intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Vị trí của Hồ Biểu Chánh trong văn xuôi quốc ngữ Việt Nam đầu thế kỷ XX (1900 - 1930)

Chia sẻ: Lavie Lavie | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:232

136
lượt xem
23
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Vị trí của Hồ Biểu Chánh trong văn xuôi quốc ngữ Việt Nam đầu thế kỷ XX (1900 - 1930) bao gồm những nội dung về văn xuôi quốc ngữ Việt Nam đầu thế kỷ XX và sự xuất hiện của nhà văn Hồ Biểu Chánh; cảm hứng chủ đạo trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh; nghệ thuật tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Vị trí của Hồ Biểu Chánh trong văn xuôi quốc ngữ Việt Nam đầu thế kỷ XX (1900 - 1930)

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH HUỲNH THỊ LÀNH VỊ TRÍ CỦA HỒ BIỂU CHÁNH TRONG VĂN XUÔI QUỐC NGỮ VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XX (1900 - 1930) Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 5 04 33 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN TP. Hồ Chí Minh - 2007
  2. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài. Giới nghiên cứu văn học sử Việt Nam ngày càng có một cái nhìn chính xác hơn về đóng góp của các nhà văn quá cố. Thời gian gần đây, nhiều hội nghị khoa học, nhiều công trình nghiên cứu về báo chí, thơ mới, về chữ quốc ngữ được tổ chức đã phần nào phục hồi lại vị trí của họ trong nền văn học nước nhà. 1.1. Đầu thế kỷ XX, cùng với sự xuất hiện của chữ quốc ngữ, tiểu thuyết Việt Nam đã bước vào giai đoạn mới, giai đoạn từ chối sáng tác bằng chữ Hán, chữ Nôm để cho ra đời những tiểu thuyết bằng chữ quốc ngữ với nghệ thuật mới mẻ, hiện đại. Sự thay đổi này bắt nguồn từ những đổi thay trong đời sống xã hội thực dân nửa phong kiến và sự du nhập mạnh mẽ của văn hóa phương Tây. Chữ quốc ngữ với ưu điểm là dễ đọc, dễ viết, khả năng diễn đạt tinh tế, sắc sảo đã đáp ứng kịp thời cho việc phổ biến rộng rãi tác phẩm văn học trong nhân dân. Mặt khác đại đa số các nhà sáng tác là những trí thức tân học, chịu ảnh hưởng nhiều mặt của văn hóa Pháp, trong đó đáng chú ý là văn chương Pháp ở thế kỷ XIX. Về tiểu thuyết họ đã chịu nhiều ảnh hưởng của các tiểu thuyết gia nổi tiếng như Horoné de Balzac, Victor Hugo, Hector Malot, Alexandre Dumas... Kết qủa của ảnh hưởng này là sự ra đời hàng loạt các tác phẩm phóng tác ở ba thập kỷ đầu thế kỷ XX của những tiểu thuyết gia Việt Nam, trong đó có Hồ Biểu Chánh và chỉ có Hồ Biểu Chánh là thành công hơn cả. Ông là một trong những tác giả đã Việt hóa và phổ biến tác phẩm văn học phương Tây có giá trị đến với người đọc. 1.2. So với các thể loại khác như thi ca, truyện ngắn, ký... tiểu thuyết có nhiều ưu điểm hơn trong phản ánh hiện thực, khắc họa tâm lý, tính cách. Để đi đến một bước tiến mới, tạo ưu thế nổi trội trong phong cách diễn đạt tiểu thuyết phải dần dần phá vỡ lối cấu trúc cũ của truyện thơ, sự gò bó chật hẹp của tiểu thuyết chương hồi Trung Hoa. Những mục tiêu này đã dẫn đến yêu cầu hiện đại hóa thể loại tiểu thuyết. Trong bối cảnh văn hóa ấy nếu ở miền Bắc có các nhà văn như Nguyễn Trọng Thuật,
  3. Nguyễn Tử Siêu, Đặng Trần Phất, Hoàng Ngọc Phách... thì ở miền Nam có Nguyễn Chánh Sắt, Phú Đức, Bửu Đình, Trần Thiên Trung, Tân Dân Tử... và nổi bật là Hồ Biểu Chánh với một ngòi bút đầy sức sống. Với khả năng cảm nhận và phản ánh đời sống thực tại, ông đã để lại cho hậu thế 64 cuốn tiểu thuyết. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, việc nghiên cứu, đánh giá vai trò và những đóng góp của các nhà văn Nam bộ, trong đó có Hồ Biểu Chánh - một trong những tác giả đặt nền móng cho văn học miền Nam đã được đặt ra nhằm xây dựng một bức tranh toàn cảnh chính xác về văn học Việt Nam hiện đại. Nhà văn Hồ Biểu Chánh đã được giới nghiên cứu đặc biệt chú ý. 1.3. Về Hồ Biểu Chánh, đã có nhiều nhà nghiên cứu thẩm định vị trí, công lao của ông. Tuy nhiên các công trình nghiên cứu phần lớn mới đánh giá một cách khái quát, chưa làm rõ được những đóng góp cũng như vị trí của ông trong nền văn học Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX. Thế nên, nghiên cứu 64 tập tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh (đặc biệt là 18 tác phẩm viết trước năm 1932), nhằm tìm hiểu thành công và hạn chế của nhà văn này và góp phần vào việc nghiên cứu, đánh giá về vị trí của Hồ Biểu Chánh trong văn xuôi quốc ngữ Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX nhất là giai đoạn 1900 - 1930. 2. Mục đích nghiên cứu. - Nêu ra được cái nhìn tổng quát về vị trí của Hồ Biểu Chánh trong sự phát triển của văn xuôi quốc ngữ Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX. - Chỉ ra được những tiếp biến văn học phương Tây trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh. - Nêu được những thành công và hạn chế trong quá trình phóng tác và sáng tác tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh. - Phát hiện những tính cách, đặc điểm của con người và vùng đất Nam bộ trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, đây chính là những yếu tố nghệ thuật độc đáo trong sáng tác văn xuôi của Hồ Biểu Chánh. - Sức hấp dẫn của tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh đối với công chúng Nam bộ.
  4. - Khẳng định vai trò và vị trí của Hồ Biểu Chánh trong chặng đầu của quá trình hiện đại hoá văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX. 3. Lịch sử vấn đề. 3.1. Trước năm 1945. Có các công trình nghiên cứu như: Lược khảo về tiến hóa của quốc văn trong lối viết tiểu thuyết của Trúc Hà (1932) ; Phê bình và cảo luận của Thiếu Sơn (1933) ; Ba mươi năm văn học của Mộc Khuê (1941) ; Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan (1942) ; Việt Nam văn học sử yếu của Dương Quảng Hàm (1944). Đáng ghi nhận là tác phẩm Phê bình và cảo luận của Thiếu Sơn. Đây là công trình đầu tiên nhìn nhận, đánh giá tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh. Theo Thiếu Sơn “Tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh đủ sức hấp dẫn để lôi cuốn độc giả Việt Nam ham đọc truyện Tàu trở về đọc truyện ta để nhớ tới thân phận con người Việt Nam đương sống trong xã hội Việt Nam và đương là nạn nhân của chế độ, một chế độ nửa thực dân, nửa phong kiến mà bọn người được ưu đãi là những ông quận, những ông làng, những ông cử con quan và những ông nhà giàu địa chủ, đặc biệt nhất là tác giả lại về phe những người nghèo hèn, yếu thế, những tá điền và nông dân” [190, 40]. Đến năm 1942, trong Nhà văn hiện đại, Hồ Biểu Chánh được Vũ Ngọc Phan giới thiệu sơ bộ về cuộc đời và một số tác phẩm như Cha con nghĩa nặng, Vì nghĩa vì tình, Khóc thầm … và ông cũng đã nhận định về giá trị của tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh trong qúa trình phát triển của văn học “Dù sao, nếu đã đọc những tiểu thuyết của các nhà văn đi tiên phong từ Nguyễn Bá Học trở lại, ai cũng phải nhận rằng từ Hoàng Ngoc Phách và Hồ Biểu Chánh tiểu thuyết nước ta mới bắt đầu đếm bước vững vàng để dần dần đi tới ngày nay là lúc có thể chia ra nhiều ngả, phân ra nhiều loại” [176, 336]. Những nhận định trên đã bước đầu chú trọng tới vai trò và những đóng góp của Hồ Biểu Chánh trong nền văn học Việt Nam, đặt nền móng cho việc nghiên cứu Hồ Biểu Chánh trong những giai đoạn tiếp theo. Tuy nhiên vấn đề chất lượng tác phẩm, vai trò và những cống hiến của Hồ Biểu Chánh trong việc đặt nền móng tiểu thuyết
  5. Việt Nam trong các tác phẩm từ năm 1912 - 1932 - thời kỳ bình minh của chữ quốc ngữ và tiểu thuyết - là vấn đề cần phải tiếp tục nghiên cứu. 3.2. Từ năm 1945 - 1975. Trong giai đoạn này những công trình nghiên cứu về Hồ Biểu Chánh gồm có: * Ở miền Bắc do hoàn cảnh đấu tranh chống xâm lược, việc nghiên cứu về Hồ Biểu Chánh - một tác giả văn xuôi Nam bộ - còn ít ỏi. Đáng chú ý có các công trình Việt Nam văn học sử trích yếu của Nghiêm Toản (1949) ; Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam của nhóm Lê Quý Đôn (1956, 1957) ; Giáo trình lịch sử văn học Việt Nam (tập IV) do Nguyễn Đình Chú chủ biên (1962) ; Lược truyện các tác gia Việt Nam của nhóm Trần Văn Giáp (1972). Năm 1974 trong Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Phan Cự Đệ chỉ dành 38 trang trong chương I phần I của công trình để tập trung vào một số tác phẩm tiêu biểu được sáng tác từ năm 1900 - 1930 của những tác giả ở miền Bắc và một số tác phẩm của Hồ Biểu Chánh ở miền Nam, nhưng vẫn chưa có đóng góp gì mới so với các công trình nghiên cứu trước đó. Mặt khác việc đánh giá về Hồ Biểu Chánh có những nhận định còn phiến diện, chưa thật thỏa đáng. Thậm chí có lúc vì hoàn cảnh chính trị cụ thể, Hồ Biểu Chánh còn bị xem nhẹ như trong Giáo trình lịch sử văn học Việt Nam của Khoa Văn Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. * Ở miền Nam có các công trình như: Việt Nam văn học sử giản ước tân biên của Phạm Thế Ngũ (1965) ; Bảng lược đồ văn học Việt Nam của Thanh Lãng (1967) ; Việt Nam văn học sử của Bùi Đức Tịnh (1967) ; Những bước đầu của báo chí, tiểu thuyết, thơ mới của Bùi Đức Tịnh (1974) ; Lịch sử tiểu thuyết Việt Nam và hàng ngũ các tiểu thuyết gia Việt Nam qua các thời đại của Lê Huy Oanh (1974) ; Từ truyện đến tiểu thuyết Việt Nam và một quan điểm văn học của Doãn Quốc Sĩ (1974) ; Chân dung Hồ Biểu Chánh của Nguyễn Khuê (1974). Trong Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, Phạm Thế Ngũ đã dành nguyên một chương lớn bàn về “sự hình thành của tiểu thuyết mới”. Có thể nói đây là một
  6. công trình nghiên cứu khá toàn diện về tiểu thuyết giai đoạn này. Đặc biệt Phạm Thế Ngũ đã ghi nhận một điều mà trước đó giới nghiên cứu chưa lưu tâm nhìn nhận “Dù sao ta cũng phải công nhận là ở một phương diện nào, thể tiểu thuyết đã đi bước trước ở miền Nam” [158, 377]. Tác giả tập trung phân tích một số tác phẩm của Hồ Biểu Chánh, sáng tác những năm 20 của thế kỷ XX để thấy rõ những nét đặc trưng tiêu biểu về nội dung lẫn nghệ thuật của nhà tiểu thuyết Nam bộ này. Đây là phần nghiên cứu về Hồ Biểu Chánh sâu sắc hơn hẳn các tác giả trước đó như Vũ Ngọc Phan (1942), Thiếu Sơn (1933), Nghiêm Toản (1949). Các công trình sau đó của Thanh Lãng (1967), Bùi Đức Tịnh (1974), Lê Huy Oanh (1974)… đã nêu lên vai trò của Hồ Biểu Chánh cùng vài tác giả ở Nam bộ như Nguyễn Chánh Sắt, Phú Đức…, đối với sự phát triển của thể loại tiểu thuyết ở Nam bộ. Những công trình này đã gợi một hướng mới cho việc nghiên cứu tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh ở những giai đoạn tiếp theo. Đáng lưu tâm trong giai đoạn này là công trình Chân dung Hồ Biểu Chánh của Nguyễn Khuê (1974), tác giả đã tập hợp khá đầy đủ danh mục sáng tác của Hồ Biểu Chánh, giúp người đọc hiểu được cuộc đời và sự nghiệp của nhà văn này. Tác giả đã tập trung nghiên cứu 14/64 tác phẩm của Hồ Biểu Chánh. Có thể nói đây là một công trình nghiên cứu vượt trội so với những nhà nghiên cứu trước đó. Tuy nhiên công trình này cũng chỉ dừng ở mức độ tổng hợp ý kiến, tư liệu là chính, chưa có sự bình luận kỹ lưỡng của người soạn sách. Như thế, ta nhận thấy giai đoạn này vấn đề tìm hiểu, đánh giá tác phẩm, tác giả Hồ Biểu Chánh những năm đầu thế kỷ XX vẫn được giới nghiên cứu lưu tâm. Nhiều cái mới được phát hiện, song do hoàn cảnh chiến tranh, đất nước bị chia cắt, điều kiện liên lạc khó khăn, sự giao lưu gần như không có, nên vấn đề xác định vai trò, vị trí của Hồ Biểu Chánh trong sự phát triển của tiểu thuyết Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX vẫn chưa được khái quát đầy đủ, các đánh giá nhận định vẫn còn phiến diện. 3.3. Từ sau năm 1975 đến nay.
  7. Đất nước thống nhất, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao lưu nghiên cứu. Cùng với việc tổ chức Hội nghị khoa học về Hồ Biểu Chánh tại Tiền Giang (1988) nhà xuất bản Tổng hợp Tiền Giang đã tái bản một số lượng lớn tác phẩm của Hồ Biểu Chánh. Về mặt nghiên cứu, có thể chia ra hai loại: Thứ nhất, những công trình nghiên cứu có liên quan đến Hồ Biểu Chánh như: Những áng văn chương Quốc ngữ đầu tiên - Truyện Thầy Lazarô Phiền của Nguyễn Văn Trung (1987) ; Giáo trình văn học sử - Đại học sư phạm Tp. Hồ Chí Minh (1988) ; Bình minh của tiểu thuyết Việt Nam hiện đại của Nguyễn Q. Thắng (1990) ; Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh (1988) ; Tiến trình hiện đại hóa văn học Việt Nam của Hoàng Nhân - Trần Thanh Đạm (1996) ; Văn học Việt Nam 1900 - 1930 (tái bản) của Lê Chí Dũng, Trần Đình Hượu (1996) ; Luận án “Sự hình thành và vận động của thể văn xuôi tiếng Việt ở Nam bộ giai đoạn từ cuối thế kỷ XIX đến năm 1932” của Tôn Thất Dụng (1993) ; Luận án “Quá trình hiện đại hóa tiểu thuyết Việt Nam cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX” của Cao Xuân Mỹ (2001) ; Luận án “Đóng góp của văn học Quốc ngữ ở Nam kỳ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX và tiến trình hiện đại hóa của Văn học Việt Nam” của Lê Ngọc Thuý (2002). Thứ hai, những công trình trực tiếp nghiên cứu về Hồ Biểu Chánh như “Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh trước năm 1932” của Phan Thị Ngọc Lan (1991); “Những đóng góp của Hồ Biểu Chánh trong lĩnh vực tiểu thuyết giai đoạn 1912 - 1931” của Trần Xuân Phong (1997); “Anh hưởng của tiểu thuyết Pháp đối với tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh” của Nguyễn Quỳnh Trang (2001); bài viết của Trần Hữu Tá (tạp chí Kiến thức ngày nay, số 309, 1999) về “Tiểu thuyết Nam bộ trong chặng đầu của tiến trình hiện đại hóa văn học Việt Nam". Trong đó đáng chú ý là nhận định của nhà văn Hoài Thanh trong Hội thảo khoa học về Hồ Biểu Chánh tại Tiền Giang năm 1988 “Tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa của văn học phương Tây, Hồ Biểu Chánh đã góp phần khai sáng nền văn học hiện đại và cách tân thể loại tiểu thuyết, Hồ Biểu Chánh đã chọn lọc những tiểu thuyết văn học phương Tây giàu tính hiện thực và nhân bản để phóng tác thành tác phẩm của mình ... đó là những giọt máu tươi lành, tiếp cho cơ thể của bệnh nhân
  8. cùng một nhóm máu, khiến cho cơ thể văn học Việt Nam mau lành mạnh, dần dần trở nên tráng kiện hồng hào... tiếp thu kỹ thuật xây dựng tiểu thuyết của phương Tây, Hồ Biểu Chánh đã góp phần cách tân thể loại tiểu thuyết về các mặt xây dựng cốt truyện, tình tiết, bố cục tác phẩm. Cỗ xe chở tư tưởng là chữ quốc ngữ trước đó còn nặng nề, ì ạch đến đây đã được đẩy đi nhẹ nhàng phăng phăng lướt trên những dặm đường văn học mới. Đó là công lao của anh phu xe tiền phong Hồ Biểu Chánh” [180, 101]. Nhận định của Nguyễn Huệ Chi trong lời giới thiệu tác phẩm Tiền bạc bạc tiền -“Đặt trong tình hình 30 năm đầu thế kỷ XX, rõ ràng không có một nhà văn nào có khả năng bao quát hiện thực rộng rãi đến như vậy. Đằng sau cái vỏ đạo lý, truyện của Hồ Biểu Chánh, dù không tỉa tót tỉ mỉ nhưng thực đã dựng lên toàn cảnh bức tranh xã hội” và ông nhấn mạnh “... chứng tỏ ngòi bút của Hồ Biểu Chánh bên cạnh những mặt hạn chế tất nhiên khiến ông không thể nào theo kịp bước phát triển của văn học Việt Nam từ sau năm 1932, vẫn có những mặt báo hiệu một sức sống lâu bền, một khả năng hướng tới hiện tại, một tầm nhìn đi trước thời đại. Hồ Biểu Chánh trong phong cách của ngòi bút mình, phần nào có sự hòa quyện giữa hai kiểu tư duy nghệ thuật “vừa bình dân, vừa hiện đại” [165, 9]. Các tác giả trong tác phẩm Địa chí văn hóa Thành phố đã khẳng định: “Cái độc giả miền Nam lúc nào cũng thích thú là văn chương giản dị, tả thực, phản ánh được nhiều đặc điểm xã hội và con người ở miền Nam trong một thời kỳ, thời kỳ giữa hai cuộc chiến tranh thế giới. Và giá trị của Hồ Biểu Chánh như một nhà tiểu thuyết và giá trị sự nghiệp văn chương của ông trước hết là ở đó” [77, II, 241]. Trần Hữu Tá nhân đọc lại Cay đắng mùi đời - Nxb Tổng hợp Tiền Giang 1988 cũng đã có nhận định như sau: “vượt qua những bước đầu chập chững nhưng đáng trân trọng của Nguyễn Trọng Quản với “Thầy Lazarô Phiền”, của Trần Thiên Trung (tức Gilbert Trần Chánh Chiếu) với “Hoàng Tố Oanh hàm oan”, Hồ Biểu Chánh đã góp phần tích cực vào việc chuyển giai đoạn tiểu thuyết nói riêng, cho văn học nói chung”. Nhìn một cách tổng thể, trong giai đoạn này Hồ Biểu Chánh ngày càng được đông đảo các nhà nghiên cứu lưu tâm, các công trình nghiên cứu đều có những nhận
  9. định, đánh giá cao vai trò của Hồ Biểu Chánh. Đối với các công trình nghiên cứu tổng hợp chỉ lướt qua tác giả Hồ Biểu Chánh với tư cách một tiểu thuyết gia. Các công trình nghiên cứu sâu về Hồ Biểu Chánh cũng chỉ nhận định, đánh giá những đóng góp chủ yếu về mặt nghệ thuật của tác giả trong nền văn học Việt Nam, nhưng chưa khẳng định được vai trò, vị trí của ông trong văn xuôi quốc ngữ Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX nhất là giai đoạn 1900 - 1930. * Ở nước ngoài Tại Mỹ cuối thập niên 80 Giáo sư John C.Schaffer cùng các cộng sự đã có nhiều bài viết về tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỷ XX, như “Hồ Biểu Chánh and the early development of the Vietnamese novel” đăng trên tạp chí Vietnam Forum No12 Sumerfall 1989. Đến năm 1993 John C.Schaffer và Thế Uyên đăng tiếp bài “Tiểu thuyết xuất hiện tại Nam kỳ” (bài này được Như Quỳnh và Thế Uyên dịch đăng trên Tạp chí Văn học số 8/1994), trong đó các tác giả đã nhận định như sau: “Hồ Biểu Chánh, Trần Chánh Chiếu và Trương Duy Toản rất xứng đáng được tuyên dương là những tiểu thuyết gia đầu tiên của Việt Nam. Họ đã đi từ thể loại truyện thơ từ chữ nôm sang truyện dài văn xuôi quốc ngữ, thay thế các nhân vật cổ điển bằng những nhân vật hiện đại với đầy đủ những ham mê dục vọng của con người, từ lòng tham tiền bạc, yêu thương và hận thù, cho đến cả vấn đề tình dục nữa. Họ cũng từ bỏ lối kể chuyện đường thẳng, thay thế bằng những bút pháp bao gồm nhiều miêu tả cảnh vật và biến đổi tâm lý của nhân vật” .....[104, 6]. Nhìn chung, qua lịch sử nghiên cứu về Hồ Biểu Chánh ta thấy, hơn nửa thế kỷ qua, trên văn đàn Việt Nam Hồ Biểu Chánh luôn được giới nghiên cứu lưu tâm. Chứng tỏ Hồ Biểu Chánh xứng đáng là một trong những nhà văn tiêu biểu cho thể loại tiểu thuyết 30 năm đầu thế kỷ XX. Vì vậy việc nghiên cứu vị trí của Hồ Biểu Chánh trong văn xuôi quốc ngữ Việt Nam đầu thế kỷ XX là rất cần thiết - đó là nguyện vọng mà Luận án muốn đạt đến. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
  10. 4.1. Đối tượng khảo sát của luận án bao gồm 64 cuốn tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, đặc biệt tập trung vào 18 cuốn tiểu thuyết viết trước năm 1932. Đồng thời luận án còn khảo sát những tác phẩm tiểu thuyết văn xuôi sáng tác bằng chữ quốc ngữ ở Việt Nam vào cuối thế kỷ XIX đến năm 1932 của những tác giả khác và một số tiểu thuyết dịch của Pháp (thế kỷ XIX) để làm cơ sở so sánh đối chiếu. 4.2. Phạm vi nghiên cứu được giới hạn từ 1900 đến 1932, vì sau đó, tiểu thuyết của nhóm Tự lực văn đoàn ra đời, đồng thời sự xuất hiện nhiều tiểu thuyết hiện thực có giá trị của Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng, Nam Cao,… đã tạo một sắc diện mới, một bước phát triển mới cho tiểu thuyết văn xuôi Việt Nam, khẳng định sự trưởng thành về chất lượng tiểu thuyết. 5. Giới thuyết một số khái niệm. 5.1. Khái niệm “Tiểu thuyết” Trước hết, đây là luận án về văn học sử, do vậy, chúng tôi chỉ dựa vào ý kiến của một số nhà văn, nhà nghiên cứu đi trước để làm cơ sở lý thuyết. Thời sơ khai của tiểu thuyết Việt Nam hiện đại “Ông cha ta vốn không quen trình bày các vấn đề một cách trừu tượng; ngay cả với thơ, làm bao nhiêu cũng được, song những lý thuyết về thơ, ở ta xưa nay cũng chả có mấy; nói chi là tiểu thuyết” [13, 99]. Các nhà văn lúc bấy giờ thường nói nhiều về tiểu thuyết, song không có ai nêu rõ hoặc quan tâm đến khái niem thế nào là tiểu thuyết. Chỉ khi bắt tay vào sáng tác họ mới cố gắng giải thích để giúp người đọc hiểu rõ dụng tâm của mình và tiếp nhận tác phẩm một cách dễ dàng hơn. Thường để giới thiệu tác phẩm của mình thuộc loại gì, các tác giả viết thêm dưới tựa đề: Tả chân tiểu thuyết, Ai tình tiểu thuyết, Trinh thám tiểu thuyết… nhưng họ không quan tâm đến độ dài tác phẩm. Các tác phẩm như Thầy Lazarô Phiền (1887) của Nguyễn Trọng Quản dài 32 trang, Hoàng Tố Oanh hàm oan (1910) của Trần Chánh Chiếu dài 54 trang, Phan Yên ngoại sử tiết phụ gian truân (1910) của Trương Duy Toản dài 48 trang, Người đàn bà nguy hiểm của Nguyễn Văn Kiểm dài 8 trang cũng ghi ở bìa sách là tiểu thuyết. Chính vì thế khi nhận định về tiểu thuyết, Trần Hữu Tá cho rằng “Bước đầu làm quen với thể loại mới mẻ này trong hoàn cảnh tác giả chưa phải đã có được nội lực sung mãn về nhiều
  11. phương diện, tác phẩm của họ chưa dày dặn, dài hơi, kể cũng là điều dễ hiểu” [191, 35]. Năm 1907 - 1908, người đương thời nắm bắt được đặc trưng của thể loại tiểu thuyết qua cuộc thi tiểu thuyết đầu tiên, khi Ban biên tập Nông cổ mín đàm người tổ chức yêu cầu người viết tiểu thuyết phải “lấy trí riêng của mình mà đặt ra một câu chuyện tuỳ theo nhân vật, phong tục trong xứ, dường như truyện có thiệt vậy” tức tiểu thuyết là một câu chuyện do trí tưởng tượng trên cơ sở hiện thực; có độ dài “chừng 50 tờ giấy lớn”; kết cấu “chia làm ba thứ: - Thứ nhất: gầy đầu, căn ngươn, lý lịch, kiết cấu, vân vân… - Thứ hai: ân oán, sanh sự, buông lung, trần ai, lưu lạc, vân vân… - Thứ ba: cha con, vợ chồng hoàn hiệp, ân báo ân, oán báo oán, vân vân… Về nội dung: “Trong cuộc đời, phải đem hết các việc quan, hôn, tang, tế, thầy thuốc, thầy chùa, thầy pháp, vân vân…tốt khen, xấu chê. Phải có can thường, luân lý, nhơn duyên, thiện ác. Không đặng dùng việc dị đoan, hễ chết mà còn muốn sống lại thì nhờ thuốc hay, thầy giỏi, chớ nói đến qủy thần; còn muốn phạt thì đau bịnh mà chết, hoặc lôi đả, súng xạ, gươm máy, vân vân…” (Nông cổ Mín Đàm số 262 ngày 23/6/1906) có nghĩa: tác phẩm tiểu thuyết miêu tả đúng thực tế đời thường, không bịa đặt vu vơ, phải có ý nghĩa thiết thực đối với người đọc đương thời. Năm 1921, Phạm Quỳnh trong Khảo về tiểu thuyết đã khái quát về tiểu thuyết như sau “Nay cứ lý hội các tính cách chung của tiểu thuyết đời nay thì có thể giải nghĩa tiểu thuyết như thế này: Tiểu thuyết là một truyện viết bằng văn xuôi đặt ra để tả tình tự người ta, phong tục xã hội hay là những sự lạ tích kỳ, đủ làm cho người ta đọc có hứng thú”. Đây là khái niệm duy nhất về tiểu thuyết trong những năm đầu thế kỷ XX. Sau đó ít lâu, khi nói về tiểu thuyết, Vũ Bằng cũng đã cắt nghĩa như sau 'Tiểu thuyết chân chính, theo đúng nghĩa của nó phải là bức chân dung hay một dãy chân dung" [209, 161].
  12. Trên cơ sở tổng hợp các ý niệm, khái niệm về tiểu thuyết nêu trên để phù hợp với giai đoạn mà đề tài luận án nghiên cứu, chúng tôi quan niệm rằng: Tiểu thuyết là một tác phẩm tự sự có dung lượng tương đối lớn, có khả năng phản ánh hiện thực đời sống ở mọi không gian và thời gian, có kết cấu, tình tiết phù hợp với nội dung câu chuyện nhằm gây hứng thú cho người đọc. Từ cơ sở này chúng tôi đã bắt tay vào khảo sát các tác phẩm văn xuôi quốc ngữ của Hồ Biểu Chánh. 5.2. Khái niệm hiện đại hóa văn học. Đó là một quá trình chuyển từ văn học trung đại sang văn học hiện đại. Khi nền văn học trung đại không còn thích ứng nữa thì việc đổi mới, hiện đại hóa văn học trở thành một yêu cầu cấp thiết của thời đại. Hiện đại hóa “trong chừng mực nhất định, nó đồng nghĩa với khái niệm phương Tây hóa là quá trình thu nhận những ảnh hưởng của văn học phương Tây để có những đặc điểm của văn học phương Tây” [217, 40]. Hiện đại hóa là làm cho văn học trong đó có tiểu thuyết mới hơn, phát triển theo hướng thoát ra khỏi các khuôn khổ (gò bó) của hệ thống thi pháp văn học trung đại để phù hợp với hệ thống thi pháp hiện đại, đáp ứng kịp thời thị hiếu thẩm mĩ của công chúng lúc bấy giờ. Qúa trình hiện đại hóa không phải hình thành trong một ngày, một tháng hay một năm mà nó là cả một qúa trình diễn ra liên tục, không ngừng và “… xuất phát từ nhu cầu thực tại của văn học, từ tác động của hoàn cảnh xã hội, từ đòi hỏi của công chúng và từ kết quả giao lưu văn hóa giữa các quốc gia, các dân tộc” [217, 40]. Vấn đề hiện đại hóa tiểu thuyết ở nước ta từ cuối thế kỷ XIX đã bắt đầu được đặt ra, đến đầu thập niên 30 của thế kỷ XX là thời điểm kết thúc cho một quá trình tìm tòi, thử bút, bởi vì từ đây, tiểu thuyết đã đi vào con đường phát triển ổn định. Đặt ra vấn đề này để thấy rằng Hồ Biểu Chánh là người đi tiên phong và là ngòi bút chủ lực về tiểu thuyết trong thời kỳ đầu của quá trình hiện đại hóa tiểu thuyết. 6. Phương pháp nghiên cứu.
  13. Để giải quyết những vấn đề trên, trong luận án chúng tôi sẽ sử dụng các phương pháp sau đây: 6.1. Phương pháp nghiên cứu hệ thống (nghiên cứu văn học với tư cách là một chỉnh thể như một cấu trúc phức hợp những yếu tố có mối liên hệ hữu cơ và tác động lẫn nhau) chẳng hạn như hệ thống đề tài, cảm hứng, hệ thống hình tượng, xung đột, các yếu tố ngôn ngữ, phong cách... trong một hoặc một số tác phẩm. Vận dụng phương pháp hệ thống giúp chúng tôi trình bày, lý giải, khái quát, tổng hợp những vấn đề về tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh được thấu đáo, trọn vẹn hơn. 6.2. Phương pháp văn học sử: Trên bình diện một thể loại văn học, đặt tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh trong qúa trình phát triển của văn học Việt Nam hiện đại để xem xét sự phát triển toàn cục của nó. Vì vậy việc vận dụng phương pháp này là rất cần thiết để tìm ra những nét tương đồng và khác biệt của tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh với tiểu thuyết của những tác gia khác và lý giải những biến chuyển trong quá trình sáng tác của ông. 6.3. Phương pháp phân tích đối chiếu: Đây là phương pháp nhằm tìm hiểu, phát hiện những đặc điểm của tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, qua đó tìm ra sự đóng góp tích cực của tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh trong qúa trình hình thành tiểu thuyết quốc ngữ Việt Nam đầu thế kỷ XX. 6.4. Phương pháp thống kê - so sánh: Phương pháp này sử dụng nhằm khảo sát những yếu tố mà tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh kế thừa tiểu thuyết truyền thống, những yếu tố cách tân để đánh giá vị trí, vai trò của ông trong văn xuôi quốc ngữ Việt Nam đầu thế kỷ XX. Đó là mối quan hệ
  14. tiếp thu - chuyển biến - sáng tạo giữa thi pháp trung đại và thi pháp hiện đại trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh. 7. Cấu trúc của luận án. Mở đầu. + Lý do chọn đề tài. + Mục đích nghiên cứu. + Lịch sử vấn đề. + Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. + Giới thuyết một số khái niệm. + Phương pháp nghiên cứu. + Cấu trúc của luận án. Nội dung Chương 1: Văn xuôi quốc ngữ Việt Nam đầu thế kỷ XX và sự xuất hiện của nhà văn Hồ Biểu Chánh. Chương 2: Cảm hứng chủ đạo trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh. Chương 3: Nghệ thuật tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh. Kết luận. Danh mục các bài báo khoa học của nghiên cứu sinh. Thư mục tài liệu tham khảo. Phụ lục.
  15. CHƯƠNG MỘT VĂN XUÔI QUỐC NGỮ VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XX VÀ SỰ XUẤT HIỆN CỦA NHÀ VĂN HỒ BIỂU CHÁNH I. Những nhân tố tác động đến sự ra đời cuả văn xuôi quốc ngữ Việt Nam đầu thế kỷ XX. 1. Những biến động về mặt xã hội. 1.1. Sau khi chiếm được Việt Nam, bằng hòa ước Giáp Thân năm 1884, thực dân Pháp đã thực hiện chính sách cai trị khác nhau đối với 3 miền Bắc - Trung - Nam. Mỗi miền có một chính sách luật lệ riêng, trong đó Nam kỳ trở thành xứ thuộc Pháp với nhiều thể chế ưu đãi hơn Bắc kỳ và Trung kỳ. Pháp đã tiến hành công cuộc khai thác kinh tế thuộc địa Nam kỳ nhằm tạo nguồn chi trong hoạt động cai trị tại xứ Đông Dương. Đó là những điều kiện cho nền kinh tế Nam kỳ phát triển hơn, tạo độ chênh lệch khá lớn với hai miền Bắc và Trung. Đồng thời Nam kỳ sớm tiếp thu nền văn hóa phương Tây, số người học tiếng Pháp và đi Pháp du học nhiều ; các yếu tố văn hóa như báo chí, nhà in, nhà xuất bản sớm ra đời, tạo tiền đề cho sự xuất hiện của những tác phẩm tiểu thuyết văn xuôi quốc ngữ đầu tiên. Song do hoàn cảnh đất nước bị chia cắt, mỗi xứ bị cô lập bởi hệ thống cai trị thuộc chính sách phân kỳ của thực dân Pháp, nên đã ảnh hưởng đến sự phát triển và giao lưu văn hóa giữa các miền. Sau năm 1920 sự khai thông thương mại được bắt đầu, nhờ đó trí thức các miền có điều kiện tiếp cận, trao đổi về các vấn đề học thuật, các trào lưu tư tưởng, xu hướng văn học bằng những tiếp xúc trực tiếp hoặc gián tiếp qua các ấn phẩm văn hóa. Và từ bối cảnh này, văn học có điều kiện để phát triển hơn trước. 1.2. Chương trình khai thác thuộc địa lần thứ nhất của Paul Doumer và lần thứ hai của Albert Sarraut đã tạo nhiều nhân tố làm chuyển biến sâu sắc xã hội Việt Nam. Nền kinh tế lạc hậu của chế độ phong kiến bị tác động và tạo ra sự bất ổn định, sự phân hóa xã hội. Nông dân bị bần cùng, họ bắt đầu từ giã ruộng đồng để lên thành thị kiếm sống. Họ trở thành những phu xe, bồi bếp, công nhân, và một số cùng quẫn trở thành lưu manh, gái điếm… hình thành nên tầng lớp dân nghèo thành thị. Bên cạnh
  16. đó cũng lắm kẻ gặp cơ hội trên thương trường trở thành những ông chủ, tạo nên tầng lớp tư sản. Mặt khác việc sửa đổi nội dung thi cử từ năm 1906 đã dần dần làm thay đổi cách học, cách nghĩ cũng như cách sống của giới trí thức. Sự giao tiếp văn hóa Đông - Tây đã tạo nên một tầng lớp trí thức mới trong xã hội Việt Nam, đấy là những tiến sĩ, cử nhân tốt nghiệp ở Pháp, những học sinh trung học, sinh viên cao đẳng... Họ cùng với công chức của Pháp, của Nam triều (Tham, Phán, Thông ngôn, Ký lục...) trở thành tầng lớp trí thức tân học. Tầng lớp thị dân này, hoàn cảnh sống mỗi người mỗi khác, cuộc sống Âu hóa ngày một thay đổi khiến tâm lý, tư tưởng, nhu cầu cũng thay đổi. Với điều kiện sống tập trung chứ không phân tán, nhịp sống sôi nổi khẩn trương chứ không bình lặng mộc mạc như ở nông thôn, nguồn thu nhập ổn định ... đã tạo cho tầng lớp thị dân này có điều kiện để du nhập các hoạt động văn hóa thích hợp với thành thị. Sách báo trở thành một nhu cầu thiết yếu trong cuộc sống hàng ngày. Họ đọc để giải trí, để tìm hiểu mua bán, để biết thêm về xã hội xung quanh... Đô thị phát triển nảy sinh những vấn đề phức tạp, xu hướng kiếm tìm vật chất trong môi trường xã hội mới đầy phức tạp dần dần làm phân hóa xã hội truyền thống và nhân cách con người. Đạo lý luân thường là những điều cần nhưng không đủ trong đời sống thực tại, nên “người ta cần tìm hiểu kỹ cuộc sống với cả những tình tiết đầy đủ, những chi tiết cụ thể; gây được cảm giác, thỏa mãn được sự tò mò... Người ta muốn nếm trải cái có thật (hay có thể có thật), chứ không phải được khích lệ bằng những gương trung hiếu, minh họa đạo nghĩa... Người ta muốn xúc cảm, muốn mở mang như những con người, những cá nhân- chứ không phải xúc động như khi chiêm ngưỡng tấm gương cao cả của vị thánh xuất chúng” [101, 25]. Vì thế “Bên cạnh những nhà nho vẫn tiếp tục làm thơ phú, người nông dân vẫn tiếp tục ca hát dân gian… nền văn học cũ vẫn tồn tại khắp đất nước thì một lớp nhà văn kiểu mới, một nền văn học có tính chất khác trước xuất hiện tạo nên một cảnh tương giao giữa hai nền văn học” [101, 22]. Trên văn đàn lúc bấy giờ xuất hiện những người làm báo, viết văn…và thể văn xuôi, đặc biệt là tiểu thuyết trở nên phù hợp với tâm lý thị hiếu của đông đảo công chúng mới. Nó trở thành nhu cầu bức thiết trong đời sống tinh thần của xã hội bấy giờ. “Đọc tiểu thuyết, người ta thấy có cái thú vị nồng nàn là được sống sâu rộng hơn, thấm thía hơn, vì ở đời không một ai được sống với tất cả các giác quan rung động,
  17. với tất cả mọi hành vi cùng tư tưởng bồng bột và thâm trầm. Chính tiểu thuyết là một loại văn có thể bổ khuyết cho ta về những cái thiếu sót ấy” [176, 162]. Những đòi hỏi trên là cơ sở để tiểu thuyết văn xuôi - thể văn học mới ra đời và phát triển. Đồng thời hệ thống giáo dục ở các trường Pháp Việt lúc bấy giờ ngoài việc đào tạo nên lớp công chúng mới, những người quen thưởng thức các thể văn học phương Tây, còn hình thành nên một đội ngũ tác gia mới. Họ nhanh chóng thay thế dần đội ngũ các nhà văn cựu học, sáng tạo những tác phẩm văn học đáp ứng nhu cầu của lớp công chúng mới. Chính đội ngũ này đã quyết định sự phát triển của nền văn học mới trong đó có tiểu thuyết. 2. Những đổi mới về mặt văn hóa . 2.1. Chữ quốc ngữ. Nam kỳ trở thành xứ thuộc Pháp, chữ quốc ngữ không chỉ là công cụ truyền đạo của các giáo sĩ phương Tây mà còn là phương tiện lôi kéo người Việt khỏi ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa. Thực dân Pháp đã dùng chữ quốc ngữ để thay thế dần chữ Hán và chữ Nôm. Nhiều biện pháp khuyến khích việc học chữ quốc ngữ như từ năm 1880 các làng xã ở Nam kỳ - xứ thuộc Pháp đều có những trường học dạy chữ quốc ngữ vì “kể từ ngày 1-1 -1882 không một tuyển dụng nào được thi hành, không một thang trật nào được cho phép trong ngạch phủ, huyện, tổng đối với bất cứ ai ở trong tình trạng không viết được chữ quốc ngữ” (Nghị định ngày 6 - 4 - 1878). Thực hiện chính sách này thực dân Pháp nhằm loại trừ những ảnh hưởng sâu sắc của truyền thống Việt Nam, mà giới nho học, trong đó có rất nhiều sĩ phu yêu nước là tầng lớp có thể tuyên truyền, kêu gọi tập hợp kháng chiến... Với ưu thế dễ đọc dễ viết và vô cùng thiết thực trong đời sống, chữ quốc ngữ đã hoàn toàn chiếm ưu thế hơn chữ Hán, chữ Nôm và được xem như một biểu tượng của văn minh tiến bộ trên khắp cả ba miền. Thấy được lợi ích của thứ văn tự mới này, những nho sĩ từ thái độ không hưởng ứng đã dần dần tích cực cổ động cho việc học chữ quốc ngữ qua các phong trào Minh Tân (Nam bộ), Đông Kinh Nghĩa Thục (Bắc bộ) vào những năm 1907 - 1918, khiến mọi người không ngừng trau dồi chữ quốc ngữ. Đi đầu trong phong trào này là các học giả Pétrus Trương Vĩnh Ký, Paulus
  18. Huỳnh Tịnh Của, Gilbert Trần Chánh Chiếu và J.B Nguyễn Trọng Quản... ở miền Nam và Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Học ...ở miền Bắc. Đi đôi với việc xuất hiện chữ quốc ngữ là sự phát triển mạnh của phong trào phiên âm quốc ngữ và dịch thuật, các tác phẩm văn học cổ được bắt đầu ngay sau khi Pháp chiếm Nam kỳ. Trong ba thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XIX và mấy năm đầu của thế kỷ XX, đi tiên phong trong phong trào này là Trương Vĩnh Ký, Trương Minh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Phan Đức Hòa. Những tác phẩm phiên âm ra quốc ngữ sớm nhất trong cả nước của Trương Vĩnh Ký là Kim Vân Kiều truyện (1875), Lục súc tranh công (1884), Lục Vân Tiên truyện, Phan Trần truyện (1889) ; Phan Đức Hòa có Nhị Độ Mai (1884) ; Nguyễn Hữu Thoại có Văn Doan diễn ca (1903), Trần Sang diễn ca (1905), Chinh phụ ngâm, Bạch Viên Tôn Các, Thoại Khanh Châu Tuấn (1906). Việc phiên Nôm và xuất bản các truyện Nôm dưới hình thức quốc ngữ còn kéo dài cho đến hai thập niên đầu của thế kỷ XX. Nó tồn tại song song với nền biên khảo văn học, ngữ học, dịch thuật và sáng tác bằng chữ quốc ngữ. Sang những năm đầu thế kỷ XX, hình thức nghe thơ, nói thơ đã dần nhường bước cho hình thức đọc vì chữ quốc ngữ đã trở thành phổ biến. Việc phiên Nôm và hình thức đọc cũng là một cách trau dồi chữ quốc ngữ hữu hiệu, đưa chữ quốc ngữ đi vào đời sống, làm tiền đề phát triển tiểu thuyết quốc ngữ Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX. Dịch thuật cũng là một hoạt động thể hiện ý thức phát triển mối giao lưu giữa các nền văn hóa. Khảo sát các thư mục đã được công bố, tập hợp trong Địa chí văn hóa thành phố và trong Văn học quốc ngữ ở Nam kỳ của tác giả Bằng Giang chúng tôi nhận thấy hoạt động dịch thuật khá đa dạng: dịch kinh sách, truyện Tàu, truyện Pháp. Sớm nhất là Đại Nam quốc sử diễn ca của Phạm Đình Toái và Lê Ngô Cát đã được Trương Vĩnh Ký dịch (1875). Sau năm 1875 Trương Vĩnh Ký tiếp tục dịch Trung Dung, Đại học (1881), Minh tâm bửu giám (1893), Tứ thư (1889), Tam tự kinh (1884). Trương Minh Ký dịch Kinh thi đăng trên Gia Định báo, Tiểu học gia ngôn
  19. diễn nghĩa (1889), Trị gia cách ngôn (1895), Ca từ diễn nghĩa (kho tàng thơ ca Trung Hoa) (1896)… Nhiều dịch giả dịch truyện Tàu Tam quốc chí, Thuỷ hử, Đông Châu liệt quốc...bản dịch Tam quốc chí đầu tiên xuất hiện ở miền Nam đăng trên Nông cổ mín đàm đầu năm 1901…Đặc biệt tuồng San Hậu (tuồng Việt Nam) có đến 8 bản dịch của 8 tác giả. Những tác phẩm văn học Pháp được dịch và xuất bản xuất hiện sớm nhất ở Việt Nam như: Truyện Phan sa dịch ra quốc ngữ (1884), trong đó dịch 16 ngụ ngôn của La Fontaine, Têlê mặc phưu lưu ký (1887) của Fénelon khởi đăng trên Gia Định báo từ năm 1885, Truyện nhi đồng Francinet cũng đăng trên Gia Định báo từ năm 1885, Phú bần diễn ca (1896), Robinson trên hoang đảo (1886) do Trương Minh Ký dịch ; Trần Chánh Chiếu cho công bố bản dịch 2 tác phẩm Tiền căn báo hậu (1907), Ba chàng ngự lâm (1914); Đỗ Quang Đẩu dịch hơn 30 bài thơ của La Fontaine ; Nguyễn Ngọc Ấn dịch thơ Pháp đăng trong các báo… Chữ quốc ngữ và phong trào phiên âm, dịch thuật là cơ sở để hình thành nền văn học mới với những thể loại mới như kịch, ký sự, truyện ngắn, tiểu thuyết ... đồng thời là phương tiện chuyển tải văn hóa phương Tây đến với Việt Nam và giúp người Việt Nam hòa nhập được vào văn hóa thế giới “giúp cho nền văn học Việt Nam thành lập và bình dân hóa một cách mau lẹ không ngờ” [215, 113]. Sự phát triển của chữ quốc ngữ khiến văn xuôi tiếng Việt nhanh chóng đổi mới. Đồng thời việc sáng tác văn học bằng chữ quốc ngữ đã làm cho chữ quốc ngữ được trau chuốt, trở thành một công cụ ngôn ngữ có khả năng diễn đạt phong phú, chính xác, tinh tế. 2.2. Báo chí. Chữ quốc ngữ phổ biến ở Nam bộ sớm hơn Bắc bộ, phong trào Minh Tân diễn ra sâu rộng và tác động tích cực đến phần lớn tầng lớp dân chúng Nam bộ. Nhiều người biết chữ quốc ngữ nên báo chí Nam bộ phát hành nhiều, tính phổ biến cao, trở thành nhu cầu thiết yếu trong đời sống của người dân Nam bộ. Sự ra đời của tờ báo đầu tiên Gia Định báo ngày 15- 4 -1865 đánh dấu sự mở đầu của báo chí quốc ngữ,
  20. mở ra một giai đoạn phát triển mới trong sinh hoạt văn hóa. Sau đó là Nông cổ mín đàm (1901), Lục tỉnh tân văn (1907), Đăng cổ tùng báo (1907), Đại Việt tân báo (1908), Đông Dương tạp chí (1913), Trung Bắc tân văn (1915), Nam Trung nhật báo (1917)…cũng lần lượt ra đời ở cả hai miền Nam Bắc. Tuy nhiên trong ba thập kỷ đầu thế kỷ XX, nội dung báo chí Nam bộ vẫn pha tạp đủ thứ kinh tế, thương mại, khoa học, tôn giáo...không có một tờ báo nào dành tỷ lệ cao cho văn học và càng chưa có tờ báo nào chuyên về văn học nên đã hạn chế việc nghiên cứu, phê bình và phổ biến lý luận về phương pháp sáng tác, đặc trưng thể loại, .... Đây chính là một trong những nguyên nhân làm cho tiểu thuyết Nam bộ sau năm 1930 không phát triển. Trong khi đó, báo chí đến miền Bắc chậm hơn, nhưng chỉ trong 10 năm, nhiều tờ đã chuyên sâu vào các lĩnh vực văn hóa, văn học. Năm 1919 có Học báo, năm 1923 có Vệ nông báo, 1928 có tạp chí Kịch trường, 1929 có Nông công thương báo, năm 1931 có Pháp Việt tạp chí... Về văn học, Đông Dương tạp chí và Nam Phong tạp chí đã thường xuyên đăng tải một số bài viết quan trọng về văn học như Khảo về tiểu thuyết, Lược khảo về sự tiến hóa của quốc văn trong lối viết tiểu thuyết... đã cung cấp một lượng kiến thức quan trọng về lý luận và phê bình văn học. Mặc dù là một hình thức văn hóa ngoại nhập, dù mục đích của báo chí là tuyên truyền, phổ biến văn hóa, giáo dục của chính quyền thực dân thuộc địa, nhưng các trí thức văn nhân đã tận dụng nó để góp sức giữ gìn tinh hoa văn hóa dân tộc cũng như để đổi mới và xây dựng một nền văn học mới. Báo chí đã trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu được trong đời sống của nhiều tầng lớp nhân dân. Trên các báo nhiều thể loại văn học mới xuất hiện như: truyện ngắn, tiểu thuyết, phê bình...Người viết trau dồi ngòi bút của mình qua các bài viết, bài dịch thuật, phê bình trên báo. Họ giao lưu trao đổi các vấn đề về văn hóa, văn học cũng trên báo. Đồng thời “Văn tiểu thuyết là món ăn thịnh hành nhất đời nay, không những sách xuất bản đã nhiều, mà trên các báo chí, bất kỳ báo nào đều có để riêng một phần cho tiểu thuyết” [80, 116].
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
7=>1