Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Ngôn ngữ báo chí Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh
lượt xem 47
download
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Ngôn ngữ báo chí Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh những tiền đề lý luận về phong cách ngôn ngữ báo chí; khảo sát những ngữ liệu cụ thể trên một số báo, tạp chí ở SG TPHCM; danh mục báo chí Việt ngữ ở Sài Gòn – thành phố Hồ Chí Minh.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Ngôn ngữ báo chí Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRẦN THANH NGUYỆN NGÔN NGỮ BÁO CHÍ SÀI GÒN - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN NGÔN NGỮ MÃ SỐ: 62 22 01 01 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. Trịnh Sâm 2. PGS.TS. Hoàng Dũng Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2011
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRẦN THANH NGUYỆN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ LUẬN ÁN (Đề tài: Ngôn ngữ báo chí Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh) Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2011
- DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BCCL : báo chí chính luận CA TPHCM : báo Công an Thành phố Hồ Chí Minh CN : chức năng ĐP : Đông phương báo GĐB : Gia Định Báo LTTV : báo Lục tỉnh tân văn NCMĐ : báo Nông cổ mín đàm NLĐ : báo Người Lao động NKĐP : báo Nam Kỳ địa phận NKTB : Nam Kỳ tuần báo NNBC : ngôn ngữ báo chí PC : phong cách PCCN : phong cách chức năng PCH : phong cách học PCNN : phong cách ngôn ngữ PCNNBC : phong cách ngôn ngữ báo chí PCNNKH : phong cách ngôn ngữ khoa học PCNNSH : phong cách ngôn ngữ sinh hoạt PCNNCL : phong cách ngôn ngữ chính luận PCNNHC : phong cách ngôn ngữ hành chính PCNNNT : phong cách ngôn ngữ nghệ thuật PCNNQC : phong cách ngôn ngữ quảng cáo PL TPHCM : báo Pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh PN TPHCM : báo Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh PNTV : báo Phụ nữ tân văn PYB : Phan Yên Báo SG : Sài Gòn SGGP : báo Sài Gòn giải phóng SG – TPHCM : Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh TPHCM : Thành phố Hồ Chí Minh TĐ : tiêu đề TL : báo Thời luận TM : báo Tin mới TN : báo Thanh niên TT : báo Tuổi trẻ VBBC : văn bản báo chí VN : Việt Nam
- MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Trong vài thập niên gần đây, ngôn ngữ báo chí (NNBC) mới được các nhà nghiên cứu quan tâm đến. Do đó, những thành tựu về lĩnh vực này là chưa nhiều. Trong khi phải thấy rằng, ngay từ buổi đầu hình thành (kể từ Gia Định Báo, 1865), báo chí đã có nhiều đóng góp to lớn trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của đất nước. NNBC đã thực hiện tốt chức năng chuyển tải thông tin, đồng thời cũng góp phần không nhỏ trong việc truyền bá chữ quốc ngữ, xây dựng một nền văn học, hình thành và phát triển một hệ thống các phong cách chức năng (PCCN) tiếng Việt v.v. Cho đến nay, qua hơn một thế kỷ, ở nước ta các phương tiện truyền thông đại chúng nói chung và báo chí nói riêng, đang có bước phát triển rất nhanh về số lượng lẫn chất lượng. Báo chí không chỉ là phương tiện thông tin như buổi đầu hình thành mà đến nay đã trở thành phương tiện hữu hiệu trong việc phổ biến quan điểm, đường lối chính trị, xã hội, góp phần nâng cao tri thức và tác động giáo dục đối với đông đảo công chúng. Với mục đích giao tiếp như vậy, hướng đến một đối tượng đa dạng (không đồng nhất về trình độ, về tuổi tác, về giới tính...), báo chí đã sử dụng kênh ngôn ngữ như một hệ đa chức năng không chỉ để đem thông tin đến cho người đọc mà còn nhằm tác động đến mọi đối tượng, trong mọi lĩnh vực. Để đạt được mục đích này, ngôn ngữ trên báo luôn chứa đựng những thông tin mới lạ, hấp dẫn, được tổ chức ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu. Mặt khác, báo chí là một phương thức giao tiếp khá đặc biệt, nhất là báo viết. Ở đó, người tạo ngôn tức tác giả và người thụ ngôn tức độc giả không đồng thời có mặt. Mọi thông tin - hay nói khác là hoạt động giao tiếp - chỉ thể hiện qua các văn bản trên báo. Vì thế, NNBC có những yêu cầu rất nghiêm ngặt, được xem như là một ngôn ngữ chuẩn mực không chỉ để chuyển tải đúng thông tin mà còn có thể định hướng khả năng sử dụng ngôn ngữ cho đông đảo công chúng độc giả. Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng, trên hầu hết các báo hiện nay, ta có thể tìm thấy khá nhiều lỗi dùng từ, lỗi viết câu, những cách diễn đạt có tính chất mơ hồ về nghĩa v.v. Điều này làm ảnh hưởng không ít đến chất lượng thông tin và tất nhiên là ảnh hưởng đến nhận thức, thẩm mỹ và cả khả năng ngôn ngữ của người đọc. Khảo sát thực tế sử dụng ngôn ngữ trên các văn bản báo chí hiện nay là một hướng tiếp cận rất thiết thực để tìm ra những quy luật chung, đồng thời góp phần định hướng cho
- hoạt động giao tiếp báo chí ngày càng đạt hiệu quả cao hơn. Năm 2004, trong luận văn tốt nghiệp thạc sĩ tại Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, chúng tôi đã có dịp đề cập đến vấn đề này. Trên cơ sở khảo sát cứ liệu ngôn ngữ báo Bình Dương, luận văn của chúng tôi đã chỉ ra một số đặc điểm cơ bản của NNBC, đồng thời đã đề xuất những yêu cầu về chuẩn ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp và cách tổ chức văn bản trên các phương tiện báo chí in ấn hiện nay. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ, nhiều vấn đề đặt ra chưa thể trình bày hết được. Hơn nữa, báo chí ở một địa phương như Bình Dương, dù là đã và đang tiếp cận khá nhanh với những tác động của thời đại, nhưng không thể cho một cái nhìn toàn cục đối với vấn đề đề tài đặt ra. Lần này, luận án của chúng tôi chọn ngữ liệu khảo sát là báo chí ở Sài Gòn trước năm 1975 và Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay (Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh) để xem xét trên cả hai phương diện đồng đại và lịch đại. Việc chọn lựa báo chí Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh (SG-TPHCM) làm đối tượng nghiên cứu là rất thuận lợi, có thể tìm thấy nhiều đặc điểm tiêu biểu. Bởi lẽ, SG là chiếc nôi của báo chí cả nước, kể từ Gia Định Báo (GĐB) với số báo đầu tiên ra ngày 14/01/1865, suốt hơn một thế kỷ phát triển đã có đến trên 800 đầu báo, tạp chí; và hiện nay số báo, tạp chí xuất bản định kỳ tại TPHCM chiếm hơn 1/10 của cả nước [x.phụ lục 2]. Đó là những lý do để chúng tôi lựa chọn đề tài “NGÔN NGỮ BÁO CHÍ SÀI GÒN - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH”. 2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ 2.1. Tình hình nghiên cứu ngôn ngữ báo chí nói chung Cho đến nay việc nghiên cứu N NBC nói chung đã đạt được không ít thành tựu từ nhiều góc nhìn khác nhau. 2.1.1. Dưới góc nhìn của báo chí – xã hội học, NNBC đã được đề cập đến trong mối tương quan với bản chất của truyền thông đại chúng và những kỹ thuật tác nghiệp báo chí. Trên thế gi ới, những vấn đề lý luận về truyền thông đại chúng đã được nói đến từ những năm 50 của thế kỷ XX. Trong công trình Khái niệm cơ bản về truyền thông, Frank Dance đã dẫn ra 15 quan điểm về vấn đề này [x.TL138, tr.9-11]. Các quan điểm về cơ bản đều thừa nhận vai trò của ngôn ngữ trong quá trình truyền thông.
- Donald L. Ferguson và Jim Patten trong lần tái bản bộ giáo trình Journalism today (1993), đã đề cập đến những tính chất mới mẻ của thông tin trong thế kỷ XXI [204, tr.61- 65]: - Tính thời sự: Tính thời sự liên quan đến tính mới mẻ của tin, nó làm cho bản tin tường thuật về một trận đá bóng ở tháng mười hợp thời hơn bản tin tường thuật về trận đá bóng ở tháng sáu. - Tính gần gũi: Những sự kiện xảy ra tại nơi ở, trong trường học của bạn thì quan trọng hơn so với những gì xảy ra ở bên kia trái đất. - Tính nổi bật: Tính nổi bật liên quan đến những sự kiện, những cái tên 'đáng lên báo'. - Tính quan trọng : Đề cập đến tầm quan trọng của sự kiện. Đối với một người nào đó, việc anh ta thi trượt môn toán thì quan trọng hơn là bạn thi trượt. - Tính tâm lý: Những tin có tính tâm lý thường gây cho độc giả có thể cười, khóc hoặc xúc động. Một bé gái bị bỏ rơi trong cái lò hoang, một con chó khóc trước nấm mồ của chủ, một cô bé 15 tuổi tốt nghiệp đại học, một chiếc cầu bị gãy,… đó là những câu chuyện có sức tác động đến tâm lý người đọc. - Tính gay cấn: Tính gay cấn liên quan đến sự căng thẳng, hồi hộp và yếu tố bất ngờ. Những nhận định trên dù mang nhiều dấu ấn chủ quan theo tâm lý của độc giả phương Tây nhưng quả thật là những đúc kết rất sắc sảo. Cũng theo các tác giả này, những tiến bộ của công nghệ truyền thông hiện đại đang đặt nhà báo thế kỷ XXI đứng trước nhiều yêu cầu: thông tin phải có độ chính xác cao, thông tin phải ngắn gọn và khách quan, có độ nén, tạo được sự hấp dẫn, thông tin phải hợp thời và quan trọng [204, tr.2-3]; người viết báo phải thấu hiểu từ ngữ, thông suốt chính tả, ngữ pháp và cách chấm câu [204, tr.115]. Năm 1974, Ký giả chuyên nghiệp [75] của John R. Hohenberg được dịch ra Việt ngữ lần đầu tiên. Tác phẩm đã trình bày nh iều công việc có tính bếp núc như: thể thức căn bản trong nghề báo, ký giả hành văn, những nguyên tắc của nghề phóng viên v.v. Năm 1993, cuốn Bước vào nghề báo [125] ra mắt công chúng, dịch từ quyển An Introduction to Journalism của Leonard Rayteel và Ron Taylor Cuốn sách đã đề cập đến nhiều vấn đề như: cách xử lý nguồn tư liệu, những kỹ thuật biên tập báo chí, cách viết một bài báo theo từng kiểu bài v.v.
- Liên tiếp trong hai năm 2003, 2004, Nhà xuất bản Thông tấn (Hà Nội) đã phát hành bộ sách nghiệp vụ báo chí của nhiều tác giả nước ngoài, gồm 27 cuốn như: Truyền thông đại chúng - Những kiến thức cơ bản; Báo chí trong kinh tế thị trường; Hướng dẫn cách biên tập v.v. Tại đây, cần thiết điểm qua một vài quan điểm như sau: Philippe Gaillard trong Nghề làm báo [43], sau khi nêu lên sự tác động của các yếu tố kinh tế, xã hội và chính trị hiện nay đối với báo chí, đã trình bày vai trò của phóng viên và tòa soạn trong việc đưa tin. Theo ông, người làm báo phải biết chọn lựa sự kiện theo các tiêu chuẩn [43, tr.41-50]: - Thời sự nóng hổi: Tin tức là cái gì đó mới và công chúng không nhầm lẫn. Công chúng luôn chờ đợi lời giải đáp cho một câu hỏi “có gì mới không đây?”. - Ý nghĩa: Tiêu chuẩn ý nghĩa áp dụng cho sự kiện và cho phạm vi tác động của nó trong thời gian và trong không gian. Nước ngập tầng hầm chỉ có ý nghĩa thực sự đối với những người ở trong ngôi nhà. - Sự quan tâm: Ý nghĩa và tính thời sự của tin được công chúng quan tâm ở mức độ nào? Trong cuốn Nghệ thuật thông tin [126], Line Ross đã dành ba chương đầu bàn về những quy tắc riêng cho báo viết và bốn chương còn lại bàn về cách viết báo, đặc biệt là ở thể loại tin. Theo tác giả này, “cung cấp một thông tin tốt trong một ngôn ngữ tốt” đó là cách hành văn tốt nhất [126, tr.10-11]. Một số vấn đề về cách sử dụng ngôn ngữ, cách tổ chức các dạng bài cũng được đề cập đến trong các công trình của R. Ferguson [203], Jean - Luc Martin - Lagardette [78], A.A. Chertưchơnưi [21] v.v. Năm 2007, Nhà xuất bản Trẻ TPHCM phát hành cuốn Nhà báo hiện đại [107] được dịch từ giáo trình News Reporting and Writing của Khoa Báo chí Trường Đại học Missouri (USA). Phần đầu tác phẩm trình bày bản chất của tin tức ở thế kỷ XXI. Theo đó, để đáp ứng được nhu cầu của lớp độc giả mới, tin phải có những tính chất như: tính tương tác, tính đa dạng, tính liên quan, hình thức bắt mắt, thông tin dày đặt nhiều tầng, nhiều lớp v.v. Trên cơ sở này, toàn bộ phần còn lại trình bày cách viết tin ở từng kiểu bài cụ thể. Cuốn sách là sự tích hợp những chỉ dẫn cần thiết cho hoạt động báo chí in ấn, phát thanh, truyền hình, báo trực tuyến và cả lĩnh vực quan hệ công chúng. Ở Việt Nam (VN), những nghiên cứu sớm nhất về báo chí phải kể đến một số bài viết đăng trên các báo, tạp chí từ nửa đầu thế kỷ XX. Theo một số nhà nghiên cứu, người khơi
- nguồn cho việc tìm hiểu báo chí VN là học giả Đào Trinh Nhất với bài viết “Thử tìm hiểu long mạch của tờ báo ta” đăng trên báo Trung Bắc Chủ nhật năm 1942 [178, tr.8]. Thật ra, ngay từ Việt Nam văn học sử yếu (1941), Dương Quảng Hàm sau k hi phân chia các thời kỳ lịch sử báo chí, đã nêu lên tác dụng của báo chí bấy giờ: thông tin tin tức ở trong xứ và ban bố các mệnh lệnh của chính phủ, giúp cho việc thành lập quốc văn, sáp nhập vào tiếng ta nhiều danh từ mới về triết học và khoa học, giúp cho sự thống nhất tiếng nói ba kỳ [55, tr.428]. Nhưng trước đó, phải kể đến những ý kiến của Phan Khôi trên các tờ báo bấy giờ . Chẳng hạn: (1) Tự vị chữ ta đã có lâu rồi, bây giờ chúng ta cần nhứt phải viết đúng theo tự vị. Thế mà quý báo coi ý không chăm về chỗ đó, cho nên quảng cáo thì viết ra "quản cáo”, phô bày thì viết ra "phô bài”, song quý chủ nhiệm đã có nói rằng: Tôi vẫn biết ai ai cũng viết khó khăn mà tôi muốn viết (1) "khó khăng”; đã tự ý muốn chi thì muốn, thì còn ai nói vào làm chi? (Đông Pháp Thời Báo – 27/10/1928) (2) Có nhiều khi vì cái đầu đề không ổn đáng mà làm cho cả bài văn thành ra hư hỏng, dầu bài văn ấy là hay cũng mặc. (Trung Lập - 7/8/1930) Năm 1954, ông đã tập hợp một số bài đã viết của mình về những vấn đề này trong công trình Việt ngữ nghiên cứu [87]. Tiếp đó là các bài nghiên cứu của nhiều tác giả khác đăng trên một số báo, tạp chí đương thời như: Tiếng Việt ngày nay của Nguyễn Hiến Lê (Bách ____________ (1) Những ví dụ dẫn trong luận án có nhiều lỗi sai sót về cách chấm câu, viết hoa, chính tả, dùng từ, diễn đạt,… nhưng chúng tôi xin được phép trích nguyên như trên báo để đảm bảo tính khách quan của tư liệu. khoa 1957), Báo chí hôm qua của Nguyễn Ngu Í (Bách khoa 1966), Những khám phá mới về Gia Định Báo của Phạm Long Điền (Bách khoa 1974) v.v. Năm 1972, lớp hàm thụ báo chí Thời nay (SG) ấn hành bộ giáo trình nghiệp vụ báo chí của nhiều tác giả. Các tài liệu dù sơ lược (mỗi tài liệu dày khoảng 20 trang in r oneo) nhưng là những chỉ dẫn rất cụ thể trong việc viết tin, làm báo. Lê Trang nói về cách làm đẹp trang báo như sau [170, tr.20]: (3) Tờ báo giống như một người đàn bà. Mỗi ngày người đàn bà cố trang sức cho đẹp để làm vui lòng người đàn ông. Nàng phải là người có tính tình thuần hậu, không thay trắng đổi đen, lời nói của nàng có thể tin cậy được, nhưng nàng phải là một người bạn đường linh hoạt, để người đàn ông không buồn chán. Nàng phải biết hết mọi chuyện, từ nhỏ đến lớn nhưng không phải nhiều chuyện. Người đàn bà dùng phấn son để tô điểm cho vẻ đẹp của mình, che giấu những tì vết xấu xa. Nhưng nàng phải biết cách làm đẹp để người ta thích nhìn chứ không thì càng lố bịch. Nàng ăn mặc sao cho tươi mát, ưa nhìn. Lòe loẹt quá làm cho người ta nghi ngờ đức tính của mình, thiếu sự kính trọng. Nhưng một người con gái phục sức luộm thuộm quá thì không được người đàn ông nhìn đến lần thứ hai - và khó kiếm nổi một tấm chồng.
- Năm 1977, Trường Tuyên huấn Trung ương xuất bản bộ Giáo trình nghiệp vụ báo chí [180]. Ngoài những phần mang tính lý luận chung, cuốn sách còn h ướng dẫn kỹ thuật viết bài ở một số thể loại. Tiếp sau đó, nhiều công trình nghiên cứu về báo chí của các nhà báo, các nhà nghiên cứu, giảng dạy đã được xuất bản: Nguyễn Trọng Báu [13], Huỳnh Văn Tòng [185], Hà Minh Đức [40] [41], Đức Dũng [ 32] [33], Hoàng Minh Phương [120], Trần Hữu Quang [1 22] [123], Vũ Quang Hào [57], Nguyễn Tri Niên [115], Dương Xuân Sơn [137] [138] v.v. Nguyễn Trọng Báu (2001) với tác phẩm Biên tập ngôn ngữ sách và báo chí [13] đã xem xét khá thấu đáo về chuẩn tiếng Việt ở các cấp đ ộ ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp. Trên cơ sở đó, tác giả này đã đưa ra những nguyên tắc biên tập ở từng cấp độ ngôn ngữ và trong toàn bộ bản thảo. Vũ Quang Hào (2001) trong tác phẩm Ngôn ngữ báo chí [57] đã đưa ra những đặc điểm chung về ngôn ngữ chuẩn mực của báo chí, đặc điểm của phong cách ngôn ngữ chính luận (PCNNCL), phong cách ngôn ngữ khoa học (PCNNKH), phong cách ngôn ngữ hành chính (PCNNHC), ba kiểu phong cách mà tác giả cho là báo chí thường sử dụng. Phần còn lại cuốn sách trình bày về tên riêng, tít báo, thuật ngữ khoa học,... Có thể nói đây là cuốn giáo trình nghiệp vụ báo chí đầu tiên đề cập đến nhiều vấn đề của NNBC. Năm 2003, trong cuốn Ngôn ngữ báo chí [115], Nguyễn Tri Niên đã chỉ ra ba đặc điểm loại hình của NNBC và xem xét NNBC trong nhiều mối quan hệ: quan hệ phản ánh, quan hệ đối xứng, quan hệ liên tưởng. Những quan hệ này được cụ thể hóa trong một số mô hình thông tin. Cũng phải kể đến tạp chí Nghề báo là tạp chí chuyên ngành của Hội Nhà báo TPHCM với những trang chuyên đề nghiệp vụ thường kỳ đã nêu lên nhiều vấn đề rất thấu đáo về cách thức sử dụng ngôn ngữ trên báo. Như vậy, dưới góc nhìn này, trong khi đề cập đến tính chất của thông tin báo chí, các tác giả đã khẳng định vai trò của NNBC và đề xuất những kỹ thuật tác nghiệp đối với nhà báo như: việc lựa chọn sự kiện để đưa tin, cách viết các kiểu bài, lối hành văn, sự chuẩn mực trong NNBC,… 2.1.2. Dưới góc nhìn của các nhà ngữ học, việc nghiên cứu NNBC, trước hết, gắn liền với những thành tựu của phong cách học. Khởi đầu là công trình Giáo trình Việt ngữ - Tập 3 - Tu từ học [88] của Đinh Trọng Lạc. Tác phẩm đã đưa ra một số vấn đề nền tảng lý thuyết cho bộ môn Phong cách học
- (PCH): các khái niệm PC và PC chức năng; giá trị biểu đạt của các phương tiện tu từ ở cấp độ ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp,... Năm 1982, Phong cách học tiếng Việt [165] được ấn hành. Cuốn sách đã đề cập đến hai chức năng cơ bản của PC báo chí – tin tức, miêu tả những đặc điểm của ngôn ngữ báo chí – tin tức và phân chia các thể loại văn bản báo chí. Năm 1993, cuốn Phong cách học tiếng Việt [90] do Đinh Trọng Lạc chủ biên ra đời. Cuốn sách xác định rõ một số khái niệm của PCH, đề xuất cách phân loại một bậc ra năm phong cách chức năng (PCCN) và miêu tả cụ thể tính chất, chức năng, các kiểu thể loại văn bản và đặc điểm ngôn ngữ của từng dạng PC. Cuốn sách cũng đặt ra một số vấn đề về nghiên cứu và giảng dạy PCH trong nhà trường. Năm 2000, tác giả Hữu Đạt, trong cuốn Phong cách học và các phong cách chức năng tiếng Việt [35], sau khi miêu tả đặc điểm của các PCCN tiếng Việt, cũng đã đặt ra vấn đề chuẩn hóa chính tả ở phương diện sử dụng từ ngữ tiếng nước ngoài trên các văn bản báo chí hiện nay. Gần đây, chuẩn hóa tiếng Việt trên các phương tiện thông tin đại chúng là vấn đề cũng đã được các nhà Việt ngữ học đề cập khá nhiều trong các cuộc hội thảo, trao đổi khoa học, trong các bài viết trên các báo, tạp chí. Tiêu biểu là các hội nghị do Viện Ngôn ngữ và Trung tâm biên soạn sách cải cách giáo dục tổ chức trong các năm 1978 và 1979, cuộc hội thảo Các vấn đề chuẩn ngôn ngữ sách và báo chí tiếng Việt do Phân viện Báo chí Tuyên truyền và Hội Ngôn ngữ học VN tổ chức ngày 12/9/1997 tại Hà Nội, cuộc thảo luận về Phiên chuyển từ ngữ nước ngoài sang tiếng Việt trên tạp chí Ngôn ngữ từ số 2 năm 2000. Kết quả là đã có rất nhiều tham luận, bài viết trình bày những nghiên cứu cụ thể về NNBC và việc chuẩn hóa ngôn ngữ trên các phương tiện thông tin đại chúng hiện nay. Đáng chú ý là quan điểm xem xét NNBC theo hướng “động”, “hai chiều”. Theo đó, những biến đổi của ngôn ngữ trên báo hiện nay không chỉ vì thực hiện chức năng đa dạng của nó đối với xã hội mà còn vì chịu sự tác động nhiều mặt của thời đại đối với chính nó. Từ đó, việc nghiên cứu NNBC đòi hỏi một cách tiếp cận từ báo chí đến ngôn ngữ, xem xét việc sử dụng ngôn ngữ trên báo trong mối liên hệ với những nhu cầu khách quan của báo chí. Hoàng Tuệ, trong bài viết Người giáo viên trước các vấn đề chuẩn hóa tiếng Việt [168, tr.805], khi bàn về hoạt động ngôn ngữ cũng đã xác định báo chí hiện nay thuộc phạm vi thông tin đại chúng và theo hướng phát triển tương lai, nó sẽ thuộc phạm vi giao tiếp khoa học - kỹ thuật.
- Trịnh Sâm, trong bài viết Đặc trưng ngôn ngữ của phong cách báo chí trong thời đại thông tin [133, tr.195-209] đã đặt ra hướng tiếp cận trên bình diện ngoại tại của ngôn ngữ. Theo tác giả này, mối tương quan giữa thời đại và ngôn ngữ trong thời đại thông tin, kinh tế, xã hội như hiện nay được thể hiện tiêu biểu trong NNBC. Và để đánh giá đúng những tác động cả tiêu cực lẫn tích cực của thời đại đối với ngôn ngữ thì cần chú ý đến “những đặc trưng về mặt cấu trúc và ngữ dụng của tiếng Việt” hiện nay. Năm 2007, cuốn Ngôn ngữ báo chí – Những vấn đề cơ bản [31] ra mắt bạn đọc. Cuốn sách được viết trên cơ sở những bài giảng từ nhiều năm của tác giả về một số vấn đề cơ bản của NNBC như: đặc điểm của NNBC, cấu trúc của một bài tin, một số kỹ thuật liên quan đến cách viết đúng tiếng Việt, cách viết mạch lạc, có hiệu quả để truyền tải được thông tin. Như vậy, ở góc độ này, NNBC đã được xem xét trên các phương diện: - Khảo sát các hiện tượng ngôn ngữ trên các báo xưa và nay, - Đề ra những yêu cầu viết hay, viết đúng đối với ngôn ngữ trên báo, - Xây dựng một số vấn đề lý luận chung về PCNNBC như: xác lập và miêu tả các đặc điểm của PCNNBC, miêu tả đặc điểm các phương tiện diễn đạt, phân chia cá c thể loại văn bản báo chí (VBBC),... Đây có thể xem là cơ sở soi rọi cho việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn sử dụng ngôn ngữ trên các báo, tạp chí hiện nay. 2.2. Tình hình nghiên cứu ngôn ngữ báo chí SG-TPHCM Trong xu thế chung, việc nghiên cứu NNBC SG-TPHCM cũng đang thu hút được sự quan tâm của nhiều học giả. Sài Gòn là chiếc nôi của báo chí VN với tờ GĐB ấn hành số đầu tiên ngày 15/4/1865. GĐB mỗi số có 4 trang là tờ báo nhà cầm quyền Pháp chủ trương, do Ernset Potteaux làm Chánh Tổng Tài. Lúc đầu, GĐB thuần là Công vụ gồm: dụ, nghị định, chỉ thị, thông tư, biên bản Hội Đồng Quản Hạt. Từ năm 1869, Trương Vĩnh Ký được cử làm Chánh Tổng Tài, tờ báo có thêm phần Tạp vụ gồm: lời rao, tin tức, trả lời cho các đương đơn, án Hội Đồng xét lại. Về sau phần Tạp vụ phát triển với nhiều chuyên mục vừa mang lại những thông tin, kiến thức về khoa học tự nhiên và kỹ thuật, vừa đáp ứng nhu cầu thông tin, giải trí, thẩm mỹ cho độc giả đương thời.
- Tiếp đó, những tờ báo sớm nhất cũng được ấn hành ở SG: Phan Yên Báo (1868), Nhật Trình Nam Kỳ (1888), Thông Loại Khóa Trình (1898), Nông Cổ Mín Đàm (1901), Lục Tỉnh Tân Văn (1907), Nam Kỳ Địa Phận (1908) v.v. Nghiên cứu về NNBC SG - TPHCM phải kể đến công trình đầu tiên là Những bước đầu của báo chí, truyện ngắn, tiểu thuyết và thơ mới [161] của Bùi Đức Tịnh xuất bản lần đầu vào tháng 2 năm 1975. Cuốn sách giới thiệu một số tờ báo như GĐB, Nông Cổ Mín Đàm (NCMĐ), Phan Yên Báo (PYB), Lục Tỉnh Tân Văn (LTTV). Nhận xét sơ lược của tác giả về cách diễn đạt trong một số bài báo phần nào cho ta thấy đặc điểm hành văn của báo chí buổi đầu. Nguyễn Quang Thắng trong Tiến trình văn nghệ miền Nam [142] đã xem xét vai trò của một số tờ báo thời kỳ đầu. Theo ông, các tờ GĐB, PYB, NCMĐ, LTTV đã làm khởi sắc cho đời sống chính trị, văn hóa ở Nam Kỳ: cổ động tân học, truyền bá quốc ngữ, là diễn đàn cho các nhà trí thức bấy giờ. Sài Côn cố sự [44] là tác phẩm đề cập đến một số sự kiện và nhân vật trên báo chí SG thời kỳ 1930-1975. Phân tích của tác giả Bằng Giang về đề tài, thể loại, cách viết trên một số bài báo cho ta thấy vai trò của báo chí trong việc "hướng dẫn dư luận" và "tạo thuận lợi cho sự thống nhất ngôn ngữ". Năm 2001, cuốn Mấy vấn đề về tiếng Việt hiện đại [177] được ấn hành. Đây là công trình nghiên cứu của một nhóm cán bộ giảng dạy Trường Đại học Khoa học & Xã hội Nhân văn TPHCM về các vấn đề: chính sách ngôn ngữ, chuẩn hóa ngôn ngữ, vay mượn ngôn ngữ, xu hướng phát triển của từ vựng, cú pháp tiếng Việt v.v. Nhiều nhận xét rất xác đáng như: Báo chí đã tạo điều kiện thuậ n lợi trong việc thống nhất phương ngữ Nam Bộ và tiếng SG, việc sử dụng danh ngữ phức hợp trong NNBC hiện nay là một trong những nét mới của cú pháp tiếng Việt v.v. Tháng 12 năm 2002, tại cuộc hội thảo Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh do Trung tâm Khoa học và Xã hội Nhân văn TPHCM chủ trì tổ chức. Một số tham luận lấy đối tượng nghiên cứu là báo chí ở SG-TPHCM. Nguyễn Đức Dân trên cơ sở phân tích cách viết trong một số bài ở GĐB, so sánh với cách viết ở báo chí Bắc Kỳ đã đưa ra những nhận xét bước đầu về đặc trưng của NNBC SG - TPHCM. Theo ông, điều làm nên những đặc trưng của NNBC SG-TPHCM trước hết là cách viết, "viết câu ngắn và bài ngắn", và sau nữa là cách tổ chức bài vở, "nhiều bài tin hơn, ít
- những bài "thuyết" dài dòng, nhiều bài mang tính "đối thoại" phản ánh tính cách và khí phách của người Nam Bộ…"[175, tr.145]. Cũng trong thời gian này, cuộc hội thảo Bảo vệ và phát triển tiếng Việt trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước được tổ chức tại Trường Đại học Khoa học và Xã hội Nhân văn TPHCM do Hội Ngôn ngữ học TPHCM chủ trì. Nhiều báo cáo tham luận tại hội nghị đã chỉ ra những cách diễn đạt có tác dụng làm tăng hiệu quả chuyển tải thông tin. Trong hai năm 2006 và 2007, có nhiều công trình đặc b iệt quan tâm đến NNBC SG- TPHCM với sự tham gia của các nhà Việt ngữ học hàng đầu. Đáng chú ý nhất là các công trình sau: - Ngôn ngữ báo chí Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh thời kỳ đầu (1865-1930) [193]. Đây là công trình nghiên cứu khoa học của Viện Khoa học Xã hội Vùng Nam Bộ. Nhiều vấn đề đặt ra được xem xét trên các bình diện đồng đại và lịch đại. Qua đó, ta hình dung được sự tiến triển của NNBC SG-TPHCM qua các thời kỳ, đặc điểm của NNBC SG -TPHCM nói chung cũng như đặc điểm ngôn ngữ trên một số tờ báo tiêu biểu. - Ngôn ngữ báo chí ở thành phố Hồ Chí Minh – Quá khứ, hiện trạng và xu hướng phát triển [136]. Đây là đề tài nghiên cứu khoa học của Sở Khoa học và Công nghệ TPHCM. Từ việc xác định vai trò, đặc điểm của báo chí (tính thời sự và hấp dẫn), tác giả Nguyễn Đức Dân đã chỉ ra những đặc điểm của ngôn ngữ báo chí (tính chính xác, hấp dẫn và ngắn gọn). Trọng tâm là phần trình bày của tác giả về cấu trúc khuôn tin và cách viết một bài tin, tiêu đề và đề dẫn, thông tin chìm trong báo chí, cách diễn đạt hay và đúng phong cách trong một bài báo v.v. - Mấy vấn đề bảo vệ và phát triển tiếng Việt ở Thành phố Hồ Chí Minh trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa [135]. Đây là công trình nghiên cứu của Sở Khoa học và Công nghệ TPHCM năm 2006. Từ những nghiên cứu cụ thể về hiện trạng sử dụng tiếng Việt trên một số văn bản hành chính, báo chí, quảng cáo tại TPHCM, các tác giả đã đưa ra nhiều ý kiến đề xuất cho việc bảo vệ và phát triển tiếng Việt hiện nay. Năm 2006, cuốn Gia Định Báo – Tờ báo Việt ngữ đầu tiên được ấn hành. Theo các tác giả, "Gia Định Báo có thể xem là bức phát thảo sinh động của tiếng Việt, đặc biệt là tiếng Việt ở Nam Kỳ, trong gần 50 năm (1865-1910) trên nhiều bình diện: chính tả, từ vựng, cú pháp, phong cách" [178, tr.176]; "về cơ bản, ngôn ng ữ trong Gia Định Báo gọn gàng, sáng sủa, giản dị và rất gần với tiếng Việt hiện đại" [178, tr.166]; những thành tựu của GĐB, "kể cả những thành tựu về ngôn ngữ”, vẫn còn giá trị cho đến ngày nay.
- Năm 2007, tái bản cuốn Tìm hiểu lịch sử chữ Quốc ngữ [191], tác giả Hoàng Xuân Việt cũng nhắc đến vai trò rất lớn của GĐB và báo chí nói chung trong thời kỳ đầu. Nghiên cứu của tác giả này cho biết văn phong của báo chí lúc này "đơn sơ, mộc mạc như lời nói hàng ngày", "giọng văn rất bình dân và trơn tuột như lời nói". Cũng trong năm 2007, Nhà xuất bản Tổng hợp TPHCM ấn hành cuốn Báo chí ở thành phố Hồ Chí Minh [169]. Cuốn sách là một trăm câu hỏi đáp về báo chí SG-TPHCM. Đôi chỗ đã đề cập đến vai trò của báo chí trong việc truyền bá chữ quốc ngữ, về các thể loại, và cách hành văn trên một số tờ báo. Trong một bài viết gần đây trên tạp chí Ngôn ngữ & Đời sống (số 12-2008), nhìn từ hoạt động báo chí ở TPHCM, tác giả Trịnh Sâm đã đúc kết một số đặc điểm nổi bật (trên các bình diện ngôn ngữ) của báo chí hiện đại trong kỹ thuật làm báo và tổ chức thông tin [134]. Điểm qua các tài liệu trên, ta thấy NNBC SG-TPHCM đã được nghiên cứu ở nhiều phương diện: vai trò đối với việc truyền bá và phát triển tiếng Việt, văn phong báo chí thời kì đầu, khả năng chuyển tải thông tin, một số đặc điểm về chính tả, từ vựng, ngữ pháp,…Những kết luận có được rất xác đáng, các ngữ liệu đã công bố có giá trị tham khảo cao, gợi mở nhiều hướng nghiên cứu tiếp tục. Nhìn chung, cho đến nay các công trình nghiên cứu về ngôn ngữ trên báo chí Việt ngữ là chưa nhiều. Các tài liệu PCH đã có cũng chỉ đặt ra những vấn đề cơ bản, có tính khái quát về đặc điểm của PCNNBC trong hệ thống các PCCN tiếng Việt. Những vấn đề lý luận mang tính nền móng này, trải qua gần nửa thế kỷ, trước sự phát triển vượt bậc của báo chí hiện nay, tất nhiên rất cần có sự kiểm nghiệm và bổ sung từ thực tiễn. Một số bài viết, luận văn, luận án gần đây lấy đề tài từ ngữ liệu thực tế trên báo cũng chỉ đề cập đến những vấn đề riêng lẻ. Trong tình hình chung này, việc nghiên cứu ngôn ngữ trên báo ở SG-THCM cũng vậy, hầu như chưa có một công trình nào cho ta một cái nhìn bao quát về đặc điểm NNBC SG-TPHCM. Những kiến giải trong luận án hy vọng là sẽ bổ sung phần nào những khiếm khuyết này. 3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU VÀ NHIỆM VỤ CỦA LUẬN ÁN 3.1. Đối tượng nghiên cứu NNBC hiện nay được thừa nhận là ngôn ngữ dùng trong các văn bản báo chí dưới những dạng tồn tại trên các phương tiện in ấn (báo viết), phát thanh (báo nói), truyền hình
- (báo hình) và trên internet (báo điện tử). Nhưng đối tượng nghiên cứu của luận án chủ yếu là ngôn ngữ trên báo viết Việt ngữ ở SG trước năm 1975 và ở TPHCM hiện nay. Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi cũng xem xét đến một số cứ liệu ngôn ngữ trên báo chí ở một vài địa phương khác nhằm đối chiếu, so sánh để làm rõ hơn những vấn đề có liên quan. 3.2. Nhiệm vụ của luận án Đề tài của luận án là khá rộng, đặt ra nhiều thách thức đối với người viết. Thật không dễ để có thể đưa ra một cái nhìn vừa bao quát lại vừa cụ thể trên tất cả các bình diện của ngôn ngữ trong lĩnh vực giao tiếp báo chí. Do vậy, nhiệm vụ của luận án chủ yếu nghiên cứu một số đặc điểm làm nên sự khác biệt của phong cách NNBC với các phong cách khác, cụ thể là: - Chỉ ra những đặc điểm về chính tả, về viết tắt và viết hoa tên riêng, về cách phiên chuyển từ ngữ tiếng nước ngoài trên báo chí Việt ngữ qua các thời kì. Ngữ liệu của chúng tôi cho thấy đây là những vấn đề nổi trội, rất đáng xem xét, đặc biệt là đối với ngữ âm và chữ viết tiếng Việt cách đây gần 150 năm. - Khảo sát các lớp từ vựng (từ toàn dân, từ địa phương, từ cổ, từ mới, từ Hán Việt, từ thuần Việt,...) để thấy được sự phong phú, sự phát triển của từ vựng tiếng Việt cùng với tính năng động, sáng tạo của giao tiếp báo chí trong việc chọn lựa từ ngữ để chuyển tải thông tin. - Xem xét cách lựa chọn và tổ chức câu trong văn bản báo chí. Câu trong giao tiếp luôn là những thông tin hai chiều (hướng đến các nhân vật giao tiếp). Tin tức, sự kiện trên báo chí không chỉ mang tính mới mà còn phải là những thông tin hấp dẫp, lôi cuốn và có giá trị định hướng cho người đọc. Do vậy, câu trong giao tiếp báo chí rất đa dạng, có nhiều kiểu câu đặc trưng, nhiều biểu thức dẫn tin độc đáo. - Mô tả cấu trúc của một văn bản báo chí nói chung, đồng thời phân tích biểu hiện cụ thể của nó trong khi hành chức ở một số thể loại. Các đặc điểm được xác lập không phải dựa trên tiêu chí đối lập có (+)/không (-) mà dựa vào độ đậm/không đậm (nhạt). Điều này phản ảnh tình hình thống nhất trong thế đa dạng của tiếng Việt, nhất là ở giai đoạn hiện nay. Nghiên cứu của chúng tôi được tiến hành trên cả hai phương diện đồng đại và lịch đại. Như nhà ngôn ngữ học lừng danh Ferdinand de Saussure đã viết: “Trên thực tiễn, một trạng thái ngôn ngữ không phải là một điểm, mà là một khoảng thời gian khá dài trong đó tổng số
- những sự biến hóa xảy ra là hết sức nhỏ. Đó có thể là mươi năm, một thế hệ, một thế kỷ hay hơn nữa”[129, tr.178]. Mặt khác, sự phát triển của báo chí Việt Nam nói chung và báo chí SG-TPHCM nói riêng đã có bề dầy gần 150 năm. Cho nên, để lý giải được nhiều hiện tượng ngôn ngữ trên báo hiện nay, không thể không xem xét các ngữ liệu ngay từ buổi đầu cũng như qua các thời kì phát triển của báo chí. 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ NGUỒN TƯ LIỆU Đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu như trên đã đặt ra một thách thức rất lớn cho người viết về phương pháp nghiên cứu, cách xử lý nguồn tư liệu, và hướng tiếp thu, kế thừa thành tựu của những nghiên cứu đã có trước đây. 4.1. Phương pháp nghiên cứu Ngoài những thao tác cơ bản như quan sát, sưu tập, lập luận theo các hướng quy nạp, diễn dịch, luận án chủ yếu sử dụng các phương pháp sau: - Phương pháp thống kê, phân loại: Trong luận án, các đối tượng được thống kê, phân loại là những đơn vị từ tắt, các lớp từ ngữ, các kiểu câu, kiểu thể loại văn bản. Các đối tượng thống kê được phân loại theo nhóm, các số liệu được phân tích theo tần suất, tỷ lệ nhằm tìm ra sự nổi trội của một yếu tố và mối liên hệ giữa các đối tượng. - Phương pháp đối chiếu: Các đối tượng khảo sát được chúng tôi so sánh, đối chiếu trên bình diện cấu trúc, hệ thống và trong các phạm vi hành chức của chúng. Khi đối chiếu chúng tôi đặt đối tượng để xem xét hiện trạng của nó trên các tờ báo cùng thời kì, đồng thời cũng so sánh với các thời kì khác; từ đó các kết luận vừa mang tính cụ thể, vừa có thể khái quát. Chẳng hạn, khi xem xét việc sử dụng kiểu câu, độ dài ngắn của câu trên các báo hiện nay, so sánh với cách diễn đạt của câu trên các báo thời kì đầu, ta sẽ có một cái nhìn rõ hơn về về tính chính xác, ngắn gọn của thông tin trên báo. - Phương pháp phân tích ngữ n ghĩa, ngữ pháp, ngữ dụng : đây là phương pháp ặđc trưng rất quan trọng trong việc miêu tả đối tượng trên các bình diện để xác định đặc điểm của ngôn ngữ báo chí, trong việc phân tích các mô hình diễn đạt mang tính khuôn mẫu, trong việc giải thích cấu trúc của các kiểu thể loại văn bản trên báo hiện nay. - Phương pháp mô hình hóa: việc xây dựng, xác lập các mô hình, bảng biểu có thể cho ta cái nhìn khái quát về hàng loạt đối tượng cùng loại. Điều này càng cần thiết đối với nguồn ngữ liệu phong phú, đa dạng. Hơn nữa, trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay (và kể cả
- yêu cầu của tòa soạn), rất nhiều thông tin được lập ngôn theo một công thức quen thuộc. Đặc biệt là, các bài báo hiện nay đang được tổ chức theo đặc trưng khuôn mẫu của từng thể loại. Trong quá trình nghiên cứu, các phương pháp được vận dụng kết hợp; có khi tùy vào từng nội dung nghiên cứu, tùy vào từng đối tượng cụ thể mà sử dụng ưu tiên một phương pháp thích hợp. 4.2. Nguồn tư liệu Tư liệu của luận án sử dụng chủ yếu từ ngữ liệu trên các báo và tạp chí xuất bản ở SG và TPHCM do chúng tôi sưu tầm được . Theo thống kê chưa đầy đủ của chúng tôi, số lượng báo và tạp chí xuất bản ở SG và TPHCM tính đến nay có khoảng 800 tờ [x.phụ lục], cụ thể qua các giai đoạn như sau: + 1865 – 1907 : 7 + 1908 – 1918 : 7 + 1919 – 1929 : 27 + 1930 – 1945 : 174 + 1946 – 1975 : 502 + 1976 – nay : 72 Tuy nhiên, do việc lưu trữ tại các thư viện không đầy đủ, cũng như khả năng sưu tầm có hạn, ngữ liệu chúng tôi sử dụng được chọn lọc từ một số tờ báo tiêu biểu cho từng giai đoạn theo hướng như sau: - Sử dụng ngữ liệu ở tất cả các giai đoạn khi cần xem xét một vấn đề nào đó trên phương diện lịch đại, chẳng hạn để xem xét lịch sử nghiên cứu , đặc điểm của NNBC SG- TPHCM qua các thời kì. - Sử dụng ngữ liệu ở một giai đoạn nào đó khi xem xét một vấn đề trên phương diện đồng đại, chẳng hạn sử dụng ngữ liệu từ năm 1976 đến nay để xem xét những đặc điểm chung của NNBC hiện nay. - Trong mỗi giai đoạn chỉ chọn ra một số tờ báo tiêu biểu để khảo sát ngữ liệu. Các ngữ liệu được đối chiếu chủ yếu trên mốc thời gian trước và sau 1975, đặc biệt là giữa báo chí SG thời kì đầu với báo chí ở TPHCM hiện nay. - Xuất xứ của nguồn ngữ liệu từ các báo được chú thích rõ theo tên báo và ngày tháng năm xuất bản, ví dụ: (Trung Lập - 08/5/1930)
- - Số lượng các tờ báo làm nguồn ngữ liệu chính, danh mục tài liệu tham khảo và một số hình ảnh, bài báo,… được chúng tôi liệt kê chi tiết ở phụ lục. 5. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI Khi chọn đề tài này, luận án hướng đến các trọng tâm sau: Về mặt lý luận, trên cơ sở tham khảo các thành tựu đã có, luận án sẽ đúc kết những ý kiến nghiên cứu về NNBC. Trong quá trình kiến giải từng vấn đề, thông qua những xử lý cụ thể, luận án góp thêm tiếng nói nhằm xác định rõ hơn đặc điểm của PCNNBC, nhất là những vấn đề đang chịu sự chi phối rất lớn của tính chất thời đại như: tác động của tâm lí công nghiệp, tác động của NNBC trong việc chuẩn hóa tiếng Việt hiện nay v.v. Mặt khác, những nhận định của chúng tôi về đặc điểm ngôn ngữ trên báo chí ở một thành phố có bề dày về lịch sử và thành tựu cũng sẽ góp phần chỉ ra những quy luật trong hoạt động giao tiếp báo chí nói chung. Về mặt thực tiễn, trên cơ sở khảo sát diện mạo ngôn ngữ trên báo chí ở SG-TPHCM, luận án sẽ có những đóng góp thiết thực cho việc định hướng sử dụng NNBC, một mặt theo yêu cầu giao tiếp nói chung, mặt khác có chú ý đến cái riêng của tiếng Việt trong giao tiếp có tính chất vùng miền như ở SG-TPHCM. Cụ thể là những đề nghị về cách dùng từ, viết câu, tổ chức văn bản sao cho chuyển tải được nội dung thông tin một cách tốt nhất. Những lỗi diễn đạt được chỉ ra từ các trang báo cũng sẽ có giá trị tham khảo cho tác giả và người biên tập để có thể nâng cao chất lượng của tờ báo. Ngoài ra, những vấn đề lý luận mà luận án đúc kết, những hiện tượng thực tế trên báo được nêu ra , cùng những ngữ liệu phân tích thiết tưởng sẽ có giá trị tham khảo cho việc viết lịch sử báo chí tiếng Việt nói chung, báo chí SG- TPHCM nói riêng, cũng như cung cấp một số lưu ý bổ ích cho những ai quan tâm đến đề tài. 6. BỐ CỤC CỦA LUẬN ÁN Ngoài phần phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, chính văn của luận án có dung lượng 196 trang gồm Mở đầu, Kết luận và ba chương nội dung. Phần Mở đầu (20 trang) trình bày lý do chọn đề tài, đối tượng và phạm vi nghiên cứu, lịch sử nghiên cứu vấn đề, phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu, ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài, bố cục luận án. Chương một (52 trang) trình bày một số vấn đề chung là những tiền đề lý luận về phong cách ngôn ngữ báo chí. Sau khi đúc kết những thành tựu của phong cách học trong
- việc nghiên cứu các phong cách chức năng ngôn ngữ, chúng tôi sẽ điểm qua đặc trưng của phong cách ngôn ngữ báo chí. Cũng ở chương này, thể loại văn bản báo chí được xem xét một cách đáng kể vì tính thời sự và phức tạp của vấn đề. Chương hai (69 trang) và Chương ba (51 trang) là phần khảo sát những ngữ liệu cụ thể trên một số báo, tạp chí ở SG-TPHCM. Chương hai trình bày những đặc điểm của NNBC trên các bình diện ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp. Chương ba trình bày những đặc điểm về cách thức tổ chức văn bản cụ thể ở một số thể loại như tin, bình luận, tiểu phẩm v.v. Phần Kết luận (4 trang) tổng kết nội dung của luận án, nêu lên những kết quả đã thu hoạch được trong quá trình thực hiện đề tài và một vài hạn chế mà vì nhiều lí do chúng tôi chưa giải quyết một cách triệt để. Phụ lục gồm 3 phần: (i) Danh mục báo chí Việt ngữ ở Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh; (ii) Danh mục báo chí Việt ngữ ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay; (iii) Một số tài liệu trên báo chí Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh.
- CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG 1.1. PHONG CÁCH HỌC VÀ VIỆC NHẬN DIỆN PHONG CÁCH NGÔN NGỮ BÁO CHÍ 1.1.1. Vài nét về phong cách học Phong cách học (PCH) là bộ môn đã có từ rất lâu trên thế giới với tên gọi ban đầu là Thuật tu từ (rhetoric). Nhưng chỉ đến đầu thế kỷ XX, với công trình “Khảo luận về phong cách học tiếng Pháp” (1909) của Ch. Bally nó mới thật sự được khẳng định là một ngành học độc lập với nhiệm vụ nghiên cứu các sự kiện biểu đạt của ngôn ngữ ở mặt nội dung biểu cảm của chúng. Với khảo luận này, Ch. Bally là người đã đặt nền móng cho PCH hiện đại. Khoảng mười năm sau Ch. Bally, chịu ảnh hưởng của trường phái duy tâm Đức, L. Spitzer đã đưa ra quan điểm: ngôn ngữ chỉ tồn tại trong lời nói cá nhân, do vậy mà ngôn ngữ là sự sáng tạo của cá nhân. Theo quan điể m này, PCH hướng đến nghiên cứu hai yếu tố: những thói quen sử dụng ngôn ngữ mà cá nhân ưa thích và lời nói cá nhân trong những hoàn cảnh nhất định. Quan điểm của L. Spitzer có ảnh hưởng tích cực đến các nhà PCH phê bình cùng thời. Nó cũng đặt ra một hướng nghiên cứu mới: nghiên cứu mối quan hệ giữa chức năng và cấu trúc ngôn ngữ. Mà sau này, R. Jakobson (1896 - 1982) đã đề xướng lý thuyết về PCH chức năng – cấu trúc, có ảnh hưởng sâu rộng đến giới ngôn ngữ học. Trong cuốn Khảo luận về ngôn ngữ học đại cương (1960), R. Jakobson đã dành trọn chương cuối để bàn về PCH. Về sau, trong bài viết Ngôn ngữ và thi ca (1963), R. Jakobson tiếp tục trình bày rõ các nhân tố của sự kiện biểu đạt, quan hệ giữa các nhân tố và chức năng của chúng. Các nhân tố được chính tác giả biểu diễn trong lược đồ sau: BỐI CẢNH NGƯỜI GỬI ………… THÔNG ĐIỆP ……….. NGƯỜI NHẬN TIẾP XÚC MÃ Một thông điệp muốn đến được với người nhận trước hết phải có bối cảnh (được người nhận lĩnh hội); kế đến, thông điệp phải được kí mã chung cho cả người gửi và người nhận; cuối cùng, thông điệp đòi hỏi phải có một đường kênh và một sự tiếp xúc (tiếp cận tâm
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Ẩn dụ ý niệm cảm xúc trong thành ngữ tiếng Việt (so sánh với thành ngữ tiếng Anh)
322 p | 419 | 84
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Giao thoa nghệ thuật giữa hai khuynh hướng văn xuôi lãng mạn và văn xuôi hiện thực thời kì 1932 - 1945
217 p | 365 | 81
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Đối chiếu cấu trúc – ngữ nghĩa tục ngữ tiếng Hán hiện đại và tiếng Việt
237 p | 189 | 33
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: So sánh truyện cổ tích thần kỳ người Khmer Nam Bộ với truyện cổ tích thần kỳ người Việt (một số type và motif cơ bản)
169 p | 124 | 26
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1975 đến nay từ cách đọc chấn thương
164 p | 79 | 24
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Vị trí của Hồ Biểu Chánh trong văn xuôi quốc ngữ Việt Nam đầu thế kỷ XX (1900 - 1930)
232 p | 135 | 23
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: So sánh phương thích nối trong văn bản tiếng Việt và tiếng Anh
202 p | 115 | 22
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Nghiên cứu thơ đi sứ của Đoàn Nguyễn Thục và Đoàn Nguyễn Tuấn
90 p | 108 | 14
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại nhìn từ góc độ thể loại
176 p | 56 | 13
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Nho lâm ngoại sử của Ngô Kính Tử
172 p | 133 | 12
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Cổ mẫu trong tiểu thuyết John Steinbeck
184 p | 39 | 12
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Cấu tạo và phương thức thể hiện tiếng cười của truyện cười hiện đại Việt Nam
179 p | 69 | 11
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Phản trinh thám trong bộ ba New York của Paul Auster
167 p | 108 | 9
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Nghiên cứu văn bản Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập
282 p | 32 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Cổ mẫu trong tiểu thuyết John Steinbeck
27 p | 23 | 5
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1975 đến nay từ cách đọc chấn thương
27 p | 20 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: So sánh truyện cổ tích thần kỳ người Khmer Nam Bộ với truyện cổ tích thần kỳ người Việt (một số type và motif cơ bản)
55 p | 41 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn