
Bộ lặp tái tạo
Phương pháp chuyển tiếp số được đặc trưng bởi các mặt sau: trước hết,
các tín hiệu số bị méo bởi sự suy hao và tạp âm trong khi truyền được tái
tạo thành các tín hiệu không bị méo như trong trường hợp truyền các tín
hiệu đối với tái tạo. Bộ lặp tái tạo sẽ cân bằng (hoặc tạo lại hình dạng)
dạng sóng bị méo thành dạng sóng được mã hoá với tỷ số S/N cao, tái
tạo dạng sóng đã cân bằng thành các xung mà nó giống như là truyền
xung bằng cách nhận dạng ‘1’ và ‘0’ của thông tin nhị phân trên các
dạng sóng cân bằng và định thời các pha của các xung truyền ở những
khoảng thời gian chính xác.
Thiết bị chuyển tiếp đầu cuối được dùng để tái tạo và khuyếch đại các
tín hiệu, chia các dòng cho bộ lặp lại đường. Cũng vậy, nó tiến hành việc
chuyển đổi mã (cực đơn sang đa cực), ngẫu nhiên hoá và giải ngẫu nhiên

mã, nhập và tách các tín hiệu điều khiển và kiểm tra. Bộ lặp tái tạo có
chức nǎng tái tạo các xung bị méo mó trên đường. Cũng vậy, nó được
lắp một mạch để phát hiện lỗi. Dùng các bộ lặp tái tạo, các thiết bị điện
thoại có thể phát hiện các lỗi trên thông qua điều khiển từ xa.
Rõ hơn là, chúng phát hiện các lỗi mã hoá bằng cách kiểm tra tính chẵn
lẻ, việc khử mã truyền để cho người kiểm tra tình trạng vận hành của các
trạm lặp lại; nếu lỗi được tìm thấy, các bộ lặp lại hư hỏng được chẩn
đoán bằng cách dùng bộ ba xung và dò tìm pha. Bộ lặp lại được hoạt
động bằng dòng điện tỷ lệ (thường 60 mA) được trùng lặp trên các tín
hiệu cung cấp từ trạm đầu cuối.
Tạp âm sinh ra từ hệ thống tái tạo chủ yếu do tạp âm lỗi mã và tạp âm
jitter. Chất lượng của các đường truyền tái tạo được đánh giá trên những
cơ sở này. Tạp âm lỗi mã tạo ra tuỳ thuộc vào tạp âm nhiệt và sự méo
dạng sóng. Còn tạp âm jitter tạo ra bởi sự thay đổi mẫu mã hoá và các
phần tử khác không phụ thuộc vào các mẫu mã hoá.
Độ lớn tạp âm của bộ tạo dạng tỷ lệ với số lượng bộ lặp lại và cái sau
tǎng lên tỷ lệ với cǎn bậc hai của số lượng bộ lặp lại. Các vòng khoá pha
được sử dụng để triệt jitter. Các đặc tính jitter tuỳ thuộc vào cấp báo
hiệu được khuyến nghị trong G823 và G824 của ITU-T. Các tín hiệu

sóng hình sin được phân bố theo thời gian khi đi qua đường truyền và
các mã đầu/cuối là đối tượng tạo ra sự giao thoa. Đó được gọi là một sự
giao thoa liên kí hiệu hoặc sự xuyên âm thời gian. Biểu đồ mẫu mắt
được dùng để chỉ thị các đặc tính của đáp tuyến dạng sóng của các dãy
mã truyền; mắt của biểu đồ trở nên hẹp khi sự giao thoa hoặc jitter được
tạo nên trên các mã.
Định thời gian được thực hiện để nhận dạng các lỗi tại điểm mà mắt biểu
đồ mở. Nếu chúng ta lấy tỷ lệ lỗi của mỗi bộ lặp lại là Pe và giá trị thực
tế của jitter là Oj thì tỷ lệ lỗi truyền dẫn được tiến hành với số N bộ lặp
lại sẽ là N x Pe (khi chức nǎng bộ lặp tái tạo là có, hầu hết cũng giống
như tiết diện đơn P(e). Cũng vậy, giá trị thực tế của jitter được biểu thị
bằng a(N x Oj) (a: hằng số).
Do đó, những bộ lặp lại có khả nǎng nhận dạng và tái tạo các tỷ lệ lỗi.
Về jitter, chúng sẽ có 1 chức nǎng cân bằng dạng sóng với độ chính xác
cao để thực hiện tái tạo thời gian một cách chính xác.