
Các thành phần của miễn dịch
bẩm sinh
(Kỳ 4)
Sau khi nhận diện các vi sinh vật thì các bạch cầu trung tính và các đại thực
bào sẽ “ăn” (chữ Hán Nôm là “thực”) các vi sinh vật. Đồng thời việc nhận diện vi
sinh vật còn có tác dụng là hoạt hoá các tế bào làm nhiệm vụ thực bào giết các vi
sinh vật mà chúng đã nuốt vào (hình 2.7).
Quá trình thực bào diễn ra bằng cách các tế bào làm nhiệm vụ thực bào mở
rộng màng nguyên sinh chất của chúng ra “ôm” lấy các vi sinh vật hoặc vật lạ mà
nó đã nhận diện sau đó màng này đóng lại và đoạn màng đó bứt ra khỏi màng
nguyên sinh chất của tế bào làm nhiệm vụ thực bào tạo thành một bọng bên trong
có chứa vi sinh vật hoặc vật lạ. Bọng này được gọi là phagosome.
Các phagosome sẽ hoà màng vào với các lysosome (tiêu thể) để tạo thành
các phagolysosome. Cùng lúc với việc các các thụ thể của tế bào làm nhiệm vụ

thực bào bám vào vi sinh vật để nuốt chúng thì các thụ thể ấy cũng gửi các tín hiệu
hoạt hoá một số enzyme trong các phagolysosome.
Một trong số các enzyme này là oxidase của tế bào làm nhiệm vụ thực bào
có tác dụng chuyển phân tử ô-xy thành anion superoxide và các gốc tự do. Các
chất này được gọi là các chất trung gian ô-xy phản ứng (reactive oxygen
intermediate – viết tắt là ROI) có tác dụng độc đối với các vi sinh vật đã bị tế bào
làm nhiệm vụ thực bào nuốt vào.
Enzyme thứ hai là inducible nitric oxide synthase (viết tắt là iNOS) xúc
tác quá trình chuyển đổi arginine thành nitric oxide (ô-xít ni-tơ, viết tắt là NO)
cũng là một chất có tác dụng diệt vi sinh vật. Nhóm các enzyme thứ ba là các
protease của lysosome có tác dụng phân cắt các protein của vi sinh vật.
Tất cả các chất kháng vi sinh vật này được tạo ra chủ yếu ở trong các
lysosome và các phagolysosome và chúng tác động lên các vi sinh vật đã được
nuốt vào ở bên trong các bọng đó nên không hề gây tổn thương gì cho các tế bào
thực bào.
Trong những trường hợp phản ứng quá mạnh thì các enzyme kể trên có thể
được giải phóng ra khoang gian bào và có thể gây tổn thương cho các mô của cơ
thể. Đó là lý do tại sao các phản ứng viêm thường là phản ứng bảo vệ cơ thể chống
lại nhiễm trùng nhưng đôi khi cũng có thể gây ra cả các tổn thương cho cơ thể.

Trạng thái thiếu hụt enzyme oxidase của các tế bào làm nhiệm vụ thực bào
do di truyền sẽ gây ra bệnh u hạt mạn tính (chronic granulomatous disease).
Trong bệnh này các tế bào làm nhiệm vụ thực bào không có khả năng loại
bỏ được các vi sinh vật sống bên trong tế bào của túc chủ và vì thế cơ thể túc chủ
phải tìm cách khư trú ổ nhiễm trùng lại bằng cách huy động nhiều đại thực bào và
các tế bào lympho đến chỗ nhiễm trùng hơn để bao bọc lấy vi sinh vật dẫn đến
hình thành các u hạt.

Hình 2.8: Các chức năng của đại thực bào hoạt hoá
Ngoài chức năng giết các vi sinh vật đã được nuốt vào, các đại thực bào còn
thực hiện một số chức năng khác có vai trò quan trọng trong đề kháng chống
nhiễm trùng (hình 2.8).
Các đại thực bào sản xuất các cytokine là các chất trung gian quan trọng
trong đề kháng của cơ thể (sẽ được đề cập trong phần sau). Các đại thực bào chế

tiết các yếu tố tăng trưởng (growth factor) và các enzyme tham gia vào tái tạo tổn
thương mô và thay thế chúng bằng mô liên kết.
Các đại thực bào còn kích thích các tế bào lympho T và đáp ứng lại các sản
phẩm của các tế bào T. Các phản ứng này có vai trò quan trọng trong đáp ứng
miễn dịch qua trung gian tế bào sẽ được đề cập trong chương 6.

