ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ THỊ DÂN B¶O §¶M QUYÒN Tù DO TÝN NG¦ìNG, T¤N GI¸O ë VIÖT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2016
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ THỊ DÂN B¶O §¶M QUYÒN Tù DO TÝN NG¦ìNG, T¤N GI¸O ë VIÖT NAM Chuyên ngành: Luật Hiến pháp - Luật Hành chính Mã số: 60 38 01 02
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS CHU HỒNG THANH
HÀ NỘI - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo
tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có
thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
LÊ THỊ DÂN
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 1
Chƣơng 1: CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, PHÁP LÝ CƠ BẢN VỀ BẢO ĐẢM
QUYỀN TỰ DO TÍN NGƢỠNG, TÔN GIÁO .............................................. 9
1.1. Khái niệm, đặc điểm về bảo đảm quyền tự so tín ngƣỡng, tôn .................... 9
1.1.1. Khái niệm ............................................................................................................ 9
1.1.2. Đặc điểm của quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ............................................... 15
1.2. Quy định của pháp luật quốc tế .................................................................... 17
1.2.1. Quy định quốc tế ............................................................................................... 17
1.2.2. Các văn kiện khu vực ....................................................................................... 22
1.3. Kinh nghiệm bảo đảm quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo trong pháp
luật một số nƣớc trên thế giới ........................................................................ 24
1.3.1. Hợp chủng quốc Hoa Kỳ .................................................................................. 24
1.3.2. Cộng hòa Pháp .................................................................................................. 26
1.3.3. Trung Quốc ........................................................................................................ 29
1.3.4. Một số quốc gia Hồi giáo tiêu biểu ................................................................... 31
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN TỰ DO TÍN NGƢỠNG,
TÔN GIÁO TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM ......................................... 33
2.1. Khái quát về tín ngƣỡng, tôn giáo ở Việt Nam ............................................ 33
2.1.1. Đặc điểm của tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam ...................................... 33
2.1.2. Khái quát về tình hình tín ngưỡng........................................................... 35
2.1.3. Khái quát về tình hình tôn giáo ở Việt Nam ..................................................... 36
2.2. Bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong pháp luật Việt Nam ........ 42
2.2.1. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong Hiến pháp Việt Nam ......................... 42
2.2.2. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong các văn bản Luật, Nghị định ............. 46
2.3. Những thành tựu và hạn chế về bảo đảm quyền tự do tín ngƣỡng,
tôn giáo ở Việt Nam ........................................................................................ 52
2.3.1. Thành tựu .......................................................................................................... 52
2.3.2. Hạn chế ............................................................................................................. 58
Chƣơng 3: QUAN ĐIỂM, ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM BẢO
ĐẢM QUYỀN TỰ DO TÍN NGƢỠNG, TÔN GIÁO TRONG PHÁP
LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY ..................................................................... 67
3.1. Quan điểm về bảo đảm quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo ............................. 67
3.2. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền tự do tín ngƣỡng,
tôn giáo trong pháp luật Việt Nam ................................................................ 73
3.2.1. Giải pháp nâng cao hiệu quả đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở
Việt Nam ........................................................................................................... 73
3.2.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo ............................................................................................... 84
KẾT LUẬN ................................................................................................................. 90
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................. 93
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ACHPR (The African Commission on Human and Peoples Rights) Hiến chương Châu Phi về quyền con người
ACHR (The American Convention on Human Rights) Công ước Châu Mỹ về quyền con người
ECHR (The European Convention on Human Rights) Công ước Châu Âu về bảo vệ quyền con người và tự do cơ bản
ICCPR (International Convenat on Civil and Political Rights) Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị
ICESCR Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hóa và xã hội (International Convenat on Economic, Social and Cultual Rights)
ILO (International Labour Organization) Tổ chức lao động quốc tế
UDHR (Universal Declaration of Human Rights) Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người
UNESCO (United Nations Educational Tổ chức giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc
Scientific and Cultural Organization)
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và
sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta; đồng bào
tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Lịch sử dựng nước và giữ
nước của dân tộc Việt Nam là lịch sử thống nhất và đoàn kết của cộng đồng dân tộc,
giữa các tôn giáo và tín ngưỡng bản địa với các tôn giáo du nhập từ bên ngoài. Các
dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam đều có những tín ngưỡng riêng gắn
liền với đời sống kinh tế và tâm linh của mình.
Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một quyền cơ bản của con người, được
ghi nhận trong pháp luật quốc tế về quyền con người cũng như trong pháp luật của
nhiều quốc gia trên thế giới. Liên hợp quốc đề cao và bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo trong Tuyên ngôn về nhân quyền năm 1948 và Công ước quốc tế về
các quyền dân sự và chính trị năm 1966. Hầu hết các quốc gia đều ghi nhận và bảo
đảm thực hiện quyền này trong hệ thống pháp luật của mình.
Việt Nam là quốc gia đa tôn giáo, số lượng người theo tôn giáo khá đông (chỉ
tính riêng 6 tôn giáo lớn, số tín đồ đã chiếm khoảng ¼ dân số) và đang có xu hướng
phát triển mạnh. Với vị trí nằm giữa ngã ba của Đông Nam Á, giáp biển Đông, là nơi
giao lưu của nhiều luồng tư tưởng văn hóa khác nhau và có vị trí thuận lợi cho việc
tiếp thu hai nền văn minh của phương Đông là văn minh Trung Hoa và văn minh Ấn
Độ. Những đặc điểm tự nhiên, lịch sử và văn hóa đó đã tác động sâu sắc đến tín
ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam làm cho chúng trở nên đa dạng và phong phú hơn. Mặc
dù có nguồn gốc khác nhau, phương châm hành đạo không giống nhau nhưng các tôn
giáo đều có giá trị nhân văn cao đẹp, đạo đời hòa hợp, đều mong muốn sống “tốt đời,
đẹp đạo”, làm cho “nước vinh, đạo sáng”. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước luôn quan
tâm, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho tín đồ tôn giáo, bảo đảm cho các tôn
giáo phát triển hài hòa, đồng hành cùng dân tộc. Giáo hội các tôn giáo khi được Nhà
1
nước công nhận tư cách pháp nhân đều được chính quyền các cấp quan tâm và tạo
thuận lợi để hoạt động tôn giáo bình thường trong khuôn khổ pháp luật. Cùng với đó,
Đảng và Nhà nước luôn tôn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của
đồng bào các dân tộc để đáp ứng những nhu cầu, nguyện vọng tôn giáo chính đáng
của các tín đồ. Đó là nhân tố quan trọng để động viên đồng bào có tín ngưỡng, tôn
giáo tích cực tham gia sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Xuất phát từ nhận thức mới về vấn đề tôn giáo, năm 1990 Bộ chính trị ra Nghị
quyết 24 về công tác tôn giáo đã khẳng định “Tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài.
Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đạo đức tôn
giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới”. Từ trước đến nay,
đồng bào các tôn giáo luôn sống chung hòa hợp, gắn bó, đồng hành cùng dân tộc; kề
vai sát cánh bên nhau đấu tranh chống kẻ thù xâm lược và chế ngự thiên nhiên, hình
thành một truyền thống tốt đẹp: “Nước vinh, đạo sáng”, “Sống phúc âm trong lòng
dân tộc”. Trên cơ sở xác định chính sách đối với tín ngưỡng, tôn giáo là một bộ phận
quan trọng của công tác vận động quần chúng nhân dân, cho nên trong quá trình lãnh
đạo, Đảng và Nhà nước luôn coi đây là kim chỉ nam cho mọi hành động của hệ thống
chính trị trong ứng xử đối với các đồng bào các tôn giáo.
Từ kinh nghiệm bảo đảm quyền tự do của các nước trên thế giới và từ chính
sách mở rộng đối ngoại, đa dạng hóa, đa phương hóa các mối quan hệ quốc tế với
việc Việt Nam tham gia hầu hết các công ước quốc tế, Việt Nam cần xây dựng và
hoàn thiện chính sách pháp luật đối với vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo, đồng thời cụ thể
hơn nữa những biện pháp bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Với phương
châm chủ động của Đảng và Nhà nước ta trong nhiều kỳ Đại hội vừa qua đã không
ngừng khẳng định “Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng
quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực”. Thực tế, Việt
Nam có quan hệ ngoại giao với hầu hết các nước trên thế giới. Bên cạnh đó, quan hệ
quốc tế của các tổ chức tôn giáo cũng phát triển rộng mở trên nhiều lĩnh vực khác
nhau trong đời sống xã hội. Theo đó, hoạt động đối ngoại tôn giáo đòi hỏi tương xứng
và phù hợp với đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và nhà nước ta và phải phải
2
phù hợp với thông lệ quốc tế, trong đó có quan hệ quốc tế của các tổ chức tôn giáo.
Cùng với sự nghiệp đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy, Đảng đã từng bước
đổi mới về vấn đề tôn giáo và công tác tôn giáo. Trong quá trình đó, tư duy lý luận
của Đảng ta về vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo ngày càng được thể hiện một cách đầy đủ,
hoàn thiện hơn theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Xuất phát từ nhu cầu hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân trong thời kỳ đổi
mới và thực hiện chính sách về tôn giáo: Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo là một xu thế tiến bộ của nhân loại đã trở thành một chính sách lớn
của nhiều nhà nước. Bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một nguyên tắc
trong quan hệ của Nhà nước Việt Nam và các tổ chức tôn giáo; là động lực quan
trọng giúp đồng bào tôn giáo nhận thức rằng: Nhà nước không phân biệt đối xử, luôn
bình đẳng giữa đồng bào có tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo; là
một nhân tố quan trọng phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Chính
vì vậy, Đại hội lần thứ XII của Đảng gần đây tiếp tục chỉ rõ: “Tiếp tục hoàn thiện
chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo, phát huy những giá trị văn hóa, đạo
đức tốt đẹp của các tôn giáo” [18].
Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện chính sách tín ngưỡng, tôn giáo
của Đảng và Nhà nước ta cũng đã và đang bộc lộ một số hạn chế, chưa phù hợp với
tình hình thực tế. Chính sách của Đảng về tự do tín ngưỡng và tự do tôn giáo chưa
được cụ thể hóa kịp thời thành pháp luật; hoặc chưa rõ ràng, cụ thể dẫn đến việc áp
dụng không thống nhất giữa các địa phương, thậm chí sai chủ trương, chưa đáp ứng
được nhu cầu tôn giáo ngày càng tăng của tổ chức, cá nhân tôn giáo. Ở nhiều nơi, các
hình thức hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo diễn ra phức tạp. Một số quan hệ Nhà nước
với các tổ chức tôn giáo, giữa một số tổ chức tôn giáo với nhau hoặc giữa các cộng
đồng thù địch mang màu sắc tín ngưỡng, tôn giáo đã có lúc biến thành xung đột bạo
lực, cản trở sự phát triển của xã hội.
Trình độ văn hóa dân chủ, văn hóa pháp luật, văn hóa nhân quyền của
người dân đến nay vẫn chưa cao, chưa đồng đều, ngay cả cán bộ trong bộ máy nhà
nước cũng chưa nhận thức đúng đắn, đầy đủ về tín ngưỡng, tôn giáo; về chủ trương,
3
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về tự do tín ngưỡng và tự do tôn giáo;
đặc biệt là khuôn khổ pháp luật quốc tế về tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo. Ngoài ra,
các thế lực thù địch vẫn cố tình xuyên tạc tình hình dân tộc, tôn giáo ở nước ta nhằm
phục vụ cho âm mưu “Diễn biến Hòa Bình” của chúng dẫn đến khó khăn trong việc
luật pháp hóa hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo. Một bộ phận tín đồ, chức sắc trong tôn
giáo đã bị các thế lực xấu tìm cách lợi dụng để chống phá công cuộc xây dựng đất
nước, gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc; những phần tử cực đoan ở nước
ngoài cấu kết với bọn phản động trong nước lợi dụng vấn đề tôn giáo với chiêu bài
“tự do, dân chủ, nhân quyền”, coi đó như là con bài gây sức ép với Việt Nam
trong thảo luận về các vấn đề kinh tế, chính trị, ngoại giao để can thiệp sâu vào công
việc nội bộ của ta. Cùng với hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo đang diễn ra bình thường
trong khuôn khổ pháp luật thì đã xuất hiện nhiều hiện tượng đáng lo ngại, tiềm ẩn
nhiều nguy cơ đối với xã hội. Chẳng hạn như đã có tình trạng nhân danh truyền giáo
để thực hiện những mục đích phi tôn giáo, gây mất ổn định xã hội, phá vỡ kết cấu xã
hội truyền thống, ảnh hưởng đến bảo tồn sắc thái văn hóa cổ truyền. Các hoạt động
hành lễ mang tính chất mê tín, dị đoan; các hiện tượng tệ nạn xã hội ăn theo sự bùng
phát lễ hội làm méo mó đời sống lễ hội, ảnh hưởng xấu đến thuần phong mĩ tục và
trật tự an toàn xã hội.
Như vậy, từ những nhận thức lý luận mới về tôn giáo, về bảo đảm quyền tự
do tín ngưỡng, tự do tôn giáo; từ kinh nghiệm quốc tế về quyền tự do tín ngưỡng, tự
do tôn giáo; từ thực trạng chính sách và việc thực hiện chính sách đối với tôn giáo,
mặc dù có nhiều thành tựu, song chưa tạo được hành lang pháp lý vững chắc, tính khả
thi và hiệu quả chưa cao. Với những lí do trên, tác giả đã chọn đề tài “Bảo đảm
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình,
với mục đích góp phần khắc phục những hạn chế trong nghiên cứu khoa học về bảo
đảm quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo của cá nhân, tổ chức tôn giáo trước yêu
cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay, nhằm
bổ sung, hoàn thiện và phát triển các quan điểm, chính sách đã có, đề xuất giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo ở Việt Nam
4
trong tình hình hình hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tín ngưỡng, tôn giáo là một vấn đề nhạy cảm, được pháp luật quốc tế và các
quốc gai tôn trọng và bảo vệ, trong đó có Việt Nam. Hiện nay, có rất nhiều công trình
nghiên cứu lý luận về tôn giáo, nhiều bài viết về tôn giáo và ảnh hưởng của tôn giáo
đối với các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.
Liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo và chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước về tôn giáo ở Việt Nam đã thu hút sự quan tâm của nhiều học giả trong nước
như: Tình hình và thực trạng tôn giáo ở Việt Nam hiện nay của PGS.TS Nguyễn Đức
Lữ; GS.TS Đặng Nghiêm Vạn với Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt
Nam, Nxb Chính trị Quốc gia; Trần Minh Thư với Tìm hiểu Pháp luật Việt Nam về
tôn giáo, tín ngưỡng.
Ngoài ra còn có Tôn giáo và tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo ở Việt Nam,
Viện Khoa học xã hội nhân văn quân sự thuộc Bộ quốc phòng, Nxb Quân đội nhân
dân, Hà Nội, 2005. Ban tôn giáo Chính phủ với cuốn sách Tôn giáo và chính sách tôn
giáo ở Việt Nam đã giúp tác giả có cái nhìn toàn diện hơn về tình hình tôn giáo, hiểu
rõ quan điểm, nhận thức tư duy lý luận mới của Đảng ta về vấn đề tôn giáo, tôn trọng
tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo trong thời kỳ đổi mới.
Bên cạnh đó, nhiều bài viết đã đề cập đến quan điểm, đường lối của Đảng và
Nhà nước ta, nhất là trong thời kỳ đổi mới, trong đó là bài viết Tôn trọng tự do tín
ngưỡng, tự do tôn giáo – Chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước của Đặng Tài
Tính (Công tác tôn giáo, số 1/2005); PGS.TS Nguyễn Hồng Dương với cuốn sách
Quan điểm, đường lối của Đảng về tôn giáo và những vấn đề tôn giáo ở Việt Nam
hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia.
Luận văn thạc sĩ của Lê Quang Hưng về "Pháp luật Việt Nam về quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo" năm 2014.
Tuy nhiên, các công trình trên mới nghiên cứu, phân tích về chính sách, hoặc
pháp luật Việt Nam về tín ngưỡng, tôn giáo hoặc về tình hình tôn giáo, chưa có công
trình nào nghiên cứu tổng thể về vấn đề bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo
5
trong pháp luật Việt Nam hiện nay cũng như cập nhật các quy định mới của pháp luật
3. Mục tiêu nghiên cứu
3.1. Mục tiêu tổng quát
Nghiên cứu tổng quát về pháp luật Việt Nam, về quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo. Đánh giá lại hệ thống chính sách, pháp luật liên quan đến tôn giáo và thực hiện
chính sách tôn giáo trong thời kỳ mới, từ đó đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả
bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Mục tiêu cụ thể
Tập trung làm sang tỏ những vấn đề lý luận về tín ngưỡng, tôn giáo; quyền tự
do tín ngưỡng, tôn giáo.
Nghiên cứu, phân tích những quy định của pháp luật quốc tế về tự do tín
ngưỡng, tôn giáo.
Quan điểm, chính sách, pháp luật liên quan đến việc bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo. Từ đó đối chiếu, so sánh pháp luật Việt Nam về bảo đảm quyền tự
do tín ngưỡng, tôn giáo với các chuẩn mực quốc tế.
Đánh giá thực trạng bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong pháp luật
Việt Nam hiện nay; trên cơ sở đó rút ra nguyên nhân của những bất cập trong việc
bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
Kiến nghị, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc bảo đảm
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những quy định pháp luật Việt Nam về
hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo và chính sách của Nhà nước về hoạt động tín
ngưỡng, tôn giáo.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài về không gian là trên lãnh thổ Việt Nam; về
thời gian là từ khi có Pháp lệnh về tín ngưỡng, tôn giáo năm 2004 đến nay.
5. Nội dung và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Nội dung nghiên cứu
Những vấn đề lý luận cơ bản về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Thông qua
thực trạng bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, đề xuất một số giải pháp nhằm
6
nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Đề tài được tiến hành dựa trên cơ sở phương pháp luận: Chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tôn giáo và tự do tín ngưỡng, tôn giáo;
quan điểm của cộng đồng quốc tế về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; quan điểm,
đường lối, chính sách của Đảng về và Nhà nước ta về bảo đảm thực hiện quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo của công dân.
- Luận văn được thực hiện dựa trên việc vận dụng phương pháp phân tích,
tổng hợp, xã hội học, so sánh, đánh giá để làm sáng tỏ những vấn đề liên quan. Luận
văn cũng khai thác những thông tin tư liệu của các công trình nghiên cứu đã công bố
để chứng minh cho các luận điểm.
6. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Luận văn góp phần:
- Đưa ra cái nhìn tổng thể về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo: khái niệm; đặc
điểm của quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
- Luận văn phân tích những quy định quốc tế và kinh nghiệm bảo đảm quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong pháp luật một số nước và sự tương thích của pháp
luật Việt Nam.
- Luận văn phản ánh những vấn đề thực tiễn, cập nhập những thành tựu và hạn
chế liên quan đến việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong pháp luật Việt
Nam hiện nay; trên cơ sở đó rút ra nguyên nhân của những bất cập trong việc bảo
đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo..
- Phân tích, làm rõ nhận thức lý luận mới về tín ngưỡng, tôn giáo; chính sách
mới về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam.
- Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu, phân tích, đánh giá, luận văn cũng đưa ra
các nhóm giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay.
- Về mặt thực tiễn: Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo để
tiếp tục xây dựng và hoàn thiện chính sách về tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt
7
Nam hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn kết cấu
làm 3 chương như sau:
Chương 1: Các vấn đề lý luận, pháp lý cơ bản về bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo.
Chương 2: Thực trạng bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong pháp
luật Việt Nam.
Chương 3: Quan điểm, mục tiêu và đề xuất một số giải pháp nhằm bảo đảm
8
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong pháp luật Việt Nam hiện nay.
Chƣơng 1
CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, PHÁP LÝ CƠ BẢN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN
TỰ DO TÍN NGƢỠNG, TÔN GIÁO
1.1. Khái niệm, đặc điểm về bảo đảm quyền tự so tín ngƣỡng, tôn
1.1.1. Khái niệm
1.1.1.1. Khái niệm về tín ngưỡng
Theo Chủ nghĩa Mác – Lênin thì tín ngưỡng, tôn giáo là một loại hình thái ý
thức xã hội phản ánh một cách hoang đường, hư ảo hiện thực khách quan.
Một số nhà thần học thì xem tín ngưỡng, tôn giáo là niềm tin vào cái thiêng,
cái huyền bí ở đó chứa đựng những yếu tố siêu nhiên, nó có một sức mạnh, một
quyền lực to lớn có thể cứu giúp con người khỏi khổ đau và có được hạnh phúc và
sự bình yên.
Ở Việt Nam, tín ngưỡng cũng có nhiều quan điểm khác nhau:
- Theo GS.TS Đặng Nghiêm Vạn, thuật ngữ tín ngưỡng có thể có hai nghĩa.
Khi nói đến tự do tín ngưỡng, người nước ngoài có thể hiểu đó là niềm tin nói chung
(belief, believe, croyance) hay niềm tin tôn giáo (belief, belive, croyance riligieuse).
Nếu hiểu tín ngưỡng là niềm tin thì có một phần ở ngoài tôn giáo, nếu hiểu là niềm
tin tôn giáo thì tín ngưỡng chỉ là một bộ phận chủ yếu nhất cấu thành của tôn giáo.
- Các học giả như Toan Anh, Phan Kế Bính… xem tín ngưỡng là tín ngưỡng
dân gian với các nghi lễ thờ cúng thể hiện qua lễ hội, tập quán, phong tục truyền
thống của dân tộc Việt Nam.
- Tác giả Nguyên Chính cho rằng tín ngưỡng là niềm tin, sự trông cậy và yêu
quý một thế lực siêu nhiên mà với tri thức con người và kinh nghiệm chưa đủ để giải
thích và lý giải được.
- Trong từ điển Hán – Việt, Đào Duy Anh đã giải nghĩa: “Tín ngưỡng là lòng
ngưỡng mộ mê tín đối với một tôn giáo hay một chủ nghĩa nào đó”.
Hiện nay, Nhà nước ta cũng phân biệt rõ ràng trong Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn
giáo năm 2004: “Hoạt động tín ngưỡng là hoạt động thể hiện sự tôn thờ tổ tiên;
9
tưởng niệm và tôn vinh những người có công với nước, với cộng đồng; thờ cúng thần,
thánh, biểu tượng có tính truyền thống và các hoạt động tín ngưỡng dân gian khác
tiêu biểu cho những giá trị tốt đẹp về lịch sử, văn hóa, đạo đức xã hội”.
Như vậy, có thể hiểu tín ngưỡng là niềm tin của con người và của cả cộng
đồng người vào những gì siêu nhiên hay thần thánh, thiêng liêng cũng như những đạo
lý, lễ nghi, tục lệ và tổ chức liên quan đến niềm tin đó. Tín ngưỡng là một niềm tin có
hệ thống mà con người tin vào để giải thích thế giới và để mang lại sự bình yên cho
bản thân và mọi người. Tín ngưỡng còn là thể hiện giá trị của cuộc sống, ý nghĩa của
cuộc sống bền vững. Tín ngưỡng mang tính dân tộc, dân gian, không có tổ chức chặt
chẽ như tôn giáo. Khi nói đến tín ngưỡng, người ta thường nói đến tín ngưỡng của
một dân tộc hay một số dân tộc có một số đặc điểm chung còn tôn giáo thì không
mang tính dân gian.
1.1.1.2. Khái niệm về tôn giáo
“Tôn giáo” là thuật ngữ không thuần Việt, được du nhập từ nước ngoài vào từ
cuối Thế kỷ XIX. Thuật ngữ “tôn giáo” vốn có nguồn gốc từ phương Tây, Tiếng Anh
là “religion” và “religion” lại xuất phát từ thuật ngữ “relege” (tiếng Latinh) có nghĩa
là “thu lượm thêm sức mạnh siêu nhiên”, “tôn trọng điều linh thiêng, tôn kính thần
linh” hay “bổn phận, sự gắn kết giữa con người với thần linh”, xét trên một cách thức
nào đó, đây là phương cách để giúp con người sống và tồn tại với sức mạnh siêu
nhiên. Trong lịch sử đã từng tồn tại rất nhiều quan niệm khác nhau về tôn giáo: Các
nhà thần học cho rằng: “Tôn giáo là mối liên hệ giữa thần thánh và con người”. Một
số nhà tâm lý học lại cho rằng: “Tôn giáo là sự sáng tạo của mỗi cá nhân trong nỗi
cô đơn của mình, tôn giáo là sự cô đơn, nếu anh chưa từng cô đơn thì anh chưa bao
giờ có tôn giáo”. C.Mác trong tác phẩm “Góp phần phê phán Triết học Pháp quyền”
của Hêghen viết: “Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của
thế giới không có trái tim, cũng giống như nó là tinh thần của những trật tự không có
tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” [4]. P. Ăngghen thì cho rằng: “Tôn
giáo là sự phản ánh hoang đường vào trong đầu óc con người những lực lượng bên
ngoài, cái mà thống trị họ trong đời sống hàng ngày”.
10
Ở Việt Nam, gần đây một số nhà nghiên cứu tôn giáo cũng đưa ra những lý
giải hoặc chia sẻ quan điểm của mình về tín ngưỡng, tôn giáo. Trong Từ điển tiếng
Việt xuất bản năm 1992, tác giả Hoàng Phê đưa ra định nghĩa: “Tôn giáo là hình thức
xã hội, gồm những quan niệm dựa trên cơ sở tin và sùng bái những lực lượng siêu
nhiên, cho rằng lực lượng siêu tự nhiên quyết định số phận con người, con người phải
phục tùng, tôn thờ”.
Theo Giáo sư Đặng Nghiêm Vạn thì “Tôn giáo có nghĩa là thu lượm thêm sức
mạnh siêu nhiên”. Trong cuốn “Những vấn đề lý luận và thực tiễn tôn giáo ở Việt
Nam” xuất bản năm 1998 ông cho rằng:
Tôn giáo là thế giới siêu nhiên vô hình được chấp nhận một cách
trực giác và tác động qua lại hư ảo giữa con người và thế giới đó nhằm lý
giải những vấn đề trên trần thế, cũng như ở thế giới bên kia trong những
hoàn cảnh lịch sử, địa lý khác nhau, của từng cộng đồng tôn giáo hay xã
hội khác nhau [50, tr.23].
Tiến sĩ Nguyễn Thanh Xuân, Phó trưởng ban Tôn giáo Chính phủ đã đưa ra
một định nghĩa về tôn giáo khá bao trùm: “tôn giáo là niềm tin của con người vào thế
giới siêu nhiên và hành vi thực hiện những niềm tin đó. Tôn giáo là “đức tin vào sự
thờ phụng”. Như vậy, với định nghĩa trên thì tôn giáo bao gồm hai phạm trù đó là
niềm tin và hành vi của con người để thực hiện niềm tin vào thế giới siêu nhiên và
đấng siêu nhiên.
Như vậy, tôn giáo hành vi hay hoạt động của con người để thực hiện niềm tin
vào thế giới siêu nhiên và đấng siêu nhiên. Những hoạt động của con người như thờ
phụng, cúng bái, cầu nguyện và việc thực hiện các nghi lễ khác. Niềm tin đó được
biểu hiện rất đa dạng, tùy thuộc vào những thời kỳ lịch sử, hoàn cảnh địa lý – văn hóa
khác nhau, phụ thuộc vào nội dung từng tôn giáo, được vận hành bằng những nghi lễ,
những hành vi tôn giáo khác nhau của từng cộng đồng xã hội tôn giáo khác nhau.
1.1.1.3. Khái niệm về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
Nếu như “tôn giáo” (religion) là một thuật ngữ không thuần Việt, được du
nhập từ nước ngoài vào Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX thì “quyền tự do tôn giáo” là
một quan niệm còn đến muộn hơn, song lại gây ra không ít tranh cãi trong giao tiếp
11
quốc tế, trong đời sống xã hội Việt Nam đương đại và nhiều quốc gia khác.
“Tự do” là một giá trị phổ quát của nhân loại, song sự thật đã có nhiều lập luận
khác nhau về cái gọi là tự do trong cuộc sống. Vì vậy, để bàn về “tự do tôn giáo”
trong bối cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam, trước tiên cần tìm hiểu về khái niệm “tự
do”. Theo Montesquieu: “Tự do là quyền được làm tất cả những điều mà luật cho
phép”, “tự do là nhận thức được cái tất yếu”. Tuy nhiên, tự do ở đây bị giới hạn bởi
luật. “Luật” theo nghĩa rộng là “quy luật” của cuộc sống: luật của tự nhiên và luật của
xã hội (luật của các tổ chức xã hội, của cộng đồng, luật của Nhà nước…). Con người
không thể và không bao giờ có tự do tuyệt đối, bởi lẽ con người luôn sống trong mối
quan hệ với tự nhiên và với cộng đồng. Việc đặt ra giới hạn như trên là nảy sinh từ
quá trình sinh hoạt và căn tính văn hóa của mỗi cộng đồng. Tự do của một người chỉ
có được khi hành vi của người đó không xâm hại đến lợi ích của người khác và thực
tế tự do của một người sẽ bị giới hạn bởi tự do của người khác.
Tự do tín ngưỡng hay tự do tôn giáo thường được coi là một nguyên tắc ủng
hộ quyền tự do của cá nhân hay cộng đồng trong việc công khai hoặc hoặc bí mật
thực hành, thờ phụng, rao giảng hay tu tập một tôn giáo hay tín ngưỡng. Khái niệm
này thường được thừa nhận là có bao gồm cả việc tự do thay đổi tôn giáo hoặc tự do
không theo một tôn giáo nào. Tại nhiều quốc gia, tự do tín ngưỡng được nhiều người
coi là một quyền cơ bản của con người.
Quan niệm về tự do tín ngưỡng, tôn giáo được hình thành ở Châu Âu với các
cuộc cách mạng tư sản Thế kỷ XVII- XVIII. Những nhà tư tưởng như John Locker đã
đặt nền móng cho quyền tự do tôn giáo khi cho rằng tôn giáo là vấn đề của cá nhân hơn
là của xã hội. Vai trò của nhà nước không phải là khuyến khích phát triển tôn giáo mà
là bảo vệ quyền của mỗi cá nhân có thể sở hữu niềm tin tôn giáo của chính mình và
cách tốt nhất là hãy để cá nhân, mỗi người hãy tự lựa chọn tôn giáo cho mình.
Quan niệm về tự do tín ngưỡng, tôn giáo dần dần trở nên hoàn thiện hơn theo
tiến trình vận động của lịch sử. Tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ năm 1776 đã đề cập
đến tự do, song chưa nói cụ thể về tự do tôn giáo. Tuyên ngôn nhân quyền và dân
quyền của Pháp năm 1789 đã nói đến tự do cá nhân, tự do tư tưởng, tự do tôn giáo
12
song cũng chưa đề cập đến một cách cụ thể:
Mỗi người đều được phát biểu tư tưởng tự do, về tôn giáo cũng vậy,
miễn là những tư tưởng phát biểu đó không làm tổn thương đến nền trật tự
công cộng đã được pháp luật ấn định phân minh [27].
Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền định nghĩa về tự do tín ngưỡng như sau:
Mỗi người có quyền tự do tư tưởng, lương tâm và tín ngưỡng,
quyền này bao gồm tự do thay đổi tín ngưỡng và tự do thể hiện tôn giáo
hay tín ngưỡng của mình một cách cá nhân hoặc công khai trong việc rao
giảng, thực hành, thờ phụng và tu tập [28].
Tuyên bố về tự do tôn giáo của Hội đồng nhà thờ thế giới năm 1948:
Mọi người đều có quyền bày tỏ niềm tin tôn giáo của mình trong
giảng dạy, thờ phụng và thực hành, và công bố tác động của niềm tin của
mình cho mối quan hệ trong một cộng đồng xã hội hay chính trị.
Theo Công đồng Vatincan II thì:
Tự do tôn giáo có nghĩa là các cộng đoàn tôn giáo không bị ngăn
cản trong việc tự do biểu lộ các hiệu năng riêng của giáo thuyết mình trong
việc tổ chức xã hội và làm cho toàn thể sinh hoạt nhân loại được sống. Sau
hết, theo bản tính xã hội của con người, cũng như theo bản chất của tôn
giáo, con người có quyền tự do hội họp hay thành lập những hiệp hội giáo
dục, văn hóa, từ thiện và xã hội do cảm thức tôn giáo thúc đẩy [19].
Trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013 ghi nhận:
“Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo
nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật”. Theo đó, các tôn giáo đều bình đẳng
trước pháp luật, không một tôn giáo nào hoạt động đúng pháp luật mà bị ngăn cấm.
Người có tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam được yên tâm và an toàn hành đạo theo
đúng nghĩa của một đạo giáo chân chính và điều này trở thành nguyên tắc hiến định
trong từng giai đoạn phát triển của đất nước, trở thành một trong những quyền cơ bản
của con người. Mọi người dân hoàn toàn tự do lựa chọn theo hoặc không theo một tín
13
ngưỡng, tôn giáo nào" [40].
Như vậy, quyền tự do tín ngưỡng bao gồm quyền theo hoặc không theo một
tôn giáo; quyền tự do thay đổi tôn giáo; quyền tự do thể hiện, bày tỏ tín ngưỡng, tôn
giáo (quyền tự do thực hiện các hoạt động tôn giáo). Đó là một trong những quyền cơ
bản của con người, thuộc nhóm các quyền dân sự và chính trị, được ghi nhận trong
các văn bản pháp luật quốc tế về quyền con người cũng như trong pháp luật của hầu
hết các quốc gia trên thế giới.
1.1.1.4. Khái niệm về bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
Cho đến đầu Thế kỷ XX, quan niệm về tự do tôn giáo mới chỉ mang tính quốc
gia riêng lẻ, cho đến khi Liên hợp quốc thông qua Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền
ngày 10 - 12 - 1948 thì tự do tôn giáo mới trở thành một quyền mang tính quốc tế.
Hiến chương Liên hợp quốc năm 1945, tại phần mở đầu đã tuyên bố: “Khẳng
định một lần nữa sự tin tưởng vào những quyền cơ bản, nhân phẩm và giá trị của con
người, vào quyền bình đẳng giữa nam và nữ”. Khoản 3, Điều 1 đã đề cập đến nội
dung quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo hướng “khuyến khích phát triển sự tôn
trọng các quyền của con người và các tự do cơ bản cho tất cả mọi người, không phân
biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ hoặc tôn giáo”. Điều 55, mục c ghi nhận Liên hợp
quốc khuyến khích “sự tôn trọng và tuân thủ triệt để các quyền và tự do cơ bản của
tất cả mọi người, không phân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ hay tôn giáo” [34].
Trong Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948, lần đầu tiên Đại hội
đồng Liên hợp quốc có một văn bản tuyên ngôn chính thức về nhân quyền, tạo cơ sở
để Liên hợp quốc cụ thể hóa thành các công ước mang tính chất pháp lý bắt buộc đối
với các quốc gia thành viên trong việc bảo đảm, bảo vệ quyền con người nói chung,
các quyền về dân sự, chính trị nói riêng trong đó có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
Điều 18 ghi nhận như sau: “Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng và
tôn giáo, kể cả tự do thay đổi tín ngưỡng hoặc tôn giáo của mình bằng các hình thức
như truyền giảng, thực hành, thờ cúng và tuân thủ các nghi lễ, dưới hình thức cá
nhân hay tập thể, tại nơi công cộng hoặc riêng tư” [28]. UDHR đã xác định các bảo
đảm như tôn trọng và thực thi các nguyên tắc quan trọng nhất trong việc bảo vệ
14
quyền con người:
Mọi người sinh ra đều được tự do và bình đẳng về nhân phẩm và
các quyền, Mọi người đều được hưởng tất cả các quyền và tự do nêu trong
bản Tuyên ngôn này mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào về chủng
tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo..., Mọi người đều bình đẳng
trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng chống lại bất
kỳ sự phân biệt đối xử nào vi phạm bản Tuyên ngôn này, và chống lại bất
kỳ sự kích động phân biệt dối xử nào như vậy [28].
Ở Việt Nam, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật ghi nhận phù
hợp với quy định của Công ước quốc tế về các quyền dân sự. Pháp luật Việt Nam một
mặt thừa nhận và bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân, mặt khác
cũng đề ra những phạm vi, giới hạn của việc thực hiện quyền đó. Nhìn chung, pháp
luật về tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam đã thể hiện được khá đầy đủ quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo được nêu trong Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948 và
Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966.
Như vậy, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là việc Nhà nước ghi nhận
các quyền tự do của công dân trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo và đề ra các biện
pháp nhằm thúc đẩy cho các quyền đó được thực hiện đồng thời có những cơ chế để
bảo vệ các quyền đó.
1.1.2. Đặc điểm của quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một quyền con người cơ bản thuộc nhóm
các quyền dân sự, chính trị, gắn liền với nhân thân của mỗi cá nhân, không thể
chuyển giao, không thể chia cắt và không thể bị tước bỏ bởi bất cứ ai và bất kỳ thể
chế chính trị nào.
Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được xác lập, thực hiện và phát triển phù
hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tế về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và trình độ
phát triển của xã hội, nó luôn phản ánh bản chất của chế độ chính trị xã hội và trình
độ phát triển của xã hội. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo luôn gắn liền với độc lập
dân tộc, chủ nghĩa xã hội, chủ quyền quốc gia, với an ninh và ổn định chính trị, kinh
tế - xã hội của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Tuy nhiên, mọi hoạt động vẫn cần diễn ra
15
theo đúng khuôn khổ pháp luật.
Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo có quy tắc riêng đó là quy tắc đối nhân xử
thế giữa con người với con người, giữa con người với thế giới; nó đề cao, cổ vũ tình
yêu thương đồng loại, sự công bằng, bình đẳng, tự do và nhân phẩm, là nền tảng của
quyền con người. Đó là những nguyên tắc tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
Tín ngưỡng, tôn giáo là một vấn đề rất nhạy cảm, có sức ảnh hưởng mạnh tới nhận
thức cá nhân, hiểu biết thế giới quan của mỗi cá nhân. Những người có tín ngưỡng,
tôn giáo họ đều có niềm tin vào một thế giới siêu nhiên nào đó và coi đó là yếu tố chủ
đạo trong việc thể hiện bản sắc văn hóa của mỗi người. Do đó, việc bảo đảm quyền tự
do tín ngưỡng, tôn giáo cũng rất khó khăn và không chỉ trong vấn đề luật pháp mà
còn là cả về đạo đức.
Quyền và tự do cơ bản của mỗi người luôn gắn liền với nghĩa vụ và trách
nhiệm của mỗi cá nhân. Sự tôn trọng và bảo đảm quyền tự do của mỗi người không
thể tách rời khỏi sự tôn trọng quyền và tự do của người khác cũng như quyền của tập
thể, cộng đồng thậm chí cả dân tộc, quốc gia và cộng đồng nhân loại. Quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo bản thân nó đã hàm chứa nghĩa vụ và trách nhiệm của mỗi người
theo cũng như không theo, có cũng như không có tín ngưỡng, tôn giáo. Tuy nhiên,
thực tế vẫn có không ít người theo đạo chưa nhận thức được đầy đủ mối quan hệ
khăng khít giữa quyền và nghĩa vụ này nên có những hành động làm ảnh hưởng đến
lợi ích chung của xã hội.
Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo ở 3 cấp độ: tôn trọng quyền, bảo vệ quyền và thực hiện quyền. Do đó, Nhà
nước cần phải kìm chế, không can thiệp trực tiếp hoặc gián tiếp vào việc hưởng thụ
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo đã được ghi nhận trong pháp luật. Phải có những
biện pháp nhằm ngăn chặn sự vi phạm từ bên thứ ba bằng việc xây dựng những cơ
chế phòng ngừa, xử lý những hành vi vi phạm. Nhà nước cần có những kế hoạch,
chương trình, chính sách cụ thể để bảo đảm cho mọi công dân, mọi người có tín
ngưỡng, tôn giáo có thể hưởng thụ quyền đến mức cao nhất.
Quyền tự do bày tỏ tín ngưỡng, tôn giáo không phải là quyền tuyệt đối mà vẫn
16
có những giới hạn nhất định. Theo khoản 3 Điều 18 Công ước ICCPR (Công ước
quốc tế về các quyền dân sự, chính trị) thì việc giới hạn này là cần thiết cho việc bảo
vệ an toàn, trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức của công chúng hoặc những
quyền và tự do cơ bản của người khác. Nhà nước được quyền dùng những biện pháp
cần thiết để trấn áp những hành vi phi tôn giáo như hoạt động lợi dụng tôn giáo hay
truyền bá những niềm tin đi ngược đạo đức, luân lý (tà giáo). Những giới hạn này chỉ
có thể được hình thành và áp dụng trên cơ sở pháp luật mà thôi.
1.2. Quy định của pháp luật quốc tế
1.2.1. Quy định quốc tế
Điều 18 công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 (Công
ước ICCPR) đã cụ thể hóa Điều 18 Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền cũng
khẳng định:
Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng và tôn
giáo. Quyền này bao gồm tự do có hoặc theo một tôn giáo hoặc một tín
ngưỡng do mình lựa chọn và tự do bày tỏ tín ngưỡng hoặc tôn giáo một
mình hoặc trong cộng đồng với những người khác, công khai hoặc kín
đáo, dưới các hình thức như thờ cúng, cầu nguyện, thực hành và truyền
giảng. Không ai bị ép buộc làm những điều tổn hại đến quyền tự do lựa
chọn hoặc tin theo tôn giáo hoặc tín ngưỡng của họ [33].
Dưới đây là một số phân tích trong quy định quốc tế:
1.2.1.1. Không phân biệt đối xử dựa trên tôn giáo
Trong Khoản 1, Điều 2 của công ước ICCPR và Khoản 2, Điều 2 của Công
ước ICESCR đã khẳng định: Các quốc gia thành viên Công ước cam kết tôn trọng và
bảo đảm cho mọi người trong phạm vi lãnh thổ và thẩm quyền tài phán của mình các
quyền đã được công nhận trong Công ước này, không có bất kỳ sự phân biệt nào về
chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hoặc quan điểm
khác, nguồn gốc dân tộc hoặc xã hội, tài sản, thành phần xuất thân hoặc địa vị khác.
Như vậy, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và có quyền được pháp luật
bảo vệ một cách bình đẳng mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào về chủng tộc,
17
màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo.
Để cụ thể hóa những điều này, Bình luận chung số 22 đã giải thích rằng: Việc
một tôn giáo được xác định là quốc giáo, là tôn giáo chính thức hay truyền thống,
hoặc có số lượng tín đồ chiếm đa số trong xã hội không được sử dụng để làm ảnh
hưởng đến việc thực hiện các quyền tự do quy định ở các Điều 18 và 27 của ICCPR,
cũng như không được tạo ra sự phân biệt đối xử với tín đồ của các tôn giáo khác,
hoặc với những người không theo tôn giáo nào. Những hình thức phân biệt đối xử với
tín đồ của các tôn giáo khác, hay với những người không theo tôn giáo trong bối cảnh
này, ví dụ việc quy định chỉ những tín đồ thuộc tôn giáo chiếm ưu thế mới được tham
gia chính quyền hay dành những ưu đãi về kinh tế cho họ đều trái với các quy định về
quyền bình đẳng nêu ở Điều 26 ICCPR (đoạn 9) [23].
Điều 5, Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc năm 1965 đã
bao gồm một danh sách các quyền các nước thành viên cam kết bảo đảm mà không
phân biệt, trong đó có quyền tự do tư tưởng, lương tâm và tôn giáo.
Ngoài ra còn được quy định trong Công ước về ngăn ngừa và trừng phạt tội
diệt chủng 1948, Công ước số 111 của ILO năm 1958 về việc bảo đảm quyền bình
đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ mà không phân biệt chủng tộc, màu
da, giới tính, tôn giáo, quan điểm chính trị….
1.2.1.2. Tự do theo hay không theo một tôn giáo nhất định
Để cụ thể hóa nội dung Điều 18 ICCPR, bình luận chung số 22 cũng khẳng định:
Quyền tự do chính kiến, niềm tin, lương tâm và tôn giáo có tính bao
quát sâu sắc. Nó bao gồm quyền tự do suy nghĩ về tất cả các vấn đề, tự do
tư tưởng và giữ gìn niềm tin vào các tôn giáo hay tín ngưỡng, cả trên
phương diện cá nhân hay tập thể. Các quyền tự do này phải được tôn trọng
và không thể bị hạn chế hay tước bỏ trong mọi hoàn cảnh, kể cả trong tình
trạng khẩn cấp của quốc gia như nêu ở Điều 4 của ICCPR (đoạn 1) [23].
Quyền tin hoặc theo một tôn giáo hay tín ngưỡng bao gồm quyền tự do lựa
chọn một tôn giáo hay tín ngưỡng để tin hoặc theo, kể cả việc thay đổi niềm tin từ tôn
giáo, tín ngưỡng này sang tôn giáo, tín ngưỡng khác, thay đổi niềm tin từ vô thần
18
sang hữu thần và từ hữu thần sang vô thần. Khoản 2 Điều 18 cấm cưỡng ép tin, theo,
bỏ hay thay đổi tôn giáo, tín ngưỡng, kể cả bằng những chính sách hay tập quán
nhằm gây sức ép để đạt mục đích đó như hạn chế sự tiếp cận với các dịch vụ giáo
dục, y tế, việc làm hoặc hạn chế các quyền quy định trong Điều 25 và các Điều khác
của ICCPR (đoạn 5).
1.2.1.3. Tự do thể hiện, thực hành tín ngưỡng, tôn giáo
Điều 18 ICCPR phân biệt giữa quyền tự do chính kiến, niềm tin, lương tâm,
tôn giáo hoặc tín ngưỡng với tự do thực hành tôn giáo hay tín ngưỡng. Điều này
không cho phép có bất kỳ sự giới hạn nào với quyền tự do chính kiến, niềm tin, lương
tâm, và quyền tự do tin hoặc theo một tôn giáo hoặc tín ngưỡng. Những tự do này
phải được bảo vệ không điều kiện, tương tự quyền tự do được giữ ý kiến nêu trong
khoản 1 Điều 19 (đoạn 3) [23].
Quyền tự do thực hành tôn giáo hay tín ngưỡng có thể được thực thi với tư
cách cá nhân hay cùng với cộng đồng, ở nơi công cộng hay chỗ riêng tư; thể hiện ở
các hành động như thờ cúng, tham gia những lễ hội tôn giáo, quan sát, thực hành và
giảng dạy về tôn giáo. Khái niệm thờ cúng bao gồm những hoạt động lễ nghi, kỷ
niệm, xây dựng những nơi thờ tự, sử dụng hay trưng bày các vật dụng và biểu tượng
nghi lễ, tham gia các lễ hội và các ngày nghỉ lễ tôn giáo. Việc quan sát và thực hành
tôn giáo không chỉ bao gồm các hoạt động nghỉ lễ, mà còn bao gồm việc tuân thủ các
nguyên tắc về ăn kiêng, trang phục, sử dụng ngôn ngữ đặc biệt, lựa chọn lãnh đạo tôn
giáo, tăng lữ, người thầy tâm linh, thành lập các trường tôn giáo, biên soạn và phân
phát các tài liệu tôn giáo (đoạn 4) [23].
1.2.1.4. Quyền tự do tín ngưỡng của trẻ em và trách nhiệm của cha mẹ trong
việc giáo dục tôn giáo, đạo đức cho con cái theo đạo đức riêng của họ
Theo Điều 14 của Công ước về quyền trẻ em (CRC,1989) các quốc gia thành
viên phải tôn trọng quyền tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng và tôn giáo của trẻ em.
Quyền tự do thực hành tôn giáo hoặc tín ngưỡng chỉ có thể chịu những hạn chế do
pháp luật quy định và là cần thiết để bảo vệ an ninh công cộng, trật tự xã hội, y tế hay
19
đạo đức của cộng đồng hoặc để bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của người khác.
Trong Bình luận chung số 22 đoạn 6, Ủy ban nhân quyền đã giải thích rằng:
Các trường công lập có thể giảng dạy những môn học như lịch sử
đại cương của các tôn giáo và tín ngưỡng, miễn là nội dung cần trung lập
và khách quan. Việc các trường công lập giảng dạy giáo lý của một tôn
giáo hay nội dung một tín ngưỡng nhất định là trái với quy định trong
Khoản 4 Điều 18, trừ khi việc giảng dạy như vậy là do ý nguyện và thuộc
vào quyền quyết định của các bậc cha mẹ (đoạn 6) [23].
Tuyên bố về xóa bỏ mọi hình thức ngược đãi tôn giáo và phân biệt đối xử trên
cơ sở tôn giáo hay tín ngưỡng được công bố còn quy đinh cụ thể quyền của trẻ em
được tiếp cận giáo dục về tôn giáo hay tín ngưỡng và quyền, trách nhiệm của cha mẹ
liên quan đến tôn giáo và tín ngưỡng.
Mọi trẻ em đều được hưởng quyền tiếp cận giáo dục về tôn giáo và
tín ngưỡng phù hợp với nguyện vọng của cha mẹ, trẻ em cần phải được
bảo vệ khỏi bất cứ sự phân biệt đối xử nào vì lý do tôn giáo hay tín
ngưỡng. Trẻ em phải được nuôi dưỡng trên tinh thần hiểu biết, khoan
dung, hữu nghị giữa các dân tộc, tình anh em và hòa bình, tôn trọng tự do
tôn giáo hay tín ngưỡng của người khác, và với ý thức đầy đủ rằng tài
năng và sức lực của trẻ em cần phải được cống hiến nhằm phục vụ cho
đồng bào của mình. Trong trường hợp một đứa trẻ không được cả cha mẹ
hoặc người giám hộ hợp pháp chăm sóc thì cần phải quan tâm thỏa đáng
đến những nguyện vọng mà trẻ đã bày tỏ trực tiếp hoặc gián tiếp trong vấn
đề tôn giáo hay tín ngưỡng. Mọi tập tục tôn giáo và tín ngưỡng tác động
đến trẻ em thông qua môi trường tôn giáo hay tín ngưỡng mà trẻ em đang
sống không được làm tổn hại đến sự phát triển trí tuệ và thể chất hoặc sự
phát triển đầy đủ của trẻ em [25].
1.2.1.5. Giới hạn của quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
Mặc dù quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật Quốc tế công nhận và
bảo vệ nhưng cũng có những giới hạn nhất định. Việc giới hạn đó được quy định như:
20
Nghiêm cấm các hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng có mục đích hoặc tính chất tuyên
truyền cho chiến tranh hoặc hận thù, chia rẽ dân tộc, tôn giáo hay kích động sự phân
biệt đối xử về chủng tộc, sự thù địch hoặc bạo lực như đã nêu ở Điều 20 ICCPR. Các
quốc gia thành viên có nghĩa vụ sử dụng pháp luật để ngăn chặn những hành động đó.
Bình luận chung số 22 giải thích rằng: Khoản 3, điều 18 cho phép hạn chế
quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng trong trường hợp cần thiết để bảo vệ an ninh, trật tự
công cộng, sự bình yên hoặc đạo đức xã hội, hoặc để bảo vệ các quyền tự do cơ bản
của người khác. Tuy nhiên, quyền không bị ép buộc làm những điều tổn hại đến
quyền tự do lựa chọn hoặc tin theo tôn giáo hoặc tín ngưỡng và quyền của các bậc
cha mẹ hay người giám hộ hợp pháp được giáo dục về tôn giáo và đạo đức cho con
cái họ theo ý nguyện của riêng họ thì không được hạn chế trong mọi trường hợp. Các
hạn chế trong khoản 3 Điều 18 cần phải được quy định trong pháp luật và phù hợp
với các quy định khác của ICCPR, đặc biệt là với các quy định về quyền bình đẳng,
không phân biệt đối xử trong các Điều 2, 3 và 26 của Công ước. Những hạn chế
không được dựa trên lý do nào khác ngoài các lý do quy định ở Khoản 3 Điều 18, kể
cả những yếu tố có thể được sử dụng để hạn chế các quyền khác được ghi nhận trong
ICCPR, ví dụ như lý do về an ninh quốc gia. Những hạn chế chỉ được áp dụng phù
hợp và tương ứng với mục tiêu đề ra. Không được đặt ra các hạn chế nhằm mục đích
phân biệt đối xử, hoặc áp dụng các hạn chế theo cách thức phân biệt đối xử. Liên
quan đến khía cạnh này, cần lưu ý là các quan niệm về đạo đức có thể xuất phát từ
nhiều truyền thống xã hội, triết học và tôn giáo khác nhau, do đó, những giới hạn về
quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng với mục đích nhằm bảo vệ các giá trị đạo đức phải
không được dựa hoàn toàn vào một truyền thống riêng biệt nào. Những người bị quản
chế về mặt pháp lý, chẳng hạn như tù nhân, vẫn có quyền hưởng tự do tôn giáo, tín
ngưỡng ở mức độ cao nhất phù hợp với điều kiện quản chế (đoạn 8) [23].
Việc một học thuyết chính trị được coi là nền tảng chính thức cho thể chế
chính trị ở một quốc gia thành viên cũng không được sử dụng để làm ảnh hưởng đến
các quyền tự do nêu ở Điều 18 và các quyền khác trong ICCPR, cũng như không
được tạo ra sự phân biệt đối xử với những người không theo hay không tán thành học
21
thuyết chính trị đó (đoạn 10) [23].
ICCPR không quy định quyền được từ chối thực hiện nghĩa vụ quân sự vì lý
do lương tâm, tuy một số quốc gia đã ghi nhận quyền này bằng cách cho phép thực
hiện nghĩa vụ khác thay thế. Mặc dù vậy, nếu quyền này được ghi nhận trong pháp
luật hay trong thực tế thì không được áp dụng theo cách thức phân biệt đối xử giữa
các nhóm tôn giáo, tín ngưỡng khác nhau (đoạn 11) [23].
1.2.2. Các văn kiện khu vực
- Công ước Châu Âu về bảo vệ quyền con người và tự do cơ bản năm 1950
(ECHR) quy định:
1.Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tự do lương tâm và tự do
tôn giáo; quyền này bao gồm tự do thay đổi tôn giáo hay tín ngưỡng của
mình và tự do, hoặc một mình hoặc với người khác và tại nơi công cộng
hay riêng tư, để biểu đạt niềm tin tôn giáo, hoặc, trong việc thờ phụng,
giảng dạy, thực hành và tu tập. 2.Tự do biểu đạt tôn giáo hay tín ngưỡng
của một người chỉ phải chịu các giới hạn đã được quy định bởi pháp luật
và là cần thiết trong một xã hội dân chủ vì lợi ích của an toàn công cộng,
để bảo vệ trật tự công cộng, sức khỏe và đạo đức, hoặc để bảo vệ các
quyền và tự do của người khác [21, Điều 9].
ECHR quy định:
Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, lương tâm và tôn giáo,
quyền này bao gồm tự do thay đổi tôn giáo hay tín ngưỡng của mình và
tự do một mình hoặc với người khác tại nơi công cộng hay riêng tư để
biểu đạt niềm tin tôn giáo, hoặc trong việc thờ phụng, giảng dạy, thực
hành và tu tập [21, Điều 9, Khoản 1].
ECHR cũng quy định về giới hạn quyền:
Tự do biểu đạt tôn giáo hay tín ngưỡng của một người chỉ phải
chịu các giới hạn như đã được quy định bởi pháp luật và là cần thiết
trong một xã hội dân chủ vì lợi ích của an toàn công cộng, để bảo vệ trật
tự công cộng, sức khỏe và đạo đức, hoặc để bảo vệ các quyền và tự do
22
của người khác [21, Điều 9, Khoản 2].
Quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo tạm đình chỉ trong các trường hợp
khẩn cấp tại điều 15 ECHR.
ECHR còn đưa ra nguyên tắc cấm phân biệt đối xử trong việc hưởng các
quyền trong công ước này với bất kỳ lý do nào như: giới tính, chủng tộc, màu da,
ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị, nguồn gốc quốc gia hay xã hội…. Công
ước quy định:
Việc hưởng các quyền và tự do nêu trong Công ước này phải
được bảo đảm không được phân biệt trên bất kỳ mặt nào như giới tính,
chủng tộc, màu da, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến hay quan niệm,
nguồn gốc quốc gia hay xã hội, gắn với một thiểu số quốc gia, tài sản,
nhân thân hay địa vị [21, Điều 14].
- Công ước Châu Mỹ về quyền con người năm 1978 bảo vệ quyền tự do lương
tâm và tôn giáo quy định về quyền tín ngưỡng, tôn giáo tại Điều 12 ACHR:
1. Mọi người đều có quyền tự do lương tâm và tôn giáo. Quyền này
bao gồm tự do để duy trì hoặc thay đổi tôn giáo hay tín ngưỡng của một
người, và tự do tuyên xưng, phổ biến tôn giáo của một người hay tín
ngưỡng riêng biệt hoặc cùng với những người khác, ở nơi công cộng hoặc
riêng tư. 2. Không ai có thể bị hạn chế mà có thể làm giảm sự tự do của
mình để duy trì hoặc thay đổi tôn giáo hay tín ngưỡng của mình. 3.Quyền
tự do biểu thị tôn giáo và tín ngưỡng chỉ có thể bị những hạn chế theo quy
định của pháp luật đó là cần thiết để bảo vệ an toàn công cộng, trật tự, sức
khỏe hoặc đạo đức, hoặc quyền lợi tự do của người khác. 4.Cha mẹ hoặc
người giám hộ, như trường hợp có thể được có quyền để cung cấp cho
giáo dục tôn giáo của trẻ em. 5.Cha mẹ hoặc người giám hộ, như trường
hợp có thể được, có quyền để cung cấp cho giáo dục tôn giáo và đạo đức
của trẻ em, phường đó là phù hợp với tín ngưỡng của họ [49, Điều 12].
- Hiến chương Châu Phi về quyền con người và quyền của các dân tộc năm
1981 đã đề cập đến quyền tự do lương tâm và tự do hành đạo, theo đó Điều 2 Hiến
23
chương quy định:
Mỗi cá nhân có quyền được hưởng những quyền tự do công nhận
và bảo đảm trong Hiến chương hiện tại mà không phân biệt về chủng
tộc, nhóm sắc tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến hay
quan điểm, nguồn gốc dân tộc và xã hội, tài sản, khai sinh hoặc tình
trạng khác [33, Điều 2]. Tự do lương tâm, tin theo và thực hành tự do
tôn giáo được bảo đảm. Không ai có thể, theo pháp luật và trật tự, đưa ra
các biện pháp hạn chế việc thực hiện các quyền tự do [35, Điều 8].
- Hiến chương các nước Ả Rập về quyền con người năm 2004 (sửa đổi Hiến
chương năm 1994) quy định tại Điều 30, mọi người đều có quyền tự do tư tưởng và
tín ngưỡng, tôn giáo, trong đó có thể phải chịu những giới hạn do pháp luật quy định.
Tự do biểu hiện, thực hành tôn giáo hay tín ngưỡng để thực hiện các nghi lễ một
mình hoặc trong cộng đồng với những người khác cũng bị giới hạn theo quy định của
Pháp luật, là cần thiết trong một xã hội khoan dung mà tôn trọng quyền tự do và
quyền con người để bảo vệ an toàn, trật tự công cộng, sức khỏe hay đạo đức hoặc các
quyền cơ bản và tự do của người khác. Cha mẹ và người giám hộ hợp pháp có quyền
đảm bảo quyền giáo dục tôn giáo và đạo đức của trẻ em.
Như vậy, Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo không chỉ giới hạn ở một quốc gia,
khu vực mà còn là vấn đề toàn cầu, được cả thế giới quan tâm. Đến nay, ở hầu hết các
quốc gia đều có sự ủng hộ về mặt pháp lý và trở thành nguyên tắc pháp lý mang tính
toàn cầu, có giá trị nhân văn phổ quát.
1.3. Kinh nghiệm bảo đảm quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo trong pháp
luật một số nƣớc trên thế giới
1.3.1. Hợp chủng quốc Hoa Kỳ
Hoa Kỳ là một quốc gia đa nguyên tôn giáo, ở đây hiện diện đầy đủ các giáo
hội tôn giáo lớn nhỏ, các giáo phái cũ mới đủ loại, với nhiều quan điểm, khuynh
hướng từ bảo thủ đến cấp tiến, thậm chí là cực đoan. Đó là các Giáo hội Tin lành,
Giáo hội Công giáo, Chính thống giáo, Do thái giáo, Islam giáo, Ấn Độ giáo, Phật
giáo, Đạo giáo, tôn giáo tín ngưỡng của người bản địa Indian…. Tự do tôn giáo ở Mỹ
24
bao hàm hai nội dung có tính nguyên tắc gồm: Nhà nước phân tách với nhà thờ và
Nhà nước bảo đảm tự do hành đạo. Địa vị của tôn giáo trong đời sống tinh thần của
Hoa Kỳ đặc biệt được quan tâm.
Năm 1784 Hiến pháp Hoa Kỳ được thông qua nhưng vẫn còn thiếu Luật về các
quyền. Năm 1789 Luật về các quyền được Quốc hội chấp thuận và được thông qua tại
tất cả các bang của Hoa Kỳ và có hiệu lực vào năm 1791. Năm 1993, Quốc hội Hoa Kỳ
đã thông qua điều khoản khôi phục tự do tôn giáo nhằm thực hiện nghiêm túc các điều
luật về tự do tôn giáo, chấn chỉnh lại những điều luật của Liên bang hay của các bang
trái với những quy định về tự do thực hành tôn giáo, tự do lựa chọn tôn giáo đã được
ghi trong điều khoản sửa đổi của Hiến pháp Hoa Kỳ lần thứ nhất.
Hiến pháp Hoa Kỳ đã có quy định về sự tách biệt giữa Nhà thờ và Nhà nước
trong điều bổ sung, sửa đổi thứ nhất, trong đó nghiêm cấm việc thiết lập một tôn giáo
nhà nước chính thức cũng như việc trợ giúp của Chính phủ cho các nhóm tôn giáo.
Điều bổ sung này cũng nghiêm cấm chính quyền bang hoặc liên bang can thiệp vào
các tổ chức tôn giáo và việc hành đạo. Nhưng trên thực tế, sự tách biệt giữa tôn giáo
và Nhà nước thường xuyên bị vi phạm. Điều này thể hiện không chỉ trong lĩnh vực
tinh thần mà còn cả trong lĩnh vực kinh tế như việc tiền quyên góp cho các tổ chức
tôn giáo lại được khấu trừ vào thuế thu nhập, hay như những bất công liên quan đến
tôn giáo trong trợ cấp tài chính cho sinh viên.
Tự do tôn giáo ở Hoa Kỳ thực ra chỉ là sự tự do lựa chọn tôn giáo và tự do
thực hành các nghi lễ tôn giáo. Công dân Mỹ có thể tự do trong việc lựa chọn tôn
giáo, nhưng họ lại ít có tự do trong việc từ bỏ tôn giáo. Thông thường, mỗi người dân
Mỹ đều phải thuộc về một tôn giáo nào đó và tham gia một tổ chức tôn giáo nào đó.
Những người không theo tôn giáo nào hay thậm chí có thái độ thờ ơ với tôn giáo và
hơn nữa là những người có quan điểm vô thần thường bị hạn chế về quyền lợi. Ở một
số bang, sự hạn chế này còn được quy định bằng luật pháp của bang. Hoa Kỳ là quốc
gia đầu tiên tuyên bố tách Giáo hội khỏi Nhà nước, ở đây Nhà nước có sự hợp tác
chặt chẽ với nhiều tổ chức tôn giáo. Tuy nhiên, việc tách Giáo hội khỏi Nhà nước ở
Hoa Kỳ vẫn mang tính hình thức, nó vẫn hạn chế quyền tự do tôn giáo được nêu
25
trong Luật về các quyền.
Như vậy, đa nguyên tôn giáo và tự do tôn giáo ở Hoa Kỳ không phải lúc nào
cũng là hai vấn đề thuận chiều nhau. Quả thực không có một nước nào trên thế giới
có bức tranh đa nguyên tôn giáo rực rỡ, đa sắc màu như ở Hoa Kỳ và cũng khó có ở
nơi đâu có cách hiểu về tự do tôn giáo đơn chiều như ở Hoa Kỳ. Ở nước này, tự do
tôn giáo chỉ được hiểu là tự do tin theo tôn giáo chứ không được hiểu là tự do không
tin theo tôn giáo. Chính vì cách hiểu này mà Hoa Kỳ thường xuyên buộc tội các nước
khác, trong đó có cả một số nước châu Âu là không có tự do tôn giáo và sắp xếp
những nước này vào diện các nước được quan tâm đặc biệt về tự do tôn giáo. Tuy
nhiên, mỗi quốc gia có truyền thống lịch sử, văn hóa, tôn giáo và tín ngưỡng khác
nhau, Luật pháp của mỗi nước cũng được xây dựng trên các truyền thống đó. Việc lấy
tiêu chuẩn luật pháp của một quốc gia này áp đặt cho một số quốc gia khác là điều
không thể chấp nhận được trong thế giới hiện đại. Chỉ có sự hiểu biết lẫn nhau, cùng
điều chỉnh và hội nhập mới là phương sách đúng giúp các quốc gia, dân tộc xích lại
gần nhau hơn, tránh được những xung đột, trong đó có xung đột tôn giáo.
1.3.2. Cộng hòa Pháp
Cộng hòa Pháp là quốc gia có nhiều tín ngưỡng, tôn giáo trong đó có một số
tôn giáo, tín ngưỡng cùng tồn tại và phát triển như: Công giáo, Do Thái giáo, Hồi
giáo và một số loại hình tín ngưỡng, tôn giáo khác. Trước năm 1905 ở Pháp, tôn giáo
là một bộ phận của Nhà nước, được Nhà nước nuôi dưỡng, bảo trợ công khai. Tuy
nhiên, ngày nay Chính phủ Cộng hòa Pháp khá tự hào về sự tách bạch giữa tôn giáo
và Nhà nước hay còn gọi là chủ nghĩa thế tục.
Nguyên tắc thế tục được hình thành từ rất sớm từ Cuộc cách mạng Pháp năm
1789. Trước năm 1905, có thể nói tôn giáo là một bộ phận của Nhà nước, được Nhà
nước nuôi dưỡng vào bảo trợ công khai. Nhà nước Pháp đã trả lương, trợ cấp cho tôn
giáo, trả chi phí cho việc hành đạo, có những cơ sở tôn giáo công thuộc quyền sở hữu
của Nhà nước. Năm 1905 Luật về tách rời Nhà nước với Nhà thờ đã loại bỏ vai trò
của giáo hội Công giáo khỏi hoạt động của Chính phủ Pháp: Nhà nước Cộng hòa bảo
đảm quyền tự do ý thức. Nhà nước bảo hộ quyền tự do tôn giáo. Nhà nước không
26
thừa nhận, trả lương hay trợ cấp cho tôn giáo nào (ngoại lệ tỉnh Alsace- Moselle).
Đồng thời Điều 44 đạo luật này bãi bỏ tất cả những điều khoản về tổ chức của các tôn
giáo mà Chính phủ Pháp trước đây công nhận, thay vào đó là các liên hội, hội hành
đạo của các tôn giáo.
Tại Điều 1 Hiến pháp nước Cộng hòa Pháp thông qua ngày 4.10.1958 đã
khẳng định lại Hiến pháp 1946 và bổ sung: “Pháp bảo đảm quyền bình đẳng của mọi
công dân trước pháp luật không phân biệt nguồn gốc xuất thân, sắc tộc, tôn giáo.
Mọi tín ngưỡng đều được tôn trọng” [31, Điều 1]. Cùng với việc trở thành một Nhà
nước thế tục, bảo đảm tự do tôn giáo, Pháp đã ban hành một hệ thống quy định điều
chỉnh theo hướng này.
Trong lĩnh vực giáo dục: Cải cách giáo dục có thể được coi là một trong những
bước đi đầu tiên thể hiện xu hướng thế tục hóa tôn giáo của Pháp. Việc lập ra các
trường công lập thế tục Thế kỷ XIX là một bước thiết yếu của chủ nghĩa thế tục tại
Pháp. Các trường công lập miễn phí và thế tục là một dịch vụ mà nhà nước Pháp cung
cấp cho công dân của mình, dù cho họ theo đức tin hay tín ngưỡng tôn giáo nào,
nguyên tắc này đảm bảo quyền tiếp cận giáo dục cho tất cả mọi người. Có thể dạy
lịch sử và triết học gắn liền với tôn giáo, nhưng không thích hợp cho việc cải đạo
hoặc biểu hiện một tôn giáo, hoặc của bất kỳ hệ tư tưởng nào.
Bày tỏ niềm tin tôn giáo: Đạo luật năm 1905 không thừa nhận cũng không cấm
đoán bất kỳ tôn giáo nào. Đạo luật này khẳng định tôn giáo không chỉ là một vấn đề
riêng mà nó còn có thể thực hiện trong không gian công cộng theo một cách tập thể.
Đạo luật ngày 15.3.2004 cấm việc mặc quần áo hoặc mang các ký hiệu biểu thị tôn
giáo trong các trường công lập, điều này để đảm bảo tính trung lập của nhà trường. Đối
với các cơ quan ngoài công lập, mặc trang phục hoặc mang các ký hiệu biểu thị tôn
giáo là quyền tự do các nhân, tuy nhiên nhìn chung thì bởi các nguyên nhân chủ quan
và khách quan như yêu cầu công việc, rủi do lao động… mặc các trang phục đó có thể
gây khó khăn, vướng víu khi tham gia công việc, điều này đôi khi đòi hỏi giữa người
chủ lao động và người lao động cần có một hợp đồng chi tiết quy định về những vấn đề
này để hạn chế sự tự do, rủi do và những bất tiện khi mặc những trang phục đó.
27
Nguyên tắc thế tục đối với phụ nữ: Từ năm 1944, phụ nữ Pháp đã được quyền
bỏ phiếu, việc này trước đó đã bị những người cấp tiến trong Thượng viện phản đối
vì sợ phụ nữ bị ảnh hưởng bởi các linh mục. Đến năm 1999, nguyên tắc bình quyền
đã được đưa vào Hiến pháp, tiếp đó vào năm 2000, đạo luật về bình quyền đã quy
định nam nữ bình đẳng đối với các chức vụ chính trị.
Nghỉ lễ tôn giáo: Tại Pháp, theo truyền thống, các lễ hội tôn giáo hợp pháp,
các ngày nghỉ lễ tôn giáo được đưa vào lịch học của các trường học. Đối với người đi
làm, Bộ luật lao động quy định 11 ngày nghỉ lễ trong năm. Ngoài các ngày nghỉ lễ đó,
người lao động có thể xin phép nghỉ làm nhân ngày lễ tôn giáo của mình. Lãnh đạo
cơ quan hoặc chủ thuê lao động sẽ xem xét nếu việc cho nghỉ đó không cản trở đến sự
hoạt động bình thường của cơ quan, công ty.
Đất đai, cơ sở thờ tự: Các nhà nước tư bản đều quy định quyền sở hữu tư nhân
về đất đai, Pháp cũng không là một ngoại lệ. Do vậy, không có sự tách biệt giữa
quyền sở hữu đất đai và quyền sở hữu nhà cửa, các công trình xây dựng trên nó. Đất
đai, tài sản tôn giáo đều phải nộp thuế như các chủ thể khác, và chịu một mức thuế
như thuế tư nhân.
Tự do ngôn luận: Tại Pháp, tự do ngôn luận chỉ có giới hạn pháp lý dựa trên sự
bảo vệ các quyền tự do cơ bản và bảo vệ con người. Trong khuôn khổ thế tục của
pháp luật, biểu đạt tôn giáo và chống tôn giáo đều được chấp thuận theo cùng một
cách, không có hành vi phạm tội truyền đạo, cũng không có hành vi phạm tội báng
bổ. Tuy nhiên, những lời này sẽ bị lên án khi chúng kêu gọi thù hận tôn giáo, phỉ
báng tôn giáo.
Việc xây dựng mô hình nhà nước thế tục dù ở đâu cũng đều xoay quanh 3 trụ
cột là sự " tách bạch" giữa quyền lực chính trị của nhà nước với tôn giáo; sự tôn
trọng tự do và ý thức tôn giáo; sự bình đẳng giữa các tôn giáo khác nhau trên
phương diện pháp lý và trong đời sống xã hội. Nhà nước phải bảo đảm tính trung
lập vì phải tôn trọng niềm tin của công dân. Điều này tạo điều kiện cho thuyết đa
nguyên tôn giáo tồn tại.
Tuy nhiên, Pháp cũng gặp khó khăn khi theo đuổi mô hình thể chế thế tục
28
trung lập tuyệt đối: Thứ nhất, nước Pháp là một nước Công giáo, nhưng lại theo đuổi
mô hình nhà nước thế tục, vì thế sẽ bị hạn chế trong quyền lực chính trị xã hội và
trong lĩnh vực văn hóa tinh thần của xã hội. Điều này dẫn đến vị trí của Công giáo
cũng bị suy giảm. Thứ hai, khi nhà nước không "công nhận" bất cứ tổ chức tôn giáo
nào, các tôn giáo trước Nhà nước đều tự do, bình đẳng ngang nhau. Các tổ chức tôn
giáo phải thực hiện nguyên lý thế tục cho nên khi tới các không gian công cộng sẽ có
sự xung đột lẫn nhau về biểu trưng tôn giáo. Đó cũng chính là một trong những
nguyên do khiến đôi khi những quy định nhằm bảo đảm tính thế tục hay trung lập của
Nhà nước lại cho cảm giác về sự kỳ thị.
1.3.3. Trung Quốc
Ở Châu Á, Trung Quốc là một nước có truyền thống tín ngưỡng, văn hóa lâu
đời. Năm 1949 sau khi nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ra đời, Chính phủ Trung
Quốc đã ấn định và thi hành chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo, xây dựng quan hệ
chính giáo phù hợp với tình hình trong nước. Công dân Trung Quốc có thể tự do lựa
chọn, bày tỏ tín ngưỡng và tỏ rõ tư cách tôn giáo của mình. Địa vị các tôn giáo bình
đẳng, cùng tồn tại hòa bình, chưa xảy ra tranh chấp tôn giáo, giữa công dân theo đạo
và không theo đạo cũng tôn trọng lẫn nhau và cùng hòa mục.
Trong Hiến pháp Nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa thì tự do tín ngưỡng,
tôn giáo là một quyền cơ bản được hưởng của tất cả công dân. Hiến pháp quy định:
"Công dân Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa có quyền tự do tín ngưỡng tôn
giáo" [32, Điều 36]. Hiến chương cũng nói: “Bất cứ cơ quan, đoàn thể xã hội và cá
nhân nào không được cưỡng bức công dân tín ngưỡng tôn giáo và công dân không
tín ngưỡng tôn giáo, không được kỳ thị công dân tín ngưỡng tôn giáo và công dân
không tín ngưỡng tôn giáo” [32]. Một lần nữa “Nhà nước bảo vệ hoạt động tôn giáo
bình thường” và “Không ai có thể sử dụng các tôn giáo tham gia vào các hoạt động
gây rối trật tự công cộng, ảnh hưởng đến sức khỏe của người dân hay can thiệp vào
hệ thống giáo dục của Nhà nước”. Ngoài ra, “Đoàn thể tôn giáo và công việc tôn giáo
không chịu sự chi phối của thế lực bên ngoài”.
Nghị quyết Đại hội lần thứ XVI năm 2002 của Đảng cộng sản Trung Quốc
khẳng định quan điểm đổi mới đối với công tác tôn giáo, trong đó có quan điểm: kiên
29
trì chính sách tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo và tự do không tín ngưỡng, tôn giáo.
Trung Quốc tôn trọng tự do tín ngưỡng tôn giáo của người nước ngoài, người
nước ngoài có thể tham gia các hoạt động tôn giáo, có thể rao giảng đạo theo lời mời
của các cơ quan tôn giáo Trung Quốc tại Trung ương hoặc cấp tỉnh. Người nước
ngoài có thể tổ chức các hoạt động tôn giáo mà có sự tham gia của người nước ngoài
tại các trang web của Chính phủ đã được phê duyệt. Họ có thể tiến hành các nghi lễ
tôn giáo như rửa tội, đám cưới, đám tang và các cuộc cầu nguyện… Tuy nhiên, các
hoạt động tôn giáo trong lãnh thổ Trung Quốc phải tuân thủ các quy định pháp luật
của Trung Quốc.
Pháp luật Trung Quốc quy định 4 nguyên tắc:
(1) Bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo của công dân,
giữ gìn đoàn kết tôn giáo và hài hòa xã hội. (2) Bất cứ tổ chức và cá nhân
nào cũng không được cưỡng chế công dân tin hoặc không tin theo tôn
giáo, không được kỳ thị giữa công dân có tín ngưỡng, tôn giáo với công
dân không có tín ngưỡng, tôn giáo. (3) Nhà nước dựa theo pháp luật bảo
hộ các hoạt động tôn giáo bình thường, duy trì và bảo vệ các đoàn thể tôn
giáo, cơ sở hoạt động của tôn giáo và các quyền lợi hợp pháp của tín đồ
tôn giáo. (4) Bất cứ tôn giáo và cá nhân nào cũng không được lợi dụng tôn
giáo để tiến hành phá hoại trật tự xã hội, gây tổn hại sức khỏe của công
dân, cản trở chế độ giáo dục quốc gia và các hoạt động khác gây ảnh
hưởng đến lợi ích quốc gia.
Như vậy, Trung Quốc là quốc gia quản lý các tổ chức xã hội trong đó có các tổ
chức tôn giáo bằng chính sách, pháp luật của Nhà nước, đồng thời Trung Quốc cũng
bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo bằng chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Về cơ bản, việc bảo vệ quyền công dân về tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Trung Quốc
phù hợp với các nội dung chính của văn bản quốc tế có liên quan và các Công ước
quốc tế như Hiến chương Liên hợp quốc, tuyên ngôn Quốc tế về nhân quyền, Công
ước quốc tế về các quyền Dân sự, chính trị, Tuyên bố của Liên hợp quốc về xóa bỏ
30
mọi hình thức phân biệt đối xử dựa trên tôn giáo và tín ngưỡng.
1.3.4. Một số quốc gia Hồi giáo tiêu biểu
* Ả - rập Xê - út
Ả - rập Xê - út là nước theo chế độ quân chủ tuyệt đối, toàn bộ quyền lực
chính trị đều nằm trong tay Quốc vương và Hoàng gia. Vì là chế độ quân chủ chuyên
chế nên Ả - rập Xê - út không có Hiến pháp và cũng không có Quốc hội. Kinh
Quar’an là Hiến pháp của Nhà nước, đồng thời Luật Shari’a của đạo Islam là đạo luật
chính dùng để điều hành và quản lý đất nước.
Tôn giáo và chính trị ở đây không tách rời nhau. Pháp luật được hình thành theo
Nghị quyết của Hội đồng Bộ trưởng nhưng lại phải được phê chuẩn bởi Nghị định của
Hoàng gia và phải phù hợp với Islam giáo và kinh Quar’an. Quyền xét xử được thực
hiện theo luật Islam giáo. Nhà nước cấp kinh phí xây dựng nhiều thánh đường và
trường tôn giáo. Các đạo luật đều phải tuân thủ theo các quy định của Luật Islam giáo.
Ở Ả - rập Xê – út không có tự do tôn giáo, nếu ai mắc tội xúc phạm giáo lý
quốc gia đều bị Nhà nước hoặc cảnh sát tôn giáo trừng trị. Đây là một trong các quốc
gia Hồi giáo giới hạn quyền tự do tôn giáo đến mức tối đa. Tại đây, các cộng đồng
tôn giáo khác bị cấm sinh hoạt tín ngưỡng tại nơi công cộng, hoạt động của các nhà
thờ Thiên chúa giáo cũng bị đặt ngoài vòng pháp luật, tín đồ Hồi giáo khi cải đạo
sang một tôn giáo khác thì phải đối mặt với nguy cơ án tử hình. Các lực lượng cảnh
sát Hồi giáo tại đây thường xuyên trừng phạt nghiêm khắc hoạt động truyền giáo,
sinh hoạt tín ngưỡng… của các tôn giáo khác và cả những hành vi được coi là “
không phù hợp với văn hóa Hồi giáo” tại nơi công cộng.
* Indonexia
Là quốc gia có đông người theo Hồi giáo nhưng không coi Hồi giáo là Quốc
đạo. Nhà nước Indonexia nhấn mạnh niềm tin vào Thượng đế trong năm nguyên tắc
làm nền tảng chính trị và tư tưởng của nền Cộng hòa là: Thượng đế, nhân đạo, dân
chủ, thống nhất và công bằng.
Hiến pháp Indonexia tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn
giáo. Điều 28E khẳng định: “Mọi người đều được tự do lựa chọn và thực hành tôn
31
giáo theo sự lựa chọn của mình”. Khoản 2, Điều 28E “Mọi người đều có quyền tự do
về đức tin và tự do bày tỏ quan điểm và suy nghĩ theo lương tâm mình”. Điều 29
khẳng định: “Nhà nước phải được dựa trên niềm tin một và chỉ một vào Đức Chúa
Trời. Nhà nước bảo đảm tất cả mọi người được tự do thờ phụng, tùy theo tôn giáo
hay niềm tin của mình”.
Ở Indonexia hầu như không có ai là người không có tín ngưỡng, tôn giáo. Luật
pháp còn quy định hàng năm người lao động được nghỉ làm việc, ngoài những ngày
lễ của dân tộc, còn được nghỉ 5 ngày lễ của các tôn giáo được Nhà nước công nhận. Ở
đây, tôn giáo được hỗ trợ phát triển, Chính phủ hỗ trợ tài chính cho hoạt động của các
tôn giáo, nhất là hỗ trợ cho tín đồ Hồi giáo đi hành hương viếng thánh địa Mếc – ca.
Ngoài việc giúp đỡ, hỗ trợ cho các hoạt động của các tôn giáo, công tác quản lý Nhà
nước ở Indonexia cũng được duy trì mang tính hành chính như đăng ký các tổ chức
tôn giáo, xây dựng nơi thờ tự, thúc đẩy việc nộp thuế, xuất bản kinh sách.
Như vậy, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo có thể phân thành 3 hình
thức: Các quốc gia theo mô hình thế tục; Quốc gia theo chế độ thần quyền; Quốc gia
bảo đảm quyền bằng chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước như
Trung Quốc, Việt Nam, Cu ba. Từ những kinh nghiệm bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo đó của các nước trên thế giới, Việt Nam có thể tiếp thu và vận dụng
được vào pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo của nước mình như vấn đề xu thế thế tục ,
bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật không phân biệt tôn giáo
của Cộng hòa Pháp; hay như quản lý xã hội trong đó có quản lý tín ngưỡng, tôn giáo
bằng pháp luật. Song như chúng ta đều biết, tín ngưỡng, tôn giáo là vấn đề hết sức
nhạy cảm, do đó việc quản lý của Nhà nước phải mang tính chất mềm dẻo, thuyết
phục để đồng bào tôn giáo, người theo đạo tin và theo chứ không thể áp đặt hay dùng
32
biện pháp cưỡng chế, nghiêm khắc đối với vấn đề đó được.
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN TỰ DO TÍN NGƢỠNG, TÔN GIÁO
TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM
2.1. Khái quát về tín ngƣỡng, tôn giáo ở Việt Nam
Việt Nam có thể coi là bảo tàng về tôn giáo, tín ngưỡng của thế giới. Ở đây có
đủ từ các tín ngưỡng truyền thống như đồng, cốt, xem bài, xóc thẻ đến các tôn giáo
hiện đại. Có tôn giáo ngoại nhập như Công giáo, Hồi giáo, Tin lành, Phật giáo, Brah'i.
Có tôn giáo nội sinh như Cao đài, Hòa hảo, Tứ ân hiếu nghĩa, Bửu sơn kỳ hương.
Theo số liệu của Ban tôn giáo Chính phủ thì Việt Nam có 14 tôn giáo, 38 tổ chức tôn
giáo, 01 pháp môn tu hành đã được Nhà nước công nhận và cấp đăng ký hoạt động.
Nước ta có hơn 25 triệu tín đồ (chiếm hơn 1/4 dân số), trong đó Phật giáo khoảng 10
triệu người; Công giáo 6,1 triệu; Cao đài 2,4 triệu; Hòa hảo 1,2 triệu; Tin lành 1,5
triệu; Hồi giáo khoảng 100.000 tín đồ. Song hầu hết người Việt Nam đều có tâm linh
tôn giáo, điều đó thể hiện ở việc thờ cúng ông bà tổ tiên, thành hoàng, vua Hùng…
Mặc dù đức tin, giáo lý và sự thờ phụng của đồng bào theo các tôn giáo khác
nhau nhưng đều có điểm tương đồng ở tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước,
truyền thống văn hóa và luôn đồng hành cùng dân tộc cả trong cách mạng giải phóng
dân tộc trước đây cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
2.1.1. Đặc điểm của tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam
- Việt Nam là quốc gia đa tín ngưỡng, đa tôn giáo
Ở Việt Nam tồn tại nhiều hình thức tín ngưỡng, tôn giáo từ sơ khai đến hiện
đại, từ tín ngưỡng, tôn giáo bản địa đến du nhập từ nước ngoài. Bên cạnh những tôn
giáo lớn "ngoại nhập" như Phật giáo, Hồi giáo, Công giáo, Tin lành... ở Việt Nam còn
có các tôn giáo "nội sinh" như Hòa Hảo, Cao Đài… Cùng với những tín ngưỡng bản
địa đã hình thành từ lịch sử ngàn năm của dân tộc như tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên,
các tôn giáo ngoại sinh và nội sinh đã làm phong phú và làm bộ phận không thể thiếu
được trong đời sống tâm linh và tinh thần của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Tính
33
đa dạng tôn giáo trong đời sống tôn giáo và xã hội Việt Nam là đặc trưng cơ bản của
nền văn hóa Việt Nam, nhất là trong giai đoạn hội nhập và phát triển. Cùng với quá
tình hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa sâu sắc mọi mặt của đời sống xã hội, các hình
thức tôn giáo mới cũng du nhập vào trong xã hội, được đón nhận và làm giàu thêm
tính đa dạng tôn giáo ở Việt Nam.
- Tính đan xen, hòa đồng, khoan dung của tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam
Người Việt Nam vốn cởi mở, bao dung chứ không kỳ thị, hẹp hòi, khép kín.
Dù là tín ngưỡng nào, tôn giáo gì, từ đâu đến thì thì cộng đồng người ở đây cũng sẵn
sàng tiếp nhận – miễn là nó không vi phạm đến lợi ích quốc gia và đi ngược lại truyền
thống văn hóa dân tộc. Tính đan xen, hòa đồng của của tín ngưỡng tôn giáo ở Việt
Nam được thể hiện ở những điểm sau: (1) Trên điện thờ của một số tôn giáo có sự
hiện diện của một số vị thần, thánh, tiên, Phật,… của nhiều tôn giáo. Hiện tượng này
thấy rõ ở Phật giáo Đại Thừa và điển hình là đạo Cao Đài; (2) Đối với người Việt
Nam, rất khó xác định tiêu chuẩn tôn giáo cụ thể của họ. Không ít người sẵn sàng
chấp nhận thờ cúng cả thần, thánh, tiên, Phật, lẫn thổ công, hà bá… Họ có thể đều
đặn đến chùa mà vẫn say sưa hầu bóng; có thể vừa chịu đủ những phép bí tích mà vẫn
ham bói toán, tử vi; vừa tham gia các nghi lễ tôn giáo lớn mà vẫn chăm chỉ thờ cúng
tổ tiên, tổ chức hội làng; (3) Ở Việt Nam có nhiều tăng ni, Phật tử thông thạo giáo lý
Phật giáo, đồng thời cũng am hiểu triết thuyết Khổng Mạnh và nghiên cứu cả Đạo
giáo. Thực tế có nhiều nhà Ngo nương thân trong chốn cửa thiền và cũng không ít
tăng ni có tư tưởng yếm thế, tu tiên.
- Mang đậm tính chất dân tộc, thần thánh hóa những người có công với nước,
với gia đình, làng mạc, đặc biệt là đạo thờ Tổ tiên
Lịch sử Việt Nam là lịch sử chống ngoại xâm và chống thiên tai. Con người
Việt Nam vốn có truyền thống yêu nước, trọng đạo lý “uống nước, nhớ nguồn”, “ăn
quả nhớ người trồng cây” nên tín ngưỡng, tôn giáo Việt Nam thấm đợm tinh thần ấy.
Truyền thống ấy được thể hiện trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và được ghi nhận rõ
nét trong hệ thống đền, miếu, lăng, phủ,..ở nước ta. Những người có công với gia
đình, làng xóm, đất nước đều được người Việt Nam tôn vinh, sùng kính. Nhiều vị có
đóng góp trên các lĩnh vực kinh tết, chính trị, văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế đã được
34
hậu thế thờ phụng để ghi tạc công ơn.
- Ở Việt Nam không có tôn giáo nào được coi là quốc đạo
Khác với một số nước phương Tây, ở Việt Nam không có tôn giáo nào giữ vai
trò thống trị suốt chiều dài lịch sử dân tộc, mà vị trí, vai trò của từng tôn giáo gắn liền
với sự hưng thịnh, suy tàn của các triều đại phong kiến trong tiến trình phát triển nhất
định của lịch sử dân tộc. Các tôn giáo đều bình đẳng, hoạt động trong khuôn khổ của
pháp luật. Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng đề ra chủ trương, chính sách tôn giáo
nhằm tạo điều kiện tốt nhất, công bằng nhất cho tất cả các tôn giáo cùng phát triển
phục vụ mục tiêu xây dựng đất nước, xây dựng XHCN ở Việt Nam.
2.1.2. Khái quát về tình hình tín ngưỡng
Việt Nam là quốc gia đa tín ngưỡng, đa tôn giáo. Theo thống kê chưa đầy đủ
thì có khoảng 95% dân số Việt Nam có tín ngưỡng, trong đó tín ngưỡng thờ cúng ông
bà, tổ tiên là phổ biến và chiếm phần lớn. Đây là một loại hình tín ngưỡng cổ truyền
mang tính phổ quát của người Việt Nam và được hình thành, phát triển từ ngàn năm.
Là người Việt Nam thì mọi người đều thờ cúng tổ tiên, thờ cúng ông bà. Tín ngưỡng
này ảnh hưởng từ quan niệm đạo Hiếu của đạo Khổng, quan niệm tin rằng: tổ tiên
mình là thiêng liêng, họ đi vào cõi vĩnh hằng nhưng vẫn sống cạnh con cháu, họ phù
hộ cho con cháu khi gặp tai ách, khó khăn; vui mừng khi con cháu gặp may mắn,
khuyến khích cho con cháu khi gặp điều lành và cũng quở trách con cháu khi làm
những điều tội lỗi. Ngày nay, tín ngưỡng thờ cúng ông bà tổ tiên đã trở thành một
chuẩn mực ứng xử của người Việt Nam và trở thành một đạo lý truyền thống cao đẹp
của dân tộc, thể hiện lòng hiếu thảo của con cháu với ông bà, cha mẹ, tổ tiên.
Gắn liền với lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam là hình thức
tín ngưỡng thờ các Anh hùng dân tộc. Đây là hình thức thờ thần là các vị tướng dũng
cảm, khi còn sống họ có công trạng với dân, với nước như Thánh Gióng, Lý Thường
Kiệt, Trần Hưng Đạo; các bậc danh nhân văn hóa như Chu Văn An, Nguyễn Trãi;
những ông vua tài đức như Lý Công Uẩn, Trần Thái Tông… Tín ngưỡng này luôn
gắn với các lễ hội như: Lễ hội các Vua Hùng, Đức Thánh Gióng, An Dương
Vương… với cả hệ thống đình, đền, miếu, phù thờ các vị này. Ngày nay, số lượng
35
người đến hành hương cúng bái ngày càng tăng như Lễ hội giỗ tổ Hùng Vương
(mùng 10 tháng 3). Lễ hội Gióng đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi
vật thể đại diện của nhân loại vào tháng 11 năm 2010.
Tín ngưỡng còn là niềm tin của một cộng đồng người vào sự che chở, phù trợ
của một vị thần linh trấn giữ, hộ mệnh cho một làng, một vùng hoặc cho một khu
vực, đó là tín ngưỡng thờ Thành hoàng. Thành hoàng ngự trị ở ngôi đình của làng,
xóm, là chỗ dựa tinh thần và là biểu tượng của sức mạnh cộng đồng. Gắn liền với
hình thức tín ngưỡng này là hệ thống lễ hội ở các đình, đền trên phạm vi toàn quốc.
Tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam là một tín ngưỡng bản địa cùng với những ảnh
hưởng ngoại lai từ Đạo giáo, tín ngưỡng lấy việc tôn thờ Mẫu (Mẹ) làm thần tượng
với các quyền năng sinh sôi, bảo trữ và che chở cho con người. Tín ngưỡng này tôn
thờ, thánh hóa vai trò của người phụ nữ trong xã hội Việt Nam, thể hiện sự ghi nhận
công ơn của giới nữ và để tri ân, đối với công sinh thành, dưỡng dục của người Mẹ.
Là nơi mà ở đó người phụ nữ Việt Nam đã gửi gắm những ước vọng giải thoát của
mình khỏi những thành kiến, ràng buộc của xã hội Nho giáo phong kiến.
Ngoài những hình thức tín ngưỡng dân gian tiêu biểu trên, ở nước ta còn có
nhiều loại tín ngưỡng dân gian khác như: Tín ngưỡng phồn thực, thờ thần tạo dựng
giống nòi… Tín ngưỡng hồn lúa và các nghi lễ nông nghiệp trong các dân tộc thiểu
số như Tày, Mường, Thái; tín ngưỡng thờ cúng thổ thần, thần bảo trợ bản Mường,
buôn làng của người Tày, Nùng.
2.1.3. Khái quát về tình hình tôn giáo ở Việt Nam
Tôn giáo là hình thái ý thức xã hội, ra đời và phát triển hàng ngàn năm nay.
Trong quá trình tồn tại và phát triển, dù chủ ý hay tự nhiên, tôn giáo đã tác động khá
sâu sắc và toàn diện đến đời sống xã hội, từ thiết chế chính trị đến pháp luật; từ văn
hóa, xã hội đến tâm lý, đạo đức, lối sống; từ các quan điểm triết học nhận định thế
giới đến những ứng xử xã hội; từ các dạng thức nghệ thuật đến phong tục, tập quán
của nhiều quốc gia, dân tộc. Ở nước ta, tôn giáo là vấn đề lớn liên quan đến chính
sách luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm, tạo điều kiện.
Đồng bào các tôn giáo ở Việt Nam đều có tinh thần yêu nước bởi trước khi là
36
tín đồ các tôn giáo họ đã là người Việt Nam mang trong mình dòng máu Lạc Hồng.
Gắn bó với cuộc đấu tranh xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam, những đường
hướng tốt lành của các tôn giáo như “Sống phúc âm trong lòng dân tộc” của Công
giáo, “Đạo pháp – dân tộc – Chủ nghĩa xã hội” của Phật Giáo, “Nước vinh, đạo sáng”
của Cao Đài, “Sống phúc âm phụng sự thiên chúa, phục vụ Tổ quốc và dân tộc” của
Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc) … là kết quả nhận thức và hành động thực
tiễn lâu dài của các tôn giáo ở Việt Nam. Hơn nữa, chỉ có gắn bó với dân tộc, văn hóa
Việt Nam, các tôn giáo mới có cơ hội tồn tại và phát triển. Tuy nhiên, cũng có một số
vụ việc về tôn giáo gây bức xúc cho khối đại đoàn kết toàn dân như vụ Tòa khâm sứ
42 nhà Chung.
Một xu thế của các tôn giáo hiện nay là có tính “thế tục” nhiều hơn khi chủ
trương nhập thể, đi với người nghèo, đẩy mạnh hoạt động xã hội nhưng cũng rất dễ bị
thương mại hóa, vận động quyên cúng quá nhiều, phát hành nhiều “bằng ghi công
đức”… Chùa chiền, nhà thờ bây giờ xây dựng to, màu sắc xanh đỏ, tô vàng, dát bạc
nhưng ít tính nghệ thuật, nhất là ít mang bản sắc văn hóa dân tộc.
Dưới đây là tình hình hoạt động của một số tôn giáo chính ở Việt Nam.
2.1.2.1. Đạo Phật
Phật giáo xuất phát từ Ấn Độ do Đức Phật Thích Ca sáng lập. Từ khi du nhập
vào Việt Nam đến nay, Phật giáo đã trải qua bao thăng trầm, lúc thịnh lúc suy, có lúc
thống nhất, lúc phân tán, do nhiều nguyên nhân khác nhau, từ đây Phật giáo Việt
Nam đã được thống nhất từ Bắc tới Nam. Trong số các tôn giáo ở Việt Nam, Phật
giáo có số lượng tín đồ đông đảo nhất. Dân số Việt Nam có tới 80-90% mang thiên
hướng Phật giáo. Ngày nay, Phật giáo đã trở thành tôn giáo phổ biến nhất tại Việt
Nam, chiếm đa số hầu hết các tỉnh của Việt Nam.
Giáo hội Phật giáo Việt Nam là một tổ chức duy nhất đại diện cho Phật giáo
Việt Nam trong và ngoài nước về mặt pháp lý và được Nhà nước CHXHCNVN nhìn
nhận bằng một hiến chương, hoạt động trên phạm vi cả nước, hoạt động dựa trên
đường hướng “Đạo pháp – dân tộc – chủ nghĩa xã hội”.
Tính đến cuối năm 2011, số người theo đạo Phật có trên 10 triệu phật tử quy y
37
Tam Bảo, chiếm hơn 12% dân số cả nước. Trong đó có 46.495 tăng ni, 14.778 ngôi
chùa (trong đó Phật giáo Nam tông Khơ – me có 1,3 triệu tín đồ, 8.574 tăng ni, 454
ngôi chùa); có 04 Học viện Phật giáo, 08 lớp Cao đẳng, 30 trường Trung cấp Phật học
và hàng trăm lớp Phật học tại các chùa. Có các tờ báo và tạp chí lớn như: Tuần báo
Giác Ngộ, Tạp chí Nghiên cứu Phật học, Tạp chí Khuông Việt, Phật giáo Nguyên
thủy. Phật giáo Việt Nam cũng có quan hệ với nhiều tổ chức Phật giáo ở các nước
trong khu vực và trên thế giới.
Với truyền thống gắn đạo với đời, đạo pháp dân tộc, Phật giáo đã tham gia vào
nhiều hoạt động xã hội như: Cứu giúp người nghèo, người cô đơn cơ nhỡ, nuôi dạy
trẻ mồ côi… Phật giáo Việt Nam ngày càng khởi sắc không chỉ ở số lượng và quy mô
các lễ hội, ở việc xây dựng, tu bổ, tôn tạo cơ sở thờ tự mà còn ở việc nâng cao sự
nhận thức về Phật học và thê học cho các tăng ni, ở việc tổ chức các hội thảo về Phật
giáo trong lịch sử và hiện tại. Sự phát triển lớn mạnh của Phật giáo Việt Nam hiện
nay đã vượt ra ngoài phạm vi quốc gia và được thể hiện bằng việc Phật giáo ở Việt
Nam được các tăng sĩ truyền bá tới nhiều nước trên thế giới, do vậy vai trò và vị thế
của Phật giáo không ngừng được củng cố, nâng cao.
2.1.2.2. Công giáo
Công giáo ra đời vào Thế kỷ thứ nhất sau công nguyên, đến nay đã trở thành
một tôn giáo lớn trên thế giới, với khoảng 1,2 tỷ người ở khắp các châu lục và ảnh
hưởng đến nhiều lĩnh vực trong đời sống chính trị, xã hội các nước.
Công giáo có mặt ở Việt Nam từ năm 1533, có số lượng tín đồ lớn thứ hai ở
Việt Nam (sau Phật giáo), có tổ chức chặt chẽ với hơn 6 triệu tín đồ, 47 Giám mục,
hơn 3.500 linh mục, hơn 3.000 giáo xứ, khoảng 9.000 giáo họ, hơn 100 dòng tu, tu
hội, tu đoàn với trên 15.000 tu sĩ nam, nữ sinh hoạt trong 26 giáo phận thuộc 3 giáo
tỉnh là: giáo tỉnh Hà Nội có 10 giáo phận; giáo tỉnh Huế gồm 06 giáo phận; giáo tỉnh
TP. Hồ Chí Minh gồ 10 giáo phận. Đứng đầu 03 giáo tỉnh là 03 Tổng giám mục và
đứng đầu các giáo phận là các giám mục. Các giám mục làm việc chung trong một tổ
chức là Hội đồng Giám mục Việt Nam. Hội đồng Giám mục Việt Nam là một tổ chức
có tư cách pháp nhân, được thành lập năm 1980, trụ sở tại Tòa Giám mục Hà Nội, số
38
40 phố Nhà Chung, thành phố Hà Nội. Theo quy chế, Hội đồng Giám mục Việt Nam
3 năm đại hội 1 lần và hàng năm có hội nghị thường niên. Đại hội lần thứ nhất vào
năm 1980 và đến năm 2010 là đại hội lần thứ XI. Giúp việc cho Hội đồng Giám mục
có 17 Ủy ban Giám mục đặc trách các vấn đề của Giáo hội.
Từ một tôn giáo ban đầu hoàn toàn xa lạ với xã hội Việt Nam, đến nay đạo
Công giáo đã phát triển và trở thành tôn giáo lớn ở Việt Nam, với nhiều hoạt động đa
dạng và có ảnh hưởng trong đời sống văn hóa – xã hội Việt Nam.
2.1.2.3. Đạo Tin lành
So với các tôn giáo có nguồn gốc từ bên ngoài ở Việt Nam thì đạo Tin lành
truyền vào muộn hơn cả. Đạo Tin lành đến Việt Nam từ cuối Thế kỷ XIX đầu Thế kỷ
XX. Đạo Tin lành vào Việt Nam chủ yếu qua các hệ phái ở Mỹ. Trải bao thăng trầm,
đến nay đạo Tin lành đã trở thành một tôn giáo lớn có ảnh hưởng quan trọng đến đời
sống văn hóa, xã hội của đất nước.
Đạo Tin lành có nhiều xu hướng hoạt động rất khác nhau. Các giáo phái có tổ
chức độc lập, có sắc thái riêng, mặc dù cùng lấy cơ sở đức tin chung là Kinh thánh,
lòng tin và ân điển của Chúa, nhưng lại hiểu khác nhau. Đạo khuyên dạy con người
sống có lương tâm, ngăn cản làm những điều tội lỗi.
Xét về số lượng và phạm vi, cho dù chưa có số liệu thống kê chính xác từ phía
tôn giáo và cơ quan nhà nước, nhưng đều đưa đến nhận diện ban đầu về đạo Tin lành
ở Việt Nam từ năm 1975 đến nay thì số lượng tín đồ tăng lên gấp 06 lần. Đến nay đã
có 50 tổ chức, hệ phái Tin lành và có mặt ở tất cả các địa phương trong cả nước (trừ
Ninh Bình và Quảng Bình).
Người theo đạo Tin lành rất đa dạng, ở hầu hết các tầng lớp cư dân khác, trong
đó đa số là đồng bào dân tộc thiểu số ở khu vực Tây Nguyên và Tây Bắc. Đa số đồng
bào ở hai khu vực này đều thờ đa thần và giữ phong tục tập quán truyền thống. Lối
sống, văn hóa, phong tục tập quán đều gắn với tín ngưỡng, tôn giáo nên khi theo đạo
Tin lành, đồng bào dân tộc thiểu số đã từ bỏ nhiều phong tục, tập quán truyền thống.
Họ không chỉ gỡ bỏ mà còn đập phá bàn thờ ông bà tổ tiên, hủy bỏ chiêng, ché…
Những hành động phủ nhận mang tính sạch trơn như trên đã dẫn tới xung đột văn
39
hóa, ảnh hưởng tiêu cực đến xã hội.
Những năm gần đây, lối sống văn hóa tích cực của đạo Tin lành ngày càng
được phát huy, cùng với việc Nhà nước bình thường hóa hoạt động của đạo Tin lành
theo quy định của pháp luật, các tổ chức Tin lành đều xác định cho mình đường
hướng hoạt động tiến bộ, tuân thủ pháp luật và gắn bó với dân tộc. Hội thánh Tin lành
Việt Nam (miền Bắc), Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam) đều có đường
hướng “Sống phúc âm, phụng sự Thiên Chúa, phục vụ Tổ quốc và Dân tộc”….
2.1.2.4. Hồi giáo
Hồi giáo ra đời ở bán đảo Ả rập vào đầu thế kỷ VII Sau Công Nguyên. Hồi
giáo là tôn giáo có tín đồ đông nhất thế giới (trên 1,3 tỷ tín đồ), có mặt ở hơn 100
quốc gia trên tất cả các châu lục. Hồi giáo truyền vào khu vực Đông Nam Á khá sớm,
khoảng thế kỷ XI, XII.
Ở Việt Nam chỉ có người Chăm theo Hồi giáo. Vì vậy, Hồi giáo gắn bó với dân
tộc Chăm, mà cư dân Chăm là một dân tộc có nền văn hóa đa dạng và phong phú; có
truyền thống yêu nước, gắn kết với dân tộc và cách mạng, đã có nhiều đóng góp trong
các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Là một dân tộc trong cộng đồng các dân tộc
Việt Nam, đồng bào Chăm Hồi giáo luôn phát huy bản sắc văn hóa và truyền thống đoàn
kết, yêu nước gắn bó với cộng đồng các dân tộc trong các cuộc kháng chiến chống kẻ thù
xâm lược, giành độc lập dân tộc. Hơn nữa, từ khi có Đảng, đồng bào Chăm Hồi giáo
luôn đi theo và tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, chấp hành nghiêm chỉnh đường lối,
chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước; làm tốt nghĩa vụ công dân, ủng hộ sự
nghiệp đổi mới do Đảng đề xướng và lãnh đạo, góp phần viết tiếp trang sử vẻ vang của
dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
2.1.2.5. Đạo Cao đài
Đạo Cao đài hay Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ khai sáng tại Việt Nam vào đầu thế
kỷ XX. Đạo Cao Đài thờ Thiên Nhãn – Mắt trời – là một mắt trái mở sáng, tượng
trưng Đấng Chí Tôn vô hình, là Cha chung vạn loại. Đấng Chí Tôn chỉ có “Một”, nên
biểu tượng Mắt Trời cũng chỉ là Một. Một còn diễn tả cái nhìn nhất quán, nhất lý.
Khi mới thành lập, đạo Cao Đài là một tổ chức tôn giáo thống nhất có Tòa
thánh ở Tây Ninh và xây dựng được hệ thống tổ chức Giáo hội hoàn chỉnh từ Trung
40
Ương tới địa phương. Tôn chỉ của đạo Cao đài là “Tam quy nguyên, Ngũ chi hiệp
nhất”, lấy sự thương yêu làm nền tảng, lấy nhân nghĩa làm phương châm hành đạo,
lấy việc phụng sự chúng sinh làm hành động, lấy sự cứu rỗi các chơn linh làm cứu
cánh, phấn đấu xây dựng một xã hội đạo đức, an lạc bằng tinh thần yêu thương đồng
đạo. Giáo lý của đạo Cao đài đề cao tính thiêng liêng, sự huyền diệu của cơ bút. Luật
lệ của đạo Cao đài thực hiện theo Tân luật, Pháp Chánh truyền. Lễ nghi của đạo Cao
đài khá cầu kỳ thể hiện tinh thần Tam giáo đồng nguyên. Cơ sở thờ tự có Tòa thánh ở
Trung ương giáo hội và thánh thất ở Họ đạo cơ sở.
Theo thống kê năm 2009 của các tổ chức Cao đài, đến nay đạo Cao đài có trên
1 vạn chức sắc, gần 03 vạn chức việc, khoảng 2,4 triệu tín đồ, với 958 tổ chức Họ đạo
cơ sở được công nhận ở 35/38 tỉnh, thành phố có đạo Cao đài, thành lập 65 Ban Đại
diện, 1.290 cơ sở thờ tự.
Trong hai cuộc kháng chiến cứu nước, đông đảo chức sắc, tín đồ đạo Cao đài
đã tích cực tham gia đóng góp sức người, sức của vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng
dân tộc, thống nhất đất nước. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay,
đồng bào đạo Cao đài đang cùng toàn dân tham gia vào công cuộc đổi mới, góp phần
xây dựng đất nước.
2.1.2.6. Phật giáo Hòa hảo
So với các tôn giáo truyền thống lâu đời, Phật giáo Hòa Hảo là một tôn giáo
mới ở Việt Nam. Phật giáo Hòa Hảo được sáng lập bởi Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ, quê
tỉnh An Giang.
Tên của đạo cũng nói lên tôn chỉ, mục đích là hướng đến sự hòa thuận tốt
đẹp. Nền tảng của triết lý Phật giáo Hòa Hảo là từ bi, bác ái, đại đồng và luật nhân
quả của nhà Phật. Phật giáo Hòa Hảo bài trừ những điều mê tín, dị đoan. Phật giáo
Hòa Hảo không thờ hình tượng nhưng đề cao thuyết “Phật tại tâm” nên phương thức
hành đạo giản dị.
Tuy là một tôn giáo mới những Phật giáo Hòa Hảo đã tập hợp được nhiều tín
đồ miền Tây Nam Bộ. Hiện nay, Phật giáo Hòa Hảo có một Ban Đại diện được Nhà
nước công nhận tư cách pháp nhân; đã tổ chức một đại hội để ban hành Quy chế hoạt
41
động. Giáo hội hiện có khoảng hơn 1 triệu người. Tín đồ Phật giáo Hòa Hảo sống
đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau, nhiều người nêu gương chay tịnh và tích cực tham gia
những hoạt động xã hội.
Ngoài những tôn giáo lớn kể trên còn có một số tôn giáo nội sinh khác như
ở Việt Nam như Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Tịnh Độ Cư Sĩ Phật hội
Việt Nam…
Nhìn chung, các tôn giáo ở Việt Nam dù khác nhau về nguồn gốc, giáo lý
nhưng lại không thuần nhất mà đan xen, vay mượn nghi lễ của nhau. Đạo tổ tiên vừa
cúng khấn như đạo Lão nhưng chọn ngày rằm, mùng 1 như đạo Phật. Trên bàn thờ
của đạo Cao đài có thờ đủ từ Khổng Tử, Lão Tử, Đức Phật, Chúa Giê su và Khương
Tử Nha. Đạo Công giáo bây giờ cũng thắp hương trước ảnh người quá cố và ghi điều
khấn nguyện ra giấy rồi đốt đi trước bàn thờ Đức Mẹ. Nhiều nữ giáo dân lấy quan
thày là Maria, Phật giáo cũng thế. Phật Bà Quan Âm được dựng tượng nhiều hơn và
sùng bái hơn ở các chùa chiền. Tín đồ tôn giáo này nhưng cũng tham gia nhiều sinh
hoạt của tôn giáo khác. Ví dụ người công giáo vẫn thắp hương ngày rằm, mùng 1 và
đi xem bói. Một số tín đồ phật tử vẫn đến xin khấn ở các nhà thờ Công giáo.
2.2. Bảo đảm quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo trong pháp luật Việt Nam
Việt Nam là quốc gia đa tôn giáo và đa dân tộc, giáo hội các tôn giáo khi được
Nhà nước công nhận tư cách pháp nhân đều được chính quyền các cấp quan tâm và
tạo thuận lợi để hoạt động tôn giáo bình thường trong khuôn khổ luật pháp.
Trên thực tế, mọi tôn giáo ở Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật, được
pháp luật bảo vệ, được tự do hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và Pháp luật.
Tuyệt nhiên không một tôn giáo nào hoạt động đúng pháp luật mà bị chính quyền
ngăn cấm. Chức sắc, các tín đồ luôn gắn bó với quốc gia, dân tộc theo phương châm
"Đạo pháp dân tộc và CNXH", thực hiện "Sống phúc âm trong lòng dân tộc".
2.2.1. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong Hiến pháp Việt Nam
Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được ghi nhận không chỉ trong pháp luật quốc
tế về quyền con người, trong pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới mà còn cả trong
pháp luật Việt Nam từ Hiến pháp, Luật, Nghị định và các văn bản hướng dẫn.
Điều 10 Hiến pháp năm 1946 ghi rõ: “Công dân Việt Nam có quyền tự do tín
42
ngưỡng” [40, tr.238]. Trên cơ sở quy định của Hiến pháp, Quốc hội Việt Nam đã xây
dựng những quy định cụ thể trong nhiều Luật để bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng
trong thực tế. Có thể nói, những quy định về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của
Việt Nam thể hiện rõ chế độ xã hội ta là một trong những chế độ xã hội tiến bộ so với
nhiều nhà nước khác trên thế giới. Hiến pháp 1946 càng cho thấy giá trị thời đại khi
hai năm sau (1948), trong Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền, quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo được ghi nhận tại Điều 18 một cách cụ thể hơn: “Mọi người đều có
quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo, kể cả tự do thay đổi tín ngưỡng hoặc
tôn giáo của mình, và tự do bày tỏ tín ngưỡng hay tôn giáo của mình bằng các hình
thức như truyền giảng, thực hành, thờ cúng và tuân thủ các nghi lễ, dưới hình thức cá
nhân hay tập thể, tại nơi công cộng hoặc nơi riêng tư”.
Hiến pháp năm 1959 tiếp tục khẳng định về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo:
“Công dân Việt Nam dân chủ Cộng hòa có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không
theo một tôn giáo nào” [40, Điều 26]. Trong Hiến pháp này, quyền tự do tín ngưỡng
đã được mở rộng “theo hoặc không theo một tôn giáo nào”. Điều này cho thấy tự do
tín ngưỡng không chỉ là quyền theo tôn giáo mà còn có cả quyền không theo một tôn
giáo nào. Thực tế cho thấy bên cạnh những người theo tôn giáo, vẫn có không ít
những người không theo tôn giáo nào. Quy định như vậy một mặt là sự mở rộng hơn,
làm sâu sắc thêm quyền đó, một mặt là cơ sở pháp lý nhằm bảo vệ quyền của những
người không có đạo, phòng ngừa trường hợp có những người ép buộc người khác
phải theo một tôn giáo nào đó. Điều này cũng tạo ra sự bình đẳng, đoàn kết giữa
người có đạo với người không có tín ngưỡng trong khối đại đoàn kết dân tộc.
Kế thừa và phát triển Hiến pháp năm 1946, 1959, Hiến pháp năm 1980 quy
định: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo
nào; không ai được lợi dụng tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà
nước” [40, Điều 68]. Qua đó cho thấy, quyền tự do tín ngưỡng tiếp tục được khẳng
định, tuy nghiên có sự quy định rõ ràng hơn: “Không ai được lợi dụng tôn giáo để
làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước”. Điều này có ý nghĩa to lớn như:
quyền tự do tín ngưỡng bao gồm cả nội dung phòng ngừa hành vi lợi dụng quyền này
43
để chống phá cách mạng; quy định này cũng giới hạn phạm vi hoạt động là trong
khuôn khổ pháp luật, chính sách của Nhà nước để tuyên truyền mê tín, dị đoan cũng
như các thủ tục lạc hậu nhằm mưu cầu cá nhân phá hoại thành quả cách mạng.
Hiến pháp 1992 và 1992 sửa đổi cũng quy định một số điểm mới về quyền tự
do tín ngưỡng, tôn giáo như:
Một là, khái niệm tín ngưỡng được đặt độc lập, bên cạnh khái niệm tôn giáo.
Như vậy, sự phân biệt hai hiện tượng tín ngưỡng và tôn giáo đã rõ ràng hơn. Đây có
thể xem là một bước tiến của nhận thức về các hiện tượng tiêu biểu thuộc đời sống
tâm linh ở nước ta. Hiện tượng tín ngưỡng gồm: thờ cúng ông bà, cha mẹ, tổ tiên…
khác với hoạt động tôn giáo. Thực tế, hoạt động tín ngưỡng rất phong phú, mang tính
truyền thống, phong tục… nó có cả mặt tích cực và tiêu cực. Do vậy, việc bổ sung,
làm rõ hiện tượng tín ngưỡng bên cạnh hiện tượng tôn giáo như Hiến pháp 1992 đã
đề cập là cần thiết, nó không chỉ mở rộng quyền công dân mà còn thể hiện tính công
bằng đối với xã hội từ phương diện chuẩn mực pháp lý.
Hai là, Hiến pháp 1992 đề cập đến sự bình đẳng trước pháp luật của các tôn
giáo, qua đó phản ánh khá rõ nét về tính dân chủ của xã hội nước ta. Việt Nam có
nhiều tôn giáo khác nhau, tồn tại đan xen. Song, về nguyên tắc, tất cả đều phải bình
đẳng trong mối quan hệ với Nhà nước. Hơn thế, quy định về sự bình đẳng trước pháp
luật của các tôn giáo ở nước ta trong Hiến pháp 1992 còn là một yếu tố góp phần bảo
đảm sự đoàn kết giữa các đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, góp phần vào sự
nghiệp đoàn kết chung của dân tộc. Quy định nghiêm cấm việc lợi dụng quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm đến lợi ích của Nhà nước, của nhân dân là phù hợp
với luật pháp quốc tế. Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948 cho rằng, quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo không phải là quyền tuyệt đối, tự do vô nguyên tắc. Tại
Điều 29 của Tuyên ngôn nêu rõ: Khi hưởng thụ các quyền và tự do của mình, mọi
người chỉ phải tuân thủ những hạn chế do luật định, nhằm mục đích bảo đảm sự công
nhận và tôn trọng thích đáng về đạo đức, trật tự công cộng và phúc lợi chung trong
một xã hội dân chủ. Trong mọi trường hợp, việc thực hiện các quyền tự do này cũng
không được trái với các mục tiêu và nguyên tắc của Liên hợp quốc.
44
Ba là, Hiến pháp 1992 còn quy định “những cơ sở thờ tự của tín ngưỡng, tôn
giáo được pháp luật bảo hộ” [40, Điều 70]. Quy định này thể hiện chính sách trách
nhiệm cụ thể của Nhà nước Việt Nam đối với việc bảo đảm quyền của các tôn giáo
trong cuộc sống.
Bốn là, Hiến pháp 1992 không chỉ dừng lại ở việc quy định: “Không ai được
lợi dụng tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, mà còn quy
định: “không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo” [40, Điều 70]. Đây là
một quy định thể hiện trách nhiệm tôn trọng quyền này đối với mọi người. Quy định
này thể hiện một cách nhìn nhận thực tế trong đời sống xã hội. Bởi vì, quyền tự do tín
ngưỡng tôn giáo chỉ được bảo đảm khi mọi người trong xã hội, dù có hay không có
tín ngưỡng tôn giáo đều không được làm phương hại đến nó. Trong Điều 25 của Dự
thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được đề cập đó là:
(1). Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc
không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. (2).
Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Nơi thờ
tự của tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ. (3). Không ai được xâm
phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi
phạm pháp luật [40].
Về cơ bản thì quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân trong Điều 25
của Dự thảo Hiến pháp 1992 đã được kế thừa và phát triển từ Điều 70 của Hiến pháp
1992. Trong dự thảo này, Hiến pháp đã ghi nhận “Nhà nước tôn trọng và bảo đảm
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo”. Điều này cho thấy thái độ cũng như chính sách
dân chủ của Nhà nước ta đối với quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Coi đó là một nhu
cầu và là một quyền tất yếu của người dân cần phải được tôn trọng, bảo vệ và tạo
điều kiện để họ thực hiện tốt nhất quyền đó. Điều này quy định cũng có những tiến bộ
hơn so với các bản Hiến pháp trước đó khi đã có sự ghi nhận: “Mọi người có quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào”. Ở đây, bản
chất vấn đề đã có sự thay đổi căn bản với việc ghi nhận là “Mọi người” chứ không
phải là “công dân”, điều đó thể hiện chính xác quyền con người đối với vấn đề tín
45
ngưỡng, tôn giáo. “Công dân” là thể hiện mối quan hệ giữa người dân với Nhà
nước, với thể chế chính trị, việc ghi nhận “mọi người” sẽ bao trùm rộng hơn so với
“công dân” vì trong thực tế không phải ai cũng có quyền công dân. Ví dụ, một
người tù, mặc dù đã mất quyền công dân nhưng vẫn có quyền tự do thờ phụng, thực
hành tôn giáo của mình… Việc ghi nhận “mọi người” có quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo có ý nghĩa to lớn trong sự nghiệp đại đoàn kết dân tộc và trong quá trình
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đến Hiến pháp 2013 đã kế thừa và sửa đổi, bổ sung quy định của Hiến pháp
1992 về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo như Điều 24:
(1) Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc
không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. (2)
Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. (3) Không
ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng,
tôn giáo để vi phạm pháp luật [40, tr.20].
Như vậy, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những quyền cơ bản
của con người. Đảng và Nhà nước ta đã không ngừng hoàn thiện chủ chương, cơ chế,
chính sách, pháp luật về tôn giáo, tạo điều kiện tốt nhất cho nhân dân thực hành quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mình. Hiến pháp là văn bản có giá trị pháp lý cao nhất
qua những lần sửa đổi đều đề cập đến vấn đề quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo
hướng ngày càng hoàn thiện, dân chủ, tôn trọng, tạo điều kiện tốt nhất cho giáo dân và
tổ chức tôn giáo phát triển một cách lành mạnh và công bằng nhất. Thực hiện tốt quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân có ý nghĩa rất lớn trong việc thực hiện sự
nghiệp đại đoàn kết dân tộc vì mục tiêu chung là phát triển và bảo vệ Tổ quốc.
2.2.2. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong các văn bản Luật, Nghị định
Để thể chế hóa quy định của Hiến pháp về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của
công dân và xuất phát từ nhu cầu hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân trong
thời kỳ đổi mới cũng như yêu cầu thực hiện công tác quản lý nhà nước về tín ngưỡng,
tôn giáo bảo đảm quán triệt các nguyên tắc, quy định của Hiến pháp năm 1992, Ủy ban
Thường vụ Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI đã ban hành
46
Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo (thông qua ngày 18/6/2004 và có hiệu lực kể từ ngày
15/11/2004). Để hướng dẫn thi hành Pháp lệnh, Chính phủ đã ban hành Nghị định số
22/2005/NĐ –CP ngày 01/03/2005 hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh và
Nghị định số 92/2012/NĐ- CP ngày 08/11/2012 thay thế nghị định số 22/ NĐ- CP. Đây
là những văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh trực tiếp hoạt động tín ngưỡng, tôn
giáo ở Việt Nam hiện nay cũng như quy định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của Chính
phủ trong việc tổ chức thực hiện các chính sách tôn giáo.
Nội dung của Pháp lệnh đã quán triệt, thể chế hóa những quan điểm, chủ
trương, chính sách tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà nước; kế thừa, phát triển
những quy định phù hợp, mang tính khả thi của các văn bản về tín ngưỡng, tôn giáo
được ban hành trước đó cũng như khắc phục những hạn chế, bất cập của các quy
định; bảo đảm tính tương thích với luật pháp quốc tế điều chỉnh về quyền con người
trong đó có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo mà đặc biệt là những Điều ước quốc tế
mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập.
- Điều 1, Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo khẳng định:
Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không
theo một tôn giáo nào. Nhà nước bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo của công dân. Không ai được xâm phạm quyền tự do ấy. Các tôn giáo
đều bình đẳng trước pháp luật. Công dân có tín ngưỡng, tôn giáo hoặc
không có tín ngưỡng, tôn giáo cũng như công dân có tín ngưỡng, tôn giáo
khác nhau phải tôn trọng lẫn nhau [43]. Không được phân biệt đối xử vì lý
do tín ngưỡng, tôn giáo; vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của
công dân [43].
Điều này tương thích với Điều 18 của UDHR và Điều 18 ICCPR, tuy nhiên,
đối tượng tại Điều 1 Pháp lệnh hẹp, phạm vi bị giới hạn bởi hai chữ “công dân”
trong khi đối tượng của Luật quốc tế có phạm vi hẹp “mọi người”. Pháp lệnh cũng
thể hiện chính sách dân chủ, tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công
dân; xác định rõ quyền và nghĩa vụ của các cá nhân, tổ chức tôn giáo, trách nhiệm
của các cơ quan quản lý nhà nước trong việc bảo đảm quyền và nghĩa vụ của các cá
47
nhân, tổ chức trong hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo, tôn trọng và bảo đảm nguyên
tắc những việc nội bộ của các tổ chức tôn giáo tự giải quyết theo hiến chương, điều
lệ của các tôn giáo.
- Để bảo đảm quyền thực hành tín ngưỡng, tôn giáo, Pháp lệnh quy định
“Người có tín ngưỡng, tín đồ được tự do bày tỏ đức tin, thực hành các nghi thức thờ
cúng, cầu nguyện và tham gia các hình thức sinh hoạt, phục vụ lễ hội, lễ nghi tôn
giáo và học tập giáo lý tôn giáo mà mình tin theo” [43, tr.30]. “Chức sắc, nhà tu hành
được thực hiện lễ nghi tôn giáo trong phạm vi phụ trách, được giảng đạo, truyền đạo
tại các cơ sở tôn giáo [43, tr.30-31].
- Việc phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử trong tôn giáo là
một trong những quy định mới có điểm những điểm thay đổi khá cơ bản. Theo quy
định mới của Pháp lệnh, tổ chức tôn giáo thực hiện việc phong chức, phong phẩm, bổ
nhiệm, bầu cử theo Hiến chương, điều lệ của tổ chức mình. Nhà nước chỉ đề ra các
điều kiện về mặt công dân để tổ chức tôn giáo có căn cứ lựa chọn quyết định và được
Nhà nước thừa nhận về mặt kết quả (Điều 22).
- Pháp lệnh cũng quy định khá thông thoáng trong việc thuyên chuyển nơi hoạt
động tôn giáo của chức sắc, nhà tu hành. Theo đó, khi thuyên chuyển nơi hoạt động
tôn giáo của chức sắc, nhà tu hành thì tổ chức tôn giáo có trách nhiệm thông báo với
UBND cấp huyện nơi đi và đăng ký với UBND cấp huyện nơi đến. Đối với những
trường hợp vi phạm pháp luật về tôn giáo mà đã bị Chủ tịch UBND cấp tỉnh xử lý
hình sự thì khi thuyên chuyển phải được sự chấp thuận của UBND cấp tỉnh nơi đến.
Với những quy định này đã tạo điều kiện cho chức sắc, nhà tu hành được thuyên
chuyển địa bàn hoạt động một cách dễ dàng hơn.
- Pháp lệnh khẳng định “Người đi tu trên cơ sở tự nguyện, không ai được ép
buộc, cản trở. Người chưa thành niên đi tu phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ
đồng ý. Người phụ trách cơ sở tôn giáo khi nhận người vào tu có trách nhiệm đăng
ký với Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi có cơ sở tôn giáo” (Điều 21).
- Tổ chức tôn giáo được mời tổ chức nước ngoài vào Việt Nam để tiến hành
các hoạt động trao đổi, hợp tác quốc tế có liên quan đến tôn giáo; tham gia các hoạt
48
động tôn giáo ở nước ngoài, tham gia khóa đào tạo tôn giáo ở nước ngoài. Pháp lệnh
và các Nghị định cũng đã quy định cụ thể về sinh hoạt tôn giáo của người nước ngoài.
- Nhà nước bảo tài sản hợp pháp thuộc cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo, tạo điều kiện
trong việc quản lý, sử dụng đất, công trình tín ngưỡng, tôn giáo cũng như việc sửa
chữa, cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới các công trình thuộc cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo.
- Tổ chức tôn giáo được tổ chức quyên góp, nhận tài sản hiến, tặng, cho trên
cơ sở tự nguyện của tổ chức, cá nhân trong nước và tổ chức, cá nhân nước ngoài theo
quy định của pháp luật. Không lợi dụng danh nghĩa cơ sở, tổ chức tôn giáo để quyên
góp, phục vụ lợi ích cá nhân hoặc những mục đích trái pháp luật.
- Việc xuất bản, in, phát hành các loại kinh, sách, báo, tạp chí và các xuất
bản phẩm khác về tín ngưỡng, tôn giáo; kinh doanh, xuất khẩu, nhập khẩu văn hóa
phẩm về tín ngưỡng, tôn giáo, sản xuất đồ dùng phục vụ hoạt động tín ngưỡng, tôn
giáo thực hiện theo quy định của pháp luật về xuất bản, pháp luật về xuất nhập
khẩu văn hóa phẩm không thuộc phạm vi kinh doanh và các quy định khác của
pháp luật có liên quan.
- Tổ chức tôn giáo được khuyến khích, tạo điểu kiện tham gia các hoạt động vì
mục đích từ thiện, nhân đạo.
Để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo của công dân, bảo đảm các
sinh hoạt tôn giáo bình thường được diễn ra trong khuôn khổ pháp luật, Nghị định
92/2012/ NĐ –CP cũng đã quy định về thủ tục đăng ký sinh hoạt tôn giáo: “công dân
có nhu cầu tập trung để thực hành các nghi thức thờ cúng, cầu nguyện, bày tỏ đức tin
về tôn giáo mà mình tin theo thì người đại diện gửi hồ sơ đăng ký sinh hoạt tôn giáo
đến Ủy ban nhân dân cấp xã” [43].
- Nghị định 92/2012/ NĐ –CP quy định các điều kiện để một tổ chức tôn giáo
được công nhận là tổ chức tôn giáo tại Điều 6. Theo đó, với các tổ chức tôn giáo chưa
được công nhận thì Pháp lệnh đã mở hướng thuận lợi bằng việc đăng ký hoạt động
cho tôn giáo đó.
- Đối với việc thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo trực
thuộc thì Nghị định 92/2012/ NĐ -CP cũng quy định về điều kiện, trình tự, thủ tục
49
thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo đó.
- Nghị định 92/ 2012/ NĐ – CP cũng quy định các tổ chức tôn giáo được thành
lập hội đoàn, dòng tu, tu viện và các tổ chức tu hành tập thể khác. Xuất phát từ nhu
cầu hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân trong thời kỳ đổi mới, hội đoàn tôn
giáo được xác định là một hình thức tập hợp tín đồ do tổ chức tôn giáo lập ra nhằm
phục vụ hoạt động tôn giáo. Những hội đoàn do tôn giáo lập ra nhằm phục vụ lễ nghi
như: đội kèn, đội trống, đội con hoa, ca đoàn, đội mai táng, đội nhạc lễ, đội nhi đồng
theo quy định tại Điều 12 của Nghị định 92/ 2012/ NĐ –CP khi hoạt động không phải
đăng ký với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
- Tổ chức tôn giáo được mở trường đào tạo, mở những lớp chuyên hoạt động
tôn giáo [43, tr.36].
- Chức sắc, nhà tu hành được thực hiện lễ nghi tôn giáo trong phạm vi phụ
trách, được giảng đạo, truyền đạo tại các cơ sở tôn giáo, trường hợp thực hiện lễ nghi
tôn giáo, giảng đạo, truyền đạo ngoài cơ sở tôn giáo có trách nhiệm gửi hồ sơ đến Ủy
ban nhân dân cấp huyện nơi dự kiến giảng đạo, truyền đạo.
Nhƣ vậy, ở Việt Nam mặc dù quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được Nhà
nước tôn trọng, bảo đảm nhưng vẫn còn một số vấn đề sau:
* Giới hạn quyền: Ở Việt Nam, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo không phải
là tuyệt đối, hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo bị định chỉ nếu vi phạm một trong các
trường hợp: xâm phạm an ninh quốc gia, ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự công
cộng hoặc môi trường; xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản
của những người khác hoặc có những hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng khác.
Điều 13, Pháp lệnh cũng quy định: Người đang chấp hành hình phạt tù hoặc đang bị
quản chế theo quy định của pháp luật thì không được chủ trì nghi lễ tôn giáo, truyền
đạo, giảng đạo, quản lý tổ chức của tôn giáo và chủ trì lễ hội tín ngưỡng. Quy định
này không trái với quy định tại Khoản 3, Điều 18 Luật nhân quyền quốc tế về sự
giới hạn quyền.
* Nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt giữa các tín ngưỡng, tôn giáo
cũng được Nhà nước quy định trong các văn bản pháp luật có liên quan
50
- Bộ luật Dân sự 2005 quy định về nguyên tắc bình đằng: “Trong quan hệ dân
sự, các bên đều bình đẳng, không được lấy lý do khác biệt về dân tộc, giới tính, thành
phần xã hội, hoàn cảnh kinh tế, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp
để đối xử không bình đẳng với nhau” [38, Điều 5].
- Bộ luật Tố tụng Dân sự quy định bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố
tụng “Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, trước Tòa án không phân biệt
dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề
nghiệp. Mọi cơ quan, tổ chức đều bình đẳng không phụ thuộc vào hình thức tổ chức,
hình thức sở hữu và những vấn đề khác” [39].
- Bộ luật Hình sự quy định về tội phá hoại chính sách đoàn kết trong đó có
hành vi: “gây chia rẽ người theo tôn giáo với người không theo tôn giáo, chia rẽ các
tín đồ tôn giáo với chính quyền nhân dân, với các tổ chức xã hội”, thì bị phạt tù từ
năm năm đến mười lăm năm (Điều 87).
- Bình đẳng trong Hôn nhân và gia đình:
Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng.
Hôn nhân giữa công dân Việt Nam thuộc các dân tộc, tôn giáo, giữa người
theo tôn giáo với người không theo tôn giáo, giữa công dân Việt Nam với
người nước ngoài được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ (Điều 2). Vợ,
chồng tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhau; không được cưỡng
ép, cản trở nhau theo hoặc không theo một tôn giáo nào (Điều 22) [42].
- Bình đẳng trong lĩnh vực giáo dục:
Mọi công dân không phân biệt dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, nam
nữ, nguồn gốc gia đình, địa vị xã hội, hoàn cảnh kinh tế đều bình đẳng về
cơ hội học tập [41].
- Bình đẳng trong việc tham gia đời sống chính trị:
Công dân nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam không phân
biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn
hóa, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ mười tám tuổi trở lên có quyền ứng
51
cử đại biểu Hội đồng nhân dân theo quy định của pháp luật [37].
Như vậy, về cơ bản quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam được Đảng
và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Nhìn chung đã thể hiện được các nguyên tắc bảo
đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Có thể nói, Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo và
Nghị định 92 là một bước tiến quan trọng về phương diện pháp lý trong việc bảo đảm
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tạo ra sự thông thoáng cho các hoạt động tín
ngưỡng, hoạt động tôn giáo. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều bất cập xuất phát từ quá trình
thực tiễn hoạt động hiện nay, do vậy sắp tới Luật Tín ngưỡng và tôn giáo sẽ được ban
hành thay thế Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo và cần bổ sung các nội dung cơ bản,
phù hợp với thực tiễn.
2.3. Những thành tựu và hạn chế về bảo đảm quyền tự do tín ngƣỡng, tôn
giáo ở Việt Nam
2.3.1. Thành tựu
Việt Nam là quốc gia có nhiều tôn giáo và có nhiều người tin theo các tôn
giáo. Chính sách đối với tôn giáo là một trong những chính sách quan trọng của Đảng
và Nhà nước. Việt Nam bước vào thời kỳ đổi mới từ giữa những năm 1980, cụ thể là
năm 1986, được đánh dấu bằng nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV. Đến
nay, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn về các mặt kinh tế, văn hóa, xã
hội. Trong quá trình đó, đổi mới về chính sách đối với tôn giáo đã đưa lại những
thành tựu rất quan trọng, làm thay đổi rất căn bản đời sống tôn giáo ở Việt Nam.
Sự chuyển biến trong đời sống tôn giáo ở Việt Nam là kết quả của nhận thức
mới về tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam, trong đó có hai điểm mới so với
trước đây: Một là xác định tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, từ
đó kiên trì chính sách tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của
công dân; hai là nhìn nhận và phát huy những giá trị tích cực về văn hóa và đạo đức
của tôn giáo, khuyến khích các hoạt động tôn giáo tiến bộ vì lợi ích của tổ quốc và
của nhân dân.
Dưới đây là một số thành tựu đạt được trong việc bảo đảm quyền tự do tín
52
ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam.
- Quyền tự do thực hành tôn giáo, tham gia các hoạt động tôn giáo của người
có tín ngưỡng, tôn giáo đặc biệt được tôn trọng và bảo đảm.
Quyền tự do thực hành tôn giáo, tham gia các hoạt động tôn giáo ngày càng
mở rộng và tạo điều kiện cho các tín đồ, chức sắc tham gia. Các ngày lễ, hội lớn của
các tôn giáo được tổ chức hàng năm như Lễ Giáng sinh của đồng bào Công giáo, Lễ
Phật đản của Phật giáo, nhằm đảm bảo đáp ứng đời sống tinh thần của đồng bào các
tôn giáo trên cả nước, không phân biệt giữa người theo tôn giáo này với người theo
tôn giáo khác, người theo tôn giáo và người không theo tôn giáo. Đại lễ Phật đản Liên
hợp quốc Vesak 2014 được tổ chức tại khu du lịch văn hóa tâm linh Bái Đính, Ninh
Bình từ 07-10/5/2014 với sự tham dự của hơn 10.000 người trong đó có gần 2.000 đại
biểu của 95 quốc gia và vùng lãnh thổ có mặt đầy đủ tham dự sự kiện này. Lễ kỷ
niệm 100 năm Tin lành đến Việt Nam (2011) ở Đà Nẵng, Hà Nội, TP.Hồ Chí Minh
thu hút hàng vài chục ngàn lượt tín đồ, chức sắc và khách quốc tế tới tham dự; Hội
đồng Giám mục Việt Nam đăng cai tổ chức Hội nghị toàn thể Liên hội đồng Giám
mục Á châu lần thứ X tại Xuân Lộc và TP.Hồ Chí Minh từ ngày 19-25/11/2012 với
sự tham dự của 122 Giám mục và Đại biểu thuộc Hội đồng giám mục các nước Châu
Á, một số Châu lục và đại diện Tòa thánh Vatican….
Theo ước tính hiện nay, 95% dân số nước ta có đời sống tín ngưỡng, tôn giáo.
Theo thống kê của Bộ văn hóa, Thể thao và Du lịch cả nước hiện nay có gần 8.000 lễ
hội, trong đó có 7.039 lễ hội dân gian, 332 lễ hội lịch sử cách mạng, 544 lễ hội tôn
giáo, 10 lễ hội du nhập từ nước ngoài vào và hơn 40 lễ hội khác.
- Các tổ chức tôn giáo được củng cố và hoạt động bình thường.
Theo thống kê của Ban Tôn giáo Chính phủ thì hiện nay nước ta có 14 tôn
giáo với 38 tổ chức tôn giáo và 01 pháp môn tu học được Nhà nước công nhận và cấp
đăng ký hoạt động. Theo thống kê chưa đầy đủ thì 14 tôn giáo có khoảng 24 triệu tín
đồ (chiếm khoảng 27% dân số cả nước), hơn 83.000 chức sắc, hơn 250.000 chức
việc, 46 cơ sở đào tạo chức sắc tôn giáo, hơn 25 ngàn cơ sở thờ tự. Từ năm 2004 đến
nay, các tổ chức tôn giáo đã thành lập thêm một số cơ sở đào tạo như: Giáo hội Phật
53
giáo thành lập thêm 01 học viện, 02 trường Cao đẳng và 2 trường Trung cấp, nâng
tổng số lên 04 học viện, 08 trường Cao đẳng và 32 trường Trung cấp Phật học. Giáo
hội Công giáo đã thành lập Cơ sở II Đại chủng viện thánh Giuse Hà Nội tại Tòa Giám
mục Bùi Chu và thành lập Đại chủng viện Thánh Giuse Xuân Lộc tại Giáo phận
Xuân Lộc, nâng tổng số lên 07 Đại chủng viện và 01 phân hiệu. Tổng hội Hội thánh
Tin lành Việt Nam (miền Bắc) thành lập Viện thánh kinh thần học tại Hà Nội. Một số
tổ chức tôn giáo khác cũng đang xúc tiến việc thành lập trường đào tạo những người
chuyên hoạt động tôn giáo theo quy định pháp luật [3].
Nhà nước Việt Nam cũng chăm lo đến việc đào tạo các chức sắc tôn giáo để
thúc đẩy tổ chức và hoạt động của các tổ chức tôn giáo, tăng cường việc đáp ứng nhu
cầu ngày càng tăng của tầng lớp nhân dân đối với việc thực hiện quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo. Việc mở trường và đào tạo chức sắc tôn giáo luôn được Nhà nước
tạo điều kiện thuận lợi. Nếu như năm 1993, phật giáo có 22 trường Cao cấp và trung
cấp Phật học, đến nay đã có 4 Học viện Phật giáo và nhiều trường Cao đẳng, trung
cấp Phật học. Giáo hội Công giáo có 6 Đại chủng viện với 1.085 chủng sinh và 1.712
chủng sinh dự bị. Nhà nước còn tạo điều kiện cho các tu sĩ đi học tập, hội thảo nâng
cao trình độ ở nước ngoài, một số người đã bảo vệ thành công luận văn, luận án thạc
sĩ, tiến sĩ về tôn giáo.
- Các cơ sở thờ tự của tôn giáo được xây dựng, sửa chữa
Theo báo cáo của các tỉnh, thành phố, đến nay đã có khoảng 20.000 cơ sở thờ
tự được sửa chữa, xây dựng mới. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã cấp hàng trăm
ha đất để xây dựng cơ sở thờ tự, trong đó một số trường hợp đáng kể như: giao đất
cho Toà Tổng Giám mục TGP thành phố Hồ Chí Minh xây dựng Trung tâm mục vụ; giao 7.500m2 đất cho Tổng Liên hội Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam) xây
dựng Viện Thánh kinh Thần học; giao 20 ha xây dựng Học viện Phật giáo Việt Nam
tại Thành phố Hồ Chí Minh, 10 ha xây dựng Học viện Phật giáo Việt Nam tại Hà Nội; giao hơn 11.000m2 đất cho Toà Giám mục Buôn Ma Thuột, hơn 9.000m2 đất
cho Toà Giám mục Đà Nẵng, 15 ha đất cho Giáo xứ La Vang, Quảng Trị để mở rộng
54
cơ sở tôn giáo [3].
- Việc phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử, thuyên chuyển
Trong việc quản lý hoạt động tôn giáo, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã
tạo điều kiện để các tổ chức tôn giáo chủ động thực hiện theo quy định pháp luật trong
việc củng cố tổ chức, phong chức, phong phẩm, thuyên chuyển, bổ nhiệm chức sắc,
nhà tu hành. Theo báo cáo của các tỉnh, thành phố, có hơn 15.000 lượt người được
phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử, thuyên chuyển, trong đó Toà
thánh Vatican phong chức 17 giám mục, giám mục phụ tá các giáo phận. Chỉ tính riêng
Công giáo và Phật giáo, năm 2004, Giáo hội Phật giáo Việt Nam có 37.775 tăng, ni,
đến năm 2012 đã lên tới 46.699 tăng, ni; Giáo hội Công giáo từ 2.920 linh mục đến nay
tăng lên 4.044 linh mục. Có 10.816 con dấu đã được cấp cho các tổ chức tôn giáo sử
dụng (riêng Phật giáo Nam tông Khmer 452/452 ngôi chùa đã có con dấu) [3].
- Trong việc in ấn, xuất bản phẩm tôn giáo
Các tổ chức, cá nhân tôn giáo cơ bản tuân thủ quy định của pháp luật về xuất
bản. Theo thống kê, từ năm 2006 đến nay, Nhà xuất bản Tôn giáo đã cấp phép xuất bản
hơn 5.841 xuất bản phẩm, trong đó có 4.725 đầu sách với 14.535.464 bản in; 1.118 đĩa
MP3, VCD, CD, DVD, ảnh, lịch, cờ với số lượng 2.546.201 bản, với nhiều ngôn ngữ
khác nhau như Anh, Pháp và tiếng dân tộc Khmer, Ê Đê, Gia Rai, Ba Na [3].
- Quyền tự do ngôn luận của những người có đạo được pháp luật ghi nhận và
bảo đảm trong thực tiễn
Nhà nước luôn bảo đảm rằng các tín đồ và tổ chức tôn giáo cũng có quyền
bình đẳng như các công dân không có tôn giáo, hoàn toàn có quyền tự do bày tỏ quan
điểm, chính kiến và tư tưởng. Theo đó, quyền tự do biểu đạt, tự do báo chí, xuất bản
của các tín đồ và tổ chức tôn giáo đã luôn được bảo đảm hiệu quả như việc xuất bản
các ấn phẩm tôn giáo ngày càng tăng, hiện nay Việt Nam có hơn 15 tờ báo và tạp chí
của các tổ chức tôn giáo đang hoạt động, trong đó có những tờ báo, tạp chí uy tín
như: Văn hóa Phật giáo, Phật học, Khuông Việt, Giác ngộ (của Giáo hội Phật giáo
Việt Nam), Hiệp Thông (bản tin của Hội đồng Giám mục Việt Nam), Công giáo và
Dân tộc (Ủy ban đoàn kết Công giáo thành phố Hồ Chí Minh); Mục vụ, Thông Công
55
(của Tin Lành), Cao Đài (của đạo Cao Đài), Hương Sen (Phật giáo Hòa Hảo).
- Quyền tham gia vào quản lý Nhà nước và xã hội của các tín đồ tôn giáo
được tôn trọng và bảo đảm
Các chức sắc, tín đồ tôn giáo có quyền tự do ứng cử vào các cơ quan quyền
lực của chính quyền từ trung ương xuống địa phương, đặc biệt là trong việc đại diện
vào Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, hoàn toàn bình đẳng như mọi công dân
khác theo quy định tại Điều 53 và 54 của Hiến pháp. Đến nay có 11 chức sắc là Đại
biểu quốc hội Việt Nam khóa XIII (05 Đại biểu Phật giáo, 03 đại biểu Công giáo, 01
đại biểu Cao Đài, 01 đại biểu Phật giáo hòa Hảo, 01 đại biểu Hồi giáo). Thực tiễn này
cho thấy việc các thế lực thù địch và chống đối chính quyền cách mạng phê phán và
xuyên tạc tình hình tự do tôn giáo cũng như đàn áp các chức sắc tín đồ tôn giáo là
hoàn toàn vô căn cứ và bịa đặt. Trái lại, thực tiễn ấy khẳng định rõ chính sách nhất
quán của Đảng và Nhà nước, sự thừa nhận và bảo đảm bằng pháp luật và thực tiễn
hiệu quả đối với việc tôn trọng và hiện thực hóa quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo nói
chung và quyền tham gia vào quản lý đời sống chính trị - xã hội của đồng bào có đạo
nói riêng. Quyền bình đẳng của các tôn giáo được bảo đảm bằng luật, chính sách và
thực tiễn. Các tôn giáo đều được đối xử bình đẳng và được Nhà nước tạo điều kiện
vật chất và tinh thần để phát triển tổ chức và sinh hoạt tôn giáo.
- Hoạt động quốc tế của các cá nhân, tổ chức tôn giáo nước ngoài tại Việt Nam
Nhìn chung hoạt động quốc tế của các tôn giáo dần đi vào nề nếp và đúng
pháp luật, các tổ chức tôn giáo duy trì và mở rộng mối quan hệ với các tôn giáo trên
thế giới. Nhiều hoạt động tôn giáo quốc tế và hoạt động lớn của các tôn giáo được tổ
chức, thu hút hàng trăm ngàn người tham dự như Đại lễ Phật đản VESAK 2008,
2014; Hội nghị Nữ giới Phật giáo thế giới lần thứ 11 năm 2009; kỷ niệm 100 năm Tin
lành vào Việt Nam năm 2011; Năm Thánh 2010 của Công giáo, kỷ niệm 50 năm
thành lập hàng Giáo phẩm Việt Nam và 350 năm thành lập 02 giáo phận Đàng trong
và Đàng ngoài, Hội nghị Giám mục Châu Á…
Với chủ trương tích cực, chủ động hội nhập quốc tế của Nhà nước, các tổ chức
tôn giáo cũng ngày càng tăng cường hoạt động và ảnh hưởng của mình trên trường
56
quốc tế, nhiều ngôi chùa thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã được xây dựng ở
nhiều nơi trên thế giới như Nga, Séc, Ba Lan, Ucraina. Giáo hội PGVN đã kết nạp 07
Hội Phật tử Việt Nam tại các nước Pháp, Nga, Đức, Séc, Ba lan, Hungary, Ucraina và
một Ban Đại diện Tăng sinh du học ở Ấn Độ; nhiều hoạt động hợp tác quốc tế của
Giáo hội Công giáo, các Hội thánh Cao Đài, Tin Lành và Hồi Giáo được đẩy mạnh.
Trong 10 năm qua, có 1.178 lượt chức sắc, nhà tu hành, tín đồ các tôn giáo ra nước
ngoài tham gia khóa đào tạo về tôn giáo, tham gia hội nghị, hội thảo với các tổ chức
quốc tế về tôn giáo; 175 đoàn khách nước ngoài vào Việt Nam hoạt động tôn giáo với
số lượng lên tới hàng trăm lượt người.
- Hoạt động xã hội của tổ chức, cá nhân tôn giáo
Tập trung vào giáo dục mẫu giáo, dạy nghề, nhân đạo, cứu trợ, y tế…: Với các
hình thức và nội dung hoạt động phong phú như mở trường, lớp mầm non, lớp học
tình thương, trung tâm dạy nghề, trung tâm bảo trợ xã hội, ủng hộ đồng bào bão lụt,
cung cấp cơm, cháo, nước sôi cho người nghèo, người bệnh đã phần nào làm giảm
bớt khó khăn cho xã hội, làm vơi nỗi đau về thể xác và tinh thần cho người được thụ
hưởng; chia sẻ gánh nặng với Nhà nước và xã hội, góp phần cùng Nhà nước giải
quyết các vấn đề xã hội. Theo thống kê chưa đầy đủ, hiện nay có gần 300 cơ sở giáo
dục mẫu giáo với hơn 100 điểm trường; hơn 300 cơ sở khám chữa bệnh đông, tây y;
hơn 100 cơ sở bảo trợ xã hội chăm sóc người già, người khuyết tật, không nơi nương
tựa, nạn nhân chất độc da cam, người nhiễm HIV. Kinh phí tổ chức, cá nhân tôn giáo
đóng góp để thực hiện cho các hoạt động này mỗi năm lên tới hàng chục tỉ đồng.
Nhìn chung các tổ chức tôn giáo đã bảo đảm yêu cầu, điều kiện của pháp luật chuyên
ngành trong khi thực hiện các hoạt động liên quan.
Những thành tựu đó đã chứng minh ở Việt Nam, tín đồ và các chức sắc tôn
giáo được tạo mọi điều kiện thuận lợi để hành đạo. Họ gắn bó với quốc gia, dân tộc
theo phương châm “Đạo pháp, dân tộc và chủ nghĩa xã hội”, thực hiện “sống phúc âm
trong lòng dân tộc”, “nước vinh, đạo sáng”, với tấm lòng “kính chúa, yêu nước”, vừa
làm tròn bổn phận của Tín đồ đối với Tôn giáo, vừa hăng hái lao động sản xuất, tham
gia các hoạt động xã hội, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế
57
- xã hội trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thực tiễn
tình hình tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam trong hơn 27 năm đất nước thực hiện công
cuộc đổi mới được nhiều cá nhân và tổ chức quốc tế ca ngợi. Những chuyển biến
trong đời sống tôn giáo khẳng định chủ trương và chính sách đối với tôn giáo của
Đảng và Nhà nước Việt Nam là đúng đắn, tín đồ, chức sắc thêm tin tưởng vào Đảng
và Nhà nước cùng sự đổi mới của đất nước. Không những thế, tín đồ, chức sắc các
tôn giáo ủng hộ và tham gia tích cực vào công cuộc đổi mới. Chính điều đó đã góp
phần vào sự ổn định chính trị và phát triển kinh tế, xã hội của đất nước Việt Nam.
Đồng thời cũng đã góp phần giới thiệu với bạn bè và cộng đồng quốc tế về hình ảnh
đất nước Việt Nam đổi mới, hòa bình, ổn định và phát triển. Từ đó nâng cao ảnh
hưởng và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Những chuyển biến trong đời sống
tôn giáo ở Việt Nam là bằng chứng để đấu trang, bác bỏ những luận điệu xuyên tạc
về tình hình tôn giáo và chính sách tôn giáo của Việt Nam do các thế lực thù địch
trong nước và ngoài nước bịa đặt.
Quyền tự do tôn giáo nói riêng và các quyền con người nói chung chỉ có thể
được đảm bảo trên nền tảng của việc tôn trọng, bảo vệ và thúc đẩy sự đa dạng tôn
giáo. Đồng thời chính sự đa dạng tôn giáo là điều kiện và phương tiện để hiện thực
hóa các quyền tự do tôn giáo và quyền con người.
2.3.2. Hạn chế
Mặc dù quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam luôn được Nhà nước và
pháp luật bảo hộ, chăm lo và tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển tốt nhất, song
vẫn còn tồn tại một số hạn chế:
2.3.2.1. Chủ trương, chính sách của Đảng, Pháp luật của Nhà nước về tự do
tín ngưỡng và tự do tôn giáo chậm được thể chế, thiếu cụ thể dẫn đến việc hiểu, vận
dụng khác nhau
Mặc dù Hiến pháp đã quy định về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, song việc
cụ thể nó trong luật và Nghị định còn chưa rõ ràng, đôi khi còn thiếu sót. Có không ít
các vấn đề cụ thể như: vấn đề công nhận tư cách pháp nhân; vấn đề tổ chức, tập hợp
quần chúng tôn giáo; vấn đề đất đai, cơ sở thờ tự của tôn giáo; việc tham gia của các
tôn giáo trong lĩnh vực y tế, giáo dục… tuy cũng đã được đầu tư nghiên cứu nhưng
58
chưa đề xuất được các chính sách cụ thể để quản lý.
* Một số nội dung chưa được quy định trong Luật
- Hiến pháp năm 2013 chưa có quy định về quyền tự do tư tưởng, tự do niềm
tin, lương tâm. Đây là những quyền đóng vai trò nền tảng của quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo. Theo ICCPR và Bình luận chung số 22 đã nêu trên, các quyền này
cần được ghi nhận và bảo vệ tương tự như với tự do tôn giáo, tín ngưỡng. Đặc điểm
cơ bản của nhóm những quyền tự do này là không thể bị đình chỉ thực hiện, kể cả
trong tình trạng khẩn cấp của quốc gia.
- Pháp luật Việt Nam chưa phân biệt giữa tự do tư tưởng, niềm tin lương tâm,
tôn giáo hoặc tín ngưỡng, với tự do thể hiện tôn giáo hay tín ngưỡng. Theo luật nhân
quyền quốc tế, quyền tự do thể hiện tôn giáo, tín ngưỡng có thể bị hạn chế (không
phải là quyền tuyệt đối), song các quốc gia không được phép áp đặt bất kỳ giới hạn
nào đối với tự do tư tưởng, niềm tin lương tâm, tự do được tin hoặc theo một tôn giáo
hoặc tín ngưỡng theo lựa chọn của mình. Những quyền tự do này được bảo vệ vô
điều kiện, tương tự như với quyền được giữ ý kiến mà không bị can thiệp.
- Luật quốc tế cho phép hạn chế quyền tự do bày tỏ tôn giáo, tín ngưỡng chỉ
với điều kiện những hạn chế đó được pháp luật quy định và là cần thiết để bảo vệ an
toàn, trật tự công cộng, sức khoẻ hoặc đạo đức xã hội, hoặc các quyền và tự do cơ
bản của người khác. Trong khi đó, khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013 và Điều 15
Pháp lệnh TNTG 2004 quy định một phạm vi rộng hơn nhiều các hành vi có thể dẫn
đến đình chỉ hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo, đó là: xâm phạm an ninh quốc gia, ảnh
hưởng nghiêm trọng đến môi trường; tác động xấu đến đoàn kết nhân dân, đến truyền
thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc; xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh
dự, tài sản của người khác; có hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng khác… Các
khái niệm này nội hàm quá rộng và trừu tượng, dẫn đến nguy cơ tùy nghi diễn giải và
hạn chế quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong thực tế.
Thêm vào đó, pháp luật cũng chưa quy định rõ một số điều kiện khác được
nêu trong luật nhân quyền quốc tế, cụ thể như những hạn chế về quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo chỉ có thể được áp dụng cho những mục đích đã được nêu ra trong
59
luật, phải liên quan trực tiếp và phù hợp với nhu cầu cụ thể mà những hạn chế đó đã
được xác nhận. Các hạn chế cũng không được áp đặt vì mục đích phân biệt đối xử,
hoặc áp dụng mang tính phân biệt, và những đối tượng đặc biệt, ví dụ như tù nhân,
vẫn tiếp tục được hưởng các quyền về biểu thị tôn giáo hoặc tín ngưỡng trong khả
năng cao nhất có thể phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn.
- Pháp luật chưa quy định quyền tự do của bố mẹ hoặc những người giám hộ
pháp lý được quyết định việc giáo dục đạo đức và tôn giáo cho con cái họ phù hợp
với đức tin của họ.
- Mặc dù Nhà nước công nhận sự hiện diện, tồn tại của các tôn giáo nhưng
pháp luật (bao gồm Pháp lệnh TNTG năm 2004 và các văn bản pháp luật khác có liên
quan như Bộ luật Dân sự, Luật Đất đai..) vẫn chưa ghi nhận tư cách pháp nhân của
các tổ chức tôn giáo. Bất cập này khiến cho các tổ chức tôn giáo hiện chưa được
hưởng các quyền pháp nhân như các tổ chức xã hội hợp pháp khác theo Hiến pháp và
pháp luật và đã dẫn đến những phản ứng, yêu cầu từ một số tổ chức tôn giáo lớn.
- Về giải thích thuật ngữ: Một số cụm từ trong Pháp lệnh chưa được giải thích
dẫn đến cách hiểu không đúng, không đầy đủ, gây khó khăn, lúng túng trong quá
trình triển khai thực hiện từ phía cơ quan Nhà nước cũng như tổ chức, cá nhân tôn
giáo: tín ngưỡng; tôn giáo; sinh hoạt tôn giáo; chức việc; tổ chức tôn giáo trực thuộc;
“đạo lạ”, “tà đạo”; truyền đạo; truyền đạo trái pháp luật; mê tín dị đoan; hoạt động
tôn giáo ổn định...
- Về quản lí hoạt động của các tổ chức chưa được cấp đăng ký hoạt động; hiện
tượng tôn giáo mới “đạo lạ”, “tà đạo” chưa phân công rõ ràng cho cơ quan nào có
chức năng quản lý. Hiện nay, các hình thức này đã tác động làm lệch chuẩn giá trị
văn hóa tín ngưỡng truyền thống.
- Về quản lí hoạt động tín ngưỡng: Chưa phân công cho cơ quan nào quản lí.
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chỉ quản lí lễ hội trong đó có lễ hội tín ngưỡng
còn quản lí hoạt động của các cơ sở tín ngưỡng thì chưa được quy định (Điều 3
Nghị định 92/2012/NĐ-CP quy định chi tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh tín
ngưỡng, tôn giáo mới chỉ điều chỉnh việc cử người đại diện hoặc Ban quản lý cơ sở
60
tín ngưỡng và đăng ký hoạt động tín ngưỡng hàng năm với Ủy ban nhân dân cấp
xã). Vì vậy, đây là lĩnh vực mà vừa chưa có cơ quan quản lý, cũng như chưa có các
quy định điều chỉnh các hoạt động tín ngưỡng. Sự định hướng xã hội về tín ngưỡng
còn hạn chế dẫn đến tư tưởng duy tâm thần bí lệch chuẩn, phản văn hóa có xu
hướng mở rộng trong xã hội. Đa số các địa phương đều gặp khó khăn khi xác định
cơ quan có thẩm quyền quản lý và tham mưu quản lí hoạt động này. Bên cạnh đó,
hiện nay nhiều cá nhân đã lợi dụng hoạt động tín ngưỡng để hành nghề mê tín dị
đoan, trục lợi cá nhân làm ảnh hưởng không nhỏ đến trật tự công cộng, sức khỏe
cộng đồng, lợi dụng tôn giáo để xâm hại an ninh trật tự,…. Trong khi đó, Pháp lệnh
và các văn bản hướng dẫn thi hành mới chỉ có các quy định mang tính nguyên tắc,
chưa quy định thành một chương riêng về cơ sở tín ngưỡng và hoạt động tín
ngưỡng, chưa quy định phân cấp thẩm quyền quản lý hoạt động tín ngưỡng. Đây là
một vướng mắc cần phải sửa đổi hiện nay.
- Về thẩm quyền đình chỉ các hoạt động tôn giáo vi phạm: Pháp lệnh chưa quy
định về thẩm quyền đình chỉ hoạt động tôn giáo khi vi phạm pháp luật thuộc các
trường hợp theo quy định tại Điều 15 Pháp lệnh. Cần có quy định về đình chỉ hoạt
động của chức sắc, nhà tu hành, tổ chức tôn giáo khi vi phạm pháp luật về tôn giáo.
- Về cấp đăng ký hoạt động của Hội đoàn, Dòng tu: Pháp lệnh chưa quy định
về điều kiện để thành lập Hội đoàn, Dòng tu. Thực tế, Hội đoàn và Dòng tu có cơ cấu
tổ chức chặt chẽ, có chức năng, phạm vi hoạt động rộng, liên quan đến các vấn đề xã
hội, do vậy, cần quy định các điều kiện cụ thể để bảo đảm hoạt động của các tổ chức
này cũng như đáp ứng được yêu cầu quản lí trong thời gian tới.
- Chưa có quy định về tổ chức, cá nhân tôn giáo tổ chức hội nghị, Hội thảo,
Tọa đàm về các vấn đề liên quan của đời sống xã hội hoặc tổ chức, cá nhân tổ chức
hội nghị, hội thảo về tôn giáo.
- Vấn đề dựng tượng Chúa, Phật, Thánh, Thần: Thực tế, hiện nay chưa có quy
định nào về dựng tượng của các tổ chức, cá nhân tôn giáo, dẫn đến thời gian qua quản
lí hoạt động này của các địa phương còn nhiều lúng túng, có nơi buông lỏng, có nơi
chặt chẽ. Do vậy, cần phải bổ sung qui định này vào trong Pháp lệnh nhằm chấn chỉnh
61
lại hoạt động dựng tượng nơi công cộng, khuôn viên cơ sở thờ tự và nhà riêng tín đồ.
- Vấn đề treo cờ Tổ quốc: Cờ Tổ quốc thể hiện chủ quyền thiêng liêng, niềm
tự hào của mỗi người dân Việt Nam, tuy nhiên, thời gian qua, việc treo cờ Tổ quốc
mặc dù đã có quy định nhưng chưa được các tổ chức tôn giáo triển khai thực hiện.
Đòi hỏi phải đưa quy định này vào văn bản mang tính chuyên ngành và có giá trị
pháp lý cao hơn để bảo đảm việc thực hiện, qua đó góp phần vun đắp lòng yêu nước,
tự hào dân tộc cho chức sắc, nhà tu hành, tín đồ các tôn giáo.
- Về Pháp nhân tôn giáo: Pháp luật chưa quy định tổ chức tôn giáo là loại tổ
chức nào theo quy định của Bộ Luật Dân sự về pháp nhân.
- Chưa có quy định cụ thể về xử lí vi phạm pháp luật của tổ chức, cá nhân tôn
giáo trong hoạt động tôn giáo.
* Một số nội dung quy định thiếu cụ thể, không phù hợp với thực tiễn
- Về đăng ký, công nhận tổ chức tôn giáo: Việc cho đăng ký, công nhận tổ
chức tôn giáo hiện nay còn khó khăn, bất cập khi chưa có cơ sở pháp lý để phân biệt
giữa tín ngưỡng với tôn giáo và hoạt động mê tín, dị đoan; điều kiện để được đăng
ký, công nhận còn đơn giản, không đáp ứng được yêu cầu quản lý đối với hoạt động
tôn giáo của các loại hình tín ngưỡng, tôn giáo đã và đang hình thành hiện nay.
- Về đăng ký hoạt động tôn giáo hàng năm: Theo quy định tại khoản 1 Điều 12
Pháp lệnh thì chỉ tổ chức tôn giáo cơ sở phải đăng ký hoạt động tôn giáo hàng năm,
còn những tổ chức cấp trên cơ sở như tổ chức tôn giáo cấp huyện, cấp tỉnh và cấp
trung ương không phải đăng ký, điều này dẫn đến khó khăn cho cơ quan quản lí nhà
nước trong việc quản lí hoạt động tôn giáo diễn ra trên địa bàn.
- Về tổ chức tôn giáo tham gia thực hiện các hoạt động xã hội: Quy định tại
Điều 33 Pháp lệnh không phù hợp với thực tiễn hoạt động của tổ chức tôn giáo, chưa
phát huy được vai trò và tiềm năng của tổ chức, cá nhân tôn giáo trong việc cùng Nhà
nước giải quyết các vấn đề xã hội. Mặt khác, quy định này còn mâu thuẫn với một số
văn bản pháp luật như Luật Phòng, chống HIV, AIDS; Luật Khám bệnh, chữa bệnh;
Luật Hoạt động chữ thập đỏ và một số quy định về bảo trợ xã hội...
- Hoạt động từ thiện, nhân đạo của các tôn giáo là một hoạt động mang tính
62
dấn thân, hoạt động phục vụ xã hội và vì con người. Những năm qua, hoạt động xã
hội của tổ chức, cá nhân tôn giáo đã đem lại những hiệu quả thiết thực, thu hút nhiều
người tham gia; đã khám, chữa bệnh cho hàng ngàn lượt người; tổ chức quyên góp
ủng hộ đồng bào bão lụt, khó khăn hàng trăm tỉ đồng và đến được đúng đối tượng,
đúng thời điểm, đã phần nào làm giảm bớt khó khăn cho xã hội, làm vơi nỗi đau về
thể xác và tinh thần cho người được thụ hưởng; chia sẻ gánh nặng với Nhà nước và
xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực thì các hoạt động này cũng còn một
số vấn đề đáng quan tâm như: Một số cơ sở giáo dục, y tế, nhân đạo được thành lập
chưa được cấp có thẩm quyền cho phép; không bảo đảm cơ sở vật chất, trang thiết bị,
đội ngũ chuyên môn làm công tác liên quan chưa được đào tạo cơ bản và thiếu kinh
nghiệm. Thông qua hình thức này, tổ chức, cá nhân tôn giáo mở rộng ảnh hưởng, thu
hút, tranh giành tín đồ, truyền bá tôn giáo trái với quy định của pháp luật. Một số
người lợi dụng hoạt động này vì mục đích tư lợi, khai thác những mặt trái của đời
sống xã hội để tuyên truyền, xuyên tạc chống phá Đảng, Nhà nước. Vì vậy, cần phải
có những quy định phù hợp với chủ trương xã hội hóa của Đảng, vừa phát huy được
vai trò và tiềm năng của tổ chức, cá nhân tôn giáo đồng thời hạn chế được các mặt
tiêu cực nêu trên.
- Về sinh hoạt tôn giáo của người nước ngoài tại Việt Nam: Quy định tại Điều
37 Pháp lệnh không còn phù hợp với thực tiễn và chủ trương chính sách của Nhà
nước. Hiện nay, với chủ trương hội nhập quốc tế của Nhà nước, người nước ngoài
đến Việt Nam làm ăn sinh sống ngày càng nhiều, trong số này, có bộ phận không nhỏ
là người theo tôn giáo trong đó có những tôn giáo không có cơ sở thờ tự ở Việt Nam
như Chính Thống giáo, đạo Sikh, Thần đạo. Một số tôn giáo khác có cơ sở thờ tự tôn
giáo tương ứng nhưng quá chật hẹp không đáp ứng được nhu cầu sinh hoạt tôn giáo
của họ; có sự khác biệt về nghi lễ, giáo lý, đức tin nên họ mong muốn Nhà nước cho
phép mượn hoặc thuê địa điểm không phải là cơ sở tôn giáo để sinh hoạt tôn giáo
riêng và thực tế cũng đã có một số trường hợp Tin lành Hàn Quốc sử dụng nhà ở,
thuê khách sạn để nhóm họp tôn giáo.
2.3.2.2. Công tác tôn giáo
63
Nói về nhận thức của cán bộ, công chức: thực tế cho thấy, hiểu biết về quyền
con người nói chung, Quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo còn nhiều hạn chế dẫn
đến có những hành động cố ý hoặc vô ý vi phạm các Quyền tự do tín ngưỡng, tự do
tôn giáo của công dân đặc biệt là ở một số cơ quan công quyền. Thái độ phục vụ nhân
dân còn chưa tốt, vẫn còn định kiến với tôn giáo, vẫn giữ thái độ của cơ chế xin –
cho. Mà một trong những nguyên nhân là do mặt trái của việc cải cách hành chính, từ
ngày sáp nhập ngành tôn giáo về ngành nội vụ, hầu hết đội ngũ cán bộ làm công tác
tôn giáo được luân chuyển từ ngành khác sang, không được đào tạo về chuyên ngành
tôn giáo, không được chuẩn bị kỹ năng làm công tác tôn giáo, thậm chí kém hiểu biết
về tôn giáo, chính những điều này đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến việc bảo đảm
quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo cho người có tín ngưỡng, tôn giáo.
- Nhận thức của một bộ phận không nhỏ các tín đồ tôn giáo còn hạn chế, họ
chưa hiểu đúng, đầy đủ, thậm chí sai lệch quan điểm, chủ trương, chính sách của
Đảng, Nhà nước; chưa nhận thức rõ được quyền và nghĩa vụ của một tín đồ tôn giáo
cũng như của một công dân của một nước mà họ đang sinh sống, điều này dẫn đến
việc họ dễ bị kích động, dụ dỗ, lôi kéo bởi những kẻ phản động lợi dụng tín ngưỡng,
tôn giáo để gây rối, vi phạm pháp luật.
- Việc hướng dẫn, tuyên truyền, phổ biến pháp luật ở một số nơi cấp ủy Đảng,
chính quyền và một số cán bộ làm công tác tôn giáo chưa được tốt, thậm chí còn chưa
nắm vững đường lối, chính sách của Đảng, Pháp luật của Nhà nước, thiếu linh hoạt
trước vấn đề có tính nhạy cảm về chính trị nên việc giải quyết các vấn đề liên quan
đến tôn giáo còn kém hiệu quả, giải quyết không hợp tình, hợp lý, có nơi còn đi
ngược chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta, không đáp ứng được nhu cầu của
bà con có tín ngưỡng, tôn giáo. Thực tế đã xảy ra trên các địa bàn tỉnh Tây Nguyên,
Tây Nam Bộ, Hà Nội (Nhà Chung, Thái Hà), Nghệ An (Con Cuông). Do đó, việc
nhận thức đầy đủ và đúng mức về vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo và Quyền tự do tín
ngưỡng tôn giáo là rất cần thiết đối với mỗi cán bộ làm công tác tôn giáo hiện nay.
- Nhận thức về tôn giáo và cách cư xử với tôn giáo, với đồng bào có đạo ở mỗi
địa phương khác nhau, sự phối hợp của các ngành, tổ chức trong hệ thống chính trị để
64
giải quyết các vấn đề tôn giáo chưa được thường xuyên, chưa thống nhất cách thức,
phương pháp, biện pháp giải quyết các vấn đề nảy sinh trong tôn giáo dẫn đến việc
kéo dài thời gian giải quyết các vấn đề liên quan đến tôn giáo, làm cho hiệu quả thực
hiện các chủ trương, chính sách, đường lối về tôn giáo bị giảm sút.
- Ở nước ta hiện nay vẫn chưa có một cơ quan chuyên trách về thúc đẩy và bảo
vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, chưa có một quy chế chặt chẽ trong việc xử lý
các khiếu nại, tố cáo và hành vi vi phạm Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
2.3.2.3. Hoạt động truyền đạo trái phép; mê tín, dị đoan
Các hoạt động này vẫn còn diễn ra khá phổ biến ở nhiều địa bàn, nhất là các
tỉnh Tây Bắc, tây Nguyên, Tây Nam Bộ. Số phần tử cực đoan trong một số tôn giáo
lớn ở nước ta vẫn tiếp tục câu kết với nước ngoài tìm mọi cách tập hợp lực lượng
chống đối, khai thác mọi sơ hở, thiếu sót trong công tác quản lý Nhà nước về tôn giáo
để xuyên tạc tình hình, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta. Các vụ khiếu
kiện liên quan đến tôn giáo vẫn đang diễn ra hết sức phức tạp, nhất là đất đai, cơ sở
thờ tự có liên quan đến tôn giáo.
Hoạt động mê tín, dị đoan đã, đang có chiều hướng ngày càng tăng và khó
kiểm soát ở một số địa phương trong cả nước, diễn ra không chỉ trong nhân dân mà
còn trong cả hàng ngũ cán bộ, công chức Nhà nước. Xu hướng thương mại hóa các
hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo cũng đang gia tăng, làm phát sinh mâu thuẫn giữa các
chức sắc với nhau, chức sắc với tín đồ và với chính quyền sở tại.
2.3.2.4. Hoạt động tín ngưỡng dân gian
Bên cạnh việc trân trọng những giá trị truyền thống như tín ngưỡng thờ cúng
tổ tiên, hiện nay vẫn còn những tiêu cực trong một số hoạt động như lễ lạt linh đình,
tốn kém, nặng tính hình thức vật chất; một số nơi do không có sự hiểu biết về bản
thân các di sản văn hóa vật chất liên quan đến tín ngưỡng nên có nhiều công trình,
kiến trúc, đồ thờ trong quá trình trùng tu, xây mới đã thực sự mất đi các giá trị di
sản của nó. Một số hiện tượng tín ngưỡng đã đáp ứng được một phần nhu cầu đời
sống tâm linh của quần chúng nhân dân, tuy nhiên vẫn còn những hiện tượng tín
ngưỡng bị bóp méo, biến dạng và bị lợi dụng, bị thương mại hóa nhằm mục đích
65
trục lợi của một số tổ chức, cá nhân gây mất an toàn và an ninh xã hội. Chủ trương,
chính sách cụ thể đối với hình thức tín ngưỡng vẫn còn mang tính chung chung,
thiếu sự phân tích, đánh giá đâu là yếu tố mê tín dị đoan mặc dù trong một số thông
tư, nghị định của Chính phủ và cá bộ ngành đều nói tới việc bài trừ, cấm các hình
thức mê tín dị đoan như đồng bóng, bói toán, vàng mã, xóc thẻ, xin xăm, điều đó
dẫn đến việc thực thi một cách tùy tiện, hoặc xiết chặt theo kiểu vơ đũa cả nắm hoặc
66
là buông lỏng để phát triển tự do.
Chƣơng 3
QUAN ĐIỂM, ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM BẢO ĐẢM
QUYỀN TỰ DO TÍN NGƢỠNG, TÔN GIÁO TRONG PHÁP LUẬT
VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Quan điểm về bảo đảm quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo
Thứ nhất là đổi mới nhận thức về tín ngưỡng, tôn giáo và bảo đảm quyền tự
do tín ngưỡng, tôn giáo
Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và
sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta; đồng bào
tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Tôn giáo ra đời đã hình thành
cho mình những chức năng để đáp ứng những nhu cầu cần có của con người như
chức năng giải thích thế giới (thế giới quan), chức năng bù đắp, chức năng liên kết
cộng đồng và chức năng điều chỉnh hành vi thông qua các quy phạm luân lý, đạo đức.
Tín ngưỡng, tôn giáo đã tồn tại lâu dài trong lịch sử nhân loại, đã in sâu vào
đời sống tinh thần, ảnh hưởng khá sâu đậm đến nếp nghĩ, lối nghĩ của một bộ phận
dân nhân qua nhiều thế hệ đến mức trở thành một kiểu sinh hoạt Văn hóa tinh thần
không thể thiếu của cuộc sống. Trước đây có quan điểm cho rằng tín ngưỡng, tôn
giáo là lạc hậu, phản động, gây bè phái, chia rẽ dân tộc, cản trở công cuộc xây dựng
và phát triển đất nước thì dưới ánh sáng của Nghị quyết Trung ương 7 đã đưa ra cái
nhìn hoàn toàn mới mẻ về tín ngưỡng, tôn giáo. Nghị quyết đã đưa ra một nguyên tắc
trong ứng xử đối với đồng bào các tôn giáo cũng như đối với đồng bào cả nước trong
công cuộc xây dựng đất nước. Nghị quyết khẳng định thêm trách nhiệm của hệ thống
chính trị cần có thái độ tích cực vì lợi ích đồng bào các tôn giáo, uốn nắn, nâng đỡ
đồng bào các tôn giáo trong quá trình thực hiện các hoạt động tôn giáo theo hướng
“tốt đời, đẹp đạo”, phát huy những mặt tích cực, những điểm tương đồng của chủ
nghĩa nhân đạo XHCN vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ
văn minh. Điều đó tiếp tục được khẳng định qua Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
XII của Đảng: tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về “tín ngưỡng, tôn giáo”,
67
phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo.
Thứ hai, tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không
tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân; bảo đảm các tôn giáo hoạt động theo pháp luật
và bình đẳng trước pháp luật
Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo hoặc không theo một tôn giáo
nào là một trong những quyền cơ bản, chính đáng của con người, là nguyên tắc trong
quan hệ của Nhà nước XHCN Việt Nam với tổ chức tôn giáo. Tín ngưỡng, tôn giáo
đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam. Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân. Nghiêm cấm
lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động mê tín dị đoan, hoạt động trái pháp luật và
chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối,
xâm phạm an ninh quốc gia.
Quan điểm, chính sách giáo này đã được thể hiện trong Hiến pháp năm 1992:
Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo tôn giáo nào.
Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật; những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn
giáo được pháp luật bảo hộ; không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc
lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước.
Việt Nam là một quốc gia đa dạng tôn giáo, có cả những hình thức tín ngưỡng
dân gian, đồng thời cũng có những tôn giáo hoàn chỉnh đan xem trong các khu vực
dân cư. Chính sách tôn giáo của Việt Nam tiếp tục được khẳng định nhất quán trong
quá trình thực hiện công cuộc đổi mới đất nước và ngày càng được cụ thể, tạo hành
lang pháp lý cho các hoạt động tôn giáo nhằm bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo của công dân, bảo đảm sự đoàn kết, hòa hợp giữa cộng đồng những người có tín
ngưỡng, tôn giáo và những người không có tín ngưỡng, tôn giáo, những người có tín
ngưỡng, tôn giáo khác nhau.
Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo được thông qua từ 18/6/2004 và có hiệu lực thi
hành từ ngày 15/11/2004 đã xác định rõ quyền và nghĩa vụ của các cá nhân, tổ chức
tôn giáo, trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước trong việc bảo đảm quyền và
nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân trong hoạt động tôn giáo; tôn trọng và bảo đảm
68
nguyên tắc những việc nội bộ của các tổ chức tôn giáo do các tôn giáo tự giải quyết
theo Hiến chương. Pháp lệnh cũng xác định rõ, Chính phủ Việt Nam tôn trọng và thực
hiện các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập khi có sự khác nhau giữa
quy định của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo và các điều ước đã dược ký kết.
Nhà nước bảo đảm và tạo điều kiện để sinh hoạt tôn giáo của chức sắc, tín đồ
được diễn ra bình thường trên các lĩnh vực như bày tỏ đức tin, tổ chức và tham gia
các lễ hội tôn giáo với nhiều hình thức và quy mô lớn với hàng trăm ngàn người tham
dự, Việc phong chức, phong phẩm, thuyên chuyển nơi hoạt động tôn giáo cũng như
việc xuất cảnh của chức sắc tôn giáo được giải quyết nhanh chóng, thuận tiện. Việc
đào tạo, bồi dưỡng chức sắc, nhà tu hành trong các tôn giáo được duy trì và mở rộng
đáp ứng nhu cầu của các tổ chức, cá nhân tôn giáo. Việc in ấn kinh sách và xuất bản
các ấn phẩm khác liên quan đến tôn giáo được thực hiện thường xuyên…
Thứ ba, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo gắn với nghĩa vụ trong
thực hiện tự do tín ngưỡng, tôn giáo
Bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo phải xuất phát từ quyền con người
trong lĩnh vực tôn giáo; nhưng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo phải gắn với nghĩa
vụ trong thực hiện tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Quyền và nghĩa vụ là hai
mặt không thể tách rời của quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Công dân muốn được
hưởng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo thì phải gánh vác nghĩa vụ khi thực hiện tự do
tín ngưỡng, tôn giáo, dù ở bất kỳ một tín ngưỡng, tôn giáo nào. Đây là điều kiện bảo
đảm cho quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được thực hiện. Mặt khác, Nhà nước cũng sẽ
bảo đảm cho các quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo hợp pháp của công dân được thực
hiện trên cơ sở nghiêm chỉnh chấp hành các nghĩa vụ mà pháp luật quy định.
Nguyên tắc quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo gắn với nghĩa vụ trong thực hiện
tự do tín ngưỡng, tôn giáo là bảo đảm để mọi công dân đều bình đẳng về quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo. Quyền bình đẳng ở đây bao gồm sự không phân biệt về giới tính
nam - nữ, dân tộc, văn hoá, nghề nghiệp, nơi cư trú và tôn giáo,... Mọi công dân đều
được hưởng giá trị tự do tôn giáo như nhau và đóng góp như nhau cho sự phát triển
của tự do tín ngưỡng, tôn giáo và đặc biệt, họ đều bình đẳng trước pháp luật khi vi
69
phạm các quy định pháp luật về tự do tôn giáo của Nhà nước.
Nguyên tắc quyền gắn với nghĩa vụ trong thực hiện tự do tín ngưỡng, tôn giáo,
một mặt, đòi hỏi tất cả các tín ngưỡng, tôn giáo khi áp dụng quy phạm (giáo lý, giáo
luật, nghi lễ, hiến chương, điều lệ,...) đối với các đệ tử của mình thì cũng phải tôn
trọng quyền tự do công dân của họ. Mặt khác, nguyên tắc cũng đòi hỏi mọi quy định
trong hệ thống pháp luật về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo đều phải có cơ sở và
điều kiện hiện thực hóa được trong thực tế cuộc sống; tránh những quy định tạo ra sự
không phù hợp, thiếu tính khả thi khiến cho công dân không thể thực hiện được.
Và nguyên tắc đó cũng đòi hỏi trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm
hiệu lực của các quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, vì không có sự bảo đảm của Nhà
nước sẽ không có hiệu quả trên thực tế về các quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
Thứ tư, công tác tôn giáo là trách nhiệm của toàn hệ thống chính trị do
Đảng lãnh đạo
Tôn giáo là một vấn đề nhạy cảm, quản lý Nhà nước đối với tôn giáo không
chỉ là việc giải quyết những nhu cầu chính đáng của tín đồ, đưa hoạt động tôn giáo
theo pháp luật mà thông qua đó còn góp phần tích cực vào việc chắt lọc và phát huy
những giá trị văn hóa, đạo đức của tôn giáo với chuẩn mực xã hội tốt đẹp. Công tác
tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị trong việc hoạch định và hiện thực
hóa quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước nhằm tăng cường khối
đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo động lực chủ yếu cho sự thành công của công cuộc
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta.
Về quan điểm “Công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị”
được Bộ chính trị Đảng ta chỉ ra từ NQ 24 ngày 16 – 10 -1990 về “Tăng cường công
tác tôn giáo trong tình hình mới”, sau đó Nghị quyết Trung ương 7 (khóa IX) ngày 12
-03- 2003 “về công tác tôn giáo” tiếp tục khẳng định.
Tuy nhiên, từ thực tiễn của công tác tôn giáo và nhất là từ yêu cầu đổi mới
công tác tôn giáo nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo ra được
động lực trực tiếp thúc đẩy sự phát triển đất nước theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ và văn minh, thì từ bản thân hệ thống chính trị đã và đang
đặt ra một số vấn đề cần phải quan tâm giải quyết trên cả phương diện lý luận cũng
70
như thực tiễn như sau:
- Công tác lý luận, cần khai thác và làm sâu sắc hơn nữa những quan điểm của
Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và công tác tôn giáo.
Công tác lý luận hiện nay cần phải có sự tìm tòi, đưa ra những căn cứ lý luận chỉ dẫn
xác đáng, có chiều sâu hơn, không dừng lại như là sự giải thích các quan điểm của
chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo. Cần vận dụng sáng tạo
vào thực tiễn công tác tôn giáo của cả hệ thống chính trị.
- Tạo ra sự phối hợp đồng bộ trong công tác tôn giáo giữa các yếu tố hợp
thành hệ thống chính trị, hạn chế tình trạng khoán trắng, chồng chéo, lấn sân. Việc
quán triệt quan điểm “công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị”, đến
nay vẫn có không ít khó khăn do sự thiếu đồng bộ của các cơ quan trong hệ thống
chính trị. Do vậy, để tạo ra sự phối hợp thống nhất hơn nữa trong công tác tôn giáo
cần xây dựng, quy định chức năng, nhiệm vụ làm công tác tôn giáo của các cấp, các
tổ chức thuộc hệ thống chính trị, trong đó đặc biệt quan tâm đến cấp cơ sở và đề cao
trách nhiệm cá nhân trên cơ sở quyền lực, quyền hạn cụ thể. Sự thống nhất trong công
tác tôn giáo của các tổ chức thuộc hệ thống chính trị, ngoài yếu tố hình thức triển
khai, nó phải được dựa trên cơ sở những chủ trương, chính sách, pháp luật hiện hành.
- Củng cố tổ chức bộ máy làm công tác tôn giáo của hệ thống chính trị; có
chiến lược đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác tôn giáo các cấp;
tăng cường xây dựng lực lượng chính trị ở cơ sở trong các vùng tôn giáo tập trung.
Hiện nay công tác quản lý nhà nước đối với tôn giáo nên chú trọng đến việc phân cấp,
phân quyền mạnh hơn và nhiều hơn đối với mỗi ngành, mỗi cấp. Nên có những quy
định cụ thể, sao cho nguyên tắc tập trung dân chủ được đảm bảo, cấp dưới phát huy
được tính sáng tạo, cấp trên kiểm soát và chỉ đạo thống nhất đối với cấp dưới. Đảm
bảo nguyên tắc này trong công tác tôn giáo hiện nay là bước quan trọng đặc biệt để
đảm bảo tính hiệu lực, hiệu quả công tác tôn giáo của hệ thống chính trị. Xây dựng
đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác tôn giáo ở các cấp là vấn đề có ý nghĩa quyết
định sự thành bại của công tác này. Đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo và lực
lượng chính trị trong các vùng tôn giáo hiện nay đòi hỏi các cấp ủy quan tâm bố trí
71
đúng người làm công tác tôn giáo. Đặc biệt, cần có kế hoạch phát hiện, đào tạo cán
bộ có uy tín, có năng lực vận động chức sắc tôn giáo để tạo ra mối quan hệ đồng
thuận. Cán bộ làm công tác tôn giáo cũng cần đảm bảo tính ổn định. Bên cạnh chế độ
đãi ngộ vật chất, về mặt tinh thần, học phải được lãnh đạo động viên, khen thưởng.
- Tăng cường công tác đối ngoại tôn giáo theo hướng tuyên truyền chính sách
tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta trên trường quốc tế, để thế giới
hiểu đúng về nhân quyền, tôn giáo ở nước ta tạo cơ sở pháp lý vững chắc đấu tranh
chống việc lợi dụng tôn giáo từ bên ngoài. Giải quyết các vụ việc tôn giáo phức tạp
cần kịp thời, khéo léo và đúng pháp luật, không để xảy ra sơ hở khiến kẻ thù có thể
kiếm cớ can thiệp, xuyên tạc chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà
nước ta. Có cơ chế phối hợp giữa các cơ quan làm công tác tôn giáo với các cơ quan
ngoại giao, Ủy ban công tác về các tổ chức phi chính phủ nước ngoài.
Thứ năm, công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng
Nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng. Sở dĩ
xác định như vậy vì đại đa số tín đồ các tôn giáo là quần chúng lao động, có tinh thần
yêu nước và gắn bó với dân tộc trong cuộc đấu tranh giành độc lập tự do và xây dựng
cuộc sống hạnh phúc. Từ việc chăm lo những lợi ích thiết thân trong đó có nhu cầu
tín ngưỡng, tôn giáo chính đáng, các chính sách và việc làm cụ thể của Đảng và Nhà
nước ta sẽ thuyết phục, lôi cuốn, tập hợp bà con có đạo tích cực tham gia xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Mọi thái độ đối xử thô bạo, mệnh lệnh, áp đặt một chiều hoàn toàn
xa lạ với công tác vận động quần chúng. Ngay cả trong trường hợp phải dùng đến các
biện pháp luật thì cũng cần phải tuyên truyền, giải thích để có được sự đồng tình, ủng
hộ của đông đảo quần chúng tín đồ. Xác định công tác tuyên truyền, vận động đồng
bào các tôn giáo hiểu rõ đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc xây dựng, củng cố lòng tin của nhân dân
đối với Đảng và Nhà nước, tạo sự đồng thuận trong xã hội.
Nước ta là một quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo và cũng giống như nhiều quốc
gia khác, vấn đề dân tộc – tôn giáo luôn có sự đan xen thẩm thấu vào nhau, cái này
nguyên nhân của cái kia và ngược lại. Chính vì thế, công tác tôn giáo chỉ có hiệu quả
72
và thành công khi luôn gắn bó với công tác dân tộc. Tuy nhiên, về mặt nhận thức và
thực tiễn cũng cần thấy là: công tác tôn giáo và công tác dân tộc, với tính cách là
những khái niệm thì có sự khác nhau cơ bản, do xuất phát từ sự khác nhau giữa khách
thể công tác và từ nội dung cơ bản của mỗi loại công tác. Cả hai loại công tác này đều
đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước, nên sẽ không thể có hiệu
quả nếu chúng bị tách rời hoặc tuyệt đối hóa. Cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền
đối ngoại liên quan đến tôn giáo, kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng chính đáng
của chức sắc, nhà tu hành, tín đồ các tôn giáo như: nhu cầu về sinh hoạt tín ngưỡng,
tôn giáo, đất đai để xây dựng cơ sở thờ tự… để từ đó đề nghị cấp có thẩm quyền xem
xét giải quyết phù hợp, đảm bảo đúng quy định của pháp luật. Động viên các chức
sắc, chức việc, tín đồ các tôn giáo tùy theo tình hình thực tế như độ tuổi, giới tính để
vận động họ tham gia vào các tổ chức xã hội, các tổ chức đoàn thể như: Hội cựu
chiến binh, Hội người cao tuổi, Phụ nữ, Thanh niên… góp phần tích cực vào việc
thực hiện nếp sống văn hóa, trong các sinh hoạt đạo – đời.
3.2. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền tự do tín ngƣỡng,
tôn giáo trong pháp luật Việt Nam
3.2.1. Giải pháp nâng cao hiệu quả đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo ở Việt Nam
3.2.1.1. Tập trung nâng cao nhận thức về bảo đảm quyền con người trên lĩnh
vực tôn giáo
Trình độ dân trí và sự hiểu biết pháp luật chính là bảo đảm về phía bản thân
của mỗi người dân trong việc thực hiện quyền công dân nói chung, quyền tự to tín
ngưỡng, tôn giáo nói riêng. Sự hiểu biết về pháp luật chính là điều kiện bảo đảm cho
công dân luôn ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật, tôn trọng quyền của người
khác đồng thời cũng chính là để bảo vệ chính quyền và lợi ích của bản thân mình khi
bị xâm hại. Hiểu biết pháp luật sẽ giúp người dân có đời sống văn minh hơn trong
việc xác định được đâu là tín ngưỡng, tôn giáo và đâu là mê tín, dị đoan. Nếu như
đồng bào có tín ngưỡng, tôn giáo am hiểu pháp luật, cũng như mọi mặt khác của xã
hội thì nó sẽ là điều kiện để thực hiện đúng và đầy đủ quyền tự do tín ngưỡng, tôn
73
giáo của mình.
Ở một số vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở nước ta hiện nay, nhất là đồng bào
có đạo ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, nông thôn với trình độ dân trí còn thấp, đời
sống kinh tế còn gặp nhiều khó khăn nên việc thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo còn rất hạn chế. Người dân ở đây còn chưa được tiếp cận với nếp sống văn minh,
việc phổ biến đường lối chính sách của Đảng, Pháp luật của Nhà nước còn rất lẻ tẻ,
chưa đồng bộ và thực sự sâu xát đến đồng bào tôn giáo. Do đó, đây là những điểm rất
dễ bị các thế lực lợi dụng tôn giáo kích động, vu khống Nhà nước ta vi phạm Quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Và cũng chính do hiểu biết hạn hẹp nên họ
không phân biệt được đâu là quyền tự do, đâu là vi phạm pháp luật dẫn đến nhiều
người bị lôi kéo vào các hành vi mê tín, dị đoan mà không hiểu là đang hành động
trái pháp luật. Chính vì vậy, cần phải nâng cao dân trí, đặc biệt là ở các vùng đồng
bào có đạo thì mới đảm bảo được Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cho chính họ và
cũng đồng thời giúp ổn định và phát triển xã hội tốt hơn.
3.2.1.2. Nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của việc bảo đảm quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo cho đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác tôn giáo
Làm việc gì cũng cần phải chú trọng đến gốc rễ của vấn đề, vì vậy công tác
cán bộ đóng vai trò hàng đầu, tác động trực tiếp đến hiệu lực quản lý nhà nước đối
với hoạt động tôn giáo và hiệu quả của công tác tuyên truyền, vận động tín đồ các tôn
giáo trong cả nước. Thực tế hiện nay, cơ chế và thiết chế làm công tác tôn giáo đang
lạc hậu so với tình hình, tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước, đội ngũ cán bộ làm công
tác tôn giáo chưa phù hợp, hiệu quả thấp, chưa làm tốt công tác tham mưu cho Đảng,
Nhà nước về tôn giáo. Số lượng và chất lượng cán bộ, công chức làm công tác tôn
giáo chưa đáp ứng được yêu cầu công việc. Muốn nâng cao đội ngũ cán bộ, chúng ta
cần chú trọng đến công tác tổ chức bộ máy cán bộ, đồng thời đào tạo, bồi dưỡng,
nâng cao nghiệp vụ và tư tưởng chính trị cho đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo.
Người cán bộ làm công tác tôn giáo ngoài những phẩm chất chính trị, đạo đức cần
phải trang bị cho mình những kiến thức chuyên môn về các lĩnh vực:
- Phải am hiểu sâu sắc học thuyết của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về tôn
74
giáo. Đồng thời cũng cần có hiểu biết về chính sách, pháp luật tôn giáo của các quốc
gia trong khu vực và những nước có thể chế chính trị khác nước ta, để từ đó rút ra
tính ưu việt trong chính sách tôn giáo của Việt Nam, từ đó tuyên truyền chính sách
tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta cho đồng bào tôn giáo và phản bác lại những luận
điệu vu cáo, xuyên tạc chính sách, đời sống tôn giáo của nước ta.
- Ngoài văn bản qui phạm pháp luật về tôn giáo, cán bộ làm công tác tôn giáo
còn phải nắm chắc các văn bản pháp luật và các văn bản qui phạm pháp luật có liên
quan (như Luật di sản văn hóa, Luật đất đai, Luật xây dựng, Luật giáo dục,… Nghị
định qui định về quản lý hộ tịch hộ khẩu, về xử phạt hành chính,… và các Thông tư
Liên Bộ, Thông tư hướng dẫn của các bộ, ngành,…).
- Phải nắm thật chắc và đầy đủ tình hình tôn giáo trên địa bàn mình phụ trách
và những địa bàn lân cận; tình hình tôn giáo, tín ngưỡng trong nước và trên thế
giới,… để xây dựng chương trình công tác cho phù hợp, kịp thời tham mưu, đề xuất
hướng giải quyết với cấp trên khi vụ việc phức tạp xảy ra.
- Cần nắm vững kiến thức lịch sử dân tộc, thế giới và lịch sử các tôn giáo, từ
đó mà lý giải được vì sao trong giai đoạn lịch sử nào đó, một triều đại nào đó lại quan
tâm đến tôn giáo hoặc không chú ý đến vấn đề tôn giáo; những đóng góp của giáo sĩ,
tu sĩ các tôn giáo đối với lịch sử dân tộc. Nắm vững kiến thức lịch sử còn giúp chúng
ta có tâm thế thoải mái, tự tin trong khi giải thích, tiếp xúc với giáo dân, giáo sĩ, cả
khi thuyết trình, diễn giảng những vấn đề có liên quan đến tôn giáo.
- Họ cũng cần có kiến thức nhất định về một số ngành khoa học có liên quan,
như tâm lý học, triết học, văn học, xã hội học, mỹ học, đạo đức học,… và các ngành
nghệ thuật, như: kiến trúc, điêu khắc, hội họa,… Ngoài ra, kiến thức về giáo lý, giáo
luật, tín ngưỡng thờ tự,… của một số tôn giáo cũng cần phải am hiểu càng sâu rộng
bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu.
- Ngoại ngữ cũng là vần đề cần phải chú ý tự trang bị. Sẽ bị hạn chế rất nhiều,
nếu làm công tác QLNN đối với Phật giáo mà lại không đọc được, không giải thích
được, không dịch được nội dung những tấm hoành phi câu đối và các văn bản Hán
Nôm của các cơ sở thờ tự Phật giáo.
75
Do đó, các bộ, ngành ở Trung ương và cấp ủy, chính quyền ở địa phương cần
quán triệt quan điểm chỉ đạo trong Nghị quyết số 25/ NQ – TW của Ban chấp hành
Trung ương Đảng về công tác tôn giáo; Nghị định số 92/2012/ NĐ – CP quy định chi
tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo; Thông tư số 01/2013/ TT -
BNV của Bộ nội vụ về việc ban hành và hướng dẫn sử dụng biểu mẫu về thủ tục hành
chính trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo … tới đội ngũ cán bộ, công chức làm công
tác tôn giáo các cấp để họ hiểu và về tôn giáo, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của
người dân. Việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là nguyện vọng chính
đáng của đồng bào có tín ngưỡng, tôn giáo nên cần khắc phục những sai lệch trong
nhận thức và tư tưởng đang tồn tại của cán bộ, công chức làm công tác tôn giáo để
việc phổ biến chính sách, pháp luật được chính xác và kịp thời hơn tới đồng bào có
tín ngưỡng, tôn giáo.
3.2.1.3. Tiếp tục Hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo phù
hợp với quan điểm của Đảng và tình hình thực tiễn
Trải qua hơn 25 năm tiến hành công cuộc Đổi mới đất nước, với tín ngưỡng,
tôn giáo nếu tính từ Nghị quyết 24-NQ/ TW (16-19-1990) đến nay, trên 20 năm chính
sách của Đảng về tín ngưỡng, tôn giáo thực sự đi vào cuộc sống. Điều này được thể
hiện như: Diện mạo tôn giáo Việt Nam thay đổi nhanh chóng với 14 tôn giáo và 38 tổ
chức tôn giáo; Nhu cầu về tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân về cơ bản được đáp
ứng. Chức sắc, nhà tu hành, tín đồ tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng. Yên tâm hành
đạo theo đường hướng sống tốt đời, đẹp đạo. Trên trường quốc tế, năm 2006, Mỹ đưa
Việt Nam ra khỏi danh sách các nước cần đặc biệt quan tâm về tôn giáo (CPC). Vấn
đề ngoại giao tôn giáo đã và đang phát triển tốt.
So với trước đổi mới, chính sách của Đảng ta với tín ngưỡng, tôn giáo hiện
nay thực sự có một bước tiến dài. Một điều ghi nhận là Nghị quyết 25- NQ/TW (12-
3-2003) Đảng ta nêu ra một chính sách mới: "Giữ gìn và phát huy những giá trị tích
cực của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những người có công với Tổ quốc và
nhân dân". Nghĩa là Đảng ta mở rộng chính sách đối với tín ngưỡng một loại hình
76
của đời sống tâm linh vốn tồn tại từ hàng nghìn năm nay.
Đến Hiến pháp 2013 đã kế thừa và sửa đổi, bổ sung quy định của Hiến pháp
năm 1992 về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Điều 24 Hiến pháp ghi nhận
1. Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không
theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. 2. Nhà
nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. 3. Không ai
được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn
giáo để vi phạm pháp luật.
Tuy nhiên trong tình hình mới do sự phát triển của tôn giáo, tín ngưỡng trong
nước, do tác động tôn giáo quốc tế và khu vực đến tôn giáo Việt Nam thì việc hoàn
thiện chính sách với tôn giáo là một đòi hỏi của thực tế. Ví dụ chính sách đối với việc
tôn giáo tham gia xã hội hóa (y tế, văn hóa giáo dục); vấn đề ngoại giao tín ngưỡng, tôn
giáo... để từ đó phát huy tối đa nguồn lực tôn giáo vào công cuộc xây dựng đất nước.
Với pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo: hiện tại một số chế tài về tín ngưỡng
chưa thật rõ ràng. Tiến trình hoàn thiện luật pháp về tín ngưỡng, tôn giáo còn
chậm. Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo được thực hiện đến nay đã là 10 năm nhưng
một số điều khoản của Pháp lệnh hoặc rất khó thực hiện hoặc đã không đáp ứng được
thực tế. Chẳng hạn như vấn đề thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn
giáo; vấn đề công nhận tổ chức tôn giáo. Trước mắt cần có sự tổng kết chỉ ra những
cái được và chưa được của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo; cần thiết bổ sung những gì
của Nghị định 92/2012/NĐ-CP Hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh tín
ngưỡng, tôn giáo. Do đó, cần phải cụ thể hóa các quy định, nội dung, tinh thần của
Hiến pháp, bảo đảm hơn nữa quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người và phù
hợp với Công ước quốc tế về quyền dân sự, chính trị. Theo đó, Luật tín ngưỡng, tôn
giáo sẽ được ban hành thay thế Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo và cần bổ sung các nội
dung cơ bản, phù hợp với thực tiễn, cụ thể:
- Luật ghi nhận và cụ thể hóa chủ thể của quyền tín ngưỡng, tôn giáo là “mọi
người” mà không chỉ là “công dân”, Đồng thời khẳng định rõ quyền theo hoặc không
theo một tôn giáo nào của cá nhân, không ai được xâm phạm tới quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo và nghiêm cấm ép buộc theo đạo, bỏ đạo hoặc lợi dụng quyền tự do
77
tín ngưỡng, tôn giáo để xâm hại tới Nhà nước, công dân và quyền của tổ chức tôn giáo.
- Bổ sung quy định về quyền và giới hạn quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo;
quy định cụ thể quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo bị giới hạn trong những trường hợp
cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã
hội, sức khỏe của cộng đồng”. Quy định này là cần thiết để bảo đảm Nhà nước tôn
trọng và bảo đảm các quyền tự do tín ngưỡng,, tôn giáo của công dân trong một tổng
thể chung về an ninh, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của
người khác. Các quy định này cũng đã được Công ước quốc tế về quyền dân sự,
chính trị của Liên hợp quốc ghi “quyền tự do bày tỏ tôn giáo hoặc tín ngưỡng chỉ có
thể bị giới hạn bởi pháp luật và khi sự giới hạn đó là cần thiết để bảo vệ an ninh, trật
tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức xã hội, hoặc để bảo vệ các quyền và tự do cơ
bản của người khác” (Khoản 3, Điều 18 Công ước).
- Bổ sung quy định về bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người
nước ngoài sinh sống và làm việc tại Việt Nam, theo đó xác định quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo là quyền của mọi cá nhân, người nước ngoài sinh sống, làm việc tại
Việt Nam cũng được Nhà nước Việt Nam tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo bao gồm quyền sinh hoạt tôn giáo của người nước ngoài tại cơ sở
tôn giáo hoặc các địa điểm hợp pháp khác; hoạt động tôn giáo của chức sắc, nhà tu
hành là người nước ngoài, việc tổ chức cuộc lễ, giảng đạo của người nước ngoài tại
cơ sở tôn giáo ở Việt Nam hoặc các địa điểm hợp pháp khác; người nước ngoài theo
học tại các trường đào tạo những người chuyên hoạt động tôn giáo ở Việt Nam.
- Quy định cụ thể về trình tự, thủ tục đăng ký hoạt động tôn giáo và công nhận
tổ chức tôn giáo, nhất là đối với các tôn giáo mới cần phải đăng ký hoạt động tôn giáo
và trách nhiệm bảo đảm tôn trọng, tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo mới hoạt
động trong khuôn khổ pháp luật và theo hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo.
Đồng thời, nghiên cứu để quy định hợp lý về các vấn đề thành lập, chia, tách, sáp
nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo (cấp trung ương hoặc trực thuộc); thành lập trường,
giải thể trường, mở lớp bồi dưỡng những người chuyên hoạt động tôn giáo; phong
chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu củ, suy cử, cách chức, bãi nhiệm, thuyên chuyển
78
chức sắc trong tôn giáo; trình tự, thủ tục, thẩm quyền giải quyết để hạn chế tối đa sự
can thiệp của Nhà nước vào hoạt động nội bộ của tổ chức tôn giáo, tôn trọng và bảo
đảm quyền tự chủ và quyết định các vấn đề nội bộ của tổ chức tôn giáo.
- Quy định cụ thể các chính sách về tôn giáo thể hiện chủ trương Nhà nước
khuyến khích và tạo điều kiện bảo đảm cho các hoạt động tôn giáo vì lợi ích công
cộng, lợi ích quốc gia như bảo hộ tài sản hợp pháp của tổ chức tôn giáo; bảo đảm
giao quyền sử dụng đất nơi có các công trình do cơ sở tôn giáo sử dụng gồm đất
thuộc chùa, nhà thờ, thánh thất, thánh đường, tu viện, trường đào tạo những người
chuyên hoạt động tôn giáo; trụ sở của tổ chức tôn giáo, các cơ sở khác của tôn giáo
được Nhà nước cho phép hoạt động được sử dụng ổn định lâu dài.
- Quy định rõ chính sách khuyến khích của Nhà nước đối với hoạt động từ
thiện, nhân đạo của các tổ chức tôn giáo, bao gồm hoạt động quyên góp; hoạt động
trong các lĩnh vực giáo dục, y tế, từ thiện nhân đạo, bảo trợ xã hội của cơ sở tín
ngưỡng, tổ chức tôn giáo.
- Quy định rõ các hành vi nghiêm cấm và xử lý nghiêm những hành vi lợi
dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, các vấn đề quản lý Nhà nước đối với hoạt
động của các tổ chức tôn giáo phải do luật quy định. Đây là một trong những quyền
tự do cơ bản nhất của con người, có liên quan, ảnh hưởng trực tiếp tới các vấn đề tư
tưởng của công dân, các vấn đề về phát huy truyền thống, đạo lý, thuần phong, mĩ tục
của dân tộc, đất nước, góp phần bảo đảm sự đóng góp tích cực của các tổ chức tôn
giáo vào ổn định đất nước, chống mọi âm mưu lợi dụng tôn giáo để chia rẽ dân tộc,
chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân.
- Nghiên cứu để quy định hợp lý về tư cách pháp nhân của tổ chức tôn giáo
phù hợp với mô hình, hệ thống tổ chức tương đối phức tạp và khác biệt của các tổ
chức tôn giáo, bảo đảm sự thuận lợi trong các giao dịch, quan hệ của tổ chức tôn giáo
với các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan tới hoạt động tôn giáo.
Trong điều kiện mở cửa và chủ động hội nhập quốc tế thì pháp luật quốc gia
về quyền con người phải tương thích và phù hợp với những quy định của pháp luật
quốc tế, được chứa đựng trong các điều ước quốc tế về quyền con người mà Nhà
79
nước Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập. Do vậy, quá trình xây dựng và hoàn thiện
pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo cần phải đảm bảo phù hợp với Điều ước quốc tế mà
Việt Nam đã ký kết.
3.2.1.4. Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội những giá trị văn hóa, đạo đức tốt
đẹp của tôn giáo vẫn có vai trò, đôi khi là to lớn cho việc phát triển xã hội. Để những
giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo được phát huy, Đảng, Nhà nước cần
phải có những chính sách cụ thể và phù hợp với từng tôn giáo cũng như với từng lĩnh
vực của tôn giáo. Đó trước hết là chính sách văn hóa đối với những giá trị văn hóa tôn
giáo nhằm một mặt giữ gìn, mặt khác trao truyền cho các thế hệ mai sau gìn giữ
những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể văn hóa tôn giáo. Quần chúng tín đồ còn
phải biết đấu tranh gạt bỏ những mặt trái làm phương hại đến những giá trị văn hóa
tôn giáo. Chẳng hạn như phê phán hủ tục buôn thần, bán thánh, lợi dụng tín ngưỡng,
tôn giáo để đầu cơ trục lợi, nạn đốt vàng mã thái quá.
Đối với vấn đề văn hóa tâm linh đang nổi lên trong giai đoạn hiện nay và cũng
là sự kiện của thời gian tới cần có sự nghiên cứu và có thể ứng dụng phục vụ cho con
người thay vì thường chỉ thấy phê phán trên các phương tiện truyền thông đại chúng.
Đạo đức tôn giáo cần được sử dụng như một đầu lọc, thải loại những lối sống
phi nhân bản, thác loạn, trà đạp lên đạo đức và nhân phẩm người khác. Mục đích cuối
cùng là làm sao cho chức sắc, nhà tu hành, tín đồ làm tròn nghĩa vụ kép: Sống tốt đời,
đẹp đạo, đóng góp vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
3.2.1.5. Nâng cao đời sống kinh tế, văn hóa và xã hội
Nhà nước nên có chương trình, hành động thiết thực, giải quyết thỏa đáng nhu
cầu tôn giáo cho người có tín ngưỡng, tôn giáo. Đẩy mạnh phát triền kinh tế, xã hội,
xóa đói giảm nghèo, nâng cao mức sống cho đồng bào các dân tộc, tôn giáo. Giải
quyết tốt tình trạng tranh chấp đất đai, đẩy nhanh tiến độ giao đất, khoán rừng, tổ
chức lại sản xuất cho đồng bào các dân tộc thiểu số tại chỗ, tạo việc làm ổn định, giúp
bà con an cư, lạc nghiệp. Tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động định canh, định cư, tăng
cường cán bộ khuyến nông, khuyến lâm hướng dẫn đồng bào áp dụng tiến bộ khoa
80
học – kỹ thuật, chuyển đổi ngành nghề, phát triển chăn nuôi, trồng trọt, nâng cao thu
nhập, cải thiện chất lượng cuộc sống để đồng bào yên tâm xây dựng cuộc sống lâu dài
trên các địa bàn miền núi, biên giới. Chăm lo phát triển sự nghiệp y tế, sự nghiệp giáo
dục – đào tạo, nâng cao trình độ dân trí cho đồng bào các dân tộc, nhất là đồng bào có
đạo để tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội,
củng cố an ninh – quốc phòng đất nước; bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa
truyền thống, phục hồi các lễ hội, phong tục, tập quán tốt đẹp, đáp ứng nhu cầu sinh
hoạt văn hóa lành mạnh cho bà con các dân tộc, tôn giáo.
Chăm lo, đẩy mạnh hơn nữa công tác giáo dục, tuyên truyền vận động các
tầng lớp nhân dân, nhất là đồng bào có đạo hiểu rõ và nắm vững đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề dân tộc, tôn giáo trong tình
hình mới. Trên cơ sở đó, nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các cấp, các ngành,
đoàn thể và toàn dân đối với việc triển khai thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của
Đảng, các luật, pháp lệnh, Nghị định của Nhà nước về vấn đề dân tộc, tôn giáo đã
ban hành, làm cho các chủ trương, chính sách của Đảng đi vào đời sống hiện thực
của người dân, tạo cơ sở, niềm tin vững chắc cho đồng bào có đạo yên tâm làm tròn
bổn phận “sống tốt đời, đẹp đạo”, “sống phúc âm trong lòng dân tộc”, không để các
thế lực thù địch lợi dụng sự thiếu hiểu biết về các chính sách dân tộc, tôn giáo của
đồng bào để xuyên tạc, lôi kéo, kích động đồng bào có đạo vào các hoạt động phá
hoại, gây mất ổn định về chính trị - xã hội ở địa phương, cơ sở, ảnh hưởng đến phát
triển kinh tế, tăng cường quốc phòng – an ninh cũng như đời sống của nhân dân,
trực tiếp là đồng bào tôn giáo.
Quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến
chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận, đúng quy định
của pháp luật. Trong các văn bản của Đảng và Nhà nước trước đây đối với tổ chức
tôn giáo chỉ ghi là “quan tâm”, Đại hội Đảng XI yêu cầu cao hơn là “tạo điều
kiện”. Tạo điều kiện ở đây được hiểu rằng Đảng, Nhà nước tiếp tục hoàn thiện chính
sách và pháp luật đảm bảo cho các tôn giáo, tổ chức tôn giáo sinh hoạt bình thường.
Nhưng thủ tục hành chính như cấp giấy phép xây dựng, sửa chữa cơ sở thờ tự, cấp
81
giấy xác nhận, quyền sử dụng đất, hay giải quyết những vấn đề đạo sự... cho các tôn
giáo tiếp tục được cải tiến, tránh bệnh giấy tờ hoặc gây phiền hà, sách nhiễu. Nếu tôn
giáo được quan tâm và tạo điều kiện để thực hiện tốt theo hiến chương, điều lệ thì
chắc chắn sẽ không có chuyện xảy ra điểm nóng tôn giáo, kéo theo đó là các hệ lụy.
Trong quá trình thực hiện tốt các chính sách phát triển kinh tế, xã hội, nâng
cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân cũng cần phát huy bản sắc văn hóa
truyền thống, bài trừ hủ tục.
3.2.1.6. Chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi
dụng tín ngưỡng, tôn giáo để mê hoặc, chia rẽ phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc
Biểu hiện tiêu cực tôn giáo thời nào cũng có. Đó là mặt trái của tôn giáo. Do
tính nhạy cảm của tôn giáo nên chủ động phòng ngừa mặt trái của tôn giáo được đặt
lên hàng đầu. Kinh nghiệm cho thấy nếu để sự việc xảy ra thì giải quyết rất phức
tạp, đôi khi kéo dài, và vấn đề sẽ rất dễ bị lợi dụng, chuyển hóa thành vấn đề nhân
quyền hay chính trị.
Đảng ta luôn coi trọng công tác đấu tranh chống những quan điểm sai trái,
những luận điệu thù địch chống phá cách mạng. Đây là nhiệm vụ đặc biệt, cần có sự
phối hợp đồng bộ, chỉ đạo chặt chẽ, huy động năng lực và trí tuệ của đội ngũ cán bộ
trong toàn hệ thống chính trị nhằm giải quyết những vấn đề nảy sinh trong nhận thức
tình cảm, tư tưởng của nhân dân. Đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch
cũng chính là sự khẳng định lập trường của Đảng và Nhà nước ta trước những biến
động phức tạp trên thế giới và trong nước, từ đó củng cố nhận thức chính trị, giữ
vững thế trận lòng dân, đưa sự nghiệp cách mạng tới thắng lợi hoàn toàn. Trong các
văn kiện của Đảng, Đảng ta luôn khẳng định: Đồng bào các tôn giáo là bộ phận quan
trọng của khối đại đoàn kết dân tộc. Do đó các thế lực phản động khi nhắm vào việc
phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc thường sử dụng việc phá hoại đoàn kết Lương -
Giáo làm ngòi nổ. Đối với những kẻ lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ phá hoại
khối đại đoàn kết dân tộc, thì phải kiên quyết đấu tranh. Do đây là vấn đề phức tạp
nên khi đấu tranh có phân biệt kẻ chủ mưu, cầm đầu với quần chúng bị lợi dụng. Với
quần chúng bị lợi dụng thì các hệ thống chính trị phải vào cuộc lấy vận động, thuyết
82
phục để quần chúng hiểu rõ những việc làm sai trái, tự nguyện vứt bỏ. Đối với bọn
chủ mưu, cầm đầu khi đấu tranh cũng phải lượng hình, mục đích để họ biết hối tội.
Vấn đề tôn giáo và quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở nước ta luôn là vấn đề
nhạy cảm, phức tạp và dễ bị các thế lực thù địch lợi dụng, kích động lòng dân hòng
phá hoại thành quả cách mạng. Do vậy, việc giải quyết vấn đề tôn giáo nói chung
cũng như bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo nói riêng phải đặt trong tổng thể
những giải pháp và chiến lược bảo vệ và phát triển thành quả của cách mạng, thành
tựu của công cuộc đổi mới và phát huy không ngừng những giá trị tốt đẹp.
3.2.1.7. Quan tâm, giải quyết nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo cho đồng bào các
dân tộc thiểu số
Tín ngưỡng, tôn giáo là một vấn đề rất nhạy cảm, thường nảy sinh trực tiếp từ
những điều kiện kinh tế - xã hội, văn hóa và trình độ nhận thức của người dân, nhất là
ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa. Ở đó, người dân thiếu thốn cả
điều kiện kinh tế lẫn trình độ nhận thức còn hạn chế, do đó vấn đề tín ngưỡng, tôn
giáo khá phức tạp. Để giải quyết được nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo cho đồng bào dân
tộc thiểu số, một mặt Nhà nước cần chăm lo, chú trọng đặc biệt đến việc bảo đảm
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, mặt khác cần đầu tư và thực hiện chính sách phát
triển kinh tế - xã hội hợp lý để cải thiện sinh hoạt, nâng cao mức sống cho đồng bào
tôn giáo. Cần phê phán những luận điệu sai trái về vấn đề tôn giáo, dân tộc, nhân
quyền; cần xây dựng và phát triển hệ thống lý luận khoa học vững chắc về tôn giáo
cũng như nghiên cứu kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới để làm cơ sở cho
hoạt động giáo dục, tuyên truyền và chỉ đạo thực hiện trong tình hình hiện nay.
3.2.1.8. Đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát việc thực thi pháp luật về tín
ngưỡng, tôn giáo
Những năm qua cùng với việc tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng
đối với tôn giáo, công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo được tăng
cường, dần đi vào nề nếp; các hoạt động tôn giáo diễn ra bình thường, thuần túy tôn
giáo và tuân thủ các quy định của pháp luật về hoạt động tôn giáo. Tuy nhiên, có nơi,
có lúc vẫn xảy ra tình trạng một số cơ quan trong bộ máy Nhà nước và tổ chức tôn
83
giáo cũng có lúc vi phạm pháp luật. Hậu quả của vấn đề này làm hạn chế quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo hợp pháp, tạo ra sự căng thẳng không cần thiết giữa các tôn giáo
với chính quyền. Do vậy, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và cả tổ chức, cơ sở tôn
giáo, tín ngưỡng cần phối kết hợp với nhau và phối hợp với Đảng, Nhà nước, các tổ
chức xã hội và nhân dân để kiểm tra và tăng cường giám sát chất lượng việc thực thi
chính sách pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo. Tăng cường chất lượng và hiệu quả
giám sát của cơ quan quyền lực Nhà nước đối với các cơ quan Nhà nước khác, các tổ
chức và công dân trong việc thực hiện pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo.
3.2.1.9. Tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo tham gia các hoạt động xã hội
Các tổ chức tôn giáo là một bộ phận trong xã hội, chúng ta đã thừa nhận tôn
giáo đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước
ta. Do vậy, cần phải tạo điều kiện cho họ tham gia vào các hoạt động xã hội như các
hoạt động giáo dục, y tế, từ thiện nhân đạo để thực hiện một trong những chức năng
quan trọng của tôn giáo. Nên tạo cho các tổ chức tôn giáo khả năng và quyền hạn
pháp lý để có thể tham gia tích cực hơn vào các lĩnh vực xã hội. Sự mở rộng như vậy
không chỉ đáp ứng nhu cầu của các tổ chức tôn giáo mà còn phát huy được những
tiềm năng sẵn có của các tổ chức đó.
Trong tôn giáo, các chức sắc tôn giáo đều làm việc bằng trí tuệ, đạo tâm và
đạo lực vốn có của mình, họ làm việc bằng tinh thần tự nguyện, nhiệt tình mong
muốn đem lại niềm vui cho đồng bào. Sức ảnh hưởng to lớn của tôn giáo trong đời
sống tín ngưỡng của người dân cũng tạo điều kiện cho các tổ chức này tạo nên sức
lan tỏa trong cộng đồng bằng những việc làm thiện nguyện. Với những thuận lợi đó,
Đảng, Nhà nước ta cần tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa, nhất là từ phía chính quyền
các cấp, các ngành, các đoàn thể xã hội; sự quan tâm chỉ đạo, hướng dẫn cụ thể, chi
tiết các hoạt động xã hội từ thiện của tôn giáo thì sẽ phát huy và đóng góp nhiều hơn
nữa cho xã hội.
3.2.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo
3.2.2.1. Tính cấp thiết của việc sửa đổi pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo
Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo được xây dựng và ban hành trong thời kỳ đầu
84
của công cuộc đổi mới đất nước, trong đó có đổi mới về chính sách tôn giáo qua Nghị
quyết số 24-NQ/TW ngày 16/10/1990 của Bộ Chính trị, Ban chấp hành Trung ương
Đảng (khóa VI) về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới và Nghị quyết số
25-NQ/TW ngày 12/3/2003 của Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) về công
tác tôn giáo Pháp lệnh được ban hành. Pháp lệnh đã khẳng định chính sách đúng đắn
của Nhà nước về quản lý hoạt động tôn giáo; tạo hành lang pháp lý quan trọng bảo
đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân, là dấu mốc quan trọng trong quá
trình hoàn thiện hệ thống pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo. Pháp lệnh cũng thể hiện
chính sách dân chủ, tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân; xác
định rõ quyền và nghĩa vụ của các cá nhân, tổ chức tôn giáo, trách nhiệm của các cơ
quan quản lý nhà nước trong việc bảo đảm quyền và nghĩa vụ của các cá nhân, tổ
chức trong hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo; tôn trọng và bảo đảm nguyên tắc những
việc nội bộ của các tổ chức tôn giáo do các tôn giáo tự giải quyết theo hiến chương,
điều lệ đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận.
Tuy nhiên, qua tổng kết 10 năm thực hiện pháp lệnh và các văn bản quy định
chi tiết thi hành, cho thấy những bất cập trong các quy định của Pháp lệnh chưa phù
hợp tình hình hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo và có những vấn đề phức tạp phát sinh.
Một số quy định của Pháp lệnh còn thiếu cụ thể, chưa phù hợp với thực tiễn
hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo làm ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo của mọi người như quy định về hoạt động tín ngưỡng, đăng ký hoạt
động tôn giáo, công nhận tổ chức tôn giáo, phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu
cử, suy cử, hoạt động xã hội của các tổ chức tôn giáo, hoạt động quốc tế.
Vấn đề tổ chức tôn giáo Việt Nam gia nhập tổ chức tôn giáo quốc tế; việc
phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử cho người có quốc tịch nước
ngoài hoạt động cho tổ chức tôn giáo ở Việt Nam; việc người nước ngoài vào tu tại
cơ sở tôn giáo ở Việt Nam,… chưa được quy định, gây ảnh hưởng đến tổ chức, cá
nhân tôn giáo trong việc thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo như quy định tại
Điều 24 của Hiến pháp 2013.
Về trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo chưa
được quy định cụ thể trong pháp lệnh, ảnh hưởng đến hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà
85
nước đối với lĩnh vực này và hoạt động của tổ chức, cá nhân tôn giáo…
Những hạn chế, bất cập này đặt ra yêu cầu cấp thiết phải xây dựng Luật
thay thế Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo để đáp ứng yêu cầu thực tiễn về tín
ngưỡng, tôn giáo, cũng như nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước, thực hiện
chủ trương của Đảng tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII "Tiếp tục hoàn thiện
chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo, phát huy những giá trị văn hóa, đạo
đức tốt đẹp của các tôn giáo".
3.2.2.2. Yêu cầu đặt ra khi sửa đổi pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo 2004
Một là, phải bám sát Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương
Đảng (Khóa IX) về công tác tôn giáo và Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII.
Hai là, bảo đảm tính kế thừa pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo ban hành năm
2004; sửa đổi những quy định chưa rõ ràng, không phù hợp; bổ sung những quy định
chưa được điều chỉnh trong Pháp lệnh mà thực tiễn đang đòi hỏi phải sớm có quy
định để điều chỉnh; bãi bỏ những quy định không còn phù hợp với thực tiễn và xu
hướng phát triển trong hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo.
Ba là, bảo đảm tính khả thi, thống nhất với Hiến pháp và các văn bản quy
phạm pháp luật khác có liên quan trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
Bốn là, nội dung sửa đổi phải bám sát yêu cầu của thực tiễn đòi hỏi, nâng cao
hiệu quả của công tác quản lý Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo; bảo đảm quyền tự
do tín ngưỡng, tôn giáo, quyền theo hoặc không theo một tôn giáo nào của mọi
người; phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy những giá trị
truyền thống tốt đẹp trong tôn giáo; bảo đảm tính công khai, minh bạch, dân chủ;
giảm thời gian, tiết kiệm chi phí cho tổ chức, cá nhân tôn giáo.
Năm là, các quy định sửa đổi, bổ sung phải phù hợp với pháp luật quốc tế và
xu hướng phát triển, tình hình hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam.
3.2.2.3. Kiến nghị sửa đổi một số điều của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo
Mặc dù quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm,
tạo điều kiện song việc cụ thể hóa trong các văn bản luật còn chưa có, hệ thống văn bản
pháp luật và pháp quy về tôn giáo hiện nay của chúng ta còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng
được đòi hỏi của tình hình thực tế, thiếu về các quy định và điều khoản thi hành dẫn đến
86
làm giảm hiệu quả của việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
- Từ Hiến pháp cho đến pháp lệnh đều không có giải thích thế nào là tôn giáo,
tín ngưỡng và thế nào là mê tín, dị đoan. Chính sự không giải thích này dẫn đến nhiều
người không hiểu và phân biệt được để có những hành động, cư xử đúng với quy
định của pháp luật. Nên chăng quy định rõ hai điều trên để từ đó đưa ra quy định xử
lý đối với những hành vi vi phạm pháp luật như mê tín dị đoan.
- Điều 1, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với quy định tại Điều 24 Hiến pháp
2013, theo đó, đã sửa đổi cụm từ “Công dân” bằng cụm từ “Mọi người”. Việc sửa
đổi, bổ sung theo tinh thần quy định của Điều 24 Hiến pháp đã khẳng định quyền tự
do tín ngưỡng, tôn giáo là quyền của con người, mọi người đều được Nhà nước tôn
trọng và bảo đảm quyền đó được thực hiện trên thực tế, không phân biệt người Việt
Nam hay người nước ngoài đang sinh sống, làm việc ở Việt Nam. Đây là một bước
tiến lớn trong việc thể chế quy định bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của
Nhà nước ta.
- Khoản 4, Điều 3, nên thay khái niệm “tổ chức tôn giáo cơ sở” bằng “tổ chức
tôn giáo trực thuộc”, bởi vì khái niệm này bao quát hết được các tổ chức cấp dưới của
tổ chức tôn giáo khác nhau. Khắc phục được thực tế và đáp ứng nhu cầu chính đáng
của tín đồ, tổ chức tôn giáo trong việc thành lập tổ chức tôn giáo trực thuộc.
- Bổ sung khái niệm “sinh hoạt tôn giáo” nhằm phân biệt sinh hoạt tôn giáo và
hoạt động tôn giáo vì một số điều khoản trong Pháp lệnh có quy định về sinh hoạt tôn
giáo: “Sinh hoạt tôn giáo là việc thực hành nghi thức thờ cúng, cầu nguyện, bày tỏ
niềm tin tôn giáo”. Bổ sung khái niệm “tà đạo” để làm căn cứ, cơ sở nhận biết những
dấu hiệu của hoạt động tà đạo, làm cơ sở cho cơ quan quản lý nhà nước xử lý đối với
các hoạt động này khi họ lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động làm ảnh hưởng
đến an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội: “Tà đạo là hoạt động mang hình thức
tín ngưỡng, tôn giáo của cá nhân hay nhóm người trái pháp luật, xâm phạm an ninh
trật tự, trái với thuần phong mỹ tục, xuyên tạc lịch sử, phá hoại khối đại đoàn kết dân
tộc và những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam”.
- Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo đã quy định ba điều kiện để công nhận cơ sở
87
tôn giáo có tư cách pháp nhân nhưng còn quy định về tài sản của cơ sở tôn giáo thì
chưa có quy định, điều này dẫn đến nhiều hệ lụy, phiền toái cho các cơ sở tôn giáo
như: thiếu cơ sở pháp lý bảo đảm cho tính minh bạch của tài sản giáo hội; nguy cơ bị
cá nhân hoặc tổ chức tài trợ tài chính thâu tóm, chi phối trong trường hợp giáo hội
phải lệ thuộc vào cá nhân hoặc tổ chức tài trợ ấy để hoạt động;… dẫn đến những mất
ổn định trong chính cơ sở đó. Vì vậy kiến nghị cần quy định thêm điều kiện về tài sản
khi công nhận tổ chức tôn giáo có tư cách pháp nhân.
Đồng thời bổ sung thêm quy định cụ thể về pháp nhân tôn giáo ngoài những
tiêu chí công nhận pháp nhân chung nên cụ thể hóa cho phù hợp với tổ chức tôn giáo
như có thể gồm các tiêu chí: có tên gọi của tổ chức tôn giáo, không trùng với tên gọi
của tổ chức tôn giáo đã được công nhận; tổ chức tôn giáo phải có mục đích, tôn chỉ,
hiến chương, điều lệ hành đạo phù hợp với truyền thống văn hóa, lợi ích dân tộc và
không trái với pháp luật; tôn giáo phải có cơ sở thờ tự.
- Về quyền và nghĩa vụ của các bên, Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo chưa quy
định cụ thể đối với từng chủ thể tham gia quan hệ pháp luật về tôn giáo nên trong quá
trình thực hiện pháp luật còn gặp nhiều vướng mắc. Do đó cần có sự điều chỉnh trong
dự thảo Luật tín ngưỡng, tôn giáo trong thời gian sắp tới để xác định rõ những quyền
và nghĩa vụ cơ bản của các chủ thể như tổ chức, chức sắc, nhà tu hành và tín đồ tôn
giáo, cơ quan quản lý Nhà nước các cấp và mọi tổ chức, cá nhân khác liên quan.
- Bổ sung quy định tại điều 12 cho phù hợp với tình hình thực tiễn, Điều 12
Pháp lệnh 2004 chỉ quy định tổ chức tôn giáo cơ sở phải đăng ký hoạt động tôn giáo
hàng năm còn các tổ chức tôn giáo cấp trên cơ sở thì không quy định, quy định này
nhằm yêu cầu các tổ chức tôn giáo (trung ương hoặc trực thuộc) phải có trách nhiệm
đăng ký chương trình hoạt động tôn giáo diễn ra hàng năm, đáp ứng được yêu cầu
quản lý nhà nước về tôn giáo trong tình hình mới.
- Điều 33, sửa đổi, bổ sung Khoản 1 Điều 33 Pháp lệnh theo hướng mở rộng,
quy định cho tổ chức tôn giáo được tham gia hoạt động và thành lập các cơ sở khám
bệnh, chữa bệnh; giáo dục mầm non, lớp ngoại ngữ, tin học; cơ sở dạy nghề; cơ sở
bảo trợ xã hội như các tổ chức khác Khoản 2 nhằm khuyến khích các tổ chức tôn giáo
tham gia hoạt động hoặc thành lập các cơ sở hoạt động vì mục đích từ thiện nhân đạo.
88
Quy định này nhằm khắc phục được hạn chế của Điều 33 Pháp lệnh 2004, phù hợp với
chủ trương về xã hội hóa của Đảng, Nhà nước, phù hợp với văn kiện Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ XI, phát huy tối đa được các tiềm năng, nguồn lực, thế mạnh của các tôn
giáo trong lĩnh vực này, góp phần cùng với Nhà nước và toàn xã hội giải quyết những
vấn đề xã hội đang đặt ra. Thể hiện chinh sách bình đẳng, không phân biệt đối xử vì lý
do tín ngưỡng, tôn giáo của Nhà nước khi tổ chức tham gia vào các quan hệ pháp luật.
Quy định này được ban hành sẽ được các tổ chức, cá nhân tôn giáo trong và ngoài
nước ủng hộ, đón nhận và không trái với quy định của pháp luật liên quan.
- Các quy định pháp luật về Bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo còn
được chứa đựng trong nhiều ngành luật thuộc nhiều lĩnh vực khác có liên quan, do đó
cũng cần phải rà soát lại toàn bộ hệ thống pháp luật để đảm bảo tính thống nhất của
pháp luật, tránh chồng chéo, mâu thuẫn nhau.
- Vấn đề xử phạt hành chính trong lĩnh vực tôn giáo cũng cần có quy định rõ
ràng mặc dù đã có Pháp lệnh xử phạt hành chính, Luật cán bộ công chức, tuy nhiên
89
cũng nên có văn bản pháp luật có liên quan điều chỉnh.
KẾT LUẬN
Việt Nam là một quốc gia có nền văn hóa lâu đời, đậm đà bản sắc dân tộc, kết
tinh từ sự đa dạng các nền văn hóa trong cộng đồng 54 dân tộc. Đồng thời, Việt Nam
cũng là quốc gia đa sắc tộc và đa tôn giáo, mọi tôn giáo đều bình đẳng và được tôn
trọng, bảo đảm. Các tôn giáo cùng tồn tại và phát triển cùng xã hội và gắn với dân
tộc, gắn với nhân quyền. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm, chăm lo
đời sống vật chất, tinh thần cho tín đồ tôn giáo, bảo đảm cho các tôn giáo luôn được
phát triển hài hòa, đồng hành cùng dân tộc.
Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những quyền cơ bản của con
người, thuộc nhóm quyền dân sự và chính trị, được ghi nhận trong pháp luật quốc tế
về quyền con người cũng như trong pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới. Do
vậy, bảo đảm Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo luôn được Đảng và Nhà nước ta
khẳng định qua các kỳ đại hội, được ghi nhận không chỉ trong Hiến pháp mà còn cả
trong Pháp lệnh, Nghị định, Thông tư hướng dẫn thi hành. Đó luôn là chủ trương nhất
quán, xuyên suốt trong quá trình lãnh đạo của Đảng. Hiếm có một quốc gia nào có
tinh thần khoan dung tôn giáo như Việt Nam, đây là một đặc trưng cơ bản của sự tôn
trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam.
Theo dòng chảy lịch sử, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ra đời từ khá sớm, ở
Việt Nam nó gắn liền với quá trình cách mạng, quá trình xây dựng và bảo vệ tổ quốc,
bảo vệ độc lập, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đặc
biệt đến vấn đề tôn giáo bằng những chủ trương, chính sách cụ thể. Tuy nhiên, trong
quá trình thực hiện vẫn còn bộc lộ một số hạn chế do xuất phát từ những nhận thức lý
luận mới về tôn giáo, về nhà nước thế tục và mối quan hệ giữa nhà nước pháp quyền
với tôn giáo và từ kinh nghiệm quốc tế về giải quyết mối quan hệ giữa nhà nước với
tôn giáo. Hệ thống pháp luật liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo chưa phù hợp với
thực tế, việc thực hiện pháp luật liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo mỗi nơi mỗi lúc
một khác. Chính sách về tôn giáo ở mỗi địa phương có sự khác nhau, không đồng
90
nhất, có những địa phương vẫn còn quá cứng nhắc trong việc xử lý vấn đề về tôn
giáo, thậm chí còn không theo chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước. Chính vì vậy
cần bổ sung, hoàn thiện chính sách pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo một cách chi
tiết, cụ thể để có sự đồng bộ giữa các địa phương và áp dụng đúng nội dung, tinh thần
chính sách của Đảng và Nhà nước. Vừa phải tạo điều kiện cho đồng bào tôn giáo phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội, vừa phải tạo điều kiện cho đồng bào tôn giáo thực hiện
quyền của mình. Tăng cường các biện pháp bảo đảm thực hiện quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo, chú trọng biện pháp thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật của
hệ thống cơ quan làm công tác tôn giáo các cấp.
Nâng cao nhận thức không chỉ trong đồng bào tôn giáo mà trong cả cán bộ,
công chức làm công tác tôn giáo. Trước âm mưu “diễn biến hòa bình”, các thế lực
phản động lợi dụng tự do tín ngưỡng, tôn giáo để vu khống, xuyên tạc, làm sai lệch đi
chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước thì chúng ta cần đẩy mạnh công tác
tuyên truyền để các tầng lớp nhân dân, nhất là chức sắc, tín đồ tôn giáo hiểu rõ quan
điểm, chính sách tốt đẹp về tín ngưỡng; phải chỉ cho họ thấy rõ quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo của công dân không chỉ được quy định trong Hiến pháp mà còn
được pháp luật bảo vệ và thực thi trên thực tế. Do đó, giải quyết vấn đề tôn giáo
luôn là đấu tranh tư tưởng chính trị mà muốn làm được điều đó, trước hết cần phải
nâng cao nhận thức của cán bộ, công chức làm công tác tôn giáo bởi chính họ là
người sẽ truyền đạt, giải thích những chính sách của Đảng, Nhà nước và cũng chính
họ là người giúp đồng bào tôn giáo hiểu đâu là quyền tự do tín ngưỡng và đâu là vi
phạm pháp luật.
Ngoài việc chăm lo đến đời sống tinh thần cho đồng bào có tín ngưỡng, tôn
giáo cũng như không có tín ngưỡng, tôn giáo, Đảng và Nhà nước ta cũng đã chú
trọng đến phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội cho các đồng bào có đạo cũng như không
có đạo. Tuy nhiên, cũng cần cụ thể hóa hơn nữa những chính sách về tôn giáo trong
hệ thống pháp luật, nhất là nên bổ sung một số quy định cụ thể vào trong dự thảo
Luật tín ngưỡng, tôn giáo sắp tới. Bởi hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo liên quan đến
tất cả các lĩnh vực của đời sống, xã hội, liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp, do đó
91
cần xây dựng Luật tín ngưỡng, tôn giáo phù hợp, tạo điều kiện, giúp đỡ các cá nhân,
tổ chức có tín ngưỡng, tôn giáo thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Đồng thời, để
đảm bảo sự bình đẳng giữa các tôn giáo, pháp luật về tôn giáo phải tạo ra được hành
lang pháp lý với những quy định thực sự bình đẳng cho các tôn giáo hoạt động.
Trong xu thế thế tục như hiện nay thì việc bình đẳng giữa các tổ chức tín
ngưỡng, tôn giáo với các tổ chức khác là rất cần thiết. Cần mở rộng hơn nữa quyền
bình đẳng của các tổ chức tín ngưỡng, tôn giáo, họ cũng có quyền làm tất cả những gì
mà pháp luật không cấm và chịu trách nhiệm về những hành vi vi phạm pháp luật của
mình. Chính quyền các cấp nên tạo điều kiện cho họ được hoạt động và tham gia trên
các lĩnh vực y tế, giáo dục, từ thiện, nhân đạo thay vì kiểm soát họ một cách chặt chẽ.
Thiết nghĩ, để quyền của các tổ chức tín ngưỡng, tôn giáo được bảo đảm thì Nhà
nước nên coi các tổ chức này như những tổ chức xã hội bình thường khác, nên cho
phép họ thành lập các phòng khám, bệnh viện tư nhân, trường mầm non, trường dạy
nghề hay các trung tâm bảo trợ xã hội nhằm phát huy nguồn lực xã hội, đặc biệt là
nguồn trí tuệ của chức sắc nhằm góp phần xây dựng và phát triển đất nước.
Với những nội dung thể hiện trong luận văn, tác giả đã cố gắng phân tích đúng
theo từng mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu đã đề ra. Tuy nhiên, do giới hạn về thời
gian cũng như khả năng nghiên cứu nên luận văn còn nhiều thiếu sót. Rất mong sự
92
đóng góp của thầy, cô và độc giả quan tâm./.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tài liệu tiếng Việt
1.
Ban Tôn giáo Chính phủ (2012), Một số tôn giáo ở Việt Nam, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
2. Ban tôn giáo Chính phủ (2012), Văn bản của Đảng và Nhà nước về tín
ngưỡng, tôn giáo, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
3. Ban tôn giáo Chính phủ (2015), Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Pháp lệnh
Tín ngưỡng, tôn giáo, Hà Nội.
4.
C.Mác (1995), Lời nói đầu – Góp phần phê phán triết học Pháp quyền của Hêghen, C.Mác và Ph. Angghen toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia sự
thật, Hà Nội.
5. Nguyễn Hồng Dương (2011), “Tín ngưỡng, tôn giáo đang và sẽ tồn tại cùng
dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta”, Tạp chí Cộng
sản, Viện khoa học xã hội Việt Nam - Hà Nội.
6. Đại sứ quán và Tổng lãnh sự quán Hoa Kỳ (2014), Báo cáo tự do tôn giáo
quốc tế 2014, tại Việt Nam.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
II, Nxb Sự thật, Hà Nội.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
III, Nxb Sự thật, Hà Nội.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IV, Nxb Sự thật, Hà Nội.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
V, Nxb Sự thật, Hà Nội
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VI, Nxb Sự thật, Hà Nội
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
93
VII”, Nxb Sự thật, Hà Nội.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Nghị quyết 25-NQ/TW ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa I X về công tác tôn giáo, Hà Nội.
16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
19. Giáo hoàng Học viện Piô X (1972), Thánh Công đồng chung Vaticano II, Đà Lạt.
20. Hội bảo vệ quyền tự do tôn giáo (2015), Báo cáo Tổng kết về tình hình tự do
tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam.
21. Hội đồng Liên minh châu Âu (1953), Công ước bảo vệ Nhân quyền và các
quyền Tự do căn bản (Công ước Châu Âu về Nhân quyền).
22. Lê Quang Hưng (2014), Pháp luật Việt Nam về quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo, Luận văn thạc sĩ luật học, khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
23. Khoa luật - Đại học quốc gia Hà Nội (2011), “Bình luận chung số 22 Quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng hoặc tôn giáo (Điều 18), Tập hợp những bình luận/
kiến nghị chung của Ủy ban Công ước Liên hợp quốc, Hà Nội.
24. Khoa luật - Đại học quốc gia Hà Nội (2011), “Bộ luật về quyền của Hoa Kỳ
1791”, Tư tưởng về quyền con người, Hà Nội.
25. Khoa luật - Đại học quốc gia Hà Nội (2011), “Tuyên bố năm 1981 về xóa bỏ mọi hình thức không khoan dung và phân biệt dựa trên tín ngưỡng, tôn giáo”,
Giới thiệu các văn kiên quốc tế về quyền con người, Hà Nội.
26. Khoa luật - Đại học quốc gia Hà Nội (2011), “Tuyên ngôn độc lập của Hợp
94
chủng quốc Hoa Kỳ 1776”, Tư tưởng về quyền con người, Hà Nội.
27. Khoa luật - Đại học quốc gia Hà Nội (2011), “Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân
quyền Pháp, 1788”, Tư tưởng về quyền con con người, Hà Nội.
28. Khoa luật - Đại học quốc gia Hà Nội (2011), “Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người”, Giới thiệu các văn kiện quốc tế về quyền con người,Hà Nội.
29. Khoa luật - Đại học quốc gia Hà Nội (2011), Các điều sửa đổi, bổ sung hiến
pháp Hoa Kỳ, Tuyển tập Hiến pháp của một số quốc gia, Hà Nội.
30. Khoa luật - Đại học quốc gia Hà Nội (2011), Hiến pháp Hợp chủng quốc Hoa
Kỳ, Tuyển tập Hiến pháp một số quốc gia,Hà Nội.
31. Khoa luật - Đại học quốc gia Hà Nội (2011), Tuyển tập Hiến pháp một số quốc
gia, Hiến pháp nước Cộng Hòa Pháp, Hà Nội.
32. Khoa luật - Đại học quốc gia Hà Nội (2011), Tuyển tập Hiến pháp một số quốc
gia, Hiến pháp nước Cộng Hòa nhân dân Trung Hoa, Hà Nội.
33. Khoa luật - Đại học quốc gia Hà Nội, “Công ước về các quyền dân sự, chính
trị”, Hỏi đáp về quyền con người, Hà Nội.
34. Liên hợp quốc (1945), Hiến chương.
35. Liên minh Châu Phi (1981), Hiến chương Châu Phi về quyền con người và
quyền các dân tộc 1981.
36. Nguyễn Đức Lữ (2011), “Những điểm mới trong Đại hội XI về tôn giáo”, Tạp
chí Cộng sản, Viện khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội.
37. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2003), Luật bầu cử đại
biểu Hội đồng nhân dân, Nxb chính trị Quốc gia, Hà Nội.
38. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2005), Bộ luật Dân sự,
Nxb chính trị Quốc gia, Hà Nội.
39. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2005), Bộ luật Tố tụng
Dân sự, Nxb chính trị Quốc gia, Hà Nội.
40. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2005), Hiến pháp năm
1946, 1959, 1980, 1992, Nxb chính trị Quốc gia, Hà Nội.
41. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2005), Luật giáo dục,
95
Nxb chính trị Quốc gia, Hà Nội.
42. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2005), Luật hôn nhân
và gia đình, Nxb chính trị Quốc gia, Hà Nội.
43. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2005), Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo và Nghị định hướng dẫn thi hành, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
44. Chu Hồng Thanh (2015), Quyền con người, Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong hiến pháp 2013 – Sách: Bình luận khoa học về Hiến pháp 2013, NXB CTQG.
45. Thủ tướng Chính phủ (2005), Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về một số công
tác đối với đạo Tin lành, Hà Nội.
46. Thủ tướng Chính phủ (2008), Chỉ thị số 1940/2008/CT-TTg ngày 31/12/2008
về nhà, đất liên quan đến tôn giáo, Hà Nội.
47. Thủ tướng Chính phủ (2012), Nghị định 92/2012/ NĐ –CP ngày 08/11/2012 quy
định chi tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, Hà Nội.
48. Đặng Tài Tính (2005), “Tôn trọng tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo – Chính
sách nhất quán của Đảng và Nhà nước”, Công tác tôn giáo, (1).
49. Tổ chức các quốc gia châu Mỹ (1978), Công ước Châu Mỹ về Nhân quyền
(Hiệp ước San José)..
50. Đặng Nghiêm Vạn (1998), Những vấn đề lý luận và thực tiễn tôn giáo ở Việt
Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
II. Tài liệu Website
51. http://btgcp.gov.vn/Plus.aspx/vi/News/38/0/240/0/7170/Van_ban_phap_luat_v
e_tin_nguong_ton_giao_o_Viet_Nam_hien_nay_ket_qua_va_bat_cap.
52.
http://btgcp.gov.vn/Plus.aspx/vi/News/38/0/240/0/4881/Quyen_tu_do_tin_ngu ong_ton_giao_trong_Hien_phap_Viet_Nam.
53.
http://btgcp.gov.vn/Plus.aspx/vi/News/38/0/240/0/3095/Viet_Nam_luon_ton_t rong_quyen_tu_do_tin_nguong_ton_giao.
54. http://nguoibaovequyenloi.com/User/ThongTin_ChiTiet.aspx?MaTT=1572016
96
54220371695&MaMT=22.