Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Biểu tượng trong tiểu thuyết Haruki Murakami
lượt xem 9
download
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngữ văn "Biểu tượng trong tiểu thuyết Haruki Murakami" có mục đích là xác định và giải mã biểu tượng trong tiểu thuyết của Murakami, luận án khám phá và kiến giải những nét đặc sắc trong thế giới biểu tượng của nhà văn, khẳng định vị trí và đóng góp của biểu tượng Murakami đối với nền văn học Nhật và văn học thế giới.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Biểu tượng trong tiểu thuyết Haruki Murakami
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHAM HA NÔI ̣ ̀ ̣ –––––––o0o––––––– PHAN THỊ HUYỀN TRANG BIỂU TƯỢNG TRONG TIỂU THUYẾT HARUKI MURAKAMI Chuyên ngành: Văn học nước ngoài Mã số: 9 22 02 42 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
- Ha Nôi, 2021 ̀ ̣
- Công trình được hoàn thành tại TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI Người hướng dẫn:GS.TS. Lê Huy Bắc TS. Đào Thị Thu Hằng Phản biện 1: PGS.TS. Nguyễn Thu Hiền Trường Đại học KHXH&NV ĐHQG Hà Nội Phản biện 2: PGS.TS. Lê Thời Tân Trường Đại học Thủ đô Hà Nội Phản biện 3: PGS.TS. Nguyễn Thanh Tú Tạp chí Văn nghệ Quân Đội Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Trường, họp tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Vào hồi ……. giờ ….. ngày ….. tháng …. năm 2021
- Có thể tìm hiểu luận án tại: Thư viện Quốc gia Việt Nam Thư viện Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
- MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Văn học Nhật Bản là một trong những nền văn học lâu đời và giàu thành tựu. Tiếp nhận văn học Nhật Bản hiện đại, độc giả hẳn đã quen với những tên tuổi lớn gắn liền mĩ học truyền thống như R. Akutakawa, Y. Kawabata, Y. Mishima, Kenzaburo Oe… Đó là những đại diện tiêu biểu cho những gì được gọi là cổ điển, mẫu mực của văn chương Phù Tang. Trong bối cảnh trên, việc tìm hiểu văn học Nhật Bản đương đại là điều cần thiết cho sự hội nhập văn hóa Đông Á nói riêng và văn học thế giới nói chung. 1.2. Sau hai tượng đài bất tử Kawabata và Oe, văn học Nhật Bản tiếp tục để lại dấu ấn với “Hình vóc văn chương của thế kỉ XXI” – Murakami, nhà văn đã thổi một làn gió mới, làm thay đổi cấu trúc, diện mạo văn học xứ phù Tang. Tác phẩm của ông được dịch ra hơn bốn mươi thứ tiếng và vẫn đang được dịch và xuất bản, trở thành những hiện tượng mang tính toàn cầu. Tác phẩm của Murakami là sự kết hợp hài hòa văn hóa Đông Tây, chạm đến những vấn đề mang ý nghĩa của nhân loại, đào sâu bản ngã, lí giải, khám phá con người ở chiều sâu và nhiều bến bờ của nó. Việc nghiên cứu, tìm hiểu biểu tượng của Murakami nhằm cung cấp thêm các góc nhìn đa chiều về tác giả, tác phẩm. Đây là việc làm cần thiết trong bối cảnh giao lưu văn hóa, văn học giữa Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới. 1.3. Biểu tượng là một mảnh đất màu mỡ dành cho các nhà 5
- nghiên cứu và ngày nay, vẫn đang được quan tâm nghiên cứu sâu rộng hơn. Tìm hiểu biểu tượng chính là con đường khám phá thế giới tâm hồn sâu kín và bí ẩn của con người, là cầu nối giữa văn hóa dân tộc với văn minh nhân loại, giữa nhà văn và người đọc. Đây cũng chính là điểm hấp dẫn trong sáng tác của Murakami, làm nên sự bí ẩn và chiều sâu trong tác phẩm của ông. Do vậy, chúng tôi thực hiện đề tài Biểu tượng trong tiểu thuyết Haruki Murakami(Symbols in Haruki Murakami’s novels). 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu Xác định những luận điểm cơ bản của khái niệm biểu tượng văn học (literature symbol). Từ lí thuyết biểu tượng, chúng tôi tiếp cận, nhận diện và kiến giải hệ thống biểu tượng trong tiểu thuyết của Murakami. Với kết quả nghiên cứu của luận án, chúng tôi hi vọng cung cấp cái nhìn cụ thể hơn về lí thuyết biểu tượng và cách nghiên cứu phê bình biểu tượng. Xác định và giải mã biểu tượng trong tiểu thuyết của Murakami, luận án khám phá và kiến giải những nét đặc sắc trong thế giới biểu tượng của nhà văn, khẳng định vị trí và đóng góp của biểu tượng Murakami đối với nền văn học Nhật và văn học thế giới. Nhiệm vụ nghiên cứu Khái lược nội hàm khái niệm biểu tượng trong nghiên cứu biểu tượng, xác định những đặc điểm cơ bản của biểu tượng văn học. 6
- Tổng quan và vận dụng các kiến giải hợp lí từ các công trình nghiên cứu về tiểu thuyết và biểu tượng trong tiểu thuyết Murakami ở trong nước và trên thế giới. Khảo sát, nhận diện, phân tích và lí giải những nét đặc thù trong hệ thống biểu tượng của Murakami, đồng thời chỉ ra những giá trị nội dung và tư tưởng của Murakami. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu và giới thuyết khái niệm 3.1. Đối tượng nghiên cứu:Luận án tìm hiểu biểu tượng trong tiểu thuyết Murakamitập trung vào badạng biểu tượng tiêu biểu: Biểu tượng thiên nhiên, biểu tượng đồ vật, biểu tượng động vật. 3.2. Phạm vi nghiên cứu: Luận án nghiên cứu biểu tượng trong tiểu thuyết của Murakami, bao gồm: Rừng Na Uy, Biên niên kí chim vặn dây cót, Kafka bên bờ biển, Người tình Sputnik, Xứ sở diệu kỳ tàn bạo và chốn tận cùng thế giới , Nhảy Nhảy Nhảy,1Q84, Phía Tây biên giới, phía Nam mặt trời, Cuộc săn cừu hoang, Tazaki Tsukuru không màu và những năm tháng hành hương. 3.3. Giới thuyết khái niệm “Biểu tượng” Theo Từ điển tiếng Việt thì biểu tượng là: 1. Hình ảnh tượng trưng; 2. Hình thức nhận thức cao hơn cảm giác, cho ta hình ảnh của sự vật còn lưu giữ trong đầu óc sau khi sự vật không còn tác động vào giác quan ta. Trong Văn hóa học,biểu tượng được xem là “ngôn ngữ của cái bất khả tri giác”, là “dấu hiệu được phô bày ra bên ngoài để nhận biết sự sở thuộc cộng đồng”. Từ điển thuật ngữ văn học đưa ra quan niệm: “Trong nghĩa rộng, biểu tượng là đặc trưng phản ánh cuộc sống bằng hình tượng của văn học nghệ 7
- thuật. Theo nghĩa hẹp, biểu tượng là một phương thức chuyển nghĩa của lời nói hay một loại hình tượng nghệ thuật đặc biệt có khả năng truyền cảm lớn, vừa khái quát được bản chất của một hiện tượng nào đấy, vừa thể hiện một quan niệm, một tư tưởng hay một triết lí sâu xa về cuộc đời và con người”. Trong khuôn khổ luận án, chúng tôi không đi sâu nghiên cứu biểu tượng theo nghĩa rộng cũng như sẽ không phân tích những đúng/sai, hợp lý/không hợp lý trong các cách định nghĩa và xác định nội hàm khái niệm biểu tượng mà chúng tôi sẽ chỉ chuyên sâu vào phạm vi biểu tượng văn học, và sẽ khai thác biểu tượng theo hướng là hình ảnh biểu nghĩa cụ thể, những hình thức dùng hình ảnh này để tỏ nghĩa nọ mang tính khái quát và tư tưởng cao, một hình ảnh cụ thể để nói lên một (hoặc nhiều) ý niệm trừu tượng. Chúng tôi khai thác biểu tượng của Murakami ở ba nhóm: nhóm biểu tượ ng thiên nhiên, nhóm biểu tượ ng đồ vật và nhóm biểu tượ ng động vật. 4. Phương pháp nghiên cứu Luận án sử dụng phương pháp tiếp cận kí hiệu học, c ác phương pháp, thao tác nghiên cứu cụ thể được chú trọng, bao gồm: Phương pháp văn hóa – lịch sử;Phương pháp phê bình tiểu sử; Phương pháp so sánh; Thao tác thống kê. 5. Đóng góp của luận án Luận án là công trình nghiên cứu chuyên sâu về biểu tượng trong tiểu thuyết Murakami. Phương pháp nghiên cứu và kết quả luận án sẽ là cơ sở để nghiên cứu toàn diện về biểu tượng trong 8
- toàn bộ sáng tác của Murakami (cả tiểu thuyết lẫn truyện ngắn). Hệ thống hóa một số nét cơ bản về biểu tượng trong tiểu thuyết Murakami, chỉ ra được các giá trị nội dung tư tưởng qua hệ thống biểu tượng đó. Luận án cung cấp thêm một cách tiếp cận tiểu thuyết Murakami. Nghiên cứu tác phẩm từ lí thuyết biểu tượng là hướng đi rộng mở và hứa hẹn cách thức để tiếp cận tác phẩm của các tác giả khác. Chương 1.TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1. 1. Nghiên cứu tiểu thuyết Murakami 1.1.1. Ở nước ngoài Hoạt động nghiên cứu phê bình tiểu thuyết Murakami ở nước ngoài khá sôi nổi, trong những tài liệu thu thập được, chúng tôi phân loại theo các hướng nghiên cứu, bao gồm: Phê bình tiểu sử (các công trình của Jay Rubin, Megumi Yama, Jonathan Ellis, Mitoko Hirabayashi, Miller Laura), Phê bình xã hội học (các công trình của Chiaki Takagi, Bridget Sellers, Jiwoon Baik), Phê bình hậu hiện đại (các công trình của Deirdre Flynn, Matthew C. Strecher, Yoshio Iwamoto), Phê bình chủ đề (các công trình của Matthew Whelihan, Williams Mukesh, Matthew Strecher, Toshi Kawai), Nghiên cứu so sánh (các công trình của Maia Brown Jackson,Ida Mayer, John Updike, Justine McConnell, Edith Hall, Mirjam Büttner, Naomi Matsuoka, Brian Seemann, Kim de Willigen, Naomi Matsuoka), Phê bình Tự sự học (các công trình của Tiffany Hong, Will Slocombe, Welch Patricia, Virginia Yeung, 9
- Jay Rubin, Gareth Edward, Masatsugu Ono). Tuy nhiên, chưa có công trình nào trực tiếp nghiên cứu biểu tượng như hướng đề tài chúng tôi khai thác. 1.1.2. Ở Việt Nam Murakami là một cái tên không hề xa lạ đối với độc giả Việt Nam trong khoảng 20 năm trở lại đây. Việc nghiên cứu về Murakami bằng tiếng Việt (viết và dịch) tập trung vào một số phạm vi sau: Phê bình hậu hiện đại (các công trình của Đào Thị Thu Hằng, Nguyễn Bích Nhã Trúc, Ngô Trà Mi, Trần Thị Tố Loan, Lê Thị Diễm Hằng), Phê bình chủ đề (các công trình của Trần Tiễn Cao Đăng, Phạm Xuân Nguyên, Nguyễn Hoài Nam, Nguyễn Anh Dân), Phê bình Tự sự học (các công trình của Nhật Chiêu, Ngô Trà Mi, Lê Nguyên Cẩn), Nghiên cứu so sánh (các công trình của Nguyễn Thị Bích Thủy, Nguyễn Thị Mai Liên, Nguyễn Thị Kim Ngân, Ngô Viết Hoàn). Ngoài những nghiên cứu về sự ảnh hưởng của văn học dân gian đến tiểu thuyết Murakami, ở Việt Nam còn có các công trình viết về sự tác động của các tác giả Nhật Bản và trên thế giới thế hệ trước và cùng thời với nhà văn. Những nghiên cứu này cho thấy mối quan tâm của giới khoa học Việt Nam đến Murakami là rất lớn. 1.2. Nghiên cứu biểu tượng trong tiểu thuyết Murakami 1.2.1. Ở nước ngoài Hầu hết các bài viết về biểu tượng trong tiểu thuyết Murakami ở nước ngoài chủ yếu mới dừng lại ở việc định danh một số biểu tượng của Murakami chứ chưa đi sâu nghiên cứu (các 10
- bài viết của J. Nygren, D. Flynn, Chiaki Takagi, Roos Bunnik, M.Buttner…). Một số bài viết trên cơ sở khảo sát tác phẩm Murakami từ các phương diện khác nhau đã chạm đến hoặc phân tích một vài biểu tượng cụ thể (các bài viết của Heather H. Yeung, Matthew Strecher, Djakaria…) nhưng nhìn chung tính hệ thống về nghiên cứu biểu tượng của tiểu thuyết Murakami vẫn đang là vấn đề bỏ ngỏ. 1.2.2. Ở Việt Nam Vấn đề biểu tượng trong sáng tác của Murakami được nhắc đến trong nhiều bài viết (đáng chú ý là các bài viết của Nguyễn Anh Dân, Nguyễn Bích Nhã Trúc), nhưng đi phân tích chuyên sâu về biểu tượng một cách hệ thống thì vẫn chưa có một công trình nghiên cứu nào đáng chú ý. Tiểu kết:Điểm qua các công trình, chúng tôi nhận thấy tuy các nhà nghiên cứu Việt Nam chưa tập trung kh ảo sát biểu tượng của Murakami một cách hệ thống, nhưng những khảo sát và kiến giải các biểu tượng cơ bản trong tiểu thuy ết Murakami là những gợi mở vô cùng quan trọng để chúng tôi lấy làm cơ sở để thực hiện đề tài. Chương 2.BIỂU TƯỢNG THIÊN NHIÊN TRONG TIỂU THUYẾT MURAKAMI Biểu tượng thiên nhiên trong tiểu thuyết của Murakami khá đa dạng, xuất hiện dày đặc và đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của câu chuyện, đồng thời còn là môi trường để các nhân vật bộc lộ rõ nét thế giới nội tâm sâu sắc của mình. Trong luận án 11
- này, chúng tôi tập trung làm rõ biểu tượng thiên nhiên với ba nhóm biểu tượng chính: biểu tượng ánh sáng và bóng tối; biểu tượng đất và rừng; biểu tượng nước và những biến thể. 2.1. Biểu tượng “ánh sáng” và “bóng tối” Ánh sáng và bóng tối là hai thực tại đối lập nhau và không thể dung hòa. Nơi nào có ánh sáng mạnh mẽ hơn thì bóng tối phải tan đi; ở đâu có bóng đêm bao phủ thì ánh sáng phải nhường chỗ. “Ánh sáng được liên hệ với bóng tối, để tượng trưng cho những giá trị bổ sung hoặc thay phiên nhau trong một quá trình biến đổi”; “Ánh sáng tiếp theo bóng tối, trong trật tự biểu hiện vũ trụ cũng như là trong trật tự Khải ngộ nội tâm. Ánh sáng và bóng tối, nói một cách chung hơn, là một mặt phổ biến được biểu đạt chính xác bằng sự song hành của dương và âm […]. Đất có nghĩa là bóng tối, trời có nghĩa là ánh sáng”. Ánh sáng bóng tối là một cặp từ tượng trưng cho nhiều lãnh vực của cuộc sống: thánh thiện tội lỗi; hòa thuận chia rẽ; yêu thương hận thù; trí tuệ hoang sơ… 2.1.1. “Ánh sáng”: Biểu tượng của nguồn sống và lương tri; cái đẹp và cái thiện Ánh sáng trong tiểu thuyết Murakami là biểu tượng cho nguồn sống và lương tri. Nếu ánh sáng mặt trời biểu hiện uy trời, nỗi lo sợ và niềm hy vọng của con người, thì nó cũng không tỏ ra là một hiện hữu bất biến. Nó có thể biến mất và sự sống sẽ biến theo. Nhưng nếu ánh sáng mặt trời chết đi mỗi tối, nó lại hồi sinh hằng sáng và con người, coi số phận mình giống số phận ánh sáng, đã 12
- lấy được ở đó niềm hi vọng và niềm tin ở tính trường tồn của cuộc đời và của sức mạnh con người . Biểu tượng ánh sáng được thể hiện qua ý nghĩa của niềm hi vọng, là sự nhận thức, giác ngộ, là sự mặc khải, cứu rỗi, “sự thức t ỉnh c ủa ước v ọng, là ước muốn tình yêu”, biểu tượng cho tình yêu vĩnh cửu, là khát vọng được sống trong hạnh phúc trọn vẹn, gắn liền với ẩn ức về mặt tâm lí mà mỗi nhân vật phải tự đấu tranh quyết liệt để chiến đấu với bản thân mình. 2.1.2. “Bóng tối”: Biểu tượng của niềm đau, sự bế tắc và cái ác Bóng tối tiếp theo ánh sáng, trong trật tự biểu hiện vũ trụ cũng như trong trật tự Khải ngộ nội tâm. Tính nhị nguyên của hai yếu tố bóng tối và ánh sáng được xem là hiện tượng quen thuộc của các nền văn hóa trên thế giới. Đây cũng là nghĩa biểu trưng của một vài trải nghiệm thần hiệp: phía bên kia ánh sáng là bóng tối, và vượt qua bóng tối sẽ đến đượ c với ánh sáng. Trong sáng tác của Murakami, tính nhị nguyên này được kế thừa và sử dụng như một dấu ấn nghệ thuật. Bóng tối trong tiểu thuyết Murakami mang ý nghĩa biểu tượng cho nỗi sợ hãi, trầm uất vàlo sợ, sự tổn thương, đau đớn cả về thể chất và tinh thần, là những bế tắc trong đời sống của nhân vật chính. Tiểu thuyết của Murakami là thế giới của những mảnh đời bất hạnh, mang trong mình bi kịch hoặc dự cảm về bi kịch. Đó là thế giới của bóng tối, tràn ngập những đau khổ, mất mát... Bóng tối còn là biểu tượng của điều ác, bạo lực, thú tính, phi nghĩa. 2.2. Biểu tượng “đất” và “rừng” 13
- 2.2.1. “Đất”: Biểu tượng của chết chóc và lụi tàn “Đất” trong tiểu thuyết của Murakami ít mang dấu hiệu của sự sống, sự sinh sôi mà gắn liền với sự chết, sự lụi tàn, hủy diệt . Những vùng đất chết không chỉ là biểu tượng của cuộc sống tù đọng, quẩn quanh của con người hiện đại, mà đó còn là vùng đất chết trong nội tâm, của đời sống tinh thần bế tắc, không gắn kết và thiếu sẻ chia. Để hồi sinh được vùng đất chết, nhân vật của Murakami phải chủ động tham gia vào những cuộc hành trình tìm kiếm giải pháp, hoặc thậm chí tìm kiếm những vùng đất mới, thế giới ngầm, đồng thời, qua hành trình kiếm tìm đó, họ tìm kiếm bản ngã của chính mình. 2.2.2.“Rừng”: Biểu tượng của sự dung túng và sản sinh cái xấu Là dòng chảy tiếp nối của tâm thức cổ xưa, rừng trong tiểu thuyết Murakami không chỉ là biểu tượng của “nỗi khiếp sợ rừng” mà còn là biểu tượng của cái chết, môi trường dung chứa và sản sinh cái ác, là biểu tượng của thế giới nội tâm sâu kín “vùng tối trong tâm trí chúng ta”. Hành trình hướng vào tim rừng chính là hành trình hướng thẳng vào tâm trí, vào vùng tối tiềm thức của nhân vật nhằm đối mặt với nỗi sợ hãi cũng như “vãn hồi cái bản ngã” đang dần tiêu tan trong họ. 2.3. Biểu tượng “nước” và những biến thể 2.3.1. “Nước” hữu hình – biểu tượng của sự thanh tẩy và tái sinh Ý nghĩa tượng trưng của nước thường xoay quanh ba chủ đề chính: “nước nguồn sống, nước phương tiện thanh tẩy, và nước trung tâm tái sinh”. Đây là ba chủ đề thường xuyên được 14
- đề cập đến trong các truyền thuyết, huyền thoại cổ, từ đó hình thành những lớp kết cấu ý nghĩa bền vững. Cùng với tính năng thanh tẩy, nước còn mang trong nó sức mạnh tái sinh, sức mạnh của sự bất tử. Sức mạnh ấy ẩn chứa dưới lớp vô thức và là sức mạnh không định hình của tâm hồn. Với Murakami, biểu tượng nước thường được ông biến hóa thành những chuyển thể như mưa, sông, suối, biển... với ý nghĩa là “công cụ thanh tẩy”, có hiệu lực xóa bỏ mọi lỗi lầm, mọi vết nhơ trong hành động và tâm hồn nhân vật. 2.3.2. “Nước”vô hình – biểu tượng của nguồn năng lượng hàn gắn Là một biến thể của mẫu gốc nước, biểu tượng dòng chảy trong tiểu thuyết Murakami một mặt mang những nghĩa biểu trưng chung của nước, một mặt có những hướng nghĩa biểu trưng riêng gắn liền với bản thể của nó. Tái sinh trong tiểu thuyết Murakami, biểu tượng này vừa thấm đẫm những cảm quan chung của vô thức cộng đồng vừa mang dấu ấn riêng của phong cách tác giả, thể hiện sự biến đổi, điều chỉnh, tính năng động của biểu tượng. Ở Murakami, dòng chảy trước hết mang ý nghĩa của dòng đời, định mệnh của mỗi người, là một nguồn năng lượng, dòng chảy tự nhiên của tinh thần. Đó là sự kết nối, chia sẻ, đồng cảm giữa những cá thể cô đơn trong cộng đồng và trong mỗi gia đình nhỏ. Dòng chảy này tạo ra nguồn năng lượng vô cùng cần thiết cho mỗi chúng ta, nuôi dưỡng thế giới tâm hồn phong phú nhưng cũng vô cùng bí ẩn và phức tạp. Nếu dòng chảy ngưng trệ, hoặc bị tắc nghẽn, điều đó sẽ tạo ra những biến cố, bi kịch cho cu ộc 15
- sống mỗi người. Tiểu kết: Biểu tượng thiên nhiên (ánh sáng, bóng tối, đất, rừng, nước…) là một dạng biểu tượng độc đáo xuất hiện trong tiểu thuyết Murakami. Nhà văn không chỉ tái sinh mẫu gốc mà còn chuyển hóa, để chúng phù hợp với tâm thức, với tầm tri nhận nghĩa trong đời sống của con người hậu hiện đại. Mỗi biểu tượng dường như đều mang trong nó tính nhị nguyên, gắn với những đặc tính tích cực và tiêu cực: sự sống, sự bừng ngộ về nhận thức, tình yêu, nguồn chết, nỗi sợ hãi, cái ác... gắn liền với sự trải nghiệm, cảm xúc, kí ức... của nhân vật trong hành trình tìm kiếm bản ngã của chính mình. Tính nhị nguyên này được Murakami kế thừa và sử dụng như một căn tính nghệ thuật. Điều đặc biệt, biểu tượng thiên nhiên trong tiểu thuyết Murakami góp phần đặc tả thế giới bên trong – thế giới vô thức của con người. Nhà văn đã vận dụng khéo léo và sáng tạo các sắc thái ý nghĩa của biểu tượng thiên nhiên để làm nổi bật sức mạnh, sự bí ẩn, sự phức tạp, không thể nắm bắt của thế giới đó. Chương 3. BIỂU TƯỢNG ĐỒ VẬT TRONG TIỂU THUYẾT MURAKAMI Murakami là một trong những bậc thầy trong việc sử dụng biểu tượng đồ vật. Dưới ngòi bút của ông, đồ vật hiện lên như những biểu tượng đa nghĩa, chuyển tải nhiều ý nghĩa sâu sắc và triết lí nhân sinh độc đáo của nhà văn. 3.1. Biểu tượng “gương” 16
- Gương gắn bó với cuộc sống con người, trở thành một biểu tượng quen thuộc trong sáng tác của nhiều nhà văn trên thế giới. Biểu tượng “gương” xuất hiện nhiều lần trong tác phẩm Murakami, là yếu tố nghệ thuật quan trọng, góp phần chuyển tải thông điệp của nhà văn. Biểu tượng gương là sự kế thừa, tiếp nối dòng chảy của văn hóa, văn học nhân loại, nhưng nó còn là sự kế thừa có sáng tạo, được nhà văn thổi vào đó tinh thần thời đại, góp phần đem lại vẻ đẹp riêng cho những trang viết của riêng mình. 3.1.1. “Gương”: Biểu tượng của “sự thật” Nhân vật nam hay nữ trong tiểu thuyết Murakami đều thích soi gương. Gương xuất hiện hầu hết trong các sự kiện chính xảy ra với cuộc đời họ, mỗi khi nhân vật phải đứng trước sự đấu tranh nội tâm hay tham gia vào một hành trình dấn thân để tự thay đổi. Với Murakami, “gương” là biểu tượng của sự thật, tính chân thực. Gương với tính năng phản chiếu tia sáng, phản chiếu các dạng vật thể như chúng vốn có, không chỉ giúp nhân vật nhìn thấy sự phản chiếu khuôn mặt, vẻ ngoài của bản thân mà sâu xa hơn, gương giúp nhân vật nhận ra thực tại mỏi mòn, vô vị, là sự tự phản chiếu mình vào ý thức và lương tâm để nhân vật nhận thức sâu sắc hơn về bản ngã, nhận diện được chính mình, nhất là sau khi đối diện, trải qua những biến cố kì lạ xảy ra trong đời. Chiếc gương soi mang ý nghĩa biểu tượng cho hành trình tự xem xét bản thân của nhân vật chính. 3.1.2. “Gương”: Biểu tượng của thế giới nội tâm phức tạp Gương soi còn xuất hiện như một nhân vật có đời sống riêng, song hành với các câu chuyện của nhân vật khác, phản ánh tâm tư 17
- của họ theo nhiều chiều và không ngừng mở ra những cách nhìn khác nhau cho người đọc. Chiếc gương soi trở thành phương tiện giúp nhà văn hé mở phần nào đời sống bên trong mỗi nhân vật. Gương trong tiểu thuyết Murakami mang biểu tượng của sự phản chiếu sâu thẳm những gì trong trái tim, phản ánh một góc tối của thế giới tâm hồn nhân vật ở khía cạnh tiêu cực. Nhân vật tìm thấy bản ngã của chính mình trong gương, bản ngã làm anh ta sợ hãi và căm ghét vì không thể nắm bắt được “tôi hay là cái bóng của tôi”. Gương trở thành “vật nhận thức” của nhân vật. Từ góc độ này gương mang nghĩa tích cực, giúp con người soi chiếu để nhận ra được, có thể một phần nào đó, rằng mình là ai. 3.1.3. “Gương”: Biểu tượng của đường biên thực ảo Trong tiểu thuyết Murakami, vấn đề về con người phải tồn tại với “chiếc mặt nạ”, để hóa thân cùng lúc nhiều vai diễn khác nhau trên sân khấu cuộc đời luôn được nhà văn trở đi trở lại như một motif chính. Murakami luôn đặt nhân vật của mình vào trạng thái hoang mang, giằng xé, đau đớn về mặt tinh thần khi phải sống chung với nhiều cái ngã khác nhau. Điều đáng sợ nhất là chính họ cũng không thể nắm bắt được đâu là “ngã” thực sự. Nhà văn đã tạo ra những không gian tồn tại của bản ngã, mà ông gọi bằng nhưng cái tên khác nhau như: thế giới “thực ảo”; thế giới “bên này” thế giới “bên kia”, thế giới “bên ngoài” và “bên trong”. Đặc biệt, “cái tôi bên này” và “cái tôi bên kia” vừa tồn tại song song ở hai thế giới, vừa có thể tìm nhau. Murakami thường dùng hình ảnh “rìa thế giới” để chỉ những nơi giao nhau, ranh giới giữa 18
- hai không gian ấy. Gương trong nhiều tác phẩm của Murakami, đóng vai trò là “đường biên”, là “lằn ranh” giữa hai thế giới, đồng thời nó có thể mang ý nghĩa kép của sự lưỡng diện đó. 3.2. Biểu tượng “nhà”hay nỗi ám ảnh và kí ức đau buồn 3.2.1. “Nhà”: nỗi ám ảnh và kí ức đau buồn Nhà trong tiểu thuyết Murakami không phải là mái ấm, là nơi giữ lửa hạnh phúc mà đó là ngục tù kìm hãm bản ngã cá nhân, khiến con người chịu đựng trong sự cam chịu hoặc tìm mọi cách để chạy trốn khỏi không gian bức bối đó. Chính những tổn thương ấy trở thành kí ức đau buồn, ám ảnh suốt cuộc đời nhân vật. Với họ, nhà là biểu tượng của khát vọng hạnh phúc, là giấc mơ về chốn bình yên, là thiên đường trên mặt đất mà suốt một đời họ tìm kiếm. Vì thế, song song với hành trình kiếm tìm bản ngã trong tiểu thuyết Murakami còn là hành trình tìm kiếm hạnh phúc của con người. 3.2.2. “Nhà”: nỗi trống rỗng tâm hồn Nhà trong tiểu thuyết Haruki Murakami không phải là biểu tượng của mái ấm, khát vọng hạnh phúc mà còn là biểu tượng của nỗi trống rỗng tâm hồn. Ở Murakami, sự trống rỗng về mặt tinh thần của nhân vật không chỉ được Murakami khắc họa qua đôi mắt, ánh nhìn – hình ảnh phản chiếu chân thực thế giới nội tâm mà còn là hình ảnh “căn phòng”, “căn nhà trống không đồ đạc”. Không phải ngẫu nhiên mà hình ảnh của những ngôi nhà hoang, những khách sạn với vẻ ngoài cũ kĩ, dột nát và thiếu đồ đạc bên trong xuất hiện dày đặc trong nhiều tác phẩm của nhà 19
- văn. Nhà văn còn sử dụng kiểu câu so sánh quen thuộc: “như một ngôi nhà rỗng”, “như một căn nhà cũ”, “ngôi nhà hoang”... để làm nổi bật góc nhìn của ông về sự trống rỗng và lạc lối của con người hiện đại. 3.2.3. “Nhà”: kết nối và khôi phục bản ngã Bản ngã ở Murakami đóng vai trò vô cùng quan trọng để làm nên một “cái tôi đích thực”. Nó “trở thành một nguồn nhiệt điều khiển mỗi con người từ bên trong”. Không có bản ngã, hoặc đánh mất bản ngã, con người chỉ là “căn phòng không có đồ đạc”, “một ngôi nhà rỗng”, với những căn phòng tăm tối... Trong nhiều tác phẩm Murakami, bản ngã hiện diện qua hình ảnh những ngôi nhà, căn phòng trong khách sạn, nhà nghỉ bí ẩn... xuất hiện trong cả thực tại và giấc mơ. Hành trình tìm kiếm bản ngã là hành trình mà nhân vật phải bước vào căn nhà của chính mình, lần tìm những căn phòng bí mật, hoặc đi xuống tầng hầm tâm trí, để khám phá hết những góc khuất sâu kín trong tâm hồn. Đó là hành trình đào sâu vào thế giới vô thức bên trong, vật lộn với cái ác, với những kí ức mất mát, đau thương, không ngừng truy vấn để phục hồi bản sắc cốt lõi đang có nguy cơ bị đánh mất. Dẫu có hoang mang và mất phương hướng, họ vẫn luôn trăn trở, tìm kiếm cái bản ngã đích thực của mình bằng những hành trình và nỗ lực không ngừng nghỉ. Tiểu kết: Biểu tượng “đồ vật” ở Murakami có giá trị như những thực thể sống. Dưới cái nhìn biểu tượng, thế giới đồ vật của Murakami không đơn thuần là những vật vô tri vô giác, mà 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Giáo dục học: Phát triển tư duy vật lý cho học sinh thông qua phương pháp mô hình với sự hỗ trợ của máy tính trong dạy học chương động lực học chất điểm vật lý lớp 10 trung học phổ thông
219 p | 289 | 35
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Chiến lược Marketing đối với hàng mây tre đan xuất khẩu Việt Nam
27 p | 183 | 18
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Hợp đồng dịch vụ logistics theo pháp luật Việt Nam hiện nay
27 p | 269 | 17
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Thúc đẩy tăng trưởng bền vững về kinh tế ở vùng Đông Nam Bộ đến năm 2030
27 p | 210 | 17
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu điều kiện lao động, sức khoẻ và bệnh tật của thuyền viên tàu viễn dương tại 2 công ty vận tải biển Việt Nam năm 2011 - 2012
14 p | 269 | 16
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ: Nghiên cứu tối ưu các thông số hệ thống treo ô tô khách sử dụng tại Việt Nam
24 p | 253 | 12
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Giáo dục Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên trường Đại học Cảnh sát nhân dân hiện nay
26 p | 154 | 12
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu tính toán ứng suất trong nền đất các công trình giao thông
28 p | 223 | 11
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế Quốc tế: Rào cản phi thuế quan của Hoa Kỳ đối với xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam
28 p | 182 | 9
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Xã hội học: Vai trò của các tổ chức chính trị xã hội cấp cơ sở trong việc đảm bảo an sinh xã hội cho cư dân nông thôn: Nghiên cứu trường hợp tại 2 xã
28 p | 149 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam bộ: Tình hình, nguyên nhân và phòng ngừa
27 p | 199 | 8
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phản ứng của nhà đầu tư với thông báo đăng ký giao dịch cổ phiếu của người nội bộ, người liên quan và cổ đông lớn nước ngoài nghiên cứu trên thị trường chứng khoán Việt Nam
32 p | 183 | 6
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Tư tưởng Triết học của Tôn Trung Sơn và ý nghĩa của nó
32 p | 162 | 6
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Quản lý nhà nước đối với giảng viên các trường Đại học công lập ở Việt Nam hiện nay
26 p | 136 | 5
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học: Phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở hành động hỏi tiếng Anh và tiếng Việt
27 p | 119 | 4
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu mức lọc cầu thận bằng Cystatin C huyết thanh ở bệnh nhân tiền đái tháo đường và đái tháo đường típ 2
38 p | 94 | 4
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc kỳ hạn nợ phương pháp tiếp cận hồi quy phân vị và phân rã Oaxaca – Blinder
28 p | 27 | 3
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển sản xuất chè nguyên liệu bền vững trên địa bàn tỉnh Phú Thọ các nhân tố tác động đến việc công bố thông tin kế toán môi trường tại các doanh nghiệp nuôi trồng thủy sản Việt Nam
25 p | 173 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn