nước ghi nhận

các quyền tự do của công dân trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo và đề ra các biện

pháp nhằm thúc đẩy cho các quyền đó được thực hiện đồng thời có những cơ chế để

bảo vệ các quyền đó.

1.1.2. Đặc điểm của quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo

Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một quyền con người cơ bản thuộc nhóm

các quyền dân sự, chính trị, gắn liền với nhân thân của mỗi cá nhân, không thể

chuyển giao, không thể chia cắt và không thể bị tước bỏ bởi bất cứ ai và bất kỳ thể

chế chính trị nào.

Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được xác lập, thực hiện và phát triển phù

hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tế về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và trình độ

phát triển của xã hội, nó luôn phản ánh bản chất của chế độ chính trị xã hội và trình

độ phát triển của xã hội. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo luôn gắn liền với độc lập

dân tộc, chủ nghĩa xã hội, chủ quyền quốc gia, với an ninh và ổn định chính trị, kinh

tế - xã hội của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Tuy nhiên, mọi hoạt động vẫn cần diễn ra

15

theo đúng khuôn khổ pháp luật.

Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo có quy tắc riêng đó là quy tắc đối nhân xử

thế giữa con người với con người, giữa con người với thế giới; nó đề cao, cổ vũ tình

yêu thương đồng loại, sự công bằng, bình đẳng, tự do và nhân phẩm, là nền tảng của

quyền con người. Đó là những nguyên tắc tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.

Tín ngưỡng, tôn giáo là một vấn đề rất nhạy cảm, có sức ảnh hưởng mạnh tới nhận

thức cá nhân, hiểu biết thế giới quan của mỗi cá nhân. Những người có tín ngưỡng,

tôn giáo họ đều có niềm tin vào một thế giới siêu nhiên nào đó và coi đó là yếu tố chủ

đạo trong việc thể hiện bản sắc văn hóa của mỗi người. Do đó, việc bảo đảm quyền tự

do tín ngưỡng, tôn giáo cũng rất khó khăn và không chỉ trong vấn đề luật pháp mà

còn là cả về đạo đức.

Quyền và tự do cơ bản của mỗi người luôn gắn liền với nghĩa vụ và trách

nhiệm của mỗi cá nhân. Sự tôn trọng và bảo đảm quyền tự do của mỗi người không

thể tách rời khỏi sự tôn trọng quyền và tự do của người khác cũng như quyền của tập

thể, cộng đồng thậm chí cả dân tộc, quốc gia và cộng đồng nhân loại. Quyền tự do tín

ngưỡng, tôn giáo bản thân nó đã hàm chứa nghĩa vụ và trách nhiệm của mỗi người

theo cũng như không theo, có cũng như không có tín ngưỡng, tôn giáo. Tuy nhiên,

thực tế vẫn có không ít người theo đạo chưa nhận thức được đầy đủ mối quan hệ

khăng khít giữa quyền và nghĩa vụ này nên có những hành động làm ảnh hưởng đến

lợi ích chung của xã hội.

Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng,

tôn giáo ở 3 cấp độ: tôn trọng quyền, bảo vệ quyền và thực hiện quyền. Do đó, Nhà

nước cần phải kìm chế, không can thiệp trực tiếp hoặc gián tiếp vào việc hưởng thụ

quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo đã được ghi nhận trong pháp luật. Phải có những

biện pháp nhằm ngăn chặn sự vi phạm từ bên thứ ba bằng việc xây dựng những cơ

chế phòng ngừa, xử lý những hành vi vi phạm. Nhà nước cần có những kế hoạch,

chương trình, chính sách cụ thể để bảo đảm cho mọi công dân, mọi người có tín

ngưỡng, tôn giáo có thể hưởng thụ quyền đến mức cao nhất.

Quyền tự do bày tỏ tín ngưỡng, tôn giáo không phải là quyền tuyệt đối mà vẫn

16

có những giới hạn nhất định. Theo khoản 3 Điều 18 Công ước ICCPR (Công ước

quốc tế về các quyền dân sự, chính trị) thì việc giới hạn này là cần thiết cho việc bảo

vệ an toàn, trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức của công chúng hoặc những

quyền và tự do cơ bản của người khác. Nhà nước được quyền dùng những biện pháp

cần thiết để trấn áp những hành vi phi tôn giáo như hoạt động lợi dụng tôn giáo hay

truyền bá những niềm tin đi ngược đạo đức, luân lý (tà giáo). Những giới hạn này chỉ

có thể được hình thành và áp dụng trên cơ sở pháp luật mà thôi.

1.2. Quy định của pháp luật quốc tế

1.2.1. Quy định quốc tế

Điều 18 công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 (Công

ước ICCPR) đã cụ thể hóa Điều 18 Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền cũng

khẳng định:

Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng và tôn

giáo. Quyền này bao gồm tự do có hoặc theo một tôn giáo hoặc một tín

ngưỡng do mình lựa chọn và tự do bày tỏ tín ngưỡng hoặc tôn giáo một

mình hoặc trong cộng đồng với những người khác, công khai hoặc kín

đáo, dưới các hình thức như thờ cúng, cầu nguyện, thực hành và truyền

giảng. Không ai bị ép buộc làm những điều tổn hại đến quyền tự do lựa

chọn hoặc tin theo tôn giáo hoặc tín ngưỡng của họ [33].

Dưới đây là một số phân tích trong quy định quốc tế:

1.2.1.1. Không phân biệt đối xử dựa trên tôn giáo

Trong Khoản 1, Điều 2 của công ước ICCPR và Khoản 2, Điều 2 của Công

ước ICESCR đã khẳng định: Các quốc gia thành viên Công ước cam kết tôn trọng và

bảo đảm cho mọi người trong phạm vi lãnh thổ và thẩm quyền tài phán của mình các

quyền đã được công nhận trong Công ước này, không có bất kỳ sự phân biệt nào về

chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hoặc quan điểm

khác, nguồn gốc dân tộc hoặc xã hội, tài sản, thành phần xuất thân hoặc địa vị khác.

Như vậy, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và có quyền được pháp luật

bảo vệ một cách bình đẳng mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào về chủng tộc,

17

màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo.

Để cụ thể hóa những điều này, Bình luận chung số 22 đã giải thích rằng: Việc

một tôn giáo được xác định là quốc giáo, là tôn giáo chính thức hay truyền thống,

hoặc có số lượng tín đồ chiếm đa số trong xã hội không được sử dụng để làm ảnh

hưởng đến việc thực hiện các quyền tự do quy định ở các Điều 18 và 27 của ICCPR,

cũng như không được tạo ra sự phân biệt đối xử với tín đồ của các tôn giáo khác,

hoặc với những người không theo tôn giáo nào. Những hình thức phân biệt đối xử với

tín đồ của các tôn giáo khác, hay với những người không theo tôn giáo trong bối cảnh

này, ví dụ việc quy định chỉ những tín đồ thuộc tôn giáo chiếm ưu thế mới được tham

gia chính quyền hay dành những ưu đãi về kinh tế cho họ đều trái với các quy định về

quyền bình đẳng nêu ở Điều 26 ICCPR (đoạn 9) [23].

Điều 5, Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc năm 1965 đã

bao gồm một danh sách các quyền các nước thành viên cam kết bảo đảm mà không

phân biệt, trong đó có quyền tự do tư tưởng, lương tâm và tôn giáo.

Ngoài ra còn được quy định trong Công ước về ngăn ngừa và trừng phạt tội

diệt chủng 1948, Công ước số 111 của ILO năm 1958 về việc bảo đảm quyền bình

đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ mà không phân biệt chủng tộc, màu

da, giới tính, tôn giáo, quan điểm chính trị….

1.2.1.2. Tự do theo hay không theo một tôn giáo nhất định

Để cụ thể hóa nội dung Điều 18 ICCPR, bình luận chung số 22 cũng khẳng định:

Quyền tự do chính kiến, niềm tin, lương tâm và tôn giáo có tính bao

quát sâu sắc. Nó bao gồm quyền tự do suy nghĩ về tất cả các vấn đề, tự do

tư tưởng và giữ gìn niềm tin vào các tôn giáo hay tín ngưỡng, cả trên

phương diện cá nhân hay tập thể. Các quyền tự do này phải được tôn trọng

và không thể bị hạn chế hay tước bỏ trong mọi hoàn cảnh, kể cả trong tình

trạng khẩn cấp của quốc gia như nêu ở Điều 4 của ICCPR (đoạn 1) [23].

Quyền tin hoặc theo một tôn giáo hay tín ngưỡng bao gồm quyền tự do lựa

chọn một tôn giáo hay tín ngưỡng để tin hoặc theo, kể cả việc thay đổi niềm tin từ tôn

giáo, tín ngưỡng này sang tôn giáo, tín ngưỡng khác, thay đổi niềm tin từ vô thần

18

sang hữu thần và từ hữu thần sang vô thần. Khoản 2 Điều 18 cấm cưỡng ép tin, theo,

bỏ hay thay đổi tôn giáo, tín ngưỡng, kể cả bằng những chính sách hay tập quán

nhằm gây sức ép để đạt mục đích đó như hạn chế sự tiếp cận với các dịch vụ giáo

dục, y tế, việc làm hoặc hạn chế các quyền quy định trong Điều 25 và các Điều khác

của ICCPR (đoạn 5).

1.2.1.3. Tự do thể hiện, thực hành tín ngưỡng, tôn giáo

Điều 18 ICCPR phân biệt giữa quyền tự do chính kiến, niềm tin, lương tâm,

tôn giáo hoặc tín ngưỡng với tự do thực hành tôn giáo hay tín ngưỡng. Điều này

không cho phép có bất kỳ sự giới hạn nào với quyền tự do chính kiến, niềm tin, lương

tâm, và quyền tự do tin hoặc theo một tôn giáo hoặc tín ngưỡng. Những tự do này

phải được bảo vệ không điều kiện, tương tự quyền tự do được giữ ý kiến nêu trong

khoản 1 Điều 19 (đoạn 3) [23].

Quyền tự do thực hành tôn giáo hay tín ngưỡng có thể được thực thi với tư

cách cá nhân hay cùng với cộng đồng, ở nơi công cộng hay chỗ riêng tư; thể hiện ở

các hành động như thờ cúng, tham gia những lễ hội tôn giáo, quan sát, thực hành và

giảng dạy về tôn giáo. Khái niệm thờ cúng bao gồm những hoạt động lễ nghi, kỷ

niệm, xây dựng những nơi thờ tự, sử dụng hay trưng bày các vật dụng và biểu tượng

nghi lễ, tham gia các lễ hội và các ngày nghỉ lễ tôn giáo. Việc quan sát và thực hành

tôn giáo không chỉ bao gồm các hoạt động nghỉ lễ, mà còn bao gồm việc tuân thủ các

nguyên tắc về ăn kiêng, trang phục, sử dụng ngôn ngữ đặc biệt, lựa chọn lãnh đạo tôn

giáo, tăng lữ, người thầy tâm linh, thành lập các trường tôn giáo, biên soạn và phân

phát các tài liệu tôn giáo (đoạn 4) [23].

1.2.1.4. Quyền tự do tín ngưỡng của trẻ em và trách nhiệm của cha mẹ trong

việc giáo dục tôn giáo, đạo đức cho con cái theo đạo đức riêng của họ

Theo Điều 14 của Công ước về quyền trẻ em (CRC,1989) các quốc gia thành

viên phải tôn trọng quyền tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng và tôn giáo của trẻ em.

Quyền tự do thực hành tôn giáo hoặc tín ngưỡng chỉ có thể chịu những hạn chế do

pháp luật quy định và là cần thiết để bảo vệ an ninh công cộng, trật tự xã hội, y tế hay

19

đạo đức của cộng đồng hoặc để bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của người khác.

Trong Bình luận chung số 22 đoạn 6, Ủy ban nhân quyền đã giải thích rằng:

Các trường công lập có thể giảng dạy những môn học như lịch sử

đại cương của các tôn giáo và tín ngưỡng, miễn là nội dung cần trung lập

và khách quan. Việc các trường công lập giảng dạy giáo lý của một tôn

giáo hay nội dung một tín ngưỡng nhất định là trái với quy định trong

Khoản 4 Điều 18, trừ khi việc giảng dạy như vậy là do ý nguyện và thuộc

vào quyền quyết định của các bậc cha mẹ (đoạn 6) [23].

Tuyên bố về xóa bỏ mọi hình thức ngược đãi tôn giáo và phân biệt đối xử trên

cơ sở tôn giáo hay tín ngưỡng được công bố còn quy đinh cụ thể quyền của trẻ em

được tiếp cận giáo dục về tôn giáo hay tín ngưỡng và quyền, trách nhiệm của cha mẹ

liên quan đến tôn giáo và tín ngưỡng.

Mọi trẻ em đều được hưởng quyền tiếp cận giáo dục về tôn giáo và

tín ngưỡng phù hợp với nguyện vọng của cha mẹ, trẻ em cần phải được

bảo vệ khỏi bất cứ sự phân biệt đối xử nào vì lý do tôn giáo hay tín

ngưỡng. Trẻ em phải được nuôi dưỡng trên tinh thần hiểu biết, khoan

dung, hữu nghị giữa các dân tộc, tình anh em và hòa bình, tôn trọng tự do

tôn giáo hay tín ngưỡng của người khác, và với ý thức đầy đủ rằng tài

năng và sức lực của trẻ em cần phải được cống hiến nhằm phục vụ cho

đồng bào của mình. Trong trường hợp một đứa trẻ không được cả cha mẹ

hoặc người giám hộ hợp pháp chăm sóc thì cần phải quan tâm thỏa đáng

đến những nguyện vọng mà trẻ đã bày tỏ trực tiếp hoặc gián tiếp trong vấn

đề tôn giáo hay tín ngưỡng. Mọi tập tục tôn giáo và tín ngưỡng tác động

đến trẻ em thông qua môi trường tôn giáo hay tín ngưỡng mà trẻ em đang

sống không được làm tổn hại đến sự phát triển trí tuệ và thể chất hoặc sự

phát triển đầy đủ của trẻ em [25].

1.2.1.5. Giới hạn của quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo

Mặc dù quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật Quốc tế công nhận và

bảo vệ nhưng cũng có những giới hạn nhất định. Việc giới hạn đó được quy định như:

20

Nghiêm cấm các hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng có mục đích hoặc tính chất tuyên

truyền cho chiến tranh hoặc hận thù, chia rẽ dân tộc, tôn giáo hay kích động sự phân

biệt đối xử về chủng tộc, sự thù địch hoặc bạo lực như đã nêu ở Điều 20 ICCPR. Các

quốc gia thành viên có nghĩa vụ sử dụng pháp luật để ngăn chặn những hành động đó.

Bình luận chung số 22 giải thích rằng: Khoản 3, điều 18 cho phép hạn chế

quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng trong trường hợp cần thiết để bảo vệ an ninh, trật tự

công cộng, sự bình yên hoặc đạo đức xã hội, hoặc để bảo vệ các quyền tự do cơ bản

của người khác. Tuy nhiên, quyền không bị ép buộc làm những điều tổn hại đến

quyền tự do lựa chọn hoặc tin theo tôn giáo hoặc tín ngưỡng và quyền của các bậc

cha mẹ hay người giám hộ hợp pháp được giáo dục về tôn giáo và đạo đức cho con

cái họ theo ý nguyện của riêng họ thì không được hạn chế trong mọi trường hợp. Các

hạn chế trong khoản 3 Điều 18 cần phải được quy định trong pháp luật và phù hợp

với các quy định khác của ICCPR, đặc biệt là với các quy định về quyền bình đẳng,

không phân biệt đối xử trong các Điều 2, 3 và 26 của Công ước. Những hạn chế

không được dựa trên lý do nào khác ngoài các lý do quy định ở Khoản 3 Điều 18, kể

cả những yếu tố có thể được sử dụng để hạn chế các quyền khác được ghi nhận trong

ICCPR, ví dụ như lý do về an ninh quốc gia. Những hạn chế chỉ được áp dụng phù

hợp và tương ứng với mục tiêu đề ra. Không được đặt ra các hạn chế nhằm mục đích

phân biệt đối xử, hoặc áp dụng các hạn chế theo cách thức phân biệt đối xử. Liên

quan đến khía cạnh này, cần lưu ý là các quan niệm về đạo đức có thể xuất phát từ

nhiều truyền thống xã hội, triết học và tôn giáo khác nhau, do đó, những giới hạn về

quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng với mục đích nhằm bảo vệ các giá trị đạo đức phải

không được dựa hoàn toàn vào một truyền thống riêng biệt nào. Những người bị quản

chế về mặt pháp lý, chẳng hạn như tù nhân, vẫn có quyền hưởng tự do tôn giáo, tín

ngưỡng ở mức độ cao nhất phù hợp với điều kiện quản chế (đoạn 8) [23].

Việc một học thuyết chính trị được coi là nền tảng chính thức cho thể chế

chính trị ở một quốc gia thành viên cũng không được sử dụng để làm ảnh hưởng đến

các quyền tự do nêu ở Điều 18 và các quyền khác trong ICCPR, cũng như không

được tạo ra sự phân biệt đối xử với những người không theo hay không tán thành học

21

thuyết chính trị đó (đoạn 10) [23].

ICCPR không quy định quyền được từ chối thực hiện nghĩa vụ quân sự vì lý

do lương tâm, tuy một số quốc gia đã ghi nhận quyền này bằng cách cho phép thực

hiện nghĩa vụ khác thay thế. Mặc dù vậy, nếu quyền này được ghi nhận trong pháp

luật hay trong thực tế thì không được áp dụng theo cách thức phân biệt đối xử giữa

các nhóm tôn giáo, tín ngưỡng khác nhau (đoạn 11) [23].

1.2.2. Các văn kiện khu vực

- Công ước Châu Âu về bảo vệ quyền con người và tự do cơ bản năm 1950

(ECHR) quy định:

1.Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tự do lương tâm và tự do

tôn giáo; quyền này bao gồm tự do thay đổi tôn giáo hay tín ngưỡng của

mình và tự do, hoặc một mình hoặc với người khác và tại nơi công cộng

hay riêng tư, để biểu đạt niềm tin tôn giáo, hoặc, trong việc thờ phụng,

giảng dạy, thực hành và tu tập. 2.Tự do biểu đạt tôn giáo hay tín ngưỡng

của một người chỉ phải chịu các giới hạn đã được quy định bởi pháp luật

và là cần thiết trong một xã hội dân chủ vì lợi ích của an toàn công cộng,

để bảo vệ trật tự công cộng, sức khỏe và đạo đức, hoặc để bảo vệ các

quyền và tự do của người khác [21, Điều 9].

ECHR quy định:

Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, lương tâm và tôn giáo,

quyền này bao gồm tự do thay đổi tôn giáo hay tín ngưỡng của mình và

tự do một mình hoặc với người khác tại nơi công cộng hay riêng tư để

biểu đạt niềm tin tôn giáo, hoặc trong việc thờ phụng, giảng dạy, thực

hành và tu tập [21, Điều 9, Khoản 1].

ECHR cũng quy định về giới hạn quyền:

Tự do biểu đạt tôn giáo hay tín ngưỡng của một người chỉ phải

chịu các giới hạn như đã được quy định bởi pháp luật và là cần thiết

trong một xã hội dân chủ vì lợi ích của an toàn công cộng, để bảo vệ trật

tự công cộng, sức khỏe và đạo đức, hoặc để bảo vệ các quyền và tự do

22

của người khác [21, Điều 9, Khoản 2].

Quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo tạm đình chỉ trong các trường hợp

khẩn cấp tại điều 15 ECHR.

ECHR còn đưa ra nguyên tắc cấm phân biệt đối xử trong việc hưởng các

quyền trong công ước này với bất kỳ lý do nào như: giới tính, chủng tộc, màu da,

ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị, nguồn gốc quốc gia hay xã hội…. Công

ước quy định:

Việc hưởng các quyền và tự do nêu trong Công ước này phải

được bảo đảm không được phân biệt trên bất kỳ mặt nào như giới tính,

chủng tộc, màu da, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến hay quan niệm,

nguồn gốc quốc gia hay xã hội, gắn với một thiểu số quốc gia, tài sản,

nhân thân hay địa vị [21, Điều 14].

- Công ước Châu Mỹ về quyền con người năm 1978 bảo vệ quyền tự do lương

tâm và tôn giáo quy định về quyền tín ngưỡng, tôn giáo tại Điều 12 ACHR:

1. Mọi người đều có quyền tự do lương tâm và tôn giáo. Quyền này

bao gồm tự do để duy trì hoặc thay đổi tôn giáo hay tín ngưỡng của một

người, và tự do tuyên xưng, phổ biến tôn giáo của một người hay tín

ngưỡng riêng biệt hoặc cùng với những người khác, ở nơi công cộng hoặc

riêng tư. 2. Không ai có thể bị hạn chế mà có thể làm giảm sự tự do của

mình để duy trì hoặc thay đổi tôn giáo hay tín ngưỡng của mình. 3.Quyền

tự do biểu thị tôn giáo và tín ngưỡng chỉ có thể bị những hạn chế theo quy

định của pháp luật đó là cần thiết để bảo vệ an toàn công cộng, trật tự, sức

khỏe hoặc đạo đức, hoặc quyền lợi tự do của người khác. 4.Cha mẹ hoặc

người giám hộ, như trường hợp có thể được có quyền để cung cấp cho

giáo dục tôn giáo của trẻ em. 5.Cha mẹ hoặc người giám hộ, như trường

hợp có thể được, có quyền để cung cấp cho giáo dục tôn giáo và đạo đức

của trẻ em, phường đó là phù hợp với tín ngưỡng của họ [49, Điều 12].

- Hiến chương Châu Phi về quyền con người và quyền của các dân tộc năm

1981 đã đề cập đến quyền tự do lương tâm và tự do hành đạo, theo đó Điều 2 Hiến

23

chương quy định:

Mỗi cá nhân có quyền được hưởng những quyền tự do công nhận

và bảo đảm trong Hiến chương hiện tại mà không phân biệt về chủng

tộc, nhóm sắc tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến hay

quan điểm, nguồn gốc dân tộc và xã hội, tài sản, khai sinh hoặc tình

trạng khác [33, Điều 2]. Tự do lương tâm, tin theo và thực hành tự do

tôn giáo được bảo đảm. Không ai có thể, theo pháp luật và trật tự, đưa ra

các biện pháp hạn chế việc thực hiện các quyền tự do [35, Điều 8].

- Hiến chương các nước Ả Rập về quyền con người năm 2004 (sửa đổi Hiến

chương năm 1994) quy định tại Điều 30, mọi người đều có quyền tự do tư tưởng và

tín ngưỡng, tôn giáo, trong đó có thể phải chịu những giới hạn do pháp luật quy định.

Tự do biểu hiện, thực hành tôn giáo hay tín ngưỡng để thực hiện các nghi lễ một

mình hoặc trong cộng đồng với những người khác cũng bị giới hạn theo quy định của

Pháp luật, là cần thiết trong một xã hội khoan dung mà tôn trọng quyền tự do và

quyền con người để bảo vệ an toàn, trật tự công cộng, sức khỏe hay đạo đức hoặc các

quyền cơ bản và tự do của người khác. Cha mẹ và người giám hộ hợp pháp có quyền

đảm bảo quyền giáo dục tôn giáo và đạo đức của trẻ em.

Như vậy, Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo không chỉ giới hạn ở một quốc gia,

khu vực mà còn là vấn đề toàn cầu, được cả thế giới quan tâm. Đến nay, ở hầu hết các

quốc gia đều có sự ủng hộ về mặt pháp lý và trở thành nguyên tắc pháp lý mang tính

toàn cầu, có giá trị nhân văn phổ quát.

1.3. Kinh nghiệm bảo đảm quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo trong pháp

luật một số nƣớc trên thế giới

1.3.1. Hợp chủng quốc Hoa Kỳ

Hoa Kỳ là một quốc gia đa nguyên tôn giáo, ở đây hiện diện đầy đủ các giáo

hội tôn giáo lớn nhỏ, các giáo phái cũ mới đủ loại, với nhiều quan điểm, khuynh

hướng từ bảo thủ đến cấp tiến, thậm chí là cực đoan. Đó là các Giáo hội Tin lành,

Giáo hội Công giáo, Chính thống giáo, Do thái giáo, Islam giáo, Ấn Độ giáo, Phật

giáo, Đạo giáo, tôn giáo tín ngưỡng của người bản địa Indian…. Tự do tôn giáo ở Mỹ

24

bao hàm hai nội dung có tính nguyên tắc gồm: Nhà nước phân tách với nhà thờ và

Nhà nước bảo đảm tự do hành đạo. Địa vị của tôn giáo trong đời sống tinh thần của

Hoa Kỳ đặc biệt được quan tâm.

Năm 1784 Hiến pháp Hoa Kỳ được thông qua nhưng vẫn còn thiếu Luật về các

quyền. Năm 1789 Luật về các quyền được Quốc hội chấp thuận và được thông qua tại

tất cả các bang của Hoa Kỳ và có hiệu lực vào năm 1791. Năm 1993, Quốc hội Hoa Kỳ

đã thông qua điều khoản khôi phục tự do tôn giáo nhằm thực hiện nghiêm túc các điều

luật về tự do tôn giáo, chấn chỉnh lại những điều luật của Liên bang hay của các bang

trái với những quy định về tự do thực hành tôn giáo, tự do lựa chọn tôn giáo đã được

ghi trong điều khoản sửa đổi của Hiến pháp Hoa Kỳ lần thứ nhất.

Hiến pháp Hoa Kỳ đã có quy định về sự tách biệt giữa Nhà thờ và Nhà nước

trong điều bổ sung, sửa đổi thứ nhất, trong đó nghiêm cấm việc thiết lập một tôn giáo

nhà nước chính thức cũng như việc trợ giúp của Chính phủ cho các nhóm tôn giáo.

Điều bổ sung này cũng nghiêm cấm chính quyền bang hoặc liên bang can thiệp vào

các tổ chức tôn giáo và việc hành đạo. Nhưng trên thực tế, sự tách biệt giữa tôn giáo

và Nhà nước thường xuyên bị vi phạm. Điều này thể hiện không chỉ trong lĩnh vực

tinh thần mà còn cả trong lĩnh vực kinh tế như việc tiền quyên góp cho các tổ chức

tôn giáo lại được khấu trừ vào thuế thu nhập, hay như những bất công liên quan đến

tôn giáo trong trợ cấp tài chính cho sinh viên.

Tự do tôn giáo ở Hoa Kỳ thực ra chỉ là sự tự do lựa chọn tôn giáo và tự do

thực hành các nghi lễ tôn giáo. Công dân Mỹ có thể tự do trong việc lựa chọn tôn

giáo, nhưng họ lại ít có tự do trong việc từ bỏ tôn giáo. Thông thường, mỗi người dân

Mỹ đều phải thuộc về một tôn giáo nào đó và tham gia một tổ chức tôn giáo nào đó.

Những người không theo tôn giáo nào hay thậm chí có thái độ thờ ơ với tôn giáo và

hơn nữa là những người có quan điểm vô thần thường bị hạn chế về quyền lợi. Ở một

số bang, sự hạn chế này còn được quy định bằng luật pháp của bang. Hoa Kỳ là quốc

gia đầu tiên tuyên bố tách Giáo hội khỏi Nhà nước, ở đây Nhà nước có sự hợp tác

chặt chẽ với nhiều tổ chức tôn giáo. Tuy nhiên, việc tách Giáo hội khỏi Nhà nước ở

Hoa Kỳ vẫn mang tính hình thức, nó vẫn hạn chế quyền tự do tôn giáo được nêu

25

trong Luật về các quyền.

Như vậy, đa nguyên tôn giáo và tự do tôn giáo ở Hoa Kỳ không phải lúc nào

cũng là hai vấn đề thuận chiều nhau. Quả thực không có một nước nào trên thế giới

có bức tranh đa nguyên tôn giáo rực rỡ, đa sắc màu như ở Hoa Kỳ và cũng khó có ở

nơi đâu có cách hiểu về tự do tôn giáo đơn chiều như ở Hoa Kỳ. Ở nước này, tự do

tôn giáo chỉ được hiểu là tự do tin theo tôn giáo chứ không được hiểu là tự do không

tin theo tôn giáo. Chính vì cách hiểu này mà Hoa Kỳ thường xuyên buộc tội các nước

khác, trong đó có cả một số nước châu Âu là không có tự do tôn giáo và sắp xếp

những nước này vào diện các nước được quan tâm đặc biệt về tự do tôn giáo. Tuy

nhiên, mỗi quốc gia có truyền thống lịch sử, văn hóa, tôn giáo và tín ngưỡng khác

nhau, Luật pháp của mỗi nước cũng được xây dựng trên các truyền thống đó. Việc lấy

tiêu chuẩn luật pháp của một quốc gia này áp đặt cho một số quốc gia khác là điều

không thể chấp nhận được trong thế giới hiện đại. Chỉ có sự hiểu biết lẫn nhau, cùng

điều chỉnh và hội nhập mới là phương sách đúng giúp các quốc gia, dân tộc xích lại

gần nhau hơn, tránh được những xung đột, trong đó có xung đột tôn giáo.

1.3.2. Cộng hòa Pháp

Cộng hòa Pháp là quốc gia có nhiều tín ngưỡng, tôn giáo trong đó có một số

tôn giáo, tín ngưỡng cùng tồn tại và phát triển như: Công giáo, Do Thái giáo, Hồi

giáo và một số loại hình tín ngưỡng, tôn giáo khác. Trước năm 1905 ở Pháp, tôn giáo

là một bộ phận của Nhà nước, được Nhà nước nuôi dưỡng, bảo trợ công khai. Tuy

nhiên, ngày nay Chính phủ Cộng hòa Pháp khá tự hào về sự tách bạch giữa tôn giáo

và Nhà nước hay còn gọi là chủ nghĩa thế tục.

Nguyên tắc thế tục được hình thành từ rất sớm từ Cuộc cách mạng Pháp năm

1789. Trước năm 1905, có thể nói tôn giáo là một bộ phận của Nhà nước, được Nhà

nước nuôi dưỡng vào bảo trợ công khai. Nhà nước Pháp đã trả lương, trợ cấp cho tôn

giáo, trả chi phí cho việc hành đạo, có những cơ sở tôn giáo công thuộc quyền sở hữu

của Nhà nước. Năm 1905 Luật về tách rời Nhà nước với Nhà thờ đã loại bỏ vai trò

của giáo hội Công giáo khỏi hoạt động của Chính phủ Pháp: Nhà nước Cộng hòa bảo

đảm quyền tự do ý thức. Nhà nước bảo hộ quyền tự do tôn giáo. Nhà nước không

26

thừa nhận, trả lương hay trợ cấp cho tôn giáo nào (ngoại lệ tỉnh Alsace- Moselle).

Đồng thời Điều 44 đạo luật này bãi bỏ tất cả những điều khoản về tổ chức của các tôn

giáo mà Chính phủ Pháp trước đây công nhận, thay vào đó là các liên hội, hội hành

đạo của các tôn giáo.

Tại Điều 1 Hiến pháp nước Cộng hòa Pháp thông qua ngày 4.10.1958 đã

khẳng định lại Hiến pháp 1946 và bổ sung: “Pháp bảo đảm quyền bình đẳng của mọi

công dân trước pháp luật không phân biệt nguồn gốc xuất thân, sắc tộc, tôn giáo.

Mọi tín ngưỡng đều được tôn trọng” [31, Điều 1]. Cùng với việc trở thành một Nhà

nước thế tục, bảo đảm tự do tôn giáo, Pháp đã ban hành một hệ thống quy định điều

chỉnh theo hướng này.

Trong lĩnh vực giáo dục: Cải cách giáo dục có thể được coi là một trong những

bước đi đầu tiên thể hiện xu hướng thế tục hóa tôn giáo của Pháp. Việc lập ra các

trường công lập thế tục Thế kỷ XIX là một bước thiết yếu của chủ nghĩa thế tục tại

Pháp. Các trường công lập miễn phí và thế tục là một dịch vụ mà nhà nước Pháp cung

cấp cho công dân của mình, dù cho họ theo đức tin hay tín ngưỡng tôn giáo nào,

nguyên tắc này đảm bảo quyền tiếp cận giáo dục cho tất cả mọi người. Có thể dạy

lịch sử và triết học gắn liền với tôn giáo, nhưng không thích hợp cho việc cải đạo

hoặc biểu hiện một tôn giáo, hoặc của bất kỳ hệ tư tưởng nào.

Bày tỏ niềm tin tôn giáo: Đạo luật năm 1905 không thừa nhận cũng không cấm

đoán bất kỳ tôn giáo nào. Đạo luật này khẳng định tôn giáo không chỉ là một vấn đề

riêng mà nó còn có thể thực hiện trong không gian công cộng theo một cách tập thể.

Đạo luật ngày 15.3.2004 cấm việc mặc quần áo hoặc mang các ký hiệu biểu thị tôn

giáo trong các trường công lập, điều này để đảm bảo tính trung lập của nhà trường. Đối

với các cơ quan ngoài công lập, mặc trang phục hoặc mang các ký hiệu biểu thị tôn

giáo là quyền tự do các nhân, tuy nhiên nhìn chung thì bởi các nguyên nhân chủ quan

và khách quan như yêu cầu công việc, rủi do lao động… mặc các trang phục đó có thể

gây khó khăn, vướng víu khi tham gia công việc, điều này đôi khi đòi hỏi giữa người

chủ lao động và người lao động cần có một hợp đồng chi tiết quy định về những vấn đề

này để hạn chế sự tự do, rủi do và những bất tiện khi mặc những trang phục đó.

27

Nguyên tắc thế tục đối với phụ nữ: Từ năm 1944, phụ nữ Pháp đã được quyền

bỏ phiếu, việc này trước đó đã bị những người cấp tiến trong Thượng viện phản đối

vì sợ phụ nữ bị ảnh hưởng bởi các linh mục. Đến năm 1999, nguyên tắc bình quyền

đã được đưa vào Hiến pháp, tiếp đó vào năm 2000, đạo luật về bình quyền đã quy

định nam nữ bình đẳng đối với các chức vụ chính trị.

Nghỉ lễ tôn giáo: Tại Pháp, theo truyền thống, các lễ hội tôn giáo hợp pháp,

các ngày nghỉ lễ tôn giáo được đưa vào lịch học của các trường học. Đối với người đi

làm, Bộ luật lao động quy định 11 ngày nghỉ lễ trong năm. Ngoài các ngày nghỉ lễ đó,

người lao động có thể xin phép nghỉ làm nhân ngày lễ tôn giáo của mình. Lãnh đạo

cơ quan hoặc chủ thuê lao động sẽ xem xét nếu việc cho nghỉ đó không cản trở đến sự

hoạt động bình thường của cơ quan, công ty.

Đất đai, cơ sở thờ tự: Các nhà nước tư bản đều quy định quyền sở hữu tư nhân

về đất đai, Pháp cũng không là một ngoại lệ. Do vậy, không có sự tách biệt giữa

quyền sở hữu đất đai và quyền sở hữu nhà cửa, các công trình xây dựng trên nó. Đất

đai, tài sản tôn giáo đều phải nộp thuế như các chủ thể khác, và chịu một mức thuế

như thuế tư nhân.

Tự do ngôn luận: Tại Pháp, tự do ngôn luận chỉ có giới hạn pháp lý dựa trên sự

bảo vệ các quyền tự do cơ bản và bảo vệ con người. Trong khuôn khổ thế tục của

pháp luật, biểu đạt tôn giáo và chống tôn giáo đều được chấp thuận theo cùng một

cách, không có hành vi phạm tội truyền đạo, cũng không có hành vi phạm tội báng

bổ. Tuy nhiên, những lời này sẽ bị lên án khi chúng kêu gọi thù hận tôn giáo, phỉ

báng tôn giáo.

Việc xây dựng mô hình nhà nước thế tục dù ở đâu cũng đều xoay quanh 3 trụ

cột là sự " tách bạch" giữa quyền lực chính trị của nhà nước với tôn giáo; sự tôn

trọng tự do và ý thức tôn giáo; sự bình đẳng giữa các tôn giáo khác nhau trên

phương diện pháp lý và trong đời sống xã hội. Nhà nước phải bảo đảm tính trung

lập vì phải tôn trọng niềm tin của công dân. Điều này tạo điều kiện cho thuyết đa

nguyên tôn giáo tồn tại.

Tuy nhiên, Pháp cũng gặp khó khăn khi theo đuổi mô hình thể chế thế tục

28

trung lập tuyệt đối: Thứ nhất, nước Pháp là một nước Công giáo, nhưng lại theo đuổi

mô hình nhà nước thế tục, vì thế sẽ bị hạn chế trong quyền lực chính trị xã hội và

trong lĩnh vực văn hóa tinh thần của xã hội. Điều này dẫn đến vị trí của Công giáo

cũng bị suy giảm. Thứ hai, khi nhà nước không "công nhận" bất cứ tổ chức tôn giáo

nào, các tôn giáo trước Nhà nước đều tự do, bình đẳng ngang nhau. Các tổ chức tôn

giáo phải thực hiện nguyên lý thế tục cho nên khi tới các không gian công cộng sẽ có

sự xung đột lẫn nhau về biểu trưng tôn giáo. Đó cũng chính là một trong những

nguyên do khiến đôi khi những quy định nhằm bảo đảm tính thế tục hay trung lập của

Nhà nước lại cho cảm giác về sự kỳ thị.

1.3.3. Trung Quốc

Ở Châu Á, Trung Quốc là một nước có truyền thống tín ngưỡng, văn hóa lâu

đời. Năm 1949 sau khi nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ra đời, Chính phủ Trung

Quốc đã ấn định và thi hành chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo, xây dựng quan hệ

chính giáo phù hợp với tình hình trong nước. Công dân Trung Quốc có thể tự do lựa

chọn, bày tỏ tín ngưỡng và tỏ rõ tư cách tôn giáo của mình. Địa vị các tôn giáo bình

đẳng, cùng tồn tại hòa bình, chưa xảy ra tranh chấp tôn giáo, giữa công dân theo đạo

và không theo đạo cũng tôn trọng lẫn nhau và cùng hòa mục.

Trong Hiến pháp Nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa thì tự do tín ngưỡng,

tôn giáo là một quyền cơ bản được hưởng của tất cả công dân. Hiến pháp quy định:

"Công dân Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa có quyền tự do tín ngưỡng tôn

giáo" [32, Điều 36]. Hiến chương cũng nói: “Bất cứ cơ quan, đoàn thể xã hội và cá

nhân nào không được cưỡng bức công dân tín ngưỡng tôn giáo và công dân không

tín ngưỡng tôn giáo, không được kỳ thị công dân tín ngưỡng tôn giáo và công dân

không tín ngưỡng tôn giáo” [32]. Một lần nữa “Nhà nước bảo vệ hoạt động tôn giáo

bình thường” và “Không ai có thể sử dụng các tôn giáo tham gia vào các hoạt động

gây rối trật tự công cộng, ảnh hưởng đến sức khỏe của người dân hay can thiệp vào

hệ thống giáo dục của Nhà nước”. Ngoài ra, “Đoàn thể tôn giáo và công việc tôn giáo

không chịu sự chi phối của thế lực bên ngoài”.

Nghị quyết Đại hội lần thứ XVI năm 2002 của Đảng cộng sản Trung Quốc

khẳng định quan điểm đổi mới đối với công tác tôn giáo, trong đó có quan điểm: kiên

29

trì chính sách tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo và tự do không tín ngưỡng, tôn giáo.

Trung Quốc tôn trọng tự do tín ngưỡng tôn giáo của người nước ngoài, người

nước ngoài có thể tham gia các hoạt động tôn giáo, có thể rao giảng đạo theo lời mời

của các cơ quan tôn giáo Trung Quốc tại Trung ương hoặc cấp tỉnh. Người nước

ngoài có thể tổ chức các hoạt động tôn giáo mà có sự tham gia của người nước ngoài

tại các trang web của Chính phủ đã được phê duyệt. Họ có thể tiến hành các nghi lễ

tôn giáo như rửa tội, đám cưới, đám tang và các cuộc cầu nguyện… Tuy nhiên, các

hoạt động tôn giáo trong lãnh thổ Trung Quốc phải tuân thủ các quy định pháp luật

của Trung Quốc.

Pháp luật Trung Quốc quy định 4 nguyên tắc:

(1) Bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo của công dân,

giữ gìn đoàn kết tôn giáo và hài hòa xã hội. (2) Bất cứ tổ chức và cá nhân

nào cũng không được cưỡng chế công dân tin hoặc không tin theo tôn

giáo, không được kỳ thị giữa công dân có tín ngưỡng, tôn giáo với công

dân không có tín ngưỡng, tôn giáo. (3) Nhà nước dựa theo pháp luật bảo

hộ các hoạt động tôn giáo bình thường, duy trì và bảo vệ các đoàn thể tôn

giáo, cơ sở hoạt động của tôn giáo và các quyền lợi hợp pháp của tín đồ

tôn giáo. (4) Bất cứ tôn giáo và cá nhân nào cũng không được lợi dụng tôn

giáo để tiến hành phá hoại trật tự xã hội, gây tổn hại sức khỏe của công

dân, cản trở chế độ giáo dục quốc gia và các hoạt động khác gây ảnh

hưởng đến lợi ích quốc gia.

Như vậy, Trung Quốc là quốc gia quản lý các tổ chức xã hội trong đó có các tổ

chức tôn giáo bằng chính sách, pháp luật của Nhà nước, đồng thời Trung Quốc cũng

bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo bằng chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Về cơ bản, việc bảo vệ quyền công dân về tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Trung Quốc

phù hợp với các nội dung chính của văn bản quốc tế có liên quan và các Công ước

quốc tế như Hiến chương Liên hợp quốc, tuyên ngôn Quốc tế về nhân quyền, Công

ước quốc tế về các quyền Dân sự, chính trị, Tuyên bố của Liên hợp quốc về xóa bỏ

30

mọi hình thức phân biệt đối xử dựa trên tôn giáo và tín ngưỡng.

1.3.4. Một số quốc gia Hồi giáo tiêu biểu

* Ả - rập Xê - út

Ả - rập Xê - út là nước theo chế độ quân chủ tuyệt đối, toàn bộ quyền lực

chính trị đều nằm trong tay Quốc vương và Hoàng gia. Vì là chế độ quân chủ chuyên

chế nên Ả - rập Xê - út không có Hiến pháp và cũng không có Quốc hội. Kinh

Quar’an là Hiến pháp của Nhà nước, đồng thời Luật Shari’a của đạo Islam là đạo luật

chính dùng để điều hành và quản lý đất nước.

Tôn giáo và chính trị ở đây không tách rời nhau. Pháp luật được hình thành theo

Nghị quyết của Hội đồng Bộ trưởng nhưng lại phải được phê chuẩn bởi Nghị định của

Hoàng gia và phải phù hợp với Islam giáo và kinh Quar’an. Quyền xét xử được thực

hiện theo luật Islam giáo. Nhà nước cấp kinh phí xây dựng nhiều thánh đường và

trường tôn giáo. Các đạo luật đều phải tuân thủ theo các quy định của Luật Islam giáo.

Ở Ả - rập Xê – út không có tự do tôn giáo, nếu ai mắc tội xúc phạm giáo lý

quốc gia đều bị Nhà nước hoặc cảnh sát tôn giáo trừng trị. Đây là một trong các quốc

gia Hồi giáo giới hạn quyền tự do tôn giáo đến mức tối đa. Tại đây, các cộng đồng

tôn giáo khác bị cấm sinh hoạt tín ngưỡng tại nơi công cộng, hoạt động của các nhà

thờ Thiên chúa giáo cũng bị đặt ngoài vòng pháp luật, tín đồ Hồi giáo khi cải đạo

sang một tôn giáo khác thì phải đối mặt với nguy cơ án tử hình. Các lực lượng cảnh

sát Hồi giáo tại đây thường xuyên trừng phạt nghiêm khắc hoạt động truyền giáo,

sinh hoạt tín ngưỡng… của các tôn giáo khác và cả những hành vi được coi là “

không phù hợp với văn hóa Hồi giáo” tại nơi công cộng.

* Indonexia

Là quốc gia có đông người theo Hồi giáo nhưng không coi Hồi giáo là Quốc

đạo. Nhà nước Indonexia nhấn mạnh niềm tin vào Thượng đế trong năm nguyên tắc

làm nền tảng chính trị và tư tưởng của nền Cộng hòa là: Thượng đế, nhân đạo, dân

chủ, thống nhất và công bằng.

Hiến pháp Indonexia tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn

giáo. Điều 28E khẳng định: “Mọi người đều được tự do lựa chọn và thực hành tôn

31

giáo theo sự lựa chọn của mình”. Khoản 2, Điều 28E “Mọi người đều có quyền tự do

về đức tin và tự do bày tỏ quan điểm và suy nghĩ theo lương tâm mình”. Điều 29

khẳng định: “Nhà nước phải được dựa trên niềm tin một và chỉ một vào Đức Chúa

Trời. Nhà nước bảo đảm tất cả mọi người được tự do thờ phụng, tùy theo tôn giáo

hay niềm tin của mình”.

Ở Indonexia hầu như không có ai là người không có tín ngưỡng, tôn giáo. Luật

pháp còn quy định hàng năm người lao động được nghỉ làm việc, ngoài những ngày

lễ của dân tộc, còn được nghỉ 5 ngày lễ của các tôn giáo được Nhà nước công nhận. Ở

đây, tôn giáo được hỗ trợ phát triển, Chính phủ hỗ trợ tài chính cho hoạt động của các

tôn giáo, nhất là hỗ trợ cho tín đồ Hồi giáo đi hành hương viếng thánh địa Mếc – ca.

Ngoài việc giúp đỡ, hỗ trợ cho các hoạt động của các tôn giáo, công tác quản lý Nhà

nước ở Indonexia cũng được duy trì mang tính hành chính như đăng ký các tổ chức

tôn giáo, xây dựng nơi thờ tự, thúc đẩy việc nộp thuế, xuất bản kinh sách.

Như vậy, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo có thể phân thành 3 hình

thức: Các quốc gia theo mô hình thế tục; Quốc gia theo chế độ thần quyền; Quốc gia

bảo đảm quyền bằng chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước như

Trung Quốc, Việt Nam, Cu ba. Từ những kinh nghiệm bảo đảm quyền tự do tín

ngưỡng, tôn giáo đó của các nước trên thế giới, Việt Nam có thể tiếp thu và vận dụng

được vào pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo của nước mình như vấn đề xu thế thế tục ,

bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật không phân biệt tôn giáo

của Cộng hòa Pháp; hay như quản lý xã hội trong đó có quản lý tín ngưỡng, tôn giáo

bằng pháp luật. Song như chúng ta đều biết, tín ngưỡng, tôn giáo là vấn đề hết sức

nhạy cảm, do đó việc quản lý của Nhà nước phải mang tính chất mềm dẻo, thuyết

phục để đồng bào tôn giáo, người theo đạo tin và theo chứ không thể áp đặt hay dùng

32

biện pháp cưỡng chế, nghiêm khắc đối với vấn đề đó được.

Chƣơng 2

THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN TỰ DO TÍN NGƢỠNG, TÔN GIÁO

TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM

2.1. Khái quát về tín ngƣỡng, tôn giáo ở Việt Nam

Việt Nam có thể coi là bảo tàng về tôn giáo, tín ngưỡng của thế giới. Ở đây có

đủ từ các tín ngưỡng truyền thống như đồng, cốt, xem bài, xóc thẻ đến các tôn giáo

hiện đại. Có tôn giáo ngoại nhập như Công giáo, Hồi giáo, Tin lành, Phật giáo, Brah'i.

Có tôn giáo nội sinh như Cao đài, Hòa hảo, Tứ ân hiếu nghĩa, Bửu sơn kỳ hương.

Theo số liệu của Ban tôn giáo Chính phủ thì Việt Nam có 14 tôn giáo, 38 tổ chức tôn

giáo, 01 pháp môn tu hành đã được Nhà nước công nhận và cấp đăng ký hoạt động.

Nước ta có hơn 25 triệu tín đồ (chiếm hơn 1/4 dân số), trong đó Phật giáo khoảng 10

triệu người; Công giáo 6,1 triệu; Cao đài 2,4 triệu; Hòa hảo 1,2 triệu; Tin lành 1,5

triệu; Hồi giáo khoảng 100.000 tín đồ. Song hầu hết người Việt Nam đều có tâm linh

tôn giáo, điều đó thể hiện ở việc thờ cúng ông bà tổ tiên, thành hoàng, vua Hùng…

Mặc dù đức tin, giáo lý và sự thờ phụng của đồng bào theo các tôn giáo khác

nhau nhưng đều có điểm tương đồng ở tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước,

truyền thống văn hóa và luôn đồng hành cùng dân tộc cả trong cách mạng giải phóng

dân tộc trước đây cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

2.1.1. Đặc điểm của tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam

- Việt Nam là quốc gia đa tín ngưỡng, đa tôn giáo

Ở Việt Nam tồn tại nhiều hình thức tín ngưỡng, tôn giáo từ sơ khai đến hiện

đại, từ tín ngưỡng, tôn giáo bản địa đến du nhập từ nước ngoài. Bên cạnh những tôn

giáo lớn "ngoại nhập" như Phật giáo, Hồi giáo, Công giáo, Tin lành... ở Việt Nam còn

có các tôn giáo "nội sinh" như Hòa Hảo, Cao Đài… Cùng với những tín ngưỡng bản

địa đã hình thành từ lịch sử ngàn năm của dân tộc như tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên,

các tôn giáo ngoại sinh và nội sinh đã làm phong phú và làm bộ phận không thể thiếu

được trong đời sống tâm linh và tinh thần của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Tính

33

đa dạng tôn giáo trong đời sống tôn giáo và xã hội Việt Nam là đặc trưng cơ bản của

nền văn hóa Việt Nam, nhất là trong giai đoạn hội nhập và phát triển. Cùng với quá

tình hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa sâu sắc mọi mặt của đời sống xã hội, các hình

thức tôn giáo mới cũng du nhập vào trong xã hội, được đón nhận và làm giàu thêm

tính đa dạng tôn giáo ở Việt Nam.

- Tính đan xen, hòa đồng, khoan dung của tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam

Người Việt Nam vốn cởi mở, bao dung chứ không kỳ thị, hẹp hòi, khép kín.

Dù là tín ngưỡng nào, tôn giáo gì, từ đâu đến thì thì cộng đồng người ở đây cũng sẵn

sàng tiếp nhận – miễn là nó không vi phạm đến lợi ích quốc gia và đi ngược lại truyền

thống văn hóa dân tộc. Tính đan xen, hòa đồng của của tín ngưỡng tôn giáo ở Việt

Nam được thể hiện ở những điểm sau: (1) Trên điện thờ của một số tôn giáo có sự

hiện diện của một số vị thần, thánh, tiên, Phật,… của nhiều tôn giáo. Hiện tượng này

thấy rõ ở Phật giáo Đại Thừa và điển hình là đạo Cao Đài; (2) Đối với người Việt

Nam, rất khó xác định tiêu chuẩn tôn giáo cụ thể của họ. Không ít người sẵn sàng

chấp nhận thờ cúng cả thần, thánh, tiên, Phật, lẫn thổ công, hà bá… Họ có thể đều

đặn đến chùa mà vẫn say sưa hầu bóng; có thể vừa chịu đủ những phép bí tích mà vẫn

ham bói toán, tử vi; vừa tham gia các nghi lễ tôn giáo lớn mà vẫn chăm chỉ thờ cúng

tổ tiên, tổ chức hội làng; (3) Ở Việt Nam có nhiều tăng ni, Phật tử thông thạo giáo lý

Phật giáo, đồng thời cũng am hiểu triết thuyết Khổng Mạnh và nghiên cứu cả Đạo

giáo. Thực tế có nhiều nhà Ngo nương thân trong chốn cửa thiền và cũng không ít

tăng ni có tư tưởng yếm thế, tu tiên.

- Mang đậm tính chất dân tộc, thần thánh hóa những người có công với nước,

với gia đình, làng mạc, đặc biệt là đạo thờ Tổ tiên

Lịch sử Việt Nam là lịch sử chống ngoại xâm và chống thiên tai. Con người

Việt Nam vốn có truyền thống yêu nước, trọng đạo lý “uống nước, nhớ nguồn”, “ăn

quả nhớ người trồng cây” nên tín ngưỡng, tôn giáo Việt Nam thấm đợm tinh thần ấy.

Truyền thống ấy được thể hiện trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và được ghi nhận rõ

nét trong hệ thống đền, miếu, lăng, phủ,..ở nước ta. Những người có công với gia

đình, làng xóm, đất nước đều được người Việt Nam tôn vinh, sùng kính. Nhiều vị có

đóng góp trên các lĩnh vực kinh tết, chính trị, văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế đã được

34

hậu thế thờ phụng để ghi tạc công ơn.

- Ở Việt Nam không có tôn giáo nào được coi là quốc đạo

Khác với một số nước phương Tây, ở Việt Nam không có tôn giáo nào giữ vai

trò thống trị suốt chiều dài lịch sử dân tộc, mà vị trí, vai trò của từng tôn giáo gắn liền

với sự hưng thịnh, suy tàn của các triều đại phong kiến trong tiến trình phát triển nhất

định của lịch sử dân tộc. Các tôn giáo đều bình đẳng, hoạt động trong khuôn khổ của

pháp luật. Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng đề ra chủ trương, chính sách tôn giáo

nhằm tạo điều kiện tốt nhất, công bằng nhất cho tất cả các tôn giáo cùng phát triển

phục vụ mục tiêu xây dựng đất nước, xây dựng XHCN ở Việt Nam.

2.1.2. Khái quát về tình hình tín ngưỡng

Việt Nam là quốc gia đa tín ngưỡng, đa tôn giáo. Theo thống kê chưa đầy đủ

thì có khoảng 95% dân số Việt Nam có tín ngưỡng, trong đó tín ngưỡng thờ cúng ông

bà, tổ tiên là phổ biến và chiếm phần lớn. Đây là một loại hình tín ngưỡng cổ truyền

mang tính phổ quát của người Việt Nam và được hình thành, phát triển từ ngàn năm.

Là người Việt Nam thì mọi người đều thờ cúng tổ tiên, thờ cúng ông bà. Tín ngưỡng

này ảnh hưởng từ quan niệm đạo Hiếu của đạo Khổng, quan niệm tin rằng: tổ tiên

mình là thiêng liêng, họ đi vào cõi vĩnh hằng nhưng vẫn sống cạnh con cháu, họ phù

hộ cho con cháu khi gặp tai ách, khó khăn; vui mừng khi con cháu gặp may mắn,

khuyến khích cho con cháu khi gặp điều lành và cũng quở trách con cháu khi làm

những điều tội lỗi. Ngày nay, tín ngưỡng thờ cúng ông bà tổ tiên đã trở thành một

chuẩn mực ứng xử của người Việt Nam và trở thành một đạo lý truyền thống cao đẹp

của dân tộc, thể hiện lòng hiếu thảo của con cháu với ông bà, cha mẹ, tổ tiên.

Gắn liền với lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam là hình thức

tín ngưỡng thờ các Anh hùng dân tộc. Đây là hình thức thờ thần là các vị tướng dũng

cảm, khi còn sống họ có công trạng với dân, với nước như Thánh Gióng, Lý Thường

Kiệt, Trần Hưng Đạo; các bậc danh nhân văn hóa như Chu Văn An, Nguyễn Trãi;

những ông vua tài đức như Lý Công Uẩn, Trần Thái Tông… Tín ngưỡng này luôn

gắn với các lễ hội như: Lễ hội các Vua Hùng, Đức Thánh Gióng, An Dương

Vương… với cả hệ thống đình, đền, miếu, phù thờ các vị này. Ngày nay, số lượng

35

người đến hành hương cúng bái ngày càng tăng như Lễ hội giỗ tổ Hùng Vương

(mùng 10 tháng 3). Lễ hội Gióng đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi

vật thể đại diện của nhân loại vào tháng 11 năm 2010.

Tín ngưỡng còn là niềm tin của một cộng đồng người vào sự che chở, phù trợ

của một vị thần linh trấn giữ, hộ mệnh cho một làng, một vùng hoặc cho một khu

vực, đó là tín ngưỡng thờ Thành hoàng. Thành hoàng ngự trị ở ngôi đình của làng,

xóm, là chỗ dựa tinh thần và là biểu tượng của sức mạnh cộng đồng. Gắn liền với

hình thức tín ngưỡng này là hệ thống lễ hội ở các đình, đền trên phạm vi toàn quốc.

Tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam là một tín ngưỡng bản địa cùng với những ảnh

hưởng ngoại lai từ Đạo giáo, tín ngưỡng lấy việc tôn thờ Mẫu (Mẹ) làm thần tượng

với các quyền năng sinh sôi, bảo trữ và che chở cho con người. Tín ngưỡng này tôn

thờ, thánh hóa vai trò của người phụ nữ trong xã hội Việt Nam, thể hiện sự ghi nhận

công ơn của giới nữ và để tri ân, đối với công sinh thành, dưỡng dục của người Mẹ.

Là nơi mà ở đó người phụ nữ Việt Nam đã gửi gắm những ước vọng giải thoát của

mình khỏi những thành kiến, ràng buộc của xã hội Nho giáo phong kiến.

Ngoài những hình thức tín ngưỡng dân gian tiêu biểu trên, ở nước ta còn có

nhiều loại tín ngưỡng dân gian khác như: Tín ngưỡng phồn thực, thờ thần tạo dựng

giống nòi… Tín ngưỡng hồn lúa và các nghi lễ nông nghiệp trong các dân tộc thiểu

số như Tày, Mường, Thái; tín ngưỡng thờ cúng thổ thần, thần bảo trợ bản Mường,

buôn làng của người Tày, Nùng.

2.1.3. Khái quát về tình hình tôn giáo ở Việt Nam

Tôn giáo là hình thái ý thức xã hội, ra đời và phát triển hàng ngàn năm nay.

Trong quá trình tồn tại và phát triển, dù chủ ý hay tự nhiên, tôn giáo đã tác động khá

sâu sắc và toàn diện đến đời sống xã hội, từ thiết chế chính trị đến pháp luật; từ văn

hóa, xã hội đến tâm lý, đạo đức, lối sống; từ các quan điểm triết học nhận định thế

giới đến những ứng xử xã hội; từ các dạng thức nghệ thuật đến phong tục, tập quán

của nhiều quốc gia, dân tộc. Ở nước ta, tôn giáo là vấn đề lớn liên quan đến chính

sách luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm, tạo điều kiện.

Đồng bào các tôn giáo ở Việt Nam đều có tinh thần yêu nước bởi trước khi là

36

tín đồ các tôn giáo họ đã là người Việt Nam mang trong mình dòng máu Lạc Hồng.

Gắn bó với cuộc đấu tranh xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam, những đường

hướng tốt lành của các tôn giáo như “Sống phúc âm trong lòng dân tộc” của Công

giáo, “Đạo pháp – dân tộc – Chủ nghĩa xã hội” của Phật Giáo, “Nước vinh, đạo sáng”

của Cao Đài, “Sống phúc âm phụng sự thiên chúa, phục vụ Tổ quốc và dân tộc” của

Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc) … là kết quả nhận thức và hành động thực

tiễn lâu dài của các tôn giáo ở Việt Nam. Hơn nữa, chỉ có gắn bó với dân tộc, văn hóa

Việt Nam, các tôn giáo mới có cơ hội tồn tại và phát triển. Tuy nhiên, cũng có một số

vụ việc về tôn giáo gây bức xúc cho khối đại đoàn kết toàn dân như vụ Tòa khâm sứ

42 nhà Chung.

Một xu thế của các tôn giáo hiện nay là có tính “thế tục” nhiều hơn khi chủ

trương nhập thể, đi với người nghèo, đẩy mạnh hoạt động xã hội nhưng cũng rất dễ bị

thương mại hóa, vận động quyên cúng quá nhiều, phát hành nhiều “bằng ghi công

đức”… Chùa chiền, nhà thờ bây giờ xây dựng to, màu sắc xanh đỏ, tô vàng, dát bạc

nhưng ít tính nghệ thuật, nhất là ít mang bản sắc văn hóa dân tộc.

Dưới đây là tình hình hoạt động của một số tôn giáo chính ở Việt Nam.

2.1.2.1. Đạo Phật

Phật giáo xuất phát từ Ấn Độ do Đức Phật Thích Ca sáng lập. Từ khi du nhập

vào Việt Nam đến nay, Phật giáo đã trải qua bao thăng trầm, lúc thịnh lúc suy, có lúc

thống nhất, lúc phân tán, do nhiều nguyên nhân khác nhau, từ đây Phật giáo Việt

Nam đã được thống nhất từ Bắc tới Nam. Trong số các tôn giáo ở Việt Nam, Phật

giáo có số lượng tín đồ đông đảo nhất. Dân số Việt Nam có tới 80-90% mang thiên

hướng Phật giáo. Ngày nay, Phật giáo đã trở thành tôn giáo phổ biến nhất tại Việt

Nam, chiếm đa số hầu hết các tỉnh của Việt Nam.

Giáo hội Phật giáo Việt Nam là một tổ chức duy nhất đại diện cho Phật giáo

Việt Nam trong và ngoài nước về mặt pháp lý và được Nhà nước CHXHCNVN nhìn

nhận bằng một hiến chương, hoạt động trên phạm vi cả nước, hoạt động dựa trên

đường hướng “Đạo pháp – dân tộc – chủ nghĩa xã hội”.

Tính đến cuối năm 2011, số người theo đạo Phật có trên 10 triệu phật tử quy y

37

Tam Bảo, chiếm hơn 12% dân số cả nước. Trong đó có 46.495 tăng ni, 14.778 ngôi

chùa (trong đó Phật giáo Nam tông Khơ – me có 1,3 triệu tín đồ, 8.574 tăng ni, 454

ngôi chùa); có 04 Học viện Phật giáo, 08 lớp Cao đẳng, 30 trường Trung cấp Phật học

và hàng trăm lớp Phật học tại các chùa. Có các tờ báo và tạp chí lớn như: Tuần báo

Giác Ngộ, Tạp chí Nghiên cứu Phật học, Tạp chí Khuông Việt, Phật giáo Nguyên

thủy. Phật giáo Việt Nam cũng có quan hệ với nhiều tổ chức Phật giáo ở các nước

trong khu vực và trên thế giới.

Với truyền thống gắn đạo với đời, đạo pháp dân tộc, Phật giáo đã tham gia vào

nhiều hoạt động xã hội như: Cứu giúp người nghèo, người cô đơn cơ nhỡ, nuôi dạy

trẻ mồ côi… Phật giáo Việt Nam ngày càng khởi sắc không chỉ ở số lượng và quy mô

các lễ hội, ở việc xây dựng, tu bổ, tôn tạo cơ sở thờ tự mà còn ở việc nâng cao sự

nhận thức về Phật học và thê học cho các tăng ni, ở việc tổ chức các hội thảo về Phật

giáo trong lịch sử và hiện tại. Sự phát triển lớn mạnh của Phật giáo Việt Nam hiện

nay đã vượt ra ngoài phạm vi quốc gia và được thể hiện bằng việc Phật giáo ở Việt

Nam được các tăng sĩ truyền bá tới nhiều nước trên thế giới, do vậy vai trò và vị thế

của Phật giáo không ngừng được củng cố, nâng cao.

2.1.2.2. Công giáo

Công giáo ra đời vào Thế kỷ thứ nhất sau công nguyên, đến nay đã trở thành

một tôn giáo lớn trên thế giới, với khoảng 1,2 tỷ người ở khắp các châu lục và ảnh

hưởng đến nhiều lĩnh vực trong đời sống chính trị, xã hội các nước.

Công giáo có mặt ở Việt Nam từ năm 1533, có số lượng tín đồ lớn thứ hai ở

Việt Nam (sau Phật giáo), có tổ chức chặt chẽ với hơn 6 triệu tín đồ, 47 Giám mục,

hơn 3.500 linh mục, hơn 3.000 giáo xứ, khoảng 9.000 giáo họ, hơn 100 dòng tu, tu

hội, tu đoàn với trên 15.000 tu sĩ nam, nữ sinh hoạt trong 26 giáo phận thuộc 3 giáo

tỉnh là: giáo tỉnh Hà Nội có 10 giáo phận; giáo tỉnh Huế gồm 06 giáo phận; giáo tỉnh

TP. Hồ Chí Minh gồ 10 giáo phận. Đứng đầu 03 giáo tỉnh là 03 Tổng giám mục và

đứng đầu các giáo phận là các giám mục. Các giám mục làm việc chung trong một tổ

chức là Hội đồng Giám mục Việt Nam. Hội đồng Giám mục Việt Nam là một tổ chức

có tư cách pháp nhân, được thành lập năm 1980, trụ sở tại Tòa Giám mục Hà Nội, số

38

40 phố Nhà Chung, thành phố Hà Nội. Theo quy chế, Hội đồng Giám mục Việt Nam

3 năm đại hội 1 lần và hàng năm có hội nghị thường niên. Đại hội lần thứ nhất vào

năm 1980 và đến năm 2010 là đại hội lần thứ XI. Giúp việc cho Hội đồng Giám mục

có 17 Ủy ban Giám mục đặc trách các vấn đề của Giáo hội.

Từ một tôn giáo ban đầu hoàn toàn xa lạ với xã hội Việt Nam, đến nay đạo

Công giáo đã phát triển và trở thành tôn giáo lớn ở Việt Nam, với nhiều hoạt động đa

dạng và có ảnh hưởng trong đời sống văn hóa – xã hội Việt Nam.

2.1.2.3. Đạo Tin lành

So với các tôn giáo có nguồn gốc từ bên ngoài ở Việt Nam thì đạo Tin lành

truyền vào muộn hơn cả. Đạo Tin lành đến Việt Nam từ cuối Thế kỷ XIX đầu Thế kỷ

XX. Đạo Tin lành vào Việt Nam chủ yếu qua các hệ phái ở Mỹ. Trải bao thăng trầm,

đến nay đạo Tin lành đã trở thành một tôn giáo lớn có ảnh hưởng quan trọng đến đời

sống văn hóa, xã hội của đất nước.

Đạo Tin lành có nhiều xu hướng hoạt động rất khác nhau. Các giáo phái có tổ

chức độc lập, có sắc thái riêng, mặc dù cùng lấy cơ sở đức tin chung là Kinh thánh,

lòng tin và ân điển của Chúa, nhưng lại hiểu khác nhau. Đạo khuyên dạy con người

sống có lương tâm, ngăn cản làm những điều tội lỗi.

Xét về số lượng và phạm vi, cho dù chưa có số liệu thống kê chính xác từ phía

tôn giáo và cơ quan nhà nước, nhưng đều đưa đến nhận diện ban đầu về đạo Tin lành

ở Việt Nam từ năm 1975 đến nay thì số lượng tín đồ tăng lên gấp 06 lần. Đến nay đã

có 50 tổ chức, hệ phái Tin lành và có mặt ở tất cả các địa phương trong cả nước (trừ

Ninh Bình và Quảng Bình).

Người theo đạo Tin lành rất đa dạng, ở hầu hết các tầng lớp cư dân khác, trong

đó đa số là đồng bào dân tộc thiểu số ở khu vực Tây Nguyên và Tây Bắc. Đa số đồng

bào ở hai khu vực này đều thờ đa thần và giữ phong tục tập quán truyền thống. Lối

sống, văn hóa, phong tục tập quán đều gắn với tín ngưỡng, tôn giáo nên khi theo đạo

Tin lành, đồng bào dân tộc thiểu số đã từ bỏ nhiều phong tục, tập quán truyền thống.

Họ không chỉ gỡ bỏ mà còn đập phá bàn thờ ông bà tổ tiên, hủy bỏ chiêng, ché…

Những hành động phủ nhận mang tính sạch trơn như trên đã dẫn tới xung đột văn

39

hóa, ảnh hưởng tiêu cực đến xã hội.

Những năm gần đây, lối sống văn hóa tích cực của đạo Tin lành ngày càng

được phát huy, cùng với việc Nhà nước bình thường hóa hoạt động của đạo Tin lành

theo quy định của pháp luật, các tổ chức Tin lành đều xác định cho mình đường

hướng hoạt động tiến bộ, tuân thủ pháp luật và gắn bó với dân tộc. Hội thánh Tin lành

Việt Nam (miền Bắc), Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam) đều có đường

hướng “Sống phúc âm, phụng sự Thiên Chúa, phục vụ Tổ quốc và Dân tộc”….

2.1.2.4. Hồi giáo

Hồi giáo ra đời ở bán đảo Ả rập vào đầu thế kỷ VII Sau Công Nguyên. Hồi

giáo là tôn giáo có tín đồ đông nhất thế giới (trên 1,3 tỷ tín đồ), có mặt ở hơn 100

quốc gia trên tất cả các châu lục. Hồi giáo truyền vào khu vực Đông Nam Á khá sớm,

khoảng thế kỷ XI, XII.

Ở Việt Nam chỉ có người Chăm theo Hồi giáo. Vì vậy, Hồi giáo gắn bó với dân

tộc Chăm, mà cư dân Chăm là một dân tộc có nền văn hóa đa dạng và phong phú; có

truyền thống yêu nước, gắn kết với dân tộc và cách mạng, đã có nhiều đóng góp trong

các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Là một dân tộc trong cộng đồng các dân tộc

Việt Nam, đồng bào Chăm Hồi giáo luôn phát huy bản sắc văn hóa và truyền thống đoàn

kết, yêu nước gắn bó với cộng đồng các dân tộc trong các cuộc kháng chiến chống kẻ thù

xâm lược, giành độc lập dân tộc. Hơn nữa, từ khi có Đảng, đồng bào Chăm Hồi giáo

luôn đi theo và tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, chấp hành nghiêm chỉnh đường lối,

chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước; làm tốt nghĩa vụ công dân, ủng hộ sự

nghiệp đổi mới do Đảng đề xướng và lãnh đạo, góp phần viết tiếp trang sử vẻ vang của

dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

2.1.2.5. Đạo Cao đài

Đạo Cao đài hay Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ khai sáng tại Việt Nam vào đầu thế

kỷ XX. Đạo Cao Đài thờ Thiên Nhãn – Mắt trời – là một mắt trái mở sáng, tượng

trưng Đấng Chí Tôn vô hình, là Cha chung vạn loại. Đấng Chí Tôn chỉ có “Một”, nên

biểu tượng Mắt Trời cũng chỉ là Một. Một còn diễn tả cái nhìn nhất quán, nhất lý.

Khi mới thành lập, đạo Cao Đài là một tổ chức tôn giáo thống nhất có Tòa

thánh ở Tây Ninh và xây dựng được hệ thống tổ chức Giáo hội hoàn chỉnh từ Trung

40

Ương tới địa phương. Tôn chỉ của đạo Cao đài là “Tam quy nguyên, Ngũ chi hiệp

nhất”, lấy sự thương yêu làm nền tảng, lấy nhân nghĩa làm phương châm hành đạo,

lấy việc phụng sự chúng sinh làm hành động, lấy sự cứu rỗi các chơn linh làm cứu

cánh, phấn đấu xây dựng một xã hội đạo đức, an lạc bằng tinh thần yêu thương đồng

đạo. Giáo lý của đạo Cao đài đề cao tính thiêng liêng, sự huyền diệu của cơ bút. Luật

lệ của đạo Cao đài thực hiện theo Tân luật, Pháp Chánh truyền. Lễ nghi của đạo Cao

đài khá cầu kỳ thể hiện tinh thần Tam giáo đồng nguyên. Cơ sở thờ tự có Tòa thánh ở

Trung ương giáo hội và thánh thất ở Họ đạo cơ sở.

Theo thống kê năm 2009 của các tổ chức Cao đài, đến nay đạo Cao đài có trên

1 vạn chức sắc, gần 03 vạn chức việc, khoảng 2,4 triệu tín đồ, với 958 tổ chức Họ đạo

cơ sở được công nhận ở 35/38 tỉnh, thành phố có đạo Cao đài, thành lập 65 Ban Đại

diện, 1.290 cơ sở thờ tự.

Trong hai cuộc kháng chiến cứu nước, đông đảo chức sắc, tín đồ đạo Cao đài

đã tích cực tham gia đóng góp sức người, sức của vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng

dân tộc, thống nhất đất nước. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay,

đồng bào đạo Cao đài đang cùng toàn dân tham gia vào công cuộc đổi mới, góp phần

xây dựng đất nước.

2.1.2.6. Phật giáo Hòa hảo

So với các tôn giáo truyền thống lâu đời, Phật giáo Hòa Hảo là một tôn giáo

mới ở Việt Nam. Phật giáo Hòa Hảo được sáng lập bởi Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ, quê

tỉnh An Giang.

Tên của đạo cũng nói lên tôn chỉ, mục đích là hướng đến sự hòa thuận tốt

đẹp. Nền tảng của triết lý Phật giáo Hòa Hảo là từ bi, bác ái, đại đồng và luật nhân

quả của nhà Phật. Phật giáo Hòa Hảo bài trừ những điều mê tín, dị đoan. Phật giáo

Hòa Hảo không thờ hình tượng nhưng đề cao thuyết “Phật tại tâm” nên phương thức

hành đạo giản dị.

Tuy là một tôn giáo mới những Phật giáo Hòa Hảo đã tập hợp được nhiều tín

đồ miền Tây Nam Bộ. Hiện nay, Phật giáo Hòa Hảo có một Ban Đại diện được Nhà

nước công nhận tư cách pháp nhân; đã tổ chức một đại hội để ban hành Quy chế hoạt

41

động. Giáo hội hiện có khoảng hơn 1 triệu người. Tín đồ Phật giáo Hòa Hảo sống

đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau, nhiều người nêu gương chay tịnh và tích cực tham gia

những hoạt động xã hội.

Ngoài những tôn giáo lớn kể trên còn có một số tôn giáo nội sinh khác như

ở Việt Nam như Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Tịnh Độ Cư Sĩ Phật hội

Việt Nam…

Nhìn chung, các tôn giáo ở Việt Nam dù khác nhau về nguồn gốc, giáo lý

nhưng lại không thuần nhất mà đan xen, vay mượn nghi lễ của nhau. Đạo tổ tiên vừa

cúng khấn như đạo Lão nhưng chọn ngày rằm, mùng 1 như đạo Phật. Trên bàn thờ

của đạo Cao đài có thờ đủ từ Khổng Tử, Lão Tử, Đức Phật, Chúa Giê su và Khương

Tử Nha. Đạo Công giáo bây giờ cũng thắp hương trước ảnh người quá cố và ghi điều

khấn nguyện ra giấy rồi đốt đi trước bàn thờ Đức Mẹ. Nhiều nữ giáo dân lấy quan

thày là Maria, Phật giáo cũng thế. Phật Bà Quan Âm được dựng tượng nhiều hơn và

sùng bái hơn ở các chùa chiền. Tín đồ tôn giáo này nhưng cũng tham gia nhiều sinh

hoạt của tôn giáo khác. Ví dụ người công giáo vẫn thắp hương ngày rằm, mùng 1 và

đi xem bói. Một số tín đồ phật tử vẫn đến xin khấn ở các nhà thờ Công giáo.

2.2. Bảo đảm quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo trong pháp luật Việt Nam

Việt Nam là quốc gia đa tôn giáo và đa dân tộc, giáo hội các tôn giáo khi được

Nhà nước công nhận tư cách pháp nhân đều được chính quyền các cấp quan tâm và

tạo thuận lợi để hoạt động tôn giáo bình thường trong khuôn khổ luật pháp.

Trên thực tế, mọi tôn giáo ở Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật, được

pháp luật bảo vệ, được tự do hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và Pháp luật.

Tuyệt nhiên không một tôn giáo nào hoạt động đúng pháp luật mà bị chính quyền

ngăn cấm. Chức sắc, các tín đồ luôn gắn bó với quốc gia, dân tộc theo phương châm

"Đạo pháp dân tộc và CNXH", thực hiện "Sống phúc âm trong lòng dân tộc".

2.2.1. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong Hiến pháp Việt Nam

Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được ghi nhận không chỉ trong pháp luật quốc

tế về quyền con người, trong pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới mà còn cả trong

pháp luật Việt Nam từ Hiến pháp, Luật, Nghị định và các văn bản hướng dẫn.

Điều 10 Hiến pháp năm 1946 ghi rõ: “Công dân Việt Nam có quyền tự do tín

42

ngưỡng” [40, tr.238]. Trên cơ sở quy định của Hiến pháp, Quốc hội Việt Nam đã xây

dựng những quy định cụ thể trong nhiều Luật để bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng

trong thực tế. Có thể nói, những quy định về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của

Việt Nam thể hiện rõ chế độ xã hội ta là một trong những chế độ xã hội tiến bộ so với

nhiều nhà nước khác trên thế giới. Hiến pháp 1946 càng cho thấy giá trị thời đại khi

hai năm sau (1948), trong Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền, quyền tự do tín

ngưỡng, tôn giáo được ghi nhận tại Điều 18 một cách cụ thể hơn: “Mọi người đều có

quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo, kể cả tự do thay đổi tín ngưỡng hoặc

tôn giáo của mình, và tự do bày tỏ tín ngưỡng hay tôn giáo của mình bằng các hình

thức như truyền giảng, thực hành, thờ cúng và tuân thủ các nghi lễ, dưới hình thức cá

nhân hay tập thể, tại nơi công cộng hoặc nơi riêng tư”.

Hiến pháp năm 1959 tiếp tục khẳng định về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo:

“Công dân Việt Nam dân chủ Cộng hòa có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không

theo một tôn giáo nào” [40, Điều 26]. Trong Hiến pháp này, quyền tự do tín ngưỡng

đã được mở rộng “theo hoặc không theo một tôn giáo nào”. Điều này cho thấy tự do

tín ngưỡng không chỉ là quyền theo tôn giáo mà còn có cả quyền không theo một tôn

giáo nào. Thực tế cho thấy bên cạnh những người theo tôn giáo, vẫn có không ít

những người không theo tôn giáo nào. Quy định như vậy một mặt là sự mở rộng hơn,

làm sâu sắc thêm quyền đó, một mặt là cơ sở pháp lý nhằm bảo vệ quyền của những

người không có đạo, phòng ngừa trường hợp có những người ép buộc người khác

phải theo một tôn giáo nào đó. Điều này cũng tạo ra sự bình đẳng, đoàn kết giữa

người có đạo với người không có tín ngưỡng trong khối đại đoàn kết dân tộc.

Kế thừa và phát triển Hiến pháp năm 1946, 1959, Hiến pháp năm 1980 quy

định: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo

nào; không ai được lợi dụng tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà

nước” [40, Điều 68]. Qua đó cho thấy, quyền tự do tín ngưỡng tiếp tục được khẳng

định, tuy nghiên có sự quy định rõ ràng hơn: “Không ai được lợi dụng tôn giáo để

làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước”. Điều này có ý nghĩa to lớn như:

quyền tự do tín ngưỡng bao gồm cả nội dung phòng ngừa hành vi lợi dụng quyền này

43

để chống phá cách mạng; quy định này cũng giới hạn phạm vi hoạt động là trong

khuôn khổ pháp luật, chính sách của Nhà nước để tuyên truyền mê tín, dị đoan cũng

như các thủ tục lạc hậu nhằm mưu cầu cá nhân phá hoại thành quả cách mạng.

Hiến pháp 1992 và 1992 sửa đổi cũng quy định một số điểm mới về quyền tự

do tín ngưỡng, tôn giáo như:

Một là, khái niệm tín ngưỡng được đặt độc lập, bên cạnh khái niệm tôn giáo.

Như vậy, sự phân biệt hai hiện tượng tín ngưỡng và tôn giáo đã rõ ràng hơn. Đây có

thể xem là một bước tiến của nhận thức về các hiện tượng tiêu biểu thuộc đời sống

tâm linh ở nước ta. Hiện tượng tín ngưỡng gồm: thờ cúng ông bà, cha mẹ, tổ tiên…

khác với hoạt động tôn giáo. Thực tế, hoạt động tín ngưỡng rất phong phú, mang tính

truyền thống, phong tục… nó có cả mặt tích cực và tiêu cực. Do vậy, việc bổ sung,

làm rõ hiện tượng tín ngưỡng bên cạnh hiện tượng tôn giáo như Hiến pháp 1992 đã

đề cập là cần thiết, nó không chỉ mở rộng quyền công dân mà còn thể hiện tính công

bằng đối với xã hội từ phương diện chuẩn mực pháp lý.

Hai là, Hiến pháp 1992 đề cập đến sự bình đẳng trước pháp luật của các tôn

giáo, qua đó phản ánh khá rõ nét về tính dân chủ của xã hội nước ta. Việt Nam có

nhiều tôn giáo khác nhau, tồn tại đan xen. Song, về nguyên tắc, tất cả đều phải bình

đẳng trong mối quan hệ với Nhà nước. Hơn thế, quy định về sự bình đẳng trước pháp

luật của các tôn giáo ở nước ta trong Hiến pháp 1992 còn là một yếu tố góp phần bảo

đảm sự đoàn kết giữa các đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, góp phần vào sự

nghiệp đoàn kết chung của dân tộc. Quy định nghiêm cấm việc lợi dụng quyền tự do

tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm đến lợi ích của Nhà nước, của nhân dân là phù hợp

với luật pháp quốc tế. Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948 cho rằng, quyền

tự do tín ngưỡng, tôn giáo không phải là quyền tuyệt đối, tự do vô nguyên tắc. Tại

Điều 29 của Tuyên ngôn nêu rõ: Khi hưởng thụ các quyền và tự do của mình, mọi

người chỉ phải tuân thủ những hạn chế do luật định, nhằm mục đích bảo đảm sự công

nhận và tôn trọng thích đáng về đạo đức, trật tự công cộng và phúc lợi chung trong

một xã hội dân chủ. Trong mọi trường hợp, việc thực hiện các quyền tự do này cũng

không được trái với các mục tiêu và nguyên tắc của Liên hợp quốc.

44

Ba là, Hiến pháp 1992 còn quy định “những cơ sở thờ tự của tín ngưỡng, tôn

giáo được pháp luật bảo hộ” [40, Điều 70]. Quy định này thể hiện chính sách trách

nhiệm cụ thể của Nhà nước Việt Nam đối với việc bảo đảm quyền của các tôn giáo

trong cuộc sống.

Bốn là, Hiến pháp 1992 không chỉ dừng lại ở việc quy định: “Không ai được

lợi dụng tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, mà còn quy

định: “không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo” [40, Điều 70]. Đây là

một quy định thể hiện trách nhiệm tôn trọng quyền này đối với mọi người. Quy định

này thể hiện một cách nhìn nhận thực tế trong đời sống xã hội. Bởi vì, quyền tự do tín

ngưỡng tôn giáo chỉ được bảo đảm khi mọi người trong xã hội, dù có hay không có

tín ngưỡng tôn giáo đều không được làm phương hại đến nó. Trong Điều 25 của Dự

thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được đề cập đó là:

(1). Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc

không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. (2).

Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Nơi thờ

tự của tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ. (3). Không ai được xâm

phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi

phạm pháp luật [40].

Về cơ bản thì quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân trong Điều 25

của Dự thảo Hiến pháp 1992 đã được kế thừa và phát triển từ Điều 70 của Hiến pháp

1992. Trong dự thảo này, Hiến pháp đã ghi nhận “Nhà nước tôn trọng và bảo đảm

quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo”. Điều này cho thấy thái độ cũng như chính sách

dân chủ của Nhà nước ta đối với quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Coi đó là một nhu

cầu và là một quyền tất yếu của người dân cần phải được tôn trọng, bảo vệ và tạo

điều kiện để họ thực hiện tốt nhất quyền đó. Điều này quy định cũng có những tiến bộ

hơn so với các bản Hiến pháp trước đó khi đã có sự ghi nhận: “Mọi người có quyền

tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào”. Ở đây, bản

chất vấn đề đã có sự thay đổi căn bản với việc ghi nhận là “Mọi người” chứ không

phải là “công dân”, điều đó thể hiện chính xác quyền con người đối với vấn đề tín

45

ngưỡng, tôn giáo. “Công dân” là thể hiện mối quan hệ giữa người dân với Nhà

nước, với thể chế chính trị, việc ghi nhận “mọi người” sẽ bao trùm rộng hơn so với

“công dân” vì trong thực tế không phải ai cũng có quyền công dân. Ví dụ, một

người tù, mặc dù đã mất quyền công dân nhưng vẫn có quyền tự do thờ phụng, thực

hành tôn giáo của mình… Việc ghi nhận “mọi người” có quyền tự do tín ngưỡng,

tôn giáo có ý nghĩa to lớn trong sự nghiệp đại đoàn kết dân tộc và trong quá trình

xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Đến Hiến pháp 2013 đã kế thừa và sửa đổi, bổ sung quy định của Hiến pháp

1992 về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo như Điều 24:

(1) Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc

không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. (2)

Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. (3) Không

ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng,

tôn giáo để vi phạm pháp luật [40, tr.20].

Như vậy, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những quyền cơ bản

của con người. Đảng và Nhà nước ta đã không ngừng hoàn thiện chủ chương, cơ chế,

chính sách, pháp luật về tôn giáo, tạo điều kiện tốt nhất cho nhân dân thực hành quyền

tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mình. Hiến pháp là văn bản có giá trị pháp lý cao nhất

qua những lần sửa đổi đều đề cập đến vấn đề quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo

hướng ngày càng hoàn thiện, dân chủ, tôn trọng, tạo điều kiện tốt nhất cho giáo dân và

tổ chức tôn giáo phát triển một cách lành mạnh và công bằng nhất. Thực hiện tốt quyền

tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân có ý nghĩa rất lớn trong việc thực hiện sự

nghiệp đại đoàn kết dân tộc vì mục tiêu chung là phát triển và bảo vệ Tổ quốc.

2.2.2. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong các văn bản Luật, Nghị định

Để thể chế hóa quy định của Hiến pháp về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của

công dân và xuất phát từ nhu cầu hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân trong

thời kỳ đổi mới cũng như yêu cầu thực hiện công tác quản lý nhà nước về tín ngưỡng,

tôn giáo bảo đảm quán triệt các nguyên tắc, quy định của Hiến pháp năm 1992, Ủy ban

Thường vụ Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI đã ban hành

46

Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo (thông qua ngày 18/6/2004 và có hiệu lực kể từ ngày

15/11/2004). Để hướng dẫn thi hành Pháp lệnh, Chính phủ đã ban hành Nghị định số

22/2005/NĐ –CP ngày 01/03/2005 hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh và

Nghị định số 92/2012/NĐ- CP ngày 08/11/2012 thay thế nghị định số 22/ NĐ- CP. Đây

là những văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh trực tiếp hoạt động tín ngưỡng, tôn

giáo ở Việt Nam hiện nay cũng như quy định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của Chính

phủ trong việc tổ chức thực hiện các chính sách tôn giáo.

Nội dung của Pháp lệnh đã quán triệt, thể chế hóa những quan điểm, chủ

trương, chính sách tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà nước; kế thừa, phát triển

những quy định phù hợp, mang tính khả thi của các văn bản về tín ngưỡng, tôn giáo

được ban hành trước đó cũng như khắc phục những hạn chế, bất cập của các quy

định; bảo đảm tính tương thích với luật pháp quốc tế điều chỉnh về quyền con người

trong đó có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo mà đặc biệt là những Điều ước quốc tế

mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập.

- Điều 1, Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo khẳng định:

Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không

theo một tôn giáo nào. Nhà nước bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn

giáo của công dân. Không ai được xâm phạm quyền tự do ấy. Các tôn giáo

đều bình đẳng trước pháp luật. Công dân có tín ngưỡng, tôn giáo hoặc

không có tín ngưỡng, tôn giáo cũng như công dân có tín ngưỡng, tôn giáo

khác nhau phải tôn trọng lẫn nhau [43]. Không được phân biệt đối xử vì lý

do tín ngưỡng, tôn giáo; vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của

công dân [43].

Điều này tương thích với Điều 18 của UDHR và Điều 18 ICCPR, tuy nhiên,

đối tượng tại Điều 1 Pháp lệnh hẹp, phạm vi bị giới hạn bởi hai chữ “công dân”

trong khi đối tượng của Luật quốc tế có phạm vi hẹp “mọi người”. Pháp lệnh cũng

thể hiện chính sách dân chủ, tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công

dân; xác định rõ quyền và nghĩa vụ của các cá nhân, tổ chức tôn giáo, trách nhiệm

của các cơ quan quản lý nhà nước trong việc bảo đảm quyền và nghĩa vụ của các cá

47

nhân, tổ chức trong hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo, tôn trọng và bảo đảm nguyên

tắc những việc nội bộ của các tổ chức tôn giáo tự giải quyết theo hiến chương, điều

lệ của các tôn giáo.

- Để bảo đảm quyền thực hành tín ngưỡng, tôn giáo, Pháp lệnh quy định

“Người có tín ngưỡng, tín đồ được tự do bày tỏ đức tin, thực hành các nghi thức thờ

cúng, cầu nguyện và tham gia các hình thức sinh hoạt, phục vụ lễ hội, lễ nghi tôn

giáo và học tập giáo lý tôn giáo mà mình tin theo” [43, tr.30]. “Chức sắc, nhà tu hành

được thực hiện lễ nghi tôn giáo trong phạm vi phụ trách, được giảng đạo, truyền đạo

tại các cơ sở tôn giáo [43, tr.30-31].

- Việc phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử trong tôn giáo là

một trong những quy định mới có điểm những điểm thay đổi khá cơ bản. Theo quy

định mới của Pháp lệnh, tổ chức tôn giáo thực hiện việc phong chức, phong phẩm, bổ

nhiệm, bầu cử theo Hiến chương, điều lệ của tổ chức mình. Nhà nước chỉ đề ra các

điều kiện về mặt công dân để tổ chức tôn giáo có căn cứ lựa chọn quyết định và được

Nhà nước thừa nhận về mặt kết quả (Điều 22).

- Pháp lệnh cũng quy định khá thông thoáng trong việc thuyên chuyển nơi hoạt

động tôn giáo của chức sắc, nhà tu hành. Theo đó, khi thuyên chuyển nơi hoạt động

tôn giáo của chức sắc, nhà tu hành thì tổ chức tôn giáo có trách nhiệm thông báo với

UBND cấp huyện nơi đi và đăng ký với UBND cấp huyện nơi đến. Đối với những

trường hợp vi phạm pháp luật về tôn giáo mà đã bị Chủ tịch UBND cấp tỉnh xử lý

hình sự thì khi thuyên chuyển phải được sự chấp thuận của UBND cấp tỉnh nơi đến.

Với những quy định này đã tạo điều kiện cho chức sắc, nhà tu hành được thuyên

chuyển địa bàn hoạt động một cách dễ dàng hơn.

- Pháp lệnh khẳng định “Người đi tu trên cơ sở tự nguyện, không ai được ép

buộc, cản trở. Người chưa thành niên đi tu phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ

đồng ý. Người phụ trách cơ sở tôn giáo khi nhận người vào tu có trách nhiệm đăng

ký với Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi có cơ sở tôn giáo” (Điều 21).

- Tổ chức tôn giáo được mời tổ chức nước ngoài vào Việt Nam để tiến hành

các hoạt động trao đổi, hợp tác quốc tế có liên quan đến tôn giáo; tham gia các hoạt

48

động tôn giáo ở nước ngoài, tham gia khóa đào tạo tôn giáo ở nước ngoài. Pháp lệnh

và các Nghị định cũng đã quy định cụ thể về sinh hoạt tôn giáo của người nước ngoài.

- Nhà nước bảo tài sản hợp pháp thuộc cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo, tạo điều kiện

trong việc quản lý, sử dụng đất, công trình tín ngưỡng, tôn giáo cũng như việc sửa

chữa, cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới các công trình thuộc cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo.

- Tổ chức tôn giáo được tổ chức quyên góp, nhận tài sản hiến, tặng, cho trên

cơ sở tự nguyện của tổ chức, cá nhân trong nước và tổ chức, cá nhân nước ngoài theo

quy định của pháp luật. Không lợi dụng danh nghĩa cơ sở, tổ chức tôn giáo để quyên

góp, phục vụ lợi ích cá nhân hoặc những mục đích trái pháp luật.

- Việc xuất bản, in, phát hành các loại kinh, sách, báo, tạp chí và các xuất

bản phẩm khác về tín ngưỡng, tôn giáo; kinh doanh, xuất khẩu, nhập khẩu văn hóa

phẩm về tín ngưỡng, tôn giáo, sản xuất đồ dùng phục vụ hoạt động tín ngưỡng, tôn

giáo thực hiện theo quy định của pháp luật về xuất bản, pháp luật về xuất nhập

khẩu văn hóa phẩm không thuộc phạm vi kinh doanh và các quy định khác của

pháp luật có liên quan.

- Tổ chức tôn giáo được khuyến khích, tạo điểu kiện tham gia các hoạt động vì

mục đích từ thiện, nhân đạo.

Để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo của công dân, bảo đảm các

sinh hoạt tôn giáo bình thường được diễn ra trong khuôn khổ pháp luật, Nghị định

92/2012/ NĐ –CP cũng đã quy định về thủ tục đăng ký sinh hoạt tôn giáo: “công dân

có nhu cầu tập trung để thực hành các nghi thức thờ cúng, cầu nguyện, bày tỏ đức tin

về tôn giáo mà mình tin theo thì người đại diện gửi hồ sơ đăng ký sinh hoạt tôn giáo

đến Ủy ban nhân dân cấp xã” [43].

- Nghị định 92/2012/ NĐ –CP quy định các điều kiện để một tổ chức tôn giáo

được công nhận là tổ chức tôn giáo tại Điều 6. Theo đó, với các tổ chức tôn giáo chưa

được công nhận thì Pháp lệnh đã mở hướng thuận lợi bằng việc đăng ký hoạt động

cho tôn giáo đó.

- Đối với việc thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo trực

thuộc thì Nghị định 92/2012/ NĐ -CP cũng quy định về điều kiện, trình tự, thủ tục

49

thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo đó.

- Nghị định 92/ 2012/ NĐ – CP cũng quy định các tổ chức tôn giáo được thành

lập hội đoàn, dòng tu, tu viện và các tổ chức tu hành tập thể khác. Xuất phát từ nhu

cầu hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân trong thời kỳ đổi mới, hội đoàn tôn

giáo được xác định là một hình thức tập hợp tín đồ do tổ chức tôn giáo lập ra nhằm

phục vụ hoạt động tôn giáo. Những hội đoàn do tôn giáo lập ra nhằm phục vụ lễ nghi

như: đội kèn, đội trống, đội con hoa, ca đoàn, đội mai táng, đội nhạc lễ, đội nhi đồng

theo quy định tại Điều 12 của Nghị định 92/ 2012/ NĐ –CP khi hoạt động không phải

đăng ký với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.

- Tổ chức tôn giáo được mở trường đào tạo, mở những lớp chuyên hoạt động

tôn giáo [43, tr.36].

- Chức sắc, nhà tu hành được thực hiện lễ nghi tôn giáo trong phạm vi phụ

trách, được giảng đạo, truyền đạo tại các cơ sở tôn giáo, trường hợp thực hiện lễ nghi

tôn giáo, giảng đạo, truyền đạo ngoài cơ sở tôn giáo có trách nhiệm gửi hồ sơ đến Ủy

ban nhân dân cấp huyện nơi dự kiến giảng đạo, truyền đạo.

Nhƣ vậy, ở Việt Nam mặc dù quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được Nhà

nước tôn trọng, bảo đảm nhưng vẫn còn một số vấn đề sau:

* Giới hạn quyền: Ở Việt Nam, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo không phải

là tuyệt đối, hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo bị định chỉ nếu vi phạm một trong các

trường hợp: xâm phạm an ninh quốc gia, ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự công

cộng hoặc môi trường; xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản

của những người khác hoặc có những hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng khác.

Điều 13, Pháp lệnh cũng quy định: Người đang chấp hành hình phạt tù hoặc đang bị

quản chế theo quy định của pháp luật thì không được chủ trì nghi lễ tôn giáo, truyền

đạo, giảng đạo, quản lý tổ chức của tôn giáo và chủ trì lễ hội tín ngưỡng. Quy định

này không trái với quy định tại Khoản 3, Điều 18 Luật nhân quyền quốc tế về sự

giới hạn quyền.

* Nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt giữa các tín ngưỡng, tôn giáo

cũng được Nhà nước quy định trong các văn bản pháp luật có liên quan

50

- Bộ luật Dân sự 2005 quy định về nguyên tắc bình đằng: “Trong quan hệ dân

sự, các bên đều bình đẳng, không được lấy lý do khác biệt về dân tộc, giới tính, thành

phần xã hội, hoàn cảnh kinh tế, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp

để đối xử không bình đẳng với nhau” [38, Điều 5].

- Bộ luật Tố tụng Dân sự quy định bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố

tụng “Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, trước Tòa án không phân biệt

dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề

nghiệp. Mọi cơ quan, tổ chức đều bình đẳng không phụ thuộc vào hình thức tổ chức,

hình thức sở hữu và những vấn đề khác” [39].

- Bộ luật Hình sự quy định về tội phá hoại chính sách đoàn kết trong đó có

hành vi: “gây chia rẽ người theo tôn giáo với người không theo tôn giáo, chia rẽ các

tín đồ tôn giáo với chính quyền nhân dân, với các tổ chức xã hội”, thì bị phạt tù từ

năm năm đến mười lăm năm (Điều 87).

- Bình đẳng trong Hôn nhân và gia đình:

Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng.

Hôn nhân giữa công dân Việt Nam thuộc các dân tộc, tôn giáo, giữa người

theo tôn giáo với người không theo tôn giáo, giữa công dân Việt Nam với

người nước ngoài được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ (Điều 2). Vợ,

chồng tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhau; không được cưỡng

ép, cản trở nhau theo hoặc không theo một tôn giáo nào (Điều 22) [42].

- Bình đẳng trong lĩnh vực giáo dục:

Mọi công dân không phân biệt dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, nam

nữ, nguồn gốc gia đình, địa vị xã hội, hoàn cảnh kinh tế đều bình đẳng về

cơ hội học tập [41].

- Bình đẳng trong việc tham gia đời sống chính trị:

Công dân nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam không phân

biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn

hóa, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ mười tám tuổi trở lên có quyền ứng

51

cử đại biểu Hội đồng nhân dân theo quy định của pháp luật [37].

Như vậy, về cơ bản quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam được Đảng

và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Nhìn chung đã thể hiện được các nguyên tắc bảo

đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Có thể nói, Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo và

Nghị định 92 là một bước tiến quan trọng về phương diện pháp lý trong việc bảo đảm

quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tạo ra sự thông thoáng cho các hoạt động tín

ngưỡng, hoạt động tôn giáo. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều bất cập xuất phát từ quá trình

thực tiễn hoạt động hiện nay, do vậy sắp tới Luật Tín ngưỡng và tôn giáo sẽ được ban

hành thay thế Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo và cần bổ sung các nội dung cơ bản,

phù hợp với thực tiễn.

2.3. Những thành tựu và hạn chế về bảo đảm quyền tự do tín ngƣỡng, tôn

giáo ở Việt Nam

2.3.1. Thành tựu

Việt Nam là quốc gia có nhiều tôn giáo và có nhiều người tin theo các tôn

giáo. Chính sách đối với tôn giáo là một trong những chính sách quan trọng của Đảng

và Nhà nước. Việt Nam bước vào thời kỳ đổi mới từ giữa những năm 1980, cụ thể là

năm 1986, được đánh dấu bằng nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV. Đến

nay, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn về các mặt kinh tế, văn hóa, xã

hội. Trong quá trình đó, đổi mới về chính sách đối với tôn giáo đã đưa lại những

thành tựu rất quan trọng, làm thay đổi rất căn bản đời sống tôn giáo ở Việt Nam.

Sự chuyển biến trong đời sống tôn giáo ở Việt Nam là kết quả của nhận thức

mới về tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam, trong đó có hai điểm mới so với

trước đây: Một là xác định tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, từ

đó kiên trì chính sách tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của

công dân; hai là nhìn nhận và phát huy những giá trị tích cực về văn hóa và đạo đức

của tôn giáo, khuyến khích các hoạt động tôn giáo tiến bộ vì lợi ích của tổ quốc và

của nhân dân.

Dưới đây là một số thành tựu đạt được trong việc bảo đảm quyền tự do tín

52

ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam.

- Quyền tự do thực hành tôn giáo, tham gia các hoạt động tôn giáo của người

có tín ngưỡng, tôn giáo đặc biệt được tôn trọng và bảo đảm.

Quyền tự do thực hành tôn giáo, tham gia các hoạt động tôn giáo ngày càng

mở rộng và tạo điều kiện cho các tín đồ, chức sắc tham gia. Các ngày lễ, hội lớn của

các tôn giáo được tổ chức hàng năm như Lễ Giáng sinh của đồng bào Công giáo, Lễ

Phật đản của Phật giáo, nhằm đảm bảo đáp ứng đời sống tinh thần của đồng bào các

tôn giáo trên cả nước, không phân biệt giữa người theo tôn giáo này với người theo

tôn giáo khác, người theo tôn giáo và người không theo tôn giáo. Đại lễ Phật đản Liên

hợp quốc Vesak 2014 được tổ chức tại khu du lịch văn hóa tâm linh Bái Đính, Ninh

Bình từ 07-10/5/2014 với sự tham dự của hơn 10.000 người trong đó có gần 2.000 đại

biểu của 95 quốc gia và vùng lãnh thổ có mặt đầy đủ tham dự sự kiện này. Lễ kỷ

niệm 100 năm Tin lành đến Việt Nam (2011) ở Đà Nẵng, Hà Nội, TP.Hồ Chí Minh

thu hút hàng vài chục ngàn lượt tín đồ, chức sắc và khách quốc tế tới tham dự; Hội

đồng Giám mục Việt Nam đăng cai tổ chức Hội nghị toàn thể Liên hội đồng Giám

mục Á châu lần thứ X tại Xuân Lộc và TP.Hồ Chí Minh từ ngày 19-25/11/2012 với

sự tham dự của 122 Giám mục và Đại biểu thuộc Hội đồng giám mục các nước Châu

Á, một số Châu lục và đại diện Tòa thánh Vatican….

Theo ước tính hiện nay, 95% dân số nước ta có đời sống tín ngưỡng, tôn giáo.

Theo thống kê của Bộ văn hóa, Thể thao và Du lịch cả nước hiện nay có gần 8.000 lễ

hội, trong đó có 7.039 lễ hội dân gian, 332 lễ hội lịch sử cách mạng, 544 lễ hội tôn

giáo, 10 lễ hội du nhập từ nước ngoài vào và hơn 40 lễ hội khác.

- Các tổ chức tôn giáo được củng cố và hoạt động bình thường.

Theo thống kê của Ban Tôn giáo Chính phủ thì hiện nay nước ta có 14 tôn

giáo với 38 tổ chức tôn giáo và 01 pháp môn tu học được Nhà nước công nhận và cấp

đăng ký hoạt động. Theo thống kê chưa đầy đủ thì 14 tôn giáo có khoảng 24 triệu tín

đồ (chiếm khoảng 27% dân số cả nước), hơn 83.000 chức sắc, hơn 250.000 chức

việc, 46 cơ sở đào tạo chức sắc tôn giáo, hơn 25 ngàn cơ sở thờ tự. Từ năm 2004 đến

nay, các tổ chức tôn giáo đã thành lập thêm một số cơ sở đào tạo như: Giáo hội Phật

53

giáo thành lập thêm 01 học viện, 02 trường Cao đẳng và 2 trường Trung cấp, nâng

tổng số lên 04 học viện, 08 trường Cao đẳng và 32 trường Trung cấp Phật học. Giáo

hội Công giáo đã thành lập Cơ sở II Đại chủng viện thánh Giuse Hà Nội tại Tòa Giám

mục Bùi Chu và thành lập Đại chủng viện Thánh Giuse Xuân Lộc tại Giáo phận

Xuân Lộc, nâng tổng số lên 07 Đại chủng viện và 01 phân hiệu. Tổng hội Hội thánh

Tin lành Việt Nam (miền Bắc) thành lập Viện thánh kinh thần học tại Hà Nội. Một số

tổ chức tôn giáo khác cũng đang xúc tiến việc thành lập trường đào tạo những người

chuyên hoạt động tôn giáo theo quy định pháp luật [3].

Nhà nước Việt Nam cũng chăm lo đến việc đào tạo các chức sắc tôn giáo để

thúc đẩy tổ chức và hoạt động của các tổ chức tôn giáo, tăng cường việc đáp ứng nhu

cầu ngày càng tăng của tầng lớp nhân dân đối với việc thực hiện quyền tự do tín

ngưỡng, tôn giáo. Việc mở trường và đào tạo chức sắc tôn giáo luôn được Nhà nước

tạo điều kiện thuận lợi. Nếu như năm 1993, phật giáo có 22 trường Cao cấp và trung

cấp Phật học, đến nay đã có 4 Học viện Phật giáo và nhiều trường Cao đẳng, trung

cấp Phật học. Giáo hội Công giáo có 6 Đại chủng viện với 1.085 chủng sinh và 1.712

chủng sinh dự bị. Nhà nước còn tạo điều kiện cho các tu sĩ đi học tập, hội thảo nâng

cao trình độ ở nước ngoài, một số người đã bảo vệ thành công luận văn, luận án thạc

sĩ, tiến sĩ về tôn giáo.

- Các cơ sở thờ tự của tôn giáo được xây dựng, sửa chữa

Theo báo cáo của các tỉnh, thành phố, đến nay đã có khoảng 20.000 cơ sở thờ

tự được sửa chữa, xây dựng mới. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã cấp hàng trăm

ha đất để xây dựng cơ sở thờ tự, trong đó một số trường hợp đáng kể như: giao đất

cho Toà Tổng Giám mục TGP thành phố Hồ Chí Minh xây dựng Trung tâm mục vụ; giao 7.500m2 đất cho Tổng Liên hội Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam) xây

dựng Viện Thánh kinh Thần học; giao 20 ha xây dựng Học viện Phật giáo Việt Nam

tại Thành phố Hồ Chí Minh, 10 ha xây dựng Học viện Phật giáo Việt Nam tại Hà Nội; giao hơn 11.000m2 đất cho Toà Giám mục Buôn Ma Thuột, hơn 9.000m2 đất

cho Toà Giám mục Đà Nẵng, 15 ha đất cho Giáo xứ La Vang, Quảng Trị để mở rộng

54

cơ sở tôn giáo [3].

- Việc phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử, thuyên chuyển

Trong việc quản lý hoạt động tôn giáo, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã

tạo điều kiện để các tổ chức tôn giáo chủ động thực hiện theo quy định pháp luật trong

việc củng cố tổ chức, phong chức, phong phẩm, thuyên chuyển, bổ nhiệm chức sắc,

nhà tu hành. Theo báo cáo của các tỉnh, thành phố, có hơn 15.000 lượt người được

phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử, thuyên chuyển, trong đó Toà

thánh Vatican phong chức 17 giám mục, giám mục phụ tá các giáo phận. Chỉ tính riêng

Công giáo và Phật giáo, năm 2004, Giáo hội Phật giáo Việt Nam có 37.775 tăng, ni,

đến năm 2012 đã lên tới 46.699 tăng, ni; Giáo hội Công giáo từ 2.920 linh mục đến nay

tăng lên 4.044 linh mục. Có 10.816 con dấu đã được cấp cho các tổ chức tôn giáo sử

dụng (riêng Phật giáo Nam tông Khmer 452/452 ngôi chùa đã có con dấu) [3].

- Trong việc in ấn, xuất bản phẩm tôn giáo

Các tổ chức, cá nhân tôn giáo cơ bản tuân thủ quy định của pháp luật về xuất

bản. Theo thống kê, từ năm 2006 đến nay, Nhà xuất bản Tôn giáo đã cấp phép xuất bản

hơn 5.841 xuất bản phẩm, trong đó có 4.725 đầu sách với 14.535.464 bản in; 1.118 đĩa

MP3, VCD, CD, DVD, ảnh, lịch, cờ với số lượng 2.546.201 bản, với nhiều ngôn ngữ

khác nhau như Anh, Pháp và tiếng dân tộc Khmer, Ê Đê, Gia Rai, Ba Na [3].

- Quyền tự do ngôn luận của những người có đạo được pháp luật ghi nhận và

bảo đảm trong thực tiễn

Nhà nước luôn bảo đảm rằng các tín đồ và tổ chức tôn giáo cũng có quyền

bình đẳng như các công dân không có tôn giáo, hoàn toàn có quyền tự do bày tỏ quan

điểm, chính kiến và tư tưởng. Theo đó, quyền tự do biểu đạt, tự do báo chí, xuất bản

của các tín đồ và tổ chức tôn giáo đã luôn được bảo đảm hiệu quả như việc xuất bản

các ấn phẩm tôn giáo ngày càng tăng, hiện nay Việt Nam có hơn 15 tờ báo và tạp chí

của các tổ chức tôn giáo đang hoạt động, trong đó có những tờ báo, tạp chí uy tín

như: Văn hóa Phật giáo, Phật học, Khuông Việt, Giác ngộ (của Giáo hội Phật giáo

Việt Nam), Hiệp Thông (bản tin của Hội đồng Giám mục Việt Nam), Công giáo và

Dân tộc (Ủy ban đoàn kết Công giáo thành phố Hồ Chí Minh); Mục vụ, Thông Công

55

(của Tin Lành), Cao Đài (của đạo Cao Đài), Hương Sen (Phật giáo Hòa Hảo).

- Quyền tham gia vào quản lý Nhà nước và xã hội của các tín đồ tôn giáo

được tôn trọng và bảo đảm

Các chức sắc, tín đồ tôn giáo có quyền tự do ứng cử vào các cơ quan quyền

lực của chính quyền từ trung ương xuống địa phương, đặc biệt là trong việc đại diện

vào Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, hoàn toàn bình đẳng như mọi công dân

khác theo quy định tại Điều 53 và 54 của Hiến pháp. Đến nay có 11 chức sắc là Đại

biểu quốc hội Việt Nam khóa XIII (05 Đại biểu Phật giáo, 03 đại biểu Công giáo, 01

đại biểu Cao Đài, 01 đại biểu Phật giáo hòa Hảo, 01 đại biểu Hồi giáo). Thực tiễn này

cho thấy việc các thế lực thù địch và chống đối chính quyền cách mạng phê phán và

xuyên tạc tình hình tự do tôn giáo cũng như đàn áp các chức sắc tín đồ tôn giáo là

hoàn toàn vô căn cứ và bịa đặt. Trái lại, thực tiễn ấy khẳng định rõ chính sách nhất

quán của Đảng và Nhà nước, sự thừa nhận và bảo đảm bằng pháp luật và thực tiễn

hiệu quả đối với việc tôn trọng và hiện thực hóa quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo nói

chung và quyền tham gia vào quản lý đời sống chính trị - xã hội của đồng bào có đạo

nói riêng. Quyền bình đẳng của các tôn giáo được bảo đảm bằng luật, chính sách và

thực tiễn. Các tôn giáo đều được đối xử bình đẳng và được Nhà nước tạo điều kiện

vật chất và tinh thần để phát triển tổ chức và sinh hoạt tôn giáo.

- Hoạt động quốc tế của các cá nhân, tổ chức tôn giáo nước ngoài tại Việt Nam

Nhìn chung hoạt động quốc tế của các tôn giáo dần đi vào nề nếp và đúng

pháp luật, các tổ chức tôn giáo duy trì và mở rộng mối quan hệ với các tôn giáo trên

thế giới. Nhiều hoạt động tôn giáo quốc tế và hoạt động lớn của các tôn giáo được tổ

chức, thu hút hàng trăm ngàn người tham dự như Đại lễ Phật đản VESAK 2008,

2014; Hội nghị Nữ giới Phật giáo thế giới lần thứ 11 năm 2009; kỷ niệm 100 năm Tin

lành vào Việt Nam năm 2011; Năm Thánh 2010 của Công giáo, kỷ niệm 50 năm

thành lập hàng Giáo phẩm Việt Nam và 350 năm thành lập 02 giáo phận Đàng trong

và Đàng ngoài, Hội nghị Giám mục Châu Á…

Với chủ trương tích cực, chủ động hội nhập quốc tế của Nhà nước, các tổ chức

tôn giáo cũng ngày càng tăng cường hoạt động và ảnh hưởng của mình trên trường

56

quốc tế, nhiều ngôi chùa thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã được xây dựng ở

nhiều nơi trên thế giới như Nga, Séc, Ba Lan, Ucraina. Giáo hội PGVN đã kết nạp 07

Hội Phật tử Việt Nam tại các nước Pháp, Nga, Đức, Séc, Ba lan, Hungary, Ucraina và

một Ban Đại diện Tăng sinh du học ở Ấn Độ; nhiều hoạt động hợp tác quốc tế của

Giáo hội Công giáo, các Hội thánh Cao Đài, Tin Lành và Hồi Giáo được đẩy mạnh.

Trong 10 năm qua, có 1.178 lượt chức sắc, nhà tu hành, tín đồ các tôn giáo ra nước

ngoài tham gia khóa đào tạo về tôn giáo, tham gia hội nghị, hội thảo với các tổ chức

quốc tế về tôn giáo; 175 đoàn khách nước ngoài vào Việt Nam hoạt động tôn giáo với

số lượng lên tới hàng trăm lượt người.

- Hoạt động xã hội của tổ chức, cá nhân tôn giáo

Tập trung vào giáo dục mẫu giáo, dạy nghề, nhân đạo, cứu trợ, y tế…: Với các

hình thức và nội dung hoạt động phong phú như mở trường, lớp mầm non, lớp học

tình thương, trung tâm dạy nghề, trung tâm bảo trợ xã hội, ủng hộ đồng bào bão lụt,

cung cấp cơm, cháo, nước sôi cho người nghèo, người bệnh đã phần nào làm giảm

bớt khó khăn cho xã hội, làm vơi nỗi đau về thể xác và tinh thần cho người được thụ

hưởng; chia sẻ gánh nặng với Nhà nước và xã hội, góp phần cùng Nhà nước giải

quyết các vấn đề xã hội. Theo thống kê chưa đầy đủ, hiện nay có gần 300 cơ sở giáo

dục mẫu giáo với hơn 100 điểm trường; hơn 300 cơ sở khám chữa bệnh đông, tây y;

hơn 100 cơ sở bảo trợ xã hội chăm sóc người già, người khuyết tật, không nơi nương

tựa, nạn nhân chất độc da cam, người nhiễm HIV. Kinh phí tổ chức, cá nhân tôn giáo

đóng góp để thực hiện cho các hoạt động này mỗi năm lên tới hàng chục tỉ đồng.

Nhìn chung các tổ chức tôn giáo đã bảo đảm yêu cầu, điều kiện của pháp luật chuyên

ngành trong khi thực hiện các hoạt động liên quan.

Những thành tựu đó đã chứng minh ở Việt Nam, tín đồ và các chức sắc tôn

giáo được tạo mọi điều kiện thuận lợi để hành đạo. Họ gắn bó với quốc gia, dân tộc

theo phương châm “Đạo pháp, dân tộc và chủ nghĩa xã hội”, thực hiện “sống phúc âm

trong lòng dân tộc”, “nước vinh, đạo sáng”, với tấm lòng “kính chúa, yêu nước”, vừa

làm tròn bổn phận của Tín đồ đối với Tôn giáo, vừa hăng hái lao động sản xuất, tham

gia các hoạt động xã hội, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế

57

- xã hội trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thực tiễn

tình hình tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam trong hơn 27 năm đất nước thực hiện công

cuộc đổi mới được nhiều cá nhân và tổ chức quốc tế ca ngợi. Những chuyển biến

trong đời sống tôn giáo khẳng định chủ trương và chính sách đối với tôn giáo của

Đảng và Nhà nước Việt Nam là đúng đắn, tín đồ, chức sắc thêm tin tưởng vào Đảng

và Nhà nước cùng sự đổi mới của đất nước. Không những thế, tín đồ, chức sắc các

tôn giáo ủng hộ và tham gia tích cực vào công cuộc đổi mới. Chính điều đó đã góp

phần vào sự ổn định chính trị và phát triển kinh tế, xã hội của đất nước Việt Nam.

Đồng thời cũng đã góp phần giới thiệu với bạn bè và cộng đồng quốc tế về hình ảnh

đất nước Việt Nam đổi mới, hòa bình, ổn định và phát triển. Từ đó nâng cao ảnh

hưởng và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Những chuyển biến trong đời sống

tôn giáo ở Việt Nam là bằng chứng để đấu trang, bác bỏ những luận điệu xuyên tạc

về tình hình tôn giáo và chính sách tôn giáo của Việt Nam do các thế lực thù địch

trong nước và ngoài nước bịa đặt.

Quyền tự do tôn giáo nói riêng và các quyền con người nói chung chỉ có thể

được đảm bảo trên nền tảng của việc tôn trọng, bảo vệ và thúc đẩy sự đa dạng tôn

giáo. Đồng thời chính sự đa dạng tôn giáo là điều kiện và phương tiện để hiện thực

hóa các quyền tự do tôn giáo và quyền con người.

2.3.2. Hạn chế

Mặc dù quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam luôn được Nhà nước và

pháp luật bảo hộ, chăm lo và tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển tốt nhất, song

vẫn còn tồn tại một số hạn chế:

2.3.2.1. Chủ trương, chính sách của Đảng, Pháp luật của Nhà nước về tự do

tín ngưỡng và tự do tôn giáo chậm được thể chế, thiếu cụ thể dẫn đến việc hiểu, vận

dụng khác nhau

Mặc dù Hiến pháp đã quy định về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, song việc

cụ thể nó trong luật và Nghị định còn chưa rõ ràng, đôi khi còn thiếu sót. Có không ít

các vấn đề cụ thể như: vấn đề công nhận tư cách pháp nhân; vấn đề tổ chức, tập hợp

quần chúng tôn giáo; vấn đề đất đai, cơ sở thờ tự của tôn giáo; việc tham gia của các

tôn giáo trong lĩnh vực y tế, giáo dục… tuy cũng đã được đầu tư nghiên cứu nhưng

58

chưa đề xuất được các chính sách cụ thể để quản lý.

* Một số nội dung chưa được quy định trong Luật

- Hiến pháp năm 2013 chưa có quy định về quyền tự do tư tưởng, tự do niềm

tin, lương tâm. Đây là những quyền đóng vai trò nền tảng của quyền tự do tín

ngưỡng, tôn giáo. Theo ICCPR và Bình luận chung số 22 đã nêu trên, các quyền này

cần được ghi nhận và bảo vệ tương tự như với tự do tôn giáo, tín ngưỡng. Đặc điểm

cơ bản của nhóm những quyền tự do này là không thể bị đình chỉ thực hiện, kể cả

trong tình trạng khẩn cấp của quốc gia.

- Pháp luật Việt Nam chưa phân biệt giữa tự do tư tưởng, niềm tin lương tâm,

tôn giáo hoặc tín ngưỡng, với tự do thể hiện tôn giáo hay tín ngưỡng. Theo luật nhân

quyền quốc tế, quyền tự do thể hiện tôn giáo, tín ngưỡng có thể bị hạn chế (không

phải là quyền tuyệt đối), song các quốc gia không được phép áp đặt bất kỳ giới hạn

nào đối với tự do tư tưởng, niềm tin lương tâm, tự do được tin hoặc theo một tôn giáo

hoặc tín ngưỡng theo lựa chọn của mình. Những quyền tự do này được bảo vệ vô

điều kiện, tương tự như với quyền được giữ ý kiến mà không bị can thiệp.

- Luật quốc tế cho phép hạn chế quyền tự do bày tỏ tôn giáo, tín ngưỡng chỉ

với điều kiện những hạn chế đó được pháp luật quy định và là cần thiết để bảo vệ an

toàn, trật tự công cộng, sức khoẻ hoặc đạo đức xã hội, hoặc các quyền và tự do cơ

bản của người khác. Trong khi đó, khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013 và Điều 15

Pháp lệnh TNTG 2004 quy định một phạm vi rộng hơn nhiều các hành vi có thể dẫn

đến đình chỉ hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo, đó là: xâm phạm an ninh quốc gia, ảnh

hưởng nghiêm trọng đến môi trường; tác động xấu đến đoàn kết nhân dân, đến truyền

thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc; xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh

dự, tài sản của người khác; có hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng khác… Các

khái niệm này nội hàm quá rộng và trừu tượng, dẫn đến nguy cơ tùy nghi diễn giải và

hạn chế quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong thực tế.

Thêm vào đó, pháp luật cũng chưa quy định rõ một số điều kiện khác được

nêu trong luật nhân quyền quốc tế, cụ thể như những hạn chế về quyền tự do tín

ngưỡng, tôn giáo chỉ có thể được áp dụng cho những mục đích đã được nêu ra trong

59

luật, phải liên quan trực tiếp và phù hợp với nhu cầu cụ thể mà những hạn chế đó đã

được xác nhận. Các hạn chế cũng không được áp đặt vì mục đích phân biệt đối xử,

hoặc áp dụng mang tính phân biệt, và những đối tượng đặc biệt, ví dụ như tù nhân,

vẫn tiếp tục được hưởng các quyền về biểu thị tôn giáo hoặc tín ngưỡng trong khả

năng cao nhất có thể phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn.

- Pháp luật chưa quy định quyền tự do của bố mẹ hoặc những người giám hộ

pháp lý được quyết định việc giáo dục đạo đức và tôn giáo cho con cái họ phù hợp

với đức tin của họ.

- Mặc dù Nhà nước công nhận sự hiện diện, tồn tại của các tôn giáo nhưng

pháp luật (bao gồm Pháp lệnh TNTG năm 2004 và các văn bản pháp luật khác có liên

quan như Bộ luật Dân sự, Luật Đất đai..) vẫn chưa ghi nhận tư cách pháp nhân của

các tổ chức tôn giáo. Bất cập này khiến cho các tổ chức tôn giáo hiện chưa được

hưởng các quyền pháp nhân như các tổ chức xã hội hợp pháp khác theo Hiến pháp và

pháp luật và đã dẫn đến những phản ứng, yêu cầu từ một số tổ chức tôn giáo lớn.

- Về giải thích thuật ngữ: Một số cụm từ trong Pháp lệnh chưa được giải thích

dẫn đến cách hiểu không đúng, không đầy đủ, gây khó khăn, lúng túng trong quá

trình triển khai thực hiện từ phía cơ quan Nhà nước cũng như tổ chức, cá nhân tôn

giáo: tín ngưỡng; tôn giáo; sinh hoạt tôn giáo; chức việc; tổ chức tôn giáo trực thuộc;

“đạo lạ”, “tà đạo”; truyền đạo; truyền đạo trái pháp luật; mê tín dị đoan; hoạt động

tôn giáo ổn định...

- Về quản lí hoạt động của các tổ chức chưa được cấp đăng ký hoạt động; hiện

tượng tôn giáo mới “đạo lạ”, “tà đạo” chưa phân công rõ ràng cho cơ quan nào có

chức năng quản lý. Hiện nay, các hình thức này đã tác động làm lệch chuẩn giá trị

văn hóa tín ngưỡng truyền thống.

- Về quản lí hoạt động tín ngưỡng: Chưa phân công cho cơ quan nào quản lí.

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chỉ quản lí lễ hội trong đó có lễ hội tín ngưỡng

còn quản lí hoạt động của các cơ sở tín ngưỡng thì chưa được quy định (Điều 3

Nghị định 92/2012/NĐ-CP quy định chi tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh tín

ngưỡng, tôn giáo mới chỉ điều chỉnh việc cử người đại diện hoặc Ban quản lý cơ sở

60

tín ngưỡng và đăng ký hoạt động tín ngưỡng hàng năm với Ủy ban nhân dân cấp

xã). Vì vậy, đây là lĩnh vực mà vừa chưa có cơ quan quản lý, cũng như chưa có các

quy định điều chỉnh các hoạt động tín ngưỡng. Sự định hướng xã hội về tín ngưỡng

còn hạn chế dẫn đến tư tưởng duy tâm thần bí lệch chuẩn, phản văn hóa có xu

hướng mở rộng trong xã hội. Đa số các địa phương đều gặp khó khăn khi xác định

cơ quan có thẩm quyền quản lý và tham mưu quản lí hoạt động này. Bên cạnh đó,

hiện nay nhiều cá nhân đã lợi dụng hoạt động tín ngưỡng để hành nghề mê tín dị

đoan, trục lợi cá nhân làm ảnh hưởng không nhỏ đến trật tự công cộng, sức khỏe

cộng đồng, lợi dụng tôn giáo để xâm hại an ninh trật tự,…. Trong khi đó, Pháp lệnh

và các văn bản hướng dẫn thi hành mới chỉ có các quy định mang tính nguyên tắc,

chưa quy định thành một chương riêng về cơ sở tín ngưỡng và hoạt động tín

ngưỡng, chưa quy định phân cấp thẩm quyền quản lý hoạt động tín ngưỡng. Đây là

một vướng mắc cần phải sửa đổi hiện nay.

- Về thẩm quyền đình chỉ các hoạt động tôn giáo vi phạm: Pháp lệnh chưa quy

định về thẩm quyền đình chỉ hoạt động tôn giáo khi vi phạm pháp luật thuộc các

trường hợp theo quy định tại Điều 15 Pháp lệnh. Cần có quy định về đình chỉ hoạt

động của chức sắc, nhà tu hành, tổ chức tôn giáo khi vi phạm pháp luật về tôn giáo.

- Về cấp đăng ký hoạt động của Hội đoàn, Dòng tu: Pháp lệnh chưa quy định

về điều kiện để thành lập Hội đoàn, Dòng tu. Thực tế, Hội đoàn và Dòng tu có cơ cấu

tổ chức chặt chẽ, có chức năng, phạm vi hoạt động rộng, liên quan đến các vấn đề xã

hội, do vậy, cần quy định các điều kiện cụ thể để bảo đảm hoạt động của các tổ chức

này cũng như đáp ứng được yêu cầu quản lí trong thời gian tới.

- Chưa có quy định về tổ chức, cá nhân tôn giáo tổ chức hội nghị, Hội thảo,

Tọa đàm về các vấn đề liên quan của đời sống xã hội hoặc tổ chức, cá nhân tổ chức

hội nghị, hội thảo về tôn giáo.

- Vấn đề dựng tượng Chúa, Phật, Thánh, Thần: Thực tế, hiện nay chưa có quy

định nào về dựng tượng của các tổ chức, cá nhân tôn giáo, dẫn đến thời gian qua quản

lí hoạt động này của các địa phương còn nhiều lúng túng, có nơi buông lỏng, có nơi

chặt chẽ. Do vậy, cần phải bổ sung qui định này vào trong Pháp lệnh nhằm chấn chỉnh

61

lại hoạt động dựng tượng nơi công cộng, khuôn viên cơ sở thờ tự và nhà riêng tín đồ.

- Vấn đề treo cờ Tổ quốc: Cờ Tổ quốc thể hiện chủ quyền thiêng liêng, niềm

tự hào của mỗi người dân Việt Nam, tuy nhiên, thời gian qua, việc treo cờ Tổ quốc

mặc dù đã có quy định nhưng chưa được các tổ chức tôn giáo triển khai thực hiện.

Đòi hỏi phải đưa quy định này vào văn bản mang tính chuyên ngành và có giá trị

pháp lý cao hơn để bảo đảm việc thực hiện, qua đó góp phần vun đắp lòng yêu nước,

tự hào dân tộc cho chức sắc, nhà tu hành, tín đồ các tôn giáo.

- Về Pháp nhân tôn giáo: Pháp luật chưa quy định tổ chức tôn giáo là loại tổ

chức nào theo quy định của Bộ Luật Dân sự về pháp nhân.

- Chưa có quy định cụ thể về xử lí vi phạm pháp luật của tổ chức, cá nhân tôn

giáo trong hoạt động tôn giáo.

* Một số nội dung quy định thiếu cụ thể, không phù hợp với thực tiễn

- Về đăng ký, công nhận tổ chức tôn giáo: Việc cho đăng ký, công nhận tổ

chức tôn giáo hiện nay còn khó khăn, bất cập khi chưa có cơ sở pháp lý để phân biệt

giữa tín ngưỡng với tôn giáo và hoạt động mê tín, dị đoan; điều kiện để được đăng

ký, công nhận còn đơn giản, không đáp ứng được yêu cầu quản lý đối với hoạt động

tôn giáo của các loại hình tín ngưỡng, tôn giáo đã và đang hình thành hiện nay.

- Về đăng ký hoạt động tôn giáo hàng năm: Theo quy định tại khoản 1 Điều 12

Pháp lệnh thì chỉ tổ chức tôn giáo cơ sở phải đăng ký hoạt động tôn giáo hàng năm,

còn những tổ chức cấp trên cơ sở như tổ chức tôn giáo cấp huyện, cấp tỉnh và cấp

trung ương không phải đăng ký, điều này dẫn đến khó khăn cho cơ quan quản lí nhà

nước trong việc quản lí hoạt động tôn giáo diễn ra trên địa bàn.

- Về tổ chức tôn giáo tham gia thực hiện các hoạt động xã hội: Quy định tại

Điều 33 Pháp lệnh không phù hợp với thực tiễn hoạt động của tổ chức tôn giáo, chưa

phát huy được vai trò và tiềm năng của tổ chức, cá nhân tôn giáo trong việc cùng Nhà

nước giải quyết các vấn đề xã hội. Mặt khác, quy định này còn mâu thuẫn với một số

văn bản pháp luật như Luật Phòng, chống HIV, AIDS; Luật Khám bệnh, chữa bệnh;

Luật Hoạt động chữ thập đỏ và một số quy định về bảo trợ xã hội...

- Hoạt động từ thiện, nhân đạo của các tôn giáo là một hoạt động mang tính

62

dấn thân, hoạt động phục vụ xã hội và vì con người. Những năm qua, hoạt động xã

hội của tổ chức, cá nhân tôn giáo đã đem lại những hiệu quả thiết thực, thu hút nhiều

người tham gia; đã khám, chữa bệnh cho hàng ngàn lượt người; tổ chức quyên góp

ủng hộ đồng bào bão lụt, khó khăn hàng trăm tỉ đồng và đến được đúng đối tượng,

đúng thời điểm, đã phần nào làm giảm bớt khó khăn cho xã hội, làm vơi nỗi đau về

thể xác và tinh thần cho người được thụ hưởng; chia sẻ gánh nặng với Nhà nước và

xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực thì các hoạt động này cũng còn một

số vấn đề đáng quan tâm như: Một số cơ sở giáo dục, y tế, nhân đạo được thành lập

chưa được cấp có thẩm quyền cho phép; không bảo đảm cơ sở vật chất, trang thiết bị,

đội ngũ chuyên môn làm công tác liên quan chưa được đào tạo cơ bản và thiếu kinh

nghiệm. Thông qua hình thức này, tổ chức, cá nhân tôn giáo mở rộng ảnh hưởng, thu

hút, tranh giành tín đồ, truyền bá tôn giáo trái với quy định của pháp luật. Một số

người lợi dụng hoạt động này vì mục đích tư lợi, khai thác những mặt trái của đời

sống xã hội để tuyên truyền, xuyên tạc chống phá Đảng, Nhà nước. Vì vậy, cần phải

có những quy định phù hợp với chủ trương xã hội hóa của Đảng, vừa phát huy được

vai trò và tiềm năng của tổ chức, cá nhân tôn giáo đồng thời hạn chế được các mặt

tiêu cực nêu trên.

- Về sinh hoạt tôn giáo của người nước ngoài tại Việt Nam: Quy định tại Điều

37 Pháp lệnh không còn phù hợp với thực tiễn và chủ trương chính sách của Nhà

nước. Hiện nay, với chủ trương hội nhập quốc tế của Nhà nước, người nước ngoài

đến Việt Nam làm ăn sinh sống ngày càng nhiều, trong số này, có bộ phận không nhỏ

là người theo tôn giáo trong đó có những tôn giáo không có cơ sở thờ tự ở Việt Nam

như Chính Thống giáo, đạo Sikh, Thần đạo. Một số tôn giáo khác có cơ sở thờ tự tôn

giáo tương ứng nhưng quá chật hẹp không đáp ứng được nhu cầu sinh hoạt tôn giáo

của họ; có sự khác biệt về nghi lễ, giáo lý, đức tin nên họ mong muốn Nhà nước cho

phép mượn hoặc thuê địa điểm không phải là cơ sở tôn giáo để sinh hoạt tôn giáo

riêng và thực tế cũng đã có một số trường hợp Tin lành Hàn Quốc sử dụng nhà ở,

thuê khách sạn để nhóm họp tôn giáo.

2.3.2.2. Công tác tôn giáo

63

Nói về nhận thức của cán bộ, công chức: thực tế cho thấy, hiểu biết về quyền

con người nói chung, Quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo còn nhiều hạn chế dẫn

đến có những hành động cố ý hoặc vô ý vi phạm các Quyền tự do tín ngưỡng, tự do

tôn giáo của công dân đặc biệt là ở một số cơ quan công quyền. Thái độ phục vụ nhân

dân còn chưa tốt, vẫn còn định kiến với tôn giáo, vẫn giữ thái độ của cơ chế xin –

cho. Mà một trong những nguyên nhân là do mặt trái của việc cải cách hành chính, từ

ngày sáp nhập ngành tôn giáo về ngành nội vụ, hầu hết đội ngũ cán bộ làm công tác

tôn giáo được luân chuyển từ ngành khác sang, không được đào tạo về chuyên ngành

tôn giáo, không được chuẩn bị kỹ năng làm công tác tôn giáo, thậm chí kém hiểu biết

về tôn giáo, chính những điều này đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến việc bảo đảm

quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo cho người có tín ngưỡng, tôn giáo.

- Nhận thức của một bộ phận không nhỏ các tín đồ tôn giáo còn hạn chế, họ

chưa hiểu đúng, đầy đủ, thậm chí sai lệch quan điểm, chủ trương, chính sách của

Đảng, Nhà nước; chưa nhận thức rõ được quyền và nghĩa vụ của một tín đồ tôn giáo

cũng như của một công dân của một nước mà họ đang sinh sống, điều này dẫn đến

việc họ dễ bị kích động, dụ dỗ, lôi kéo bởi những kẻ phản động lợi dụng tín ngưỡng,

tôn giáo để gây rối, vi phạm pháp luật.

- Việc hướng dẫn, tuyên truyền, phổ biến pháp luật ở một số nơi cấp ủy Đảng,

chính quyền và một số cán bộ làm công tác tôn giáo chưa được tốt, thậm chí còn chưa

nắm vững đường lối, chính sách của Đảng, Pháp luật của Nhà nước, thiếu linh hoạt

trước vấn đề có tính nhạy cảm về chính trị nên việc giải quyết các vấn đề liên quan

đến tôn giáo còn kém hiệu quả, giải quyết không hợp tình, hợp lý, có nơi còn đi

ngược chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta, không đáp ứng được nhu cầu của

bà con có tín ngưỡng, tôn giáo. Thực tế đã xảy ra trên các địa bàn tỉnh Tây Nguyên,

Tây Nam Bộ, Hà Nội (Nhà Chung, Thái Hà), Nghệ An (Con Cuông). Do đó, việc

nhận thức đầy đủ và đúng mức về vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo và Quyền tự do tín

ngưỡng tôn giáo là rất cần thiết đối với mỗi cán bộ làm công tác tôn giáo hiện nay.

- Nhận thức về tôn giáo và cách cư xử với tôn giáo, với đồng bào có đạo ở mỗi

địa phương khác nhau, sự phối hợp của các ngành, tổ chức trong hệ thống chính trị để

64

giải quyết các vấn đề tôn giáo chưa được thường xuyên, chưa thống nhất cách thức,

phương pháp, biện pháp giải quyết các vấn đề nảy sinh trong tôn giáo dẫn đến việc

kéo dài thời gian giải quyết các vấn đề liên quan đến tôn giáo, làm cho hiệu quả thực

hiện các chủ trương, chính sách, đường lối về tôn giáo bị giảm sút.

- Ở nước ta hiện nay vẫn chưa có một cơ quan chuyên trách về thúc đẩy và bảo

vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, chưa có một quy chế chặt chẽ trong việc xử lý

các khiếu nại, tố cáo và hành vi vi phạm Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.

2.3.2.3. Hoạt động truyền đạo trái phép; mê tín, dị đoan

Các hoạt động này vẫn còn diễn ra khá phổ biến ở nhiều địa bàn, nhất là các

tỉnh Tây Bắc, tây Nguyên, Tây Nam Bộ. Số phần tử cực đoan trong một số tôn giáo

lớn ở nước ta vẫn tiếp tục câu kết với nước ngoài tìm mọi cách tập hợp lực lượng

chống đối, khai thác mọi sơ hở, thiếu sót trong công tác quản lý Nhà nước về tôn giáo

để xuyên tạc tình hình, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta. Các vụ khiếu

kiện liên quan đến tôn giáo vẫn đang diễn ra hết sức phức tạp, nhất là đất đai, cơ sở

thờ tự có liên quan đến tôn giáo.

Hoạt động mê tín, dị đoan đã, đang có chiều hướng ngày càng tăng và khó

kiểm soát ở một số địa phương trong cả nước, diễn ra không chỉ trong nhân dân mà

còn trong cả hàng ngũ cán bộ, công chức Nhà nước. Xu hướng thương mại hóa các

hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo cũng đang gia tăng, làm phát sinh mâu thuẫn giữa các

chức sắc với nhau, chức sắc với tín đồ và với chính quyền sở tại.

2.3.2.4. Hoạt động tín ngưỡng dân gian

Bên cạnh việc trân trọng những giá trị truyền thống như tín ngưỡng thờ cúng

tổ tiên, hiện nay vẫn còn những tiêu cực trong một số hoạt động như lễ lạt linh đình,

tốn kém, nặng tính hình thức vật chất; một số nơi do không có sự hiểu biết về bản

thân các di sản văn hóa vật chất liên quan đến tín ngưỡng nên có nhiều công trình,

kiến trúc, đồ thờ trong quá trình trùng tu, xây mới đã thực sự mất đi các giá trị di

sản của nó. Một số hiện tượng tín ngưỡng đã đáp ứng được một phần nhu cầu đời

sống tâm linh của quần chúng nhân dân, tuy nhiên vẫn còn những hiện tượng tín

ngưỡng bị bóp méo, biến dạng và bị lợi dụng, bị thương mại hóa nhằm mục đích

65

trục lợi của một số tổ chức, cá nhân gây mất an toàn và an ninh xã hội. Chủ trương,

chính sách cụ thể đối với hình thức tín ngưỡng vẫn còn mang tính chung chung,

thiếu sự phân tích, đánh giá đâu là yếu tố mê tín dị đoan mặc dù trong một số thông

tư, nghị định của Chính phủ và cá bộ ngành đều nói tới việc bài trừ, cấm các hình

thức mê tín dị đoan như đồng bóng, bói toán, vàng mã, xóc thẻ, xin xăm, điều đó

dẫn đến việc thực thi một cách tùy tiện, hoặc xiết chặt theo kiểu vơ đũa cả nắm hoặc

66

là buông lỏng để phát triển tự do.

Chƣơng 3

QUAN ĐIỂM, ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM BẢO ĐẢM

QUYỀN TỰ DO TÍN NGƢỠNG, TÔN GIÁO TRONG PHÁP LUẬT

VIỆT NAM HIỆN NAY

3.1. Quan điểm về bảo đảm quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo

Thứ nhất là đổi mới nhận thức về tín ngưỡng, tôn giáo và bảo đảm quyền tự

do tín ngưỡng, tôn giáo

Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và

sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta; đồng bào

tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Tôn giáo ra đời đã hình thành

cho mình những chức năng để đáp ứng những nhu cầu cần có của con người như

chức năng giải thích thế giới (thế giới quan), chức năng bù đắp, chức năng liên kết

cộng đồng và chức năng điều chỉnh hành vi thông qua các quy phạm luân lý, đạo đức.

Tín ngưỡng, tôn giáo đã tồn tại lâu dài trong lịch sử nhân loại, đã in sâu vào

đời sống tinh thần, ảnh hưởng khá sâu đậm đến nếp nghĩ, lối nghĩ của một bộ phận

dân nhân qua nhiều thế hệ đến mức trở thành một kiểu sinh hoạt Văn hóa tinh thần

không thể thiếu của cuộc sống. Trước đây có quan điểm cho rằng tín ngưỡng, tôn

giáo là lạc hậu, phản động, gây bè phái, chia rẽ dân tộc, cản trở công cuộc xây dựng

và phát triển đất nước thì dưới ánh sáng của Nghị quyết Trung ương 7 đã đưa ra cái

nhìn hoàn toàn mới mẻ về tín ngưỡng, tôn giáo. Nghị quyết đã đưa ra một nguyên tắc

trong ứng xử đối với đồng bào các tôn giáo cũng như đối với đồng bào cả nước trong

công cuộc xây dựng đất nước. Nghị quyết khẳng định thêm trách nhiệm của hệ thống

chính trị cần có thái độ tích cực vì lợi ích đồng bào các tôn giáo, uốn nắn, nâng đỡ

đồng bào các tôn giáo trong quá trình thực hiện các hoạt động tôn giáo theo hướng

“tốt đời, đẹp đạo”, phát huy những mặt tích cực, những điểm tương đồng của chủ

nghĩa nhân đạo XHCN vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ

văn minh. Điều đó tiếp tục được khẳng định qua Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ

XII của Đảng: tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về “tín ngưỡng, tôn giáo”,

67

phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo.

Thứ hai, tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không

tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân; bảo đảm các tôn giáo hoạt động theo pháp luật

và bình đẳng trước pháp luật

Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo hoặc không theo một tôn giáo

nào là một trong những quyền cơ bản, chính đáng của con người, là nguyên tắc trong

quan hệ của Nhà nước XHCN Việt Nam với tổ chức tôn giáo. Tín ngưỡng, tôn giáo

đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt

Nam. Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân. Nghiêm cấm

lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động mê tín dị đoan, hoạt động trái pháp luật và

chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối,

xâm phạm an ninh quốc gia.

Quan điểm, chính sách giáo này đã được thể hiện trong Hiến pháp năm 1992:

Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo tôn giáo nào.

Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật; những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn

giáo được pháp luật bảo hộ; không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc

lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước.

Việt Nam là một quốc gia đa dạng tôn giáo, có cả những hình thức tín ngưỡng

dân gian, đồng thời cũng có những tôn giáo hoàn chỉnh đan xem trong các khu vực

dân cư. Chính sách tôn giáo của Việt Nam tiếp tục được khẳng định nhất quán trong

quá trình thực hiện công cuộc đổi mới đất nước và ngày càng được cụ thể, tạo hành

lang pháp lý cho các hoạt động tôn giáo nhằm bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn

giáo của công dân, bảo đảm sự đoàn kết, hòa hợp giữa cộng đồng những người có tín

ngưỡng, tôn giáo và những người không có tín ngưỡng, tôn giáo, những người có tín

ngưỡng, tôn giáo khác nhau.

Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo được thông qua từ 18/6/2004 và có hiệu lực thi

hành từ ngày 15/11/2004 đã xác định rõ quyền và nghĩa vụ của các cá nhân, tổ chức

tôn giáo, trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước trong việc bảo đảm quyền và

nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân trong hoạt động tôn giáo; tôn trọng và bảo đảm

68

nguyên tắc những việc nội bộ của các tổ chức tôn giáo do các tôn giáo tự giải quyết

theo Hiến chương. Pháp lệnh cũng xác định rõ, Chính phủ Việt Nam tôn trọng và thực

hiện các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập khi có sự khác nhau giữa

quy định của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo và các điều ước đã dược ký kết.

Nhà nước bảo đảm và tạo điều kiện để sinh hoạt tôn giáo của chức sắc, tín đồ

được diễn ra bình thường trên các lĩnh vực như bày tỏ đức tin, tổ chức và tham gia

các lễ hội tôn giáo với nhiều hình thức và quy mô lớn với hàng trăm ngàn người tham

dự, Việc phong chức, phong phẩm, thuyên chuyển nơi hoạt động tôn giáo cũng như

việc xuất cảnh của chức sắc tôn giáo được giải quyết nhanh chóng, thuận tiện. Việc

đào tạo, bồi dưỡng chức sắc, nhà tu hành trong các tôn giáo được duy trì và mở rộng

đáp ứng nhu cầu của các tổ chức, cá nhân tôn giáo. Việc in ấn kinh sách và xuất bản

các ấn phẩm khác liên quan đến tôn giáo được thực hiện thường xuyên…

Thứ ba, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo gắn với nghĩa vụ trong

thực hiện tự do tín ngưỡng, tôn giáo

Bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo phải xuất phát từ quyền con người

trong lĩnh vực tôn giáo; nhưng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo phải gắn với nghĩa

vụ trong thực hiện tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Quyền và nghĩa vụ là hai

mặt không thể tách rời của quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Công dân muốn được

hưởng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo thì phải gánh vác nghĩa vụ khi thực hiện tự do

tín ngưỡng, tôn giáo, dù ở bất kỳ một tín ngưỡng, tôn giáo nào. Đây là điều kiện bảo

đảm cho quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được thực hiện. Mặt khác, Nhà nước cũng sẽ

bảo đảm cho các quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo hợp pháp của công dân được thực

hiện trên cơ sở nghiêm chỉnh chấp hành các nghĩa vụ mà pháp luật quy định.

Nguyên tắc quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo gắn với nghĩa vụ trong thực hiện

tự do tín ngưỡng, tôn giáo là bảo đảm để mọi công dân đều bình đẳng về quyền tự do

tín ngưỡng, tôn giáo. Quyền bình đẳng ở đây bao gồm sự không phân biệt về giới tính

nam - nữ, dân tộc, văn hoá, nghề nghiệp, nơi cư trú và tôn giáo,... Mọi công dân đều

được hưởng giá trị tự do tôn giáo như nhau và đóng góp như nhau cho sự phát triển

của tự do tín ngưỡng, tôn giáo và đặc biệt, họ đều bình đẳng trước pháp luật khi vi

69

phạm các quy định pháp luật về tự do tôn giáo của Nhà nước.

Nguyên tắc quyền gắn với nghĩa vụ trong thực hiện tự do tín ngưỡng, tôn giáo,

một mặt, đòi hỏi tất cả các tín ngưỡng, tôn giáo khi áp dụng quy phạm (giáo lý, giáo

luật, nghi lễ, hiến chương, điều lệ,...) đối với các đệ tử của mình thì cũng phải tôn

trọng quyền tự do công dân của họ. Mặt khác, nguyên tắc cũng đòi hỏi mọi quy định

trong hệ thống pháp luật về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo đều phải có cơ sở và

điều kiện hiện thực hóa được trong thực tế cuộc sống; tránh những quy định tạo ra sự

không phù hợp, thiếu tính khả thi khiến cho công dân không thể thực hiện được.

Và nguyên tắc đó cũng đòi hỏi trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm

hiệu lực của các quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, vì không có sự bảo đảm của Nhà

nước sẽ không có hiệu quả trên thực tế về các quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.

Thứ tư, công tác tôn giáo là trách nhiệm của toàn hệ thống chính trị do

Đảng lãnh đạo

Tôn giáo là một vấn đề nhạy cảm, quản lý Nhà nước đối với tôn giáo không

chỉ là việc giải quyết những nhu cầu chính đáng của tín đồ, đưa hoạt động tôn giáo

theo pháp luật mà thông qua đó còn góp phần tích cực vào việc chắt lọc và phát huy

những giá trị văn hóa, đạo đức của tôn giáo với chuẩn mực xã hội tốt đẹp. Công tác

tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị trong việc hoạch định và hiện thực

hóa quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước nhằm tăng cường khối

đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo động lực chủ yếu cho sự thành công của công cuộc

công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta.

Về quan điểm “Công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị”

được Bộ chính trị Đảng ta chỉ ra từ NQ 24 ngày 16 – 10 -1990 về “Tăng cường công

tác tôn giáo trong tình hình mới”, sau đó Nghị quyết Trung ương 7 (khóa IX) ngày 12

-03- 2003 “về công tác tôn giáo” tiếp tục khẳng định.

Tuy nhiên, từ thực tiễn của công tác tôn giáo và nhất là từ yêu cầu đổi mới

công tác tôn giáo nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo ra được

động lực trực tiếp thúc đẩy sự phát triển đất nước theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh,

xã hội công bằng, dân chủ và văn minh, thì từ bản thân hệ thống chính trị đã và đang

đặt ra một số vấn đề cần phải quan tâm giải quyết trên cả phương diện lý luận cũng

70

như thực tiễn như sau:

- Công tác lý luận, cần khai thác và làm sâu sắc hơn nữa những quan điểm của

Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và công tác tôn giáo.

Công tác lý luận hiện nay cần phải có sự tìm tòi, đưa ra những căn cứ lý luận chỉ dẫn

xác đáng, có chiều sâu hơn, không dừng lại như là sự giải thích các quan điểm của

chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo. Cần vận dụng sáng tạo

vào thực tiễn công tác tôn giáo của cả hệ thống chính trị.

- Tạo ra sự phối hợp đồng bộ trong công tác tôn giáo giữa các yếu tố hợp

thành hệ thống chính trị, hạn chế tình trạng khoán trắng, chồng chéo, lấn sân. Việc

quán triệt quan điểm “công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị”, đến

nay vẫn có không ít khó khăn do sự thiếu đồng bộ của các cơ quan trong hệ thống

chính trị. Do vậy, để tạo ra sự phối hợp thống nhất hơn nữa trong công tác tôn giáo

cần xây dựng, quy định chức năng, nhiệm vụ làm công tác tôn giáo của các cấp, các

tổ chức thuộc hệ thống chính trị, trong đó đặc biệt quan tâm đến cấp cơ sở và đề cao

trách nhiệm cá nhân trên cơ sở quyền lực, quyền hạn cụ thể. Sự thống nhất trong công

tác tôn giáo của các tổ chức thuộc hệ thống chính trị, ngoài yếu tố hình thức triển

khai, nó phải được dựa trên cơ sở những chủ trương, chính sách, pháp luật hiện hành.

- Củng cố tổ chức bộ máy làm công tác tôn giáo của hệ thống chính trị; có

chiến lược đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác tôn giáo các cấp;

tăng cường xây dựng lực lượng chính trị ở cơ sở trong các vùng tôn giáo tập trung.

Hiện nay công tác quản lý nhà nước đối với tôn giáo nên chú trọng đến việc phân cấp,

phân quyền mạnh hơn và nhiều hơn đối với mỗi ngành, mỗi cấp. Nên có những quy

định cụ thể, sao cho nguyên tắc tập trung dân chủ được đảm bảo, cấp dưới phát huy

được tính sáng tạo, cấp trên kiểm soát và chỉ đạo thống nhất đối với cấp dưới. Đảm

bảo nguyên tắc này trong công tác tôn giáo hiện nay là bước quan trọng đặc biệt để

đảm bảo tính hiệu lực, hiệu quả công tác tôn giáo của hệ thống chính trị. Xây dựng

đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác tôn giáo ở các cấp là vấn đề có ý nghĩa quyết

định sự thành bại của công tác này. Đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo và lực

lượng chính trị trong các vùng tôn giáo hiện nay đòi hỏi các cấp ủy quan tâm bố trí

71

đúng người làm công tác tôn giáo. Đặc biệt, cần có kế hoạch phát hiện, đào tạo cán

bộ có uy tín, có năng lực vận động chức sắc tôn giáo để tạo ra mối quan hệ đồng

thuận. Cán bộ làm công tác tôn giáo cũng cần đảm bảo tính ổn định. Bên cạnh chế độ

đãi ngộ vật chất, về mặt tinh thần, học phải được lãnh đạo động viên, khen thưởng.

- Tăng cường công tác đối ngoại tôn giáo theo hướng tuyên truyền chính sách

tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta trên trường quốc tế, để thế giới

hiểu đúng về nhân quyền, tôn giáo ở nước ta tạo cơ sở pháp lý vững chắc đấu tranh

chống việc lợi dụng tôn giáo từ bên ngoài. Giải quyết các vụ việc tôn giáo phức tạp

cần kịp thời, khéo léo và đúng pháp luật, không để xảy ra sơ hở khiến kẻ thù có thể

kiếm cớ can thiệp, xuyên tạc chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà

nước ta. Có cơ chế phối hợp giữa các cơ quan làm công tác tôn giáo với các cơ quan

ngoại giao, Ủy ban công tác về các tổ chức phi chính phủ nước ngoài.

Thứ năm, công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng

Nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng. Sở dĩ

xác định như vậy vì đại đa số tín đồ các tôn giáo là quần chúng lao động, có tinh thần

yêu nước và gắn bó với dân tộc trong cuộc đấu tranh giành độc lập tự do và xây dựng

cuộc sống hạnh phúc. Từ việc chăm lo những lợi ích thiết thân trong đó có nhu cầu

tín ngưỡng, tôn giáo chính đáng, các chính sách và việc làm cụ thể của Đảng và Nhà

nước ta sẽ thuyết phục, lôi cuốn, tập hợp bà con có đạo tích cực tham gia xây dựng và

bảo vệ Tổ quốc. Mọi thái độ đối xử thô bạo, mệnh lệnh, áp đặt một chiều hoàn toàn

xa lạ với công tác vận động quần chúng. Ngay cả trong trường hợp phải dùng đến các

biện pháp luật thì cũng cần phải tuyên truyền, giải thích để có được sự đồng tình, ủng

hộ của đông đảo quần chúng tín đồ. Xác định công tác tuyên truyền, vận động đồng

bào các tôn giáo hiểu rõ đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của

Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc xây dựng, củng cố lòng tin của nhân dân

đối với Đảng và Nhà nước, tạo sự đồng thuận trong xã hội.

Nước ta là một quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo và cũng giống như nhiều quốc

gia khác, vấn đề dân tộc – tôn giáo luôn có sự đan xen thẩm thấu vào nhau, cái này

nguyên nhân của cái kia và ngược lại. Chính vì thế, công tác tôn giáo chỉ có hiệu quả

72

và thành công khi luôn gắn bó với công tác dân tộc. Tuy nhiên, về mặt nhận thức và

thực tiễn cũng cần thấy là: công tác tôn giáo và công tác dân tộc, với tính cách là

những khái niệm thì có sự khác nhau cơ bản, do xuất phát từ sự khác nhau giữa khách

thể công tác và từ nội dung cơ bản của mỗi loại công tác. Cả hai loại công tác này đều

đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước, nên sẽ không thể có hiệu

quả nếu chúng bị tách rời hoặc tuyệt đối hóa. Cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền

đối ngoại liên quan đến tôn giáo, kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng chính đáng

của chức sắc, nhà tu hành, tín đồ các tôn giáo như: nhu cầu về sinh hoạt tín ngưỡng,

tôn giáo, đất đai để xây dựng cơ sở thờ tự… để từ đó đề nghị cấp có thẩm quyền xem

xét giải quyết phù hợp, đảm bảo đúng quy định của pháp luật. Động viên các chức

sắc, chức việc, tín đồ các tôn giáo tùy theo tình hình thực tế như độ tuổi, giới tính để

vận động họ tham gia vào các tổ chức xã hội, các tổ chức đoàn thể như: Hội cựu

chiến binh, Hội người cao tuổi, Phụ nữ, Thanh niên… góp phần tích cực vào việc

thực hiện nếp sống văn hóa, trong các sinh hoạt đạo – đời.

3.2. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền tự do tín ngƣỡng,

tôn giáo trong pháp luật Việt Nam

3.2.1. Giải pháp nâng cao hiệu quả đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn

giáo ở Việt Nam

3.2.1.1. Tập trung nâng cao nhận thức về bảo đảm quyền con người trên lĩnh

vực tôn giáo

Trình độ dân trí và sự hiểu biết pháp luật chính là bảo đảm về phía bản thân

của mỗi người dân trong việc thực hiện quyền công dân nói chung, quyền tự to tín

ngưỡng, tôn giáo nói riêng. Sự hiểu biết về pháp luật chính là điều kiện bảo đảm cho

công dân luôn ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật, tôn trọng quyền của người

khác đồng thời cũng chính là để bảo vệ chính quyền và lợi ích của bản thân mình khi

bị xâm hại. Hiểu biết pháp luật sẽ giúp người dân có đời sống văn minh hơn trong

việc xác định được đâu là tín ngưỡng, tôn giáo và đâu là mê tín, dị đoan. Nếu như

đồng bào có tín ngưỡng, tôn giáo am hiểu pháp luật, cũng như mọi mặt khác của xã

hội thì nó sẽ là điều kiện để thực hiện đúng và đầy đủ quyền tự do tín ngưỡng, tôn

73

giáo của mình.

Ở một số vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở nước ta hiện nay, nhất là đồng bào

có đạo ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, nông thôn với trình độ dân trí còn thấp, đời

sống kinh tế còn gặp nhiều khó khăn nên việc thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn

giáo còn rất hạn chế. Người dân ở đây còn chưa được tiếp cận với nếp sống văn minh,

việc phổ biến đường lối chính sách của Đảng, Pháp luật của Nhà nước còn rất lẻ tẻ,

chưa đồng bộ và thực sự sâu xát đến đồng bào tôn giáo. Do đó, đây là những điểm rất

dễ bị các thế lực lợi dụng tôn giáo kích động, vu khống Nhà nước ta vi phạm Quyền

tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Và cũng chính do hiểu biết hạn hẹp nên họ

không phân biệt được đâu là quyền tự do, đâu là vi phạm pháp luật dẫn đến nhiều

người bị lôi kéo vào các hành vi mê tín, dị đoan mà không hiểu là đang hành động

trái pháp luật. Chính vì vậy, cần phải nâng cao dân trí, đặc biệt là ở các vùng đồng

bào có đạo thì mới đảm bảo được Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cho chính họ và

cũng đồng thời giúp ổn định và phát triển xã hội tốt hơn.

3.2.1.2. Nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của việc bảo đảm quyền tự do

tín ngưỡng, tôn giáo cho đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác tôn giáo

Làm việc gì cũng cần phải chú trọng đến gốc rễ của vấn đề, vì vậy công tác

cán bộ đóng vai trò hàng đầu, tác động trực tiếp đến hiệu lực quản lý nhà nước đối

với hoạt động tôn giáo và hiệu quả của công tác tuyên truyền, vận động tín đồ các tôn

giáo trong cả nước. Thực tế hiện nay, cơ chế và thiết chế làm công tác tôn giáo đang

lạc hậu so với tình hình, tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước, đội ngũ cán bộ làm công

tác tôn giáo chưa phù hợp, hiệu quả thấp, chưa làm tốt công tác tham mưu cho Đảng,

Nhà nước về tôn giáo. Số lượng và chất lượng cán bộ, công chức làm công tác tôn

giáo chưa đáp ứng được yêu cầu công việc. Muốn nâng cao đội ngũ cán bộ, chúng ta

cần chú trọng đến công tác tổ chức bộ máy cán bộ, đồng thời đào tạo, bồi dưỡng,

nâng cao nghiệp vụ và tư tưởng chính trị cho đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo.

Người cán bộ làm công tác tôn giáo ngoài những phẩm chất chính trị, đạo đức cần

phải trang bị cho mình những kiến thức chuyên môn về các lĩnh vực:

- Phải am hiểu sâu sắc học thuyết của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí

Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về tôn

74

giáo. Đồng thời cũng cần có hiểu biết về chính sách, pháp luật tôn giáo của các quốc

gia trong khu vực và những nước có thể chế chính trị khác nước ta, để từ đó rút ra

tính ưu việt trong chính sách tôn giáo của Việt Nam, từ đó tuyên truyền chính sách

tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta cho đồng bào tôn giáo và phản bác lại những luận

điệu vu cáo, xuyên tạc chính sách, đời sống tôn giáo của nước ta.

- Ngoài văn bản qui phạm pháp luật về tôn giáo, cán bộ làm công tác tôn giáo

còn phải nắm chắc các văn bản pháp luật và các văn bản qui phạm pháp luật có liên

quan (như Luật di sản văn hóa, Luật đất đai, Luật xây dựng, Luật giáo dục,… Nghị

định qui định về quản lý hộ tịch hộ khẩu, về xử phạt hành chính,… và các Thông tư

Liên Bộ, Thông tư hướng dẫn của các bộ, ngành,…).

- Phải nắm thật chắc và đầy đủ tình hình tôn giáo trên địa bàn mình phụ trách

và những địa bàn lân cận; tình hình tôn giáo, tín ngưỡng trong nước và trên thế

giới,… để xây dựng chương trình công tác cho phù hợp, kịp thời tham mưu, đề xuất

hướng giải quyết với cấp trên khi vụ việc phức tạp xảy ra.

- Cần nắm vững kiến thức lịch sử dân tộc, thế giới và lịch sử các tôn giáo, từ

đó mà lý giải được vì sao trong giai đoạn lịch sử nào đó, một triều đại nào đó lại quan

tâm đến tôn giáo hoặc không chú ý đến vấn đề tôn giáo; những đóng góp của giáo sĩ,

tu sĩ các tôn giáo đối với lịch sử dân tộc. Nắm vững kiến thức lịch sử còn giúp chúng

ta có tâm thế thoải mái, tự tin trong khi giải thích, tiếp xúc với giáo dân, giáo sĩ, cả

khi thuyết trình, diễn giảng những vấn đề có liên quan đến tôn giáo.

- Họ cũng cần có kiến thức nhất định về một số ngành khoa học có liên quan,

như tâm lý học, triết học, văn học, xã hội học, mỹ học, đạo đức học,… và các ngành

nghệ thuật, như: kiến trúc, điêu khắc, hội họa,… Ngoài ra, kiến thức về giáo lý, giáo

luật, tín ngưỡng thờ tự,… của một số tôn giáo cũng cần phải am hiểu càng sâu rộng

bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu.

- Ngoại ngữ cũng là vần đề cần phải chú ý tự trang bị. Sẽ bị hạn chế rất nhiều,

nếu làm công tác QLNN đối với Phật giáo mà lại không đọc được, không giải thích

được, không dịch được nội dung những tấm hoành phi câu đối và các văn bản Hán

Nôm của các cơ sở thờ tự Phật giáo.

75

Do đó, các bộ, ngành ở Trung ương và cấp ủy, chính quyền ở địa phương cần

quán triệt quan điểm chỉ đạo trong Nghị quyết số 25/ NQ – TW của Ban chấp hành

Trung ương Đảng về công tác tôn giáo; Nghị định số 92/2012/ NĐ – CP quy định chi

tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo; Thông tư số 01/2013/ TT -

BNV của Bộ nội vụ về việc ban hành và hướng dẫn sử dụng biểu mẫu về thủ tục hành

chính trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo … tới đội ngũ cán bộ, công chức làm công

tác tôn giáo các cấp để họ hiểu và về tôn giáo, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của

người dân. Việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là nguyện vọng chính

đáng của đồng bào có tín ngưỡng, tôn giáo nên cần khắc phục những sai lệch trong

nhận thức và tư tưởng đang tồn tại của cán bộ, công chức làm công tác tôn giáo để

việc phổ biến chính sách, pháp luật được chính xác và kịp thời hơn tới đồng bào có

tín ngưỡng, tôn giáo.

3.2.1.3. Tiếp tục Hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo phù

hợp với quan điểm của Đảng và tình hình thực tiễn

Trải qua hơn 25 năm tiến hành công cuộc Đổi mới đất nước, với tín ngưỡng,

tôn giáo nếu tính từ Nghị quyết 24-NQ/ TW (16-19-1990) đến nay, trên 20 năm chính

sách của Đảng về tín ngưỡng, tôn giáo thực sự đi vào cuộc sống. Điều này được thể

hiện như: Diện mạo tôn giáo Việt Nam thay đổi nhanh chóng với 14 tôn giáo và 38 tổ

chức tôn giáo; Nhu cầu về tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân về cơ bản được đáp

ứng. Chức sắc, nhà tu hành, tín đồ tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng. Yên tâm hành

đạo theo đường hướng sống tốt đời, đẹp đạo. Trên trường quốc tế, năm 2006, Mỹ đưa

Việt Nam ra khỏi danh sách các nước cần đặc biệt quan tâm về tôn giáo (CPC). Vấn

đề ngoại giao tôn giáo đã và đang phát triển tốt.

So với trước đổi mới, chính sách của Đảng ta với tín ngưỡng, tôn giáo hiện

nay thực sự có một bước tiến dài. Một điều ghi nhận là Nghị quyết 25- NQ/TW (12-

3-2003) Đảng ta nêu ra một chính sách mới: "Giữ gìn và phát huy những giá trị tích

cực của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những người có công với Tổ quốc và

nhân dân". Nghĩa là Đảng ta mở rộng chính sách đối với tín ngưỡng một loại hình

76

của đời sống tâm linh vốn tồn tại từ hàng nghìn năm nay.

Đến Hiến pháp 2013 đã kế thừa và sửa đổi, bổ sung quy định của Hiến pháp

năm 1992 về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Điều 24 Hiến pháp ghi nhận

1. Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không

theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. 2. Nhà

nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. 3. Không ai

được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn

giáo để vi phạm pháp luật.

Tuy nhiên trong tình hình mới do sự phát triển của tôn giáo, tín ngưỡng trong

nước, do tác động tôn giáo quốc tế và khu vực đến tôn giáo Việt Nam thì việc hoàn

thiện chính sách với tôn giáo là một đòi hỏi của thực tế. Ví dụ chính sách đối với việc

tôn giáo tham gia xã hội hóa (y tế, văn hóa giáo dục); vấn đề ngoại giao tín ngưỡng, tôn

giáo... để từ đó phát huy tối đa nguồn lực tôn giáo vào công cuộc xây dựng đất nước.

Với pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo: hiện tại một số chế tài về tín ngưỡng

chưa thật rõ ràng. Tiến trình hoàn thiện luật pháp về tín ngưỡng, tôn giáo còn

chậm. Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo được thực hiện đến nay đã là 10 năm nhưng

một số điều khoản của Pháp lệnh hoặc rất khó thực hiện hoặc đã không đáp ứng được

thực tế. Chẳng hạn như vấn đề thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn

giáo; vấn đề công nhận tổ chức tôn giáo. Trước mắt cần có sự tổng kết chỉ ra những

cái được và chưa được của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo; cần thiết bổ sung những gì

của Nghị định 92/2012/NĐ-CP Hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh tín

ngưỡng, tôn giáo. Do đó, cần phải cụ thể hóa các quy định, nội dung, tinh thần của

Hiến pháp, bảo đảm hơn nữa quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người và phù

hợp với Công ước quốc tế về quyền dân sự, chính trị. Theo đó, Luật tín ngưỡng, tôn

giáo sẽ được ban hành thay thế Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo và cần bổ sung các nội

dung cơ bản, phù hợp với thực tiễn, cụ thể:

- Luật ghi nhận và cụ thể hóa chủ thể của quyền tín ngưỡng, tôn giáo là “mọi

người” mà không chỉ là “công dân”, Đồng thời khẳng định rõ quyền theo hoặc không

theo một tôn giáo nào của cá nhân, không ai được xâm phạm tới quyền tự do tín

ngưỡng, tôn giáo và nghiêm cấm ép buộc theo đạo, bỏ đạo hoặc lợi dụng quyền tự do

77

tín ngưỡng, tôn giáo để xâm hại tới Nhà nước, công dân và quyền của tổ chức tôn giáo.

- Bổ sung quy định về quyền và giới hạn quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo;

quy định cụ thể quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo bị giới hạn trong những trường hợp

cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã

hội, sức khỏe của cộng đồng”. Quy định này là cần thiết để bảo đảm Nhà nước tôn

trọng và bảo đảm các quyền tự do tín ngưỡng,, tôn giáo của công dân trong một tổng

thể chung về an ninh, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của

người khác. Các quy định này cũng đã được Công ước quốc tế về quyền dân sự,

chính trị của Liên hợp quốc ghi “quyền tự do bày tỏ tôn giáo hoặc tín ngưỡng chỉ có

thể bị giới hạn bởi pháp luật và khi sự giới hạn đó là cần thiết để bảo vệ an ninh, trật

tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức xã hội, hoặc để bảo vệ các quyền và tự do cơ

bản của người khác” (Khoản 3, Điều 18 Công ước).

- Bổ sung quy định về bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người

nước ngoài sinh sống và làm việc tại Việt Nam, theo đó xác định quyền tự do tín

ngưỡng, tôn giáo là quyền của mọi cá nhân, người nước ngoài sinh sống, làm việc tại

Việt Nam cũng được Nhà nước Việt Nam tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín

ngưỡng, tôn giáo bao gồm quyền sinh hoạt tôn giáo của người nước ngoài tại cơ sở

tôn giáo hoặc các địa điểm hợp pháp khác; hoạt động tôn giáo của chức sắc, nhà tu

hành là người nước ngoài, việc tổ chức cuộc lễ, giảng đạo của người nước ngoài tại

cơ sở tôn giáo ở Việt Nam hoặc các địa điểm hợp pháp khác; người nước ngoài theo

học tại các trường đào tạo những người chuyên hoạt động tôn giáo ở Việt Nam.

- Quy định cụ thể về trình tự, thủ tục đăng ký hoạt động tôn giáo và công nhận

tổ chức tôn giáo, nhất là đối với các tôn giáo mới cần phải đăng ký hoạt động tôn giáo

và trách nhiệm bảo đảm tôn trọng, tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo mới hoạt

động trong khuôn khổ pháp luật và theo hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo.

Đồng thời, nghiên cứu để quy định hợp lý về các vấn đề thành lập, chia, tách, sáp

nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo (cấp trung ương hoặc trực thuộc); thành lập trường,

giải thể trường, mở lớp bồi dưỡng những người chuyên hoạt động tôn giáo; phong

chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu củ, suy cử, cách chức, bãi nhiệm, thuyên chuyển

78

chức sắc trong tôn giáo; trình tự, thủ tục, thẩm quyền giải quyết để hạn chế tối đa sự

can thiệp của Nhà nước vào hoạt động nội bộ của tổ chức tôn giáo, tôn trọng và bảo

đảm quyền tự chủ và quyết định các vấn đề nội bộ của tổ chức tôn giáo.

- Quy định cụ thể các chính sách về tôn giáo thể hiện chủ trương Nhà nước

khuyến khích và tạo điều kiện bảo đảm cho các hoạt động tôn giáo vì lợi ích công

cộng, lợi ích quốc gia như bảo hộ tài sản hợp pháp của tổ chức tôn giáo; bảo đảm

giao quyền sử dụng đất nơi có các công trình do cơ sở tôn giáo sử dụng gồm đất

thuộc chùa, nhà thờ, thánh thất, thánh đường, tu viện, trường đào tạo những người

chuyên hoạt động tôn giáo; trụ sở của tổ chức tôn giáo, các cơ sở khác của tôn giáo

được Nhà nước cho phép hoạt động được sử dụng ổn định lâu dài.

- Quy định rõ chính sách khuyến khích của Nhà nước đối với hoạt động từ

thiện, nhân đạo của các tổ chức tôn giáo, bao gồm hoạt động quyên góp; hoạt động

trong các lĩnh vực giáo dục, y tế, từ thiện nhân đạo, bảo trợ xã hội của cơ sở tín

ngưỡng, tổ chức tôn giáo.

- Quy định rõ các hành vi nghiêm cấm và xử lý nghiêm những hành vi lợi

dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, các vấn đề quản lý Nhà nước đối với hoạt

động của các tổ chức tôn giáo phải do luật quy định. Đây là một trong những quyền

tự do cơ bản nhất của con người, có liên quan, ảnh hưởng trực tiếp tới các vấn đề tư

tưởng của công dân, các vấn đề về phát huy truyền thống, đạo lý, thuần phong, mĩ tục

của dân tộc, đất nước, góp phần bảo đảm sự đóng góp tích cực của các tổ chức tôn

giáo vào ổn định đất nước, chống mọi âm mưu lợi dụng tôn giáo để chia rẽ dân tộc,

chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân.

- Nghiên cứu để quy định hợp lý về tư cách pháp nhân của tổ chức tôn giáo

phù hợp với mô hình, hệ thống tổ chức tương đối phức tạp và khác biệt của các tổ

chức tôn giáo, bảo đảm sự thuận lợi trong các giao dịch, quan hệ của tổ chức tôn giáo

với các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan tới hoạt động tôn giáo.

Trong điều kiện mở cửa và chủ động hội nhập quốc tế thì pháp luật quốc gia

về quyền con người phải tương thích và phù hợp với những quy định của pháp luật

quốc tế, được chứa đựng trong các điều ước quốc tế về quyền con người mà Nhà

79

nước Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập. Do vậy, quá trình xây dựng và hoàn thiện

pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo cần phải đảm bảo phù hợp với Điều ước quốc tế mà

Việt Nam đã ký kết.

3.2.1.4. Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo

Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội những giá trị văn hóa, đạo đức tốt

đẹp của tôn giáo vẫn có vai trò, đôi khi là to lớn cho việc phát triển xã hội. Để những

giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo được phát huy, Đảng, Nhà nước cần

phải có những chính sách cụ thể và phù hợp với từng tôn giáo cũng như với từng lĩnh

vực của tôn giáo. Đó trước hết là chính sách văn hóa đối với những giá trị văn hóa tôn

giáo nhằm một mặt giữ gìn, mặt khác trao truyền cho các thế hệ mai sau gìn giữ

những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể văn hóa tôn giáo. Quần chúng tín đồ còn

phải biết đấu tranh gạt bỏ những mặt trái làm phương hại đến những giá trị văn hóa

tôn giáo. Chẳng hạn như phê phán hủ tục buôn thần, bán thánh, lợi dụng tín ngưỡng,

tôn giáo để đầu cơ trục lợi, nạn đốt vàng mã thái quá.

Đối với vấn đề văn hóa tâm linh đang nổi lên trong giai đoạn hiện nay và cũng

là sự kiện của thời gian tới cần có sự nghiên cứu và có thể ứng dụng phục vụ cho con

người thay vì thường chỉ thấy phê phán trên các phương tiện truyền thông đại chúng.

Đạo đức tôn giáo cần được sử dụng như một đầu lọc, thải loại những lối sống

phi nhân bản, thác loạn, trà đạp lên đạo đức và nhân phẩm người khác. Mục đích cuối

cùng là làm sao cho chức sắc, nhà tu hành, tín đồ làm tròn nghĩa vụ kép: Sống tốt đời,

đẹp đạo, đóng góp vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

3.2.1.5. Nâng cao đời sống kinh tế, văn hóa và xã hội

Nhà nước nên có chương trình, hành động thiết thực, giải quyết thỏa đáng nhu

cầu tôn giáo cho người có tín ngưỡng, tôn giáo. Đẩy mạnh phát triền kinh tế, xã hội,

xóa đói giảm nghèo, nâng cao mức sống cho đồng bào các dân tộc, tôn giáo. Giải

quyết tốt tình trạng tranh chấp đất đai, đẩy nhanh tiến độ giao đất, khoán rừng, tổ

chức lại sản xuất cho đồng bào các dân tộc thiểu số tại chỗ, tạo việc làm ổn định, giúp

bà con an cư, lạc nghiệp. Tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động định canh, định cư, tăng

cường cán bộ khuyến nông, khuyến lâm hướng dẫn đồng bào áp dụng tiến bộ khoa

80

học – kỹ thuật, chuyển đổi ngành nghề, phát triển chăn nuôi, trồng trọt, nâng cao thu

nhập, cải thiện chất lượng cuộc sống để đồng bào yên tâm xây dựng cuộc sống lâu dài

trên các địa bàn miền núi, biên giới. Chăm lo phát triển sự nghiệp y tế, sự nghiệp giáo

dục – đào tạo, nâng cao trình độ dân trí cho đồng bào các dân tộc, nhất là đồng bào có

đạo để tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội,

củng cố an ninh – quốc phòng đất nước; bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa

truyền thống, phục hồi các lễ hội, phong tục, tập quán tốt đẹp, đáp ứng nhu cầu sinh

hoạt văn hóa lành mạnh cho bà con các dân tộc, tôn giáo.

Chăm lo, đẩy mạnh hơn nữa công tác giáo dục, tuyên truyền vận động các

tầng lớp nhân dân, nhất là đồng bào có đạo hiểu rõ và nắm vững đường lối, chủ

trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề dân tộc, tôn giáo trong tình

hình mới. Trên cơ sở đó, nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các cấp, các ngành,

đoàn thể và toàn dân đối với việc triển khai thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của

Đảng, các luật, pháp lệnh, Nghị định của Nhà nước về vấn đề dân tộc, tôn giáo đã

ban hành, làm cho các chủ trương, chính sách của Đảng đi vào đời sống hiện thực

của người dân, tạo cơ sở, niềm tin vững chắc cho đồng bào có đạo yên tâm làm tròn

bổn phận “sống tốt đời, đẹp đạo”, “sống phúc âm trong lòng dân tộc”, không để các

thế lực thù địch lợi dụng sự thiếu hiểu biết về các chính sách dân tộc, tôn giáo của

đồng bào để xuyên tạc, lôi kéo, kích động đồng bào có đạo vào các hoạt động phá

hoại, gây mất ổn định về chính trị - xã hội ở địa phương, cơ sở, ảnh hưởng đến phát

triển kinh tế, tăng cường quốc phòng – an ninh cũng như đời sống của nhân dân,

trực tiếp là đồng bào tôn giáo.

Quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến

chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận, đúng quy định

của pháp luật. Trong các văn bản của Đảng và Nhà nước trước đây đối với tổ chức

tôn giáo chỉ ghi là “quan tâm”, Đại hội Đảng XI yêu cầu cao hơn là “tạo điều

kiện”. Tạo điều kiện ở đây được hiểu rằng Đảng, Nhà nước tiếp tục hoàn thiện chính

sách và pháp luật đảm bảo cho các tôn giáo, tổ chức tôn giáo sinh hoạt bình thường.

Nhưng thủ tục hành chính như cấp giấy phép xây dựng, sửa chữa cơ sở thờ tự, cấp

81

giấy xác nhận, quyền sử dụng đất, hay giải quyết những vấn đề đạo sự... cho các tôn

giáo tiếp tục được cải tiến, tránh bệnh giấy tờ hoặc gây phiền hà, sách nhiễu. Nếu tôn

giáo được quan tâm và tạo điều kiện để thực hiện tốt theo hiến chương, điều lệ thì

chắc chắn sẽ không có chuyện xảy ra điểm nóng tôn giáo, kéo theo đó là các hệ lụy.

Trong quá trình thực hiện tốt các chính sách phát triển kinh tế, xã hội, nâng

cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân cũng cần phát huy bản sắc văn hóa

truyền thống, bài trừ hủ tục.

3.2.1.6. Chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi

dụng tín ngưỡng, tôn giáo để mê hoặc, chia rẽ phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc

Biểu hiện tiêu cực tôn giáo thời nào cũng có. Đó là mặt trái của tôn giáo. Do

tính nhạy cảm của tôn giáo nên chủ động phòng ngừa mặt trái của tôn giáo được đặt

lên hàng đầu. Kinh nghiệm cho thấy nếu để sự việc xảy ra thì giải quyết rất phức

tạp, đôi khi kéo dài, và vấn đề sẽ rất dễ bị lợi dụng, chuyển hóa thành vấn đề nhân

quyền hay chính trị.

Đảng ta luôn coi trọng công tác đấu tranh chống những quan điểm sai trái,

những luận điệu thù địch chống phá cách mạng. Đây là nhiệm vụ đặc biệt, cần có sự

phối hợp đồng bộ, chỉ đạo chặt chẽ, huy động năng lực và trí tuệ của đội ngũ cán bộ

trong toàn hệ thống chính trị nhằm giải quyết những vấn đề nảy sinh trong nhận thức

tình cảm, tư tưởng của nhân dân. Đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch

cũng chính là sự khẳng định lập trường của Đảng và Nhà nước ta trước những biến

động phức tạp trên thế giới và trong nước, từ đó củng cố nhận thức chính trị, giữ

vững thế trận lòng dân, đưa sự nghiệp cách mạng tới thắng lợi hoàn toàn. Trong các

văn kiện của Đảng, Đảng ta luôn khẳng định: Đồng bào các tôn giáo là bộ phận quan

trọng của khối đại đoàn kết dân tộc. Do đó các thế lực phản động khi nhắm vào việc

phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc thường sử dụng việc phá hoại đoàn kết Lương -

Giáo làm ngòi nổ. Đối với những kẻ lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ phá hoại

khối đại đoàn kết dân tộc, thì phải kiên quyết đấu tranh. Do đây là vấn đề phức tạp

nên khi đấu tranh có phân biệt kẻ chủ mưu, cầm đầu với quần chúng bị lợi dụng. Với

quần chúng bị lợi dụng thì các hệ thống chính trị phải vào cuộc lấy vận động, thuyết

82

phục để quần chúng hiểu rõ những việc làm sai trái, tự nguyện vứt bỏ. Đối với bọn

chủ mưu, cầm đầu khi đấu tranh cũng phải lượng hình, mục đích để họ biết hối tội.

Vấn đề tôn giáo và quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở nước ta luôn là vấn đề

nhạy cảm, phức tạp và dễ bị các thế lực thù địch lợi dụng, kích động lòng dân hòng

phá hoại thành quả cách mạng. Do vậy, việc giải quyết vấn đề tôn giáo nói chung

cũng như bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo nói riêng phải đặt trong tổng thể

những giải pháp và chiến lược bảo vệ và phát triển thành quả của cách mạng, thành

tựu của công cuộc đổi mới và phát huy không ngừng những giá trị tốt đẹp.

3.2.1.7. Quan tâm, giải quyết nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo cho đồng bào các

dân tộc thiểu số

Tín ngưỡng, tôn giáo là một vấn đề rất nhạy cảm, thường nảy sinh trực tiếp từ

những điều kiện kinh tế - xã hội, văn hóa và trình độ nhận thức của người dân, nhất là

ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa. Ở đó, người dân thiếu thốn cả

điều kiện kinh tế lẫn trình độ nhận thức còn hạn chế, do đó vấn đề tín ngưỡng, tôn

giáo khá phức tạp. Để giải quyết được nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo cho đồng bào dân

tộc thiểu số, một mặt Nhà nước cần chăm lo, chú trọng đặc biệt đến việc bảo đảm

quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, mặt khác cần đầu tư và thực hiện chính sách phát

triển kinh tế - xã hội hợp lý để cải thiện sinh hoạt, nâng cao mức sống cho đồng bào

tôn giáo. Cần phê phán những luận điệu sai trái về vấn đề tôn giáo, dân tộc, nhân

quyền; cần xây dựng và phát triển hệ thống lý luận khoa học vững chắc về tôn giáo

cũng như nghiên cứu kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới để làm cơ sở cho

hoạt động giáo dục, tuyên truyền và chỉ đạo thực hiện trong tình hình hiện nay.

3.2.1.8. Đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát việc thực thi pháp luật về tín

ngưỡng, tôn giáo

Những năm qua cùng với việc tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng

đối với tôn giáo, công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo được tăng

cường, dần đi vào nề nếp; các hoạt động tôn giáo diễn ra bình thường, thuần túy tôn

giáo và tuân thủ các quy định của pháp luật về hoạt động tôn giáo. Tuy nhiên, có nơi,

có lúc vẫn xảy ra tình trạng một số cơ quan trong bộ máy Nhà nước và tổ chức tôn

83

giáo cũng có lúc vi phạm pháp luật. Hậu quả của vấn đề này làm hạn chế quyền tự do

tín ngưỡng, tôn giáo hợp pháp, tạo ra sự căng thẳng không cần thiết giữa các tôn giáo

với chính quyền. Do vậy, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và cả tổ chức, cơ sở tôn

giáo, tín ngưỡng cần phối kết hợp với nhau và phối hợp với Đảng, Nhà nước, các tổ

chức xã hội và nhân dân để kiểm tra và tăng cường giám sát chất lượng việc thực thi

chính sách pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo. Tăng cường chất lượng và hiệu quả

giám sát của cơ quan quyền lực Nhà nước đối với các cơ quan Nhà nước khác, các tổ

chức và công dân trong việc thực hiện pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo.

3.2.1.9. Tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo tham gia các hoạt động xã hội

Các tổ chức tôn giáo là một bộ phận trong xã hội, chúng ta đã thừa nhận tôn

giáo đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước

ta. Do vậy, cần phải tạo điều kiện cho họ tham gia vào các hoạt động xã hội như các

hoạt động giáo dục, y tế, từ thiện nhân đạo để thực hiện một trong những chức năng

quan trọng của tôn giáo. Nên tạo cho các tổ chức tôn giáo khả năng và quyền hạn

pháp lý để có thể tham gia tích cực hơn vào các lĩnh vực xã hội. Sự mở rộng như vậy

không chỉ đáp ứng nhu cầu của các tổ chức tôn giáo mà còn phát huy được những

tiềm năng sẵn có của các tổ chức đó.

Trong tôn giáo, các chức sắc tôn giáo đều làm việc bằng trí tuệ, đạo tâm và

đạo lực vốn có của mình, họ làm việc bằng tinh thần tự nguyện, nhiệt tình mong

muốn đem lại niềm vui cho đồng bào. Sức ảnh hưởng to lớn của tôn giáo trong đời

sống tín ngưỡng của người dân cũng tạo điều kiện cho các tổ chức này tạo nên sức

lan tỏa trong cộng đồng bằng những việc làm thiện nguyện. Với những thuận lợi đó,

Đảng, Nhà nước ta cần tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa, nhất là từ phía chính quyền

các cấp, các ngành, các đoàn thể xã hội; sự quan tâm chỉ đạo, hướng dẫn cụ thể, chi

tiết các hoạt động xã hội từ thiện của tôn giáo thì sẽ phát huy và đóng góp nhiều hơn

nữa cho xã hội.

3.2.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền tự do

tín ngưỡng, tôn giáo

3.2.2.1. Tính cấp thiết của việc sửa đổi pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo

Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo được xây dựng và ban hành trong thời kỳ đầu

84

của công cuộc đổi mới đất nước, trong đó có đổi mới về chính sách tôn giáo qua Nghị

quyết số 24-NQ/TW ngày 16/10/1990 của Bộ Chính trị, Ban chấp hành Trung ương

Đảng (khóa VI) về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới và Nghị quyết số

25-NQ/TW ngày 12/3/2003 của Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) về công

tác tôn giáo Pháp lệnh được ban hành. Pháp lệnh đã khẳng định chính sách đúng đắn

của Nhà nước về quản lý hoạt động tôn giáo; tạo hành lang pháp lý quan trọng bảo

đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân, là dấu mốc quan trọng trong quá

trình hoàn thiện hệ thống pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo. Pháp lệnh cũng thể hiện

chính sách dân chủ, tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân; xác

định rõ quyền và nghĩa vụ của các cá nhân, tổ chức tôn giáo, trách nhiệm của các cơ

quan quản lý nhà nước trong việc bảo đảm quyền và nghĩa vụ của các cá nhân, tổ

chức trong hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo; tôn trọng và bảo đảm nguyên tắc những

việc nội bộ của các tổ chức tôn giáo do các tôn giáo tự giải quyết theo hiến chương,

điều lệ đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận.

Tuy nhiên, qua tổng kết 10 năm thực hiện pháp lệnh và các văn bản quy định

chi tiết thi hành, cho thấy những bất cập trong các quy định của Pháp lệnh chưa phù

hợp tình hình hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo và có những vấn đề phức tạp phát sinh.

Một số quy định của Pháp lệnh còn thiếu cụ thể, chưa phù hợp với thực tiễn

hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo làm ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền tự do tín

ngưỡng, tôn giáo của mọi người như quy định về hoạt động tín ngưỡng, đăng ký hoạt

động tôn giáo, công nhận tổ chức tôn giáo, phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu

cử, suy cử, hoạt động xã hội của các tổ chức tôn giáo, hoạt động quốc tế.

Vấn đề tổ chức tôn giáo Việt Nam gia nhập tổ chức tôn giáo quốc tế; việc

phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử cho người có quốc tịch nước

ngoài hoạt động cho tổ chức tôn giáo ở Việt Nam; việc người nước ngoài vào tu tại

cơ sở tôn giáo ở Việt Nam,… chưa được quy định, gây ảnh hưởng đến tổ chức, cá

nhân tôn giáo trong việc thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo như quy định tại

Điều 24 của Hiến pháp 2013.

Về trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo chưa

được quy định cụ thể trong pháp lệnh, ảnh hưởng đến hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà

85

nước đối với lĩnh vực này và hoạt động của tổ chức, cá nhân tôn giáo…

Những hạn chế, bất cập này đặt ra yêu cầu cấp thiết phải xây dựng Luật

thay thế Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo để đáp ứng yêu cầu thực tiễn về tín

ngưỡng, tôn giáo, cũng như nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước, thực hiện

chủ trương của Đảng tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII "Tiếp tục hoàn thiện

chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo, phát huy những giá trị văn hóa, đạo

đức tốt đẹp của các tôn giáo".

3.2.2.2. Yêu cầu đặt ra khi sửa đổi pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo 2004

Một là, phải bám sát Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương

Đảng (Khóa IX) về công tác tôn giáo và Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII.

Hai là, bảo đảm tính kế thừa pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo ban hành năm

2004; sửa đổi những quy định chưa rõ ràng, không phù hợp; bổ sung những quy định

chưa được điều chỉnh trong Pháp lệnh mà thực tiễn đang đòi hỏi phải sớm có quy

định để điều chỉnh; bãi bỏ những quy định không còn phù hợp với thực tiễn và xu

hướng phát triển trong hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo.

Ba là, bảo đảm tính khả thi, thống nhất với Hiến pháp và các văn bản quy

phạm pháp luật khác có liên quan trong hệ thống pháp luật Việt Nam.

Bốn là, nội dung sửa đổi phải bám sát yêu cầu của thực tiễn đòi hỏi, nâng cao

hiệu quả của công tác quản lý Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo; bảo đảm quyền tự

do tín ngưỡng, tôn giáo, quyền theo hoặc không theo một tôn giáo nào của mọi

người; phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy những giá trị

truyền thống tốt đẹp trong tôn giáo; bảo đảm tính công khai, minh bạch, dân chủ;

giảm thời gian, tiết kiệm chi phí cho tổ chức, cá nhân tôn giáo.

Năm là, các quy định sửa đổi, bổ sung phải phù hợp với pháp luật quốc tế và

xu hướng phát triển, tình hình hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam.

3.2.2.3. Kiến nghị sửa đổi một số điều của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo

Mặc dù quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm,

tạo điều kiện song việc cụ thể hóa trong các văn bản luật còn chưa có, hệ thống văn bản

pháp luật và pháp quy về tôn giáo hiện nay của chúng ta còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng

được đòi hỏi của tình hình thực tế, thiếu về các quy định và điều khoản thi hành dẫn đến

86

làm giảm hiệu quả của việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.

- Từ Hiến pháp cho đến pháp lệnh đều không có giải thích thế nào là tôn giáo,

tín ngưỡng và thế nào là mê tín, dị đoan. Chính sự không giải thích này dẫn đến nhiều

người không hiểu và phân biệt được để có những hành động, cư xử đúng với quy

định của pháp luật. Nên chăng quy định rõ hai điều trên để từ đó đưa ra quy định xử

lý đối với những hành vi vi phạm pháp luật như mê tín dị đoan.

- Điều 1, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với quy định tại Điều 24 Hiến pháp

2013, theo đó, đã sửa đổi cụm từ “Công dân” bằng cụm từ “Mọi người”. Việc sửa

đổi, bổ sung theo tinh thần quy định của Điều 24 Hiến pháp đã khẳng định quyền tự

do tín ngưỡng, tôn giáo là quyền của con người, mọi người đều được Nhà nước tôn

trọng và bảo đảm quyền đó được thực hiện trên thực tế, không phân biệt người Việt

Nam hay người nước ngoài đang sinh sống, làm việc ở Việt Nam. Đây là một bước

tiến lớn trong việc thể chế quy định bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của

Nhà nước ta.

- Khoản 4, Điều 3, nên thay khái niệm “tổ chức tôn giáo cơ sở” bằng “tổ chức

tôn giáo trực thuộc”, bởi vì khái niệm này bao quát hết được các tổ chức cấp dưới của

tổ chức tôn giáo khác nhau. Khắc phục được thực tế và đáp ứng nhu cầu chính đáng

của tín đồ, tổ chức tôn giáo trong việc thành lập tổ chức tôn giáo trực thuộc.

- Bổ sung khái niệm “sinh hoạt tôn giáo” nhằm phân biệt sinh hoạt tôn giáo và

hoạt động tôn giáo vì một số điều khoản trong Pháp lệnh có quy định về sinh hoạt tôn

giáo: “Sinh hoạt tôn giáo là việc thực hành nghi thức thờ cúng, cầu nguyện, bày tỏ

niềm tin tôn giáo”. Bổ sung khái niệm “tà đạo” để làm căn cứ, cơ sở nhận biết những

dấu hiệu của hoạt động tà đạo, làm cơ sở cho cơ quan quản lý nhà nước xử lý đối với

các hoạt động này khi họ lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động làm ảnh hưởng

đến an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội: “Tà đạo là hoạt động mang hình thức

tín ngưỡng, tôn giáo của cá nhân hay nhóm người trái pháp luật, xâm phạm an ninh

trật tự, trái với thuần phong mỹ tục, xuyên tạc lịch sử, phá hoại khối đại đoàn kết dân

tộc và những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam”.

- Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo đã quy định ba điều kiện để công nhận cơ sở

87

tôn giáo có tư cách pháp nhân nhưng còn quy định về tài sản của cơ sở tôn giáo thì

chưa có quy định, điều này dẫn đến nhiều hệ lụy, phiền toái cho các cơ sở tôn giáo

như: thiếu cơ sở pháp lý bảo đảm cho tính minh bạch của tài sản giáo hội; nguy cơ bị

cá nhân hoặc tổ chức tài trợ tài chính thâu tóm, chi phối trong trường hợp giáo hội

phải lệ thuộc vào cá nhân hoặc tổ chức tài trợ ấy để hoạt động;… dẫn đến những mất

ổn định trong chính cơ sở đó. Vì vậy kiến nghị cần quy định thêm điều kiện về tài sản

khi công nhận tổ chức tôn giáo có tư cách pháp nhân.

Đồng thời bổ sung thêm quy định cụ thể về pháp nhân tôn giáo ngoài những

tiêu chí công nhận pháp nhân chung nên cụ thể hóa cho phù hợp với tổ chức tôn giáo

như có thể gồm các tiêu chí: có tên gọi của tổ chức tôn giáo, không trùng với tên gọi

của tổ chức tôn giáo đã được công nhận; tổ chức tôn giáo phải có mục đích, tôn chỉ,

hiến chương, điều lệ hành đạo phù hợp với truyền thống văn hóa, lợi ích dân tộc và

không trái với pháp luật; tôn giáo phải có cơ sở thờ tự.

- Về quyền và nghĩa vụ của các bên, Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo chưa quy

định cụ thể đối với từng chủ thể tham gia quan hệ pháp luật về tôn giáo nên trong quá

trình thực hiện pháp luật còn gặp nhiều vướng mắc. Do đó cần có sự điều chỉnh trong

dự thảo Luật tín ngưỡng, tôn giáo trong thời gian sắp tới để xác định rõ những quyền

và nghĩa vụ cơ bản của các chủ thể như tổ chức, chức sắc, nhà tu hành và tín đồ tôn

giáo, cơ quan quản lý Nhà nước các cấp và mọi tổ chức, cá nhân khác liên quan.

- Bổ sung quy định tại điều 12 cho phù hợp với tình hình thực tiễn, Điều 12

Pháp lệnh 2004 chỉ quy định tổ chức tôn giáo cơ sở phải đăng ký hoạt động tôn giáo

hàng năm còn các tổ chức tôn giáo cấp trên cơ sở thì không quy định, quy định này

nhằm yêu cầu các tổ chức tôn giáo (trung ương hoặc trực thuộc) phải có trách nhiệm

đăng ký chương trình hoạt động tôn giáo diễn ra hàng năm, đáp ứng được yêu cầu

quản lý nhà nước về tôn giáo trong tình hình mới.

- Điều 33, sửa đổi, bổ sung Khoản 1 Điều 33 Pháp lệnh theo hướng mở rộng,

quy định cho tổ chức tôn giáo được tham gia hoạt động và thành lập các cơ sở khám

bệnh, chữa bệnh; giáo dục mầm non, lớp ngoại ngữ, tin học; cơ sở dạy nghề; cơ sở

bảo trợ xã hội như các tổ chức khác Khoản 2 nhằm khuyến khích các tổ chức tôn giáo

tham gia hoạt động hoặc thành lập các cơ sở hoạt động vì mục đích từ thiện nhân đạo.

88

Quy định này nhằm khắc phục được hạn chế của Điều 33 Pháp lệnh 2004, phù hợp với

chủ trương về xã hội hóa của Đảng, Nhà nước, phù hợp với văn kiện Đại hội Đảng toàn

quốc lần thứ XI, phát huy tối đa được các tiềm năng, nguồn lực, thế mạnh của các tôn

giáo trong lĩnh vực này, góp phần cùng với Nhà nước và toàn xã hội giải quyết những

vấn đề xã hội đang đặt ra. Thể hiện chinh sách bình đẳng, không phân biệt đối xử vì lý

do tín ngưỡng, tôn giáo của Nhà nước khi tổ chức tham gia vào các quan hệ pháp luật.

Quy định này được ban hành sẽ được các tổ chức, cá nhân tôn giáo trong và ngoài

nước ủng hộ, đón nhận và không trái với quy định của pháp luật liên quan.

- Các quy định pháp luật về Bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo còn

được chứa đựng trong nhiều ngành luật thuộc nhiều lĩnh vực khác có liên quan, do đó

cũng cần phải rà soát lại toàn bộ hệ thống pháp luật để đảm bảo tính thống nhất của

pháp luật, tránh chồng chéo, mâu thuẫn nhau.

- Vấn đề xử phạt hành chính trong lĩnh vực tôn giáo cũng cần có quy định rõ

ràng mặc dù đã có Pháp lệnh xử phạt hành chính, Luật cán bộ công chức, tuy nhiên

89

cũng nên có văn bản pháp luật có liên quan điều chỉnh.

KẾT LUẬN

Việt Nam là một quốc gia có nền văn hóa lâu đời, đậm đà bản sắc dân tộc, kết

tinh từ sự đa dạng các nền văn hóa trong cộng đồng 54 dân tộc. Đồng thời, Việt Nam

cũng là quốc gia đa sắc tộc và đa tôn giáo, mọi tôn giáo đều bình đẳng và được tôn

trọng, bảo đảm. Các tôn giáo cùng tồn tại và phát triển cùng xã hội và gắn với dân

tộc, gắn với nhân quyền. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm, chăm lo

đời sống vật chất, tinh thần cho tín đồ tôn giáo, bảo đảm cho các tôn giáo luôn được

phát triển hài hòa, đồng hành cùng dân tộc.

Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những quyền cơ bản của con

người, thuộc nhóm quyền dân sự và chính trị, được ghi nhận trong pháp luật quốc tế

về quyền con người cũng như trong pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới. Do

vậy, bảo đảm Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo luôn được Đảng và Nhà nước ta

khẳng định qua các kỳ đại hội, được ghi nhận không chỉ trong Hiến pháp mà còn cả

trong Pháp lệnh, Nghị định, Thông tư hướng dẫn thi hành. Đó luôn là chủ trương nhất

quán, xuyên suốt trong quá trình lãnh đạo của Đảng. Hiếm có một quốc gia nào có

tinh thần khoan dung tôn giáo như Việt Nam, đây là một đặc trưng cơ bản của sự tôn

trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam.

Theo dòng chảy lịch sử, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ra đời từ khá sớm, ở

Việt Nam nó gắn liền với quá trình cách mạng, quá trình xây dựng và bảo vệ tổ quốc,

bảo vệ độc lập, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đặc

biệt đến vấn đề tôn giáo bằng những chủ trương, chính sách cụ thể. Tuy nhiên, trong

quá trình thực hiện vẫn còn bộc lộ một số hạn chế do xuất phát từ những nhận thức lý

luận mới về tôn giáo, về nhà nước thế tục và mối quan hệ giữa nhà nước pháp quyền

với tôn giáo và từ kinh nghiệm quốc tế về giải quyết mối quan hệ giữa nhà nước với

tôn giáo. Hệ thống pháp luật liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo chưa phù hợp với

thực tế, việc thực hiện pháp luật liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo mỗi nơi mỗi lúc

một khác. Chính sách về tôn giáo ở mỗi địa phương có sự khác nhau, không đồng

90

nhất, có những địa phương vẫn còn quá cứng nhắc trong việc xử lý vấn đề về tôn

giáo, thậm chí còn không theo chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước. Chính vì vậy

cần bổ sung, hoàn thiện chính sách pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo một cách chi

tiết, cụ thể để có sự đồng bộ giữa các địa phương và áp dụng đúng nội dung, tinh thần

chính sách của Đảng và Nhà nước. Vừa phải tạo điều kiện cho đồng bào tôn giáo phát

triển kinh tế, văn hóa, xã hội, vừa phải tạo điều kiện cho đồng bào tôn giáo thực hiện

quyền của mình. Tăng cường các biện pháp bảo đảm thực hiện quyền tự do tín

ngưỡng, tôn giáo, chú trọng biện pháp thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật của

hệ thống cơ quan làm công tác tôn giáo các cấp.

Nâng cao nhận thức không chỉ trong đồng bào tôn giáo mà trong cả cán bộ,

công chức làm công tác tôn giáo. Trước âm mưu “diễn biến hòa bình”, các thế lực

phản động lợi dụng tự do tín ngưỡng, tôn giáo để vu khống, xuyên tạc, làm sai lệch đi

chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước thì chúng ta cần đẩy mạnh công tác

tuyên truyền để các tầng lớp nhân dân, nhất là chức sắc, tín đồ tôn giáo hiểu rõ quan

điểm, chính sách tốt đẹp về tín ngưỡng; phải chỉ cho họ thấy rõ quyền tự do tín

ngưỡng, tôn giáo của công dân không chỉ được quy định trong Hiến pháp mà còn

được pháp luật bảo vệ và thực thi trên thực tế. Do đó, giải quyết vấn đề tôn giáo

luôn là đấu tranh tư tưởng chính trị mà muốn làm được điều đó, trước hết cần phải

nâng cao nhận thức của cán bộ, công chức làm công tác tôn giáo bởi chính họ là

người sẽ truyền đạt, giải thích những chính sách của Đảng, Nhà nước và cũng chính

họ là người giúp đồng bào tôn giáo hiểu đâu là quyền tự do tín ngưỡng và đâu là vi

phạm pháp luật.

Ngoài việc chăm lo đến đời sống tinh thần cho đồng bào có tín ngưỡng, tôn

giáo cũng như không có tín ngưỡng, tôn giáo, Đảng và Nhà nước ta cũng đã chú

trọng đến phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội cho các đồng bào có đạo cũng như không

có đạo. Tuy nhiên, cũng cần cụ thể hóa hơn nữa những chính sách về tôn giáo trong

hệ thống pháp luật, nhất là nên bổ sung một số quy định cụ thể vào trong dự thảo

Luật tín ngưỡng, tôn giáo sắp tới. Bởi hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo liên quan đến

tất cả các lĩnh vực của đời sống, xã hội, liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp, do đó

91

cần xây dựng Luật tín ngưỡng, tôn giáo phù hợp, tạo điều kiện, giúp đỡ các cá nhân,

tổ chức có tín ngưỡng, tôn giáo thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Đồng thời, để

đảm bảo sự bình đẳng giữa các tôn giáo, pháp luật về tôn giáo phải tạo ra được hành

lang pháp lý với những quy định thực sự bình đẳng cho các tôn giáo hoạt động.

Trong xu thế thế tục như hiện nay thì việc bình đẳng giữa các tổ chức tín

ngưỡng, tôn giáo với các tổ chức khác là rất cần thiết. Cần mở rộng hơn nữa quyền

bình đẳng của các tổ chức tín ngưỡng, tôn giáo, họ cũng có quyền làm tất cả những gì

mà pháp luật không cấm và chịu trách nhiệm về những hành vi vi phạm pháp luật của

mình. Chính quyền các cấp nên tạo điều kiện cho họ được hoạt động và tham gia trên

các lĩnh vực y tế, giáo dục, từ thiện, nhân đạo thay vì kiểm soát họ một cách chặt chẽ.

Thiết nghĩ, để quyền của các tổ chức tín ngưỡng, tôn giáo được bảo đảm thì Nhà

nước nên coi các tổ chức này như những tổ chức xã hội bình thường khác, nên cho

phép họ thành lập các phòng khám, bệnh viện tư nhân, trường mầm non, trường dạy

nghề hay các trung tâm bảo trợ xã hội nhằm phát huy nguồn lực xã hội, đặc biệt là

nguồn trí tuệ của chức sắc nhằm góp phần xây dựng và phát triển đất nước.

Với những nội dung thể hiện trong luận văn, tác giả đã cố gắng phân tích đúng

theo từng mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu đã đề ra. Tuy nhiên, do giới hạn về thời

gian cũng như khả năng nghiên cứu nên luận văn còn nhiều thiếu sót. Rất mong sự

92

đóng góp của thầy, cô và độc giả quan tâm./.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Tài liệu tiếng Việt

1.

Ban Tôn giáo Chính phủ (2012), Một số tôn giáo ở Việt Nam, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.

2. Ban tôn giáo Chính phủ (2012), Văn bản của Đảng và Nhà nước về tín

ngưỡng, tôn giáo, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.

3. Ban tôn giáo Chính phủ (2015), Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Pháp lệnh

Tín ngưỡng, tôn giáo, Hà Nội.

4.

C.Mác (1995), Lời nói đầu – Góp phần phê phán triết học Pháp quyền của Hêghen, C.Mác và Ph. Angghen toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia sự

thật, Hà Nội.

5. Nguyễn Hồng Dương (2011), “Tín ngưỡng, tôn giáo đang và sẽ tồn tại cùng

dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta”, Tạp chí Cộng

sản, Viện khoa học xã hội Việt Nam - Hà Nội.

6. Đại sứ quán và Tổng lãnh sự quán Hoa Kỳ (2014), Báo cáo tự do tôn giáo

quốc tế 2014, tại Việt Nam.

7. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

II, Nxb Sự thật, Hà Nội.

8. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

III, Nxb Sự thật, Hà Nội.

9. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

IV, Nxb Sự thật, Hà Nội.

10. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

V, Nxb Sự thật, Hà Nội

11. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

VI, Nxb Sự thật, Hà Nội

12. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

93

VII”, Nxb Sự thật, Hà Nội.

13. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

VIII”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

IX”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Nghị quyết 25-NQ/TW ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa I X về công tác tôn giáo, Hà Nội.

16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

XI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

XII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

19. Giáo hoàng Học viện Piô X (1972), Thánh Công đồng chung Vaticano II, Đà Lạt.

20. Hội bảo vệ quyền tự do tôn giáo (2015), Báo cáo Tổng kết về tình hình tự do

tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam.

21. Hội đồng Liên minh châu Âu (1953), Công ước bảo vệ Nhân quyền và các

quyền Tự do căn bản (Công ước Châu Âu về Nhân quyền).

22. Lê Quang Hưng (2014), Pháp luật Việt Nam về quyền tự do tín ngưỡng, tôn

giáo, Luận văn thạc sĩ luật học, khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

23. Khoa luật - Đại học quốc gia Hà Nội (2011), “Bình luận chung số 22 Quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng hoặc tôn giáo (Điều 18), Tập hợp những bình luận/

kiến nghị chung của Ủy ban Công ước Liên hợp quốc, Hà Nội.

24. Khoa luật - Đại học quốc gia Hà Nội (2011), “Bộ luật về quyền của Hoa Kỳ

1791”, Tư tưởng về quyền con người, Hà Nội.

25. Khoa luật - Đại học quốc gia Hà Nội (2011), “Tuyên bố năm 1981 về xóa bỏ mọi hình thức không khoan dung và phân biệt dựa trên tín ngưỡng, tôn giáo”,

Giới thiệu các văn kiên quốc tế về quyền con người, Hà Nội.

26. Khoa luật - Đại học quốc gia Hà Nội (2011), “Tuyên ngôn độc lập của Hợp

94

chủng quốc Hoa Kỳ 1776”, Tư tưởng về quyền con người, Hà Nội.

27. Khoa luật - Đại học quốc gia Hà Nội (2011), “Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân

quyền Pháp, 1788”, Tư tưởng về quyền con con người, Hà Nội.

28. Khoa luật - Đại học quốc gia Hà Nội (2011), “Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người”, Giới thiệu các văn kiện quốc tế về quyền con người,Hà Nội.

29. Khoa luật - Đại học quốc gia Hà Nội (2011), Các điều sửa đổi, bổ sung hiến

pháp Hoa Kỳ, Tuyển tập Hiến pháp của một số quốc gia, Hà Nội.

30. Khoa luật - Đại học quốc gia Hà Nội (2011), Hiến pháp Hợp chủng quốc Hoa

Kỳ, Tuyển tập Hiến pháp một số quốc gia,Hà Nội.

31. Khoa luật - Đại học quốc gia Hà Nội (2011), Tuyển tập Hiến pháp một số quốc

gia, Hiến pháp nước Cộng Hòa Pháp, Hà Nội.

32. Khoa luật - Đại học quốc gia Hà Nội (2011), Tuyển tập Hiến pháp một số quốc

gia, Hiến pháp nước Cộng Hòa nhân dân Trung Hoa, Hà Nội.

33. Khoa luật - Đại học quốc gia Hà Nội, “Công ước về các quyền dân sự, chính

trị”, Hỏi đáp về quyền con người, Hà Nội.

34. Liên hợp quốc (1945), Hiến chương.

35. Liên minh Châu Phi (1981), Hiến chương Châu Phi về quyền con người và

quyền các dân tộc 1981.

36. Nguyễn Đức Lữ (2011), “Những điểm mới trong Đại hội XI về tôn giáo”, Tạp

chí Cộng sản, Viện khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội.

37. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2003), Luật bầu cử đại

biểu Hội đồng nhân dân, Nxb chính trị Quốc gia, Hà Nội.

38. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2005), Bộ luật Dân sự,

Nxb chính trị Quốc gia, Hà Nội.

39. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2005), Bộ luật Tố tụng

Dân sự, Nxb chính trị Quốc gia, Hà Nội.

40. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2005), Hiến pháp năm

1946, 1959, 1980, 1992, Nxb chính trị Quốc gia, Hà Nội.

41. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2005), Luật giáo dục,

95

Nxb chính trị Quốc gia, Hà Nội.

42. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2005), Luật hôn nhân

và gia đình, Nxb chính trị Quốc gia, Hà Nội.

43. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2005), Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo và Nghị định hướng dẫn thi hành, Nxb Chính trị Quốc gia,

Hà Nội.

44. Chu Hồng Thanh (2015), Quyền con người, Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong hiến pháp 2013 – Sách: Bình luận khoa học về Hiến pháp 2013, NXB CTQG.

45. Thủ tướng Chính phủ (2005), Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về một số công

tác đối với đạo Tin lành, Hà Nội.

46. Thủ tướng Chính phủ (2008), Chỉ thị số 1940/2008/CT-TTg ngày 31/12/2008

về nhà, đất liên quan đến tôn giáo, Hà Nội.

47. Thủ tướng Chính phủ (2012), Nghị định 92/2012/ NĐ –CP ngày 08/11/2012 quy

định chi tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, Hà Nội.

48. Đặng Tài Tính (2005), “Tôn trọng tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo – Chính

sách nhất quán của Đảng và Nhà nước”, Công tác tôn giáo, (1).

49. Tổ chức các quốc gia châu Mỹ (1978), Công ước Châu Mỹ về Nhân quyền

(Hiệp ước San José)..

50. Đặng Nghiêm Vạn (1998), Những vấn đề lý luận và thực tiễn tôn giáo ở Việt

Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

II. Tài liệu Website

51. http://btgcp.gov.vn/Plus.aspx/vi/News/38/0/240/0/7170/Van_ban_phap_luat_v

e_tin_nguong_ton_giao_o_Viet_Nam_hien_nay_ket_qua_va_bat_cap.

52.

http://btgcp.gov.vn/Plus.aspx/vi/News/38/0/240/0/4881/Quyen_tu_do_tin_ngu ong_ton_giao_trong_Hien_phap_Viet_Nam.

53.

http://btgcp.gov.vn/Plus.aspx/vi/News/38/0/240/0/3095/Viet_Nam_luon_ton_t rong_quyen_tu_do_tin_nguong_ton_giao.

54. http://nguoibaovequyenloi.com/User/ThongTin_ChiTiet.aspx?MaTT=1572016

96

54220371695&MaMT=22.