
CÁC TÍNH CHẤT CỦA NGÔN NGỮ BÁO CHÍ
Hiện nay, ngôn ngữ báo chí đang có xu thế được xem là một phong cách
chức năng trong ngôn ngữ. Trên cơ sở nhận thức rằng " phong cách là những
khuôn mẫu trong hoạt động lời nói, được hình thành từ những thói quen sử
dụng ngôn ngữ có tính chất truyền thống và chuẩn mực trong việc xây dựng
các lớp văn bản tiêu biểu "
1
, người ta đã tìm ra những luận cứ, với các mức
độ thuyết phục khác nhau, để khẳng định là ngôn ngữ báo chí có những nét
đặc thù, cho phép nó có vị thế ngang hàng với các phong cách chức năng
khác trong ngôn ngữ như phong cách khoa học, phong cách hành chính -
công vụ, phong cách sinh hoạt hàng ngày, phong cách chính luận.
Vậy đâu là các nét đặc thù của phong cách báo chí? Các nhà nghiên cứu
đã có ý kiến không thống nhất khi trả lời câu hỏi này.
Đinh Trọng Lạc, sau khi nêu rõ các đặc trưng của phong cách báo chí (
như tính chiến đấu, tính thời sự, tính hấp dẫn ), đã chỉ ra các đặc điểm của
ngôn ngữ báo chí thuộc các phương diện như từ vựng, cú pháp, kết cấu
2
.
Theo chúng tôi, đây phần lớn mới chỉ là các đặc điểm của một vài thể loại
báo chí cụ thể, vì thế chúng chưa đủ tầm khái quát để có thể khắc hoạ diện
mạo của cả một phong cách ngôn ngữ trong sự đối sánh với các phong cách
ngôn ngữ khác.
Còn tác giả Hữu Đạt cho rằng các đặc điểm về ngôn ngữ của phong cách
báo chí bao gồm: 1. Chức năng thông báo, 2. Chức năng hướng dẫn dư
luận, 3.Chức năng tập hợp và tổ chức quần chúng, 4. Tính chiến đấu mạnh
mẽ, 5. Tính thẩm mỹ và giáo dục, 6. Tính hấp dẫn và thuyết phục, 7. Tính
ngắn gọn và biểu cảm, 8. đặc điểm về cách dùng từ ngữ ( gồm cách dùng từ
ngữ và cách dùng các khuôn biểu cảm )
3
. Dễ dàng nhận thấy là Hữu đạt

không có sự phân định rõ ràng giữa các đặc điểm về chức năng của thông tin
báo chí và các đặc điểm về ngôn ngữ như là phương tiện chuyển tải thông
tin ấy. Chính vì thế, 8 đặc điểm mà ông đưa ra không đồng loại, chỉ có các
đặc điểm thứ sáu và thứ bảy là có vẻ xác đáng hơn cả.
Tuy nhiên, các quan niệm nêu trên của Đinh Trọng Lạc cũng như Hữu
Đạt
4
cho thấy, khi khảo sát các đặc điểm của ngôn ngữ báo chí, họ đều xuất
phát từ góc độ chức năng của nó. Đây là hướng đi hợp lý, vì chính chức
năng chứ không phải bất cứ yếu tố nào khác, quy định các phương thức biểu
đạt có tính đặc thù của từng loại hình sáng tạo.
Như chúng ta đều biết, chức năng cơ bản, có vai trò quan trọng hàng đầu
của báo chí là thông tin. Báo chí phản ánh hiện thực thông qua việc đề cập
các sự kiện. Không có sự kiện thì không thể có tin tức báo chí. Do vậy, theo
chúng tôi, nét đặc trưng bao trùm của ngôn ngữ báo chí là có tính sự kiện.
Chính tính sự kiện đã tạo nên cho ngôn ngữ báo chí một loạt các tính chất
cụ thể như:
1. Tính chính xác
Ngôn ngữ của bất kỳ phong cách nào cũng phải bảo đảm tính chính xác.
Nhưng với ngôn ngữ báo chí, tính chất này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Vì báo chí có chức năng định hướng dư luận xã hội. Chỉ cần một sơ suất dù
nhỏ nhất về ngôn từ cũng có thể làm cho độc giả khó hiểu hoặc hiểu sai
thông tin, nghĩa là có thể gây ra những gây hậu quả xã hội nghiêm trọng
không lường trước được. Chẳng hạn, sau chuyến tháp tùng một quan chức
cao cấp sang thăm trung quốc, một nhà báo đã viết một bài phóng sự, trong
đó có câu: " Chúng tôi đã chia tay với tình hữu nghị dạt dào của hai nước
Việt - Trung ". Rõ ràng, từ " với " ở đây là không thể chấp nhận được (vì
cụm từ " chia tay với..." biểu đạt ý nghĩa " từ bỏ, từ giã "), cần phải thay nó
bằng từ "trong" .

Muốn sử dụng ngôn ngữ một cách chính xác, nhà báo phải tuân thủ ít nhất
2 yêu cầu. Thứ nhất, nhà báo phải giỏi tiếng mẹ đẻ, nói cụ thể là: nắm vững
ngữ pháp; có vốn từ vựng rộng, chắc, và không ngừng được trau dồi; thành
thạo về ngữ âm; hiểu biết về phong cách. Thứ hai, phải bám sát các sự kiện
có thực và nguyên dạng để phản ánh, không tưởng tượng, thêm bớt. Hai yêu
cầu này có quan hệ qua lại hết sức mật thiết. Giỏi ngôn ngữ mà xa rời hiện
thực thì ngôn ngữ có thể " kêu " những rỗng tuếch, thiếu hơi thở ấm nóng
của cuộc sống vốn là thứ có sức chinh phục mạnh mẽ đối với độc giả.
Ngược lại, biết rõ hiện thực nhưng kém về ngôn từ thì cũng không thể
chuyển tải thông tin một cách hiệu quả như mong muốn, thậm chí đôi khi
còn mắc lỗi tới mức gây hại cho người khác hoặc xã hội.
Sử dụng ngôn từ trong tác phẩm một cách chính xác, nhà báo không chỉ
đạt hiệu quả giao tiếp cao, mà còn góp phần không nhỏ vào việc giữ gìn sự
trong sáng của tiếng Việt. Vì số lượng người tiếp nhận các sản phẩm của báo
chi đông tới mức không xác định được và họ ( nhất là trẻ em ) lại luôn xem
các cơ quan báo chí là " ngọn đèn chỉ dẫn " trong việc dùng ngôn từ, cho nên
ngôn ngữ báo chí càng hoàn thiện thì tiếng Việt càng có điều kiện phát triển.
2. Tính cụ thể
Tính cụ thể của ngôn ngữ báo chí trước hết thể hiện ở chỗ cái mảng hiện
thực được nhà báo miêu tả, tường thuật phải cụ thể, phải cặn kẽ tới từng chi
tiết nhỏ. Có như vậy, người đọc, người nghe mới có cảm giác mình là người
trong cuộc, đang trực tiếp được chứng kiến những gì nhà báo nói tới trong
tác phẩm của mình. Đoạn trích sau đây trong phóng sự " Hai giờ dưới lòng
đất " của nhà báo Huỳnh Dũng Nhân là một minh chứng:
"...Tôi cố nén sự tự ái, ưỡn ngực tiến tới. Xì, lò thế này mà ngán gì. Đi
như hầm địa đạo Củ Chi là cùng. Nhưng... sâu dần, đen dần. Rồi tất cả biến
mất. Tôi lọ mọ đi. Hai tay sờ soạng tứ tung. Cốp! Lùn tịt như tôi mà cũng

còn va đàu vào đá. Tôi nghĩ bụng và bắt đầu đi lom khom. Mẹ ơi, chỉ còn
mình tôi thôi sao? Tống, Lực đâu rồi. Đã hết lom khom được. Phải nằm
xuống, bò. Có tiếng nước róc rách. Đường lò ướt nhẹp. Tôi vớ phải một sợi
dây cáp ở đầu một cái dốc. " Bám vào - ngửa người ra, tụt xuống! ". Một
mênh lệnh vang lên. A! Tống, Lực đây rồi. Thì ra hai anh vẫn đi sát tôi, như
có vẻ cố tình thử thách nhau một tý " cho nhà báo có thêm thực tế ". Thấy tôi
thở phì phò, thợ lò bảo: " Đây là lò ngắn nhất và dễ nhất mỏ Mông Dương
đấy! Dễ nhất! Tôi suýt la lên. Cả tiếng đồng hồ mới lấy được vài xe goòng
than đá. Dễ nhất mà thợ lò phải bò như những con rắn mối trong hang".
Một bức tranh chân thực và sinh động đã được tạo dựng nhờ sự miêu tả
một loạt các hành động, các cảm giác cụ thể của tác giả. Khi đọc đoạn văn
trên, độc giả thấy mình như cũng đang trải qua một cuộc hành trình đầy gian
nan, vất vả dưới lòng đất. Và đây chính là khởi nguồn của niềm cảm thông
sâu sắc với nỗi cực nhọc trong côngviệc của những người thợ lò.
Bên cạnh đó, tính cụ thể của ngôn ngữ báo chí còn nằm ở việc tạo ra sự
xác định cho đối tượng được phản ánh. Như thực tế cho thấy, mỗi sự kiện
được đề cập trong tác phẩm báo chí đều phải gắn liền với một không gian,
thời gian xác định; với những con người cũng xác định ( có tên tuổi, nghề
nghiệp, chức vụ, giới tính... cụ thể ). Đây là cội nguồn của sự thuyết phục, vì
nhờ những yếu tố đó người đọc có thể kiểm chứng thông tin một cách dễ
dàng. Do đó, trong ngôn ngữ báo chí nên hạn chế tối đa việc dùng các từ
ngữ, cấu trúc không xác định hay có ý nghĩa mơ hồ kiểu như " một người
nào đó ", " ở một nơi nào đó ", " vào khoảng ", " hình như ", v. v...
3. Tính đại chúng
Báo chí là phương tiện thông tin đại chúng. Tất cả mọi người trong xã hội,
không phụ thuộc vào nghề nghiệp, trình độ nhận thức, địa vị xã hội, lứa tuổi,
giới tính..., đều là đối tượng phục vụ của báo chí: đây vừa là nơi họ tiếp

nhận thông tin, vừa là nơi họ có thể bày tỏ ý kiến của mình. Chính vì thế,
ngôn ngữ báo chí phải là thứ ngôn ngữ dành cho tất cả và của tất cả, tức là
có tính phổ cập rộng rãi. Tuy nhiên, phổ cập rộng rãi không có nghĩa là dễ
dãi, thấp kém. Vì, nói như nhà nghiên cứu ngôn ngữ báo chí nổi tiếng người
Nga V. G. Kostomarov: " Ngôn ngữ báo chí phải thích ứng với mọi tầng lớp
công chúng sao cho một nhà bác học với kiến thức uyên thâm nhất cũng
không cảm thấy chán và một em bé có trình độ còn non nớt cũng không thấy
khó hiểu "
5
.
Với ngôn ngữ không có tính đại chúng, tức là chỉ dành cho một đối tượng
hạn hẹp nào đó, báo chí khó có thể thực hiện được chức năng tác động vào
mọi tầng lớp quần chúng và định hướng dư luận xã hội. Và đây chính là lý
do khiến cho trong tác phẩm báo chí người ta ít dùng các thuật ngữ chuyên
ngành hẹp, các từ ngữ địa phương, tiếng lóng cũng như các từ ngữ vay
mượn từ tiếng nước ngoài.
4. Tính ngắn gọn
Ngôn ngữ báo chí cần ngắn gọn, súc tích. Sự dài dòng có thể làm loãng
thông tin, ảnh hưởng đến hiệu quả tiếp nhận của người đọc, người nghe.
Thêm vào đó, nó còn làm tốn thời gian vô ích cho cả hai bên: cho người viết,
vì anh ta sẽ không đáp ứng được yêu cầu truyền tin nhanh chóng, kịp thời;
cho người đọc ( người nghe ), vì trong thời đại bùng nổ thông tin, người ta
luôn cố gắng thu được càng nhiều thông tin trong một đơn vị thời gian càng
tốt. Đấy là còn chưa kể đến việc viết dài dễ mắc nhiều dạng lỗi khác nhau,
nhất là các lỗi về sử dụng ngôn từ ( thực tế khảo sát của chúng tôi cho thấy
một tỉ lệ khá lớn các câu sai về ngữ pháp trong các tác phẩm báo chí có liên
quan tới việc nhà báo quá ham mở rộng các thành phần phụ mà quên mất
các thành phần chính của câu ).