intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: So sánh phương thích nối trong văn bản tiếng Việt và tiếng Anh

Chia sẻ: Lavie Lavie | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:202

116
lượt xem
22
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: So sánh phương thích nối trong văn bản tiếng Việt và tiếng Anh giới thiệu tới các bạn những nội dung về quan hệ giữa phép nối, mạch lạc và văn bản; cấu tạo từ ngữ nối và quan hệ nghĩa, ngữ pháp của phép nối; một số điểm tương đồng và khác biệt của phép nối trong văn bản tiếng Việt và tiếng Anh.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: So sánh phương thích nối trong văn bản tiếng Việt và tiếng Anh

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH BÙI VĂN NĂM SO SÁNH PHƯƠNG THỨC NỐI TRONG VĂN BẢN TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG ANH Chuyên ngành: Lý luận ngôn ngữ Mã số: 62.22.01.01 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN Người hướng dẫn khoa học: PGS TS. TRỊNH SÂM Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2010
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nê u trong Luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố trong một công trình nào khác. Tác giả luận án Bùi Văn Năm Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2010
  3. QUY ƯỚC VIẾT TẮT Liên kết LK Luận án LA Ngữ pháp văn bản NPVB Ngôn ngữ học NNH Phân tích diễn ngôn PTDN Phương thức liên kết PTLK Phép nối PN Từ ngữ nối TNN Văn bản VB Số cứ liệu 20, Nam Cao, Chí Phèo [20, NC , CP]
  4. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Ngữ pháp truyền thống xem câu là đơn vị lớn nhất, trên câu không có một đơn vị nào khác, do vậy, trước những hiện tượng tuy bị khuôn định trong phạm vi câu như các từ ngữ nối (TNN): nói tóm lại, trước hết, kế đến ... hoặc các đơn vị qui mô lớn hơn câu như chỉnh thể trên câu, đoạn văn, chương, phần… thì chưa được chú ý đến. Vì vậy, ngữ pháp văn bản (NPVB) và phân tích diễn ngôn (PTDN) ra đời như một tất yếu của quá trình nghiên cứu ngôn ngữ học (NNH), để giải quyết những vấn đề ngôn ngữ trong hành chức mà do nhiều lý do ngữ pháp câu chưa vươn tới. Những công trình đặt nền móng cho NNH văn bản đã xuất hiện vào những năm 501 của thế kỷ XX. Nhưng lúc bấy giờ có ít người quan tâm đến sự tồn tại của ngành học này. Bước sang những năm 70 của thế kỷ XX, NNH văn bản đã nhanh chóng đạt tới thời kỳ phát triển nở rộ. Ở Việt Nam, sau đó, từ những năm 80 của thế kỷ XX, các thành tựu nghiên cứu ngành học này, bước đầu, được đưa ra giảng dạy ở trường phổ thông và đã thu được những kết quả nhất định. Các nhà NNH hiện đại như J. L. Austin(1962)2, quan niệm rằng, giao tiếp bằng ngôn ngữ, thực chất là một hành động tương tác giữa con người với nhau. Đó là một phát hiện độc đáo về chức năng của ngôn ngữ, giúp các nhà ngữ học đánh giá đúng bản chất mọi mặt biểu hiện của giao tiếp lời nói. Khi bàn đến giao tiếp lời nói thì phải nói tới phát ngôn3 (câu) và diễn ngôn (văn bản). Và do đó mà E. Benveniste đã có nhận định rằng “câu là sự sáng tạo không cùng, sự đa dạng không có giới hạn, chính là đời sống của ngôn ngữ đang hành chức”. Càng ngày các nhà NNH càng nhận thấy rằng nghiên cứu VB và diễn ngôn thì không thể tách rời các phát ngôn một cách đơn lẻ. Và, như vậy thì chưa giải quyết triệt để được vấn đề phân tích mọi khía cạnh ngữ nghĩa của lời nói, của phát ngôn. “Nếu xem xét bản thân mỗi phát ngôn riêng lẻ sẽ không thể giải thích nhiều hiện tượng biểu hiện trong phạm vi phát ngôn, nhưng lại liên quan tới nhiều khía cạnh ngoài phát ngôn, ngoài câu” [108, tr. 13]. Những nhà NNH VB như P. Hartmann (1968) và W.Dressler (1970) đã thừa nhận VB là đơn vị lớn nhất có chức năng giao tiếp. Nó đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều ngành học khác nữa, trong đó có NNH. Những năm 70 của thế kỷ XX, nhiều công trình lý luận về NPVB đã đến với các nhà Việt ngữ học. Nhiều thành tựu NPVB đã được ứng dụng vào việc nghiên cứu tiếng Việt. Nhờ đó, nhiều cuốn sách, bài viết nghiên cứu về NPVB tiếng Việt, đã được xuất bản hoặc được giới thiệu khá phong phú trên tạp chí chuyên ngành. Và cũng từ đó, việc nghiên cứu tiếng Việt có thêm những khám phá mới, nhất là khi có vận dụng những thành tựu của NPVB và PTDN vào để miêu tả tiếng Việt.
  5. Ngày nay, việc khảo sát lời nói đặt trong chuỗi phát ngôn, đặt trong VB là một vấn đề có tính nguyên tắc, khi phân tích ngữ nghĩa của phát ngôn, trong các hoàn cảnh giao tiếp cụ thể. Hay nói một cách khác, nghiên cứu ngữ nghĩa biểu hiện của các phát ngôn trong ngôn cảnh, là một xu hướng nghiên cứu phổ biến, được đặc biệt chú ý trong ngôn ngữ học hiện đại. Và trong thực tế, NNH hiện đại – với những thành tựu xuất sắc của ngữ dụng học - đã đem lại ý nghĩa lý luận và thực tiễn lớn lao về lĩnh vực này. NPVB trở thành một chuyên ngành NNH, theo chúng tôi, vẫn còn đặt ra nhiều đề tài hấp dẫn cho những ai quan tâm đến nó. Liên kết (LK; tiếng Anh: cohesion) trong VB là một hiện tượng luôn được đề cập và khảo sát trước tiên trong NPVB. Vấn đề này đã được nhiều nhà NNH xem xét với những phạm vi và mức độ khác nhau. Bởi vì, nếu quan sát các phát ngôn trong giao tiếp, ta sẽ thấy bên cạnh những phát ngôn có ý nghĩa hiển ngôn, còn có những phát ngôn mà nếu chúng ta tách riêng ra để tìm hiểu thì nhiều khi chúng ta thấy nó trở nên mơ hồ, có khi tối nghĩa. Trong một ngữ đoạn, có thể có phát ngôn chỉ là một từ, một ngữ, thậm chí một từ tình thái. Hãy quan sát các ví dụ sau: (1) Tức mình, hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Đại. Nhưng cả làng Vũ Đại ai cũng tự nhủ: “Chắc nó trừ mình ra!”. Không ai lên tiếng cả. Tức thật! Ồ, thế này thì tức thật! Tức chết đi được mất! [26, NC, CP] (2) Có một người đi chơi xa, dặn con là có ai hỏi thì nói là bố đi vắng. Cẩn thận hơn, ông liền viết vào giấy để nếu con có quên thì đưa tờ giấy để khách biết. Cậu con cầm tờ giấy bỏ vào túi áo. Tối đến, sẵn có ngọn đèn, nó tò mò mở giấy ra xem, chẳng may vô ý để giấy cháy mất. Hôm sau, có người đến chơi hỏi: - Thầy cháu có nhà không? Nó ngẩn người . Sực nhớ ra, nó sờ vào túi và hốt hoảng: - Mất rồi! Khách giật mình hỏi: - Mất bao giờ? - Mất hôm qua… - Vậy sao mà mất? - Cháy… [79, TCDGVN] Nếu chúng ta tách riêng các phát ngôn được in nghiêng trên đây để khảo sát về ngữ pháp – ngữ nghĩa: trước hết, chúng là những phát ngôn chưa có đủ các thành phần 'nòng cốt' (chủ ngữ - vị ngữ), là những phát ngôn 'đặc biệt' và biểu thị ý nghĩa không trọn vẹn, không rõ ràng. Nhưng trong hoạt động giao tiếp, có rất nhiều phát ngôn mà không thể quy về các mô hình câu hay quy về hình thức của mô hình cấu trúc cú pháp nào. Ngữ pháp truyền thống (ngữ pháp câu) coi đó là những hiện tượng không chuẩn mực, không điển hình. Nhưng trong giao tiếp, đó chính là những biểu hiện phong phú về biểu đạt. Đó là nét
  6. đẹp, sự linh hoạt, sự đa dạng trong cách diễn đạt của các nhà văn, là sự uyển chuyển trong hoạt động ngôn ngữ của con người. Đây chính là thực tiễn giao tiếp sinh động, là cái hay và đồng thời cũng là cái phức tạp dưới góc độ phân tích ngữ pháp - ngữ nghĩa, PTDN, dưới ánh sáng của NNH hiện đại. N. D. Arutjunova đã viết: “Ra khỏi phạm vi của những câu kinh điển, người nghiên cứu rơi vào một đại dương rộng mở và không bờ bến của những câu […] rất ít được quy phạm hóa về mặt hình thức” [108, tr. 14]. Thực tiễn giao tiếp cho thấy rõ ràng, phát ngôn chỉ là một yếu tố trong tổng thể diễn ngôn. Nó không phải tồn tại một cách cô lập mà giữa chúng có một chuỗi quan hệ về nghĩa, về chức năng. Nói khác đi, chúng hình thành nên một hệ thống LK. Những thành tựu nghiên cứu về phương thức LK văn bản, đã gợi mở và thúc đẩy chúng tôi tiếp tục khảo sát, nghiên cứu theo hướng đi sâu vào một phương thức LK cụ thể trong hệ thống LK VB tiếng Việt. Qua thực tế giảng dạy ngữ văn ở trường trung học phổ thông, nhất là giảng dạy môn tiếng Việt và môn tập làm văn, chúng tôi nhận thấy còn nhiều giáo viên lúng túng khi gặp phải những vấn đề mà nếu chỉ dựa vào ngữ pháp truyền thống thì không thể nào lý giải một cách thuyết phục. Còn học sinh thường không nắm vững lý thuyết về nối LK4, thường mắc lỗi về hành văn, lỗi lập luận, lỗi mạch lạc trong bài làm, nhất là trong tập làm văn. Nếu học sinh hiểu một cách đầy đủ hơn về các phép LK câu, LK đoạn văn thì chắc chắn sẽ có thể tạo ra những câu văn sáng sủa, những đoạn văn, bài văn mạch lạc, khúc chiết hơn nhiều (xem phụ lục số 1 và phụ lục số 2). Nghiên cứu ngôn ngữ gắn liền với hoàn cảnh sử dụng, gắn với con người sử dụng chính là khuynh hướng chủ yếu của các nhà ngôn ngữ học hiện đại. Có thể kể như NNH tri nhận (cognitive linguistics), NNH chức năng (functional linguistics), NNH tâm lý (psychological linguistics)… Riêng NNH văn bản, như ta đã biết là một ngành khoa học lúc đầu gồm có ba bộ phận: (i) Lý thuyết văn bản đại cương (ii) Phong cách học văn bản (iii) Ngữ pháp văn bản. Trong đó vấn đề 'liên kết' thuộc bộ phận NPVB, là hiện tượng được các nhà ngữ pháp học chú ý nghiên cứu đầu tiên và nhiều nhất. Vì người ta đã khẳng định rằng, “văn bản không phải là một phép cộng đơn thuần giữa các câu mà giữa chúng có những sợi dây liên hệ chặt chẽ, trong đó mỗi câu riêng biệt gắn bó chặt chẽ với những câu còn lại”[98]. M.A.K. Halliday và R. Hassan (1976) cũng đã viết: "These non-structural resourses for discourse are what are referred to by the term cohesions". Có thể tạm dịch: “Những nguồn lực phi cấu trúc của diễn ngôn là những điều được xác định bởi những phương thức LK”. Trên cứ liệu tiếng Anh, hai tác giả này là những người đầu tiên nghiên cứu ngữ pháp văn bản theo khuynh hướng mở rộng, trong đó LK giữa các phát ngôn đã được các tác giả mô hình hoá một cách khái quát.
  7. Trên cứ liệu tiếng Việt, về mặt khái quát, hệ thống LK đã được xác định (Trần Ngọc Thêm 1985, Nguyễn Thị Việt Thanh 1999) ... Và một số phương thức LK cụ thể cũng đã được nghiên cứu (Phạm Văn Tình 2002, Nguyễn Phú Thọ 2008) ... Tuy nhiên, có thể nói rằng đó mới chỉ là bước đầu. Nhiều đề tài nghiên cứu về một phương thức LK cụ thể vẫn còn mới mẻ. Chỉ riêng về phương thức nối - hay phép nối (PN) đã đặt ra nhiều vấn đề cần được lý giải: (i) PN được sử dụng trong các thể loại VB như thế nào ? (ii) PN có liên quan gì đến quan hệ ngữ nghĩa, ngữ pháp và mạch lạc của các phát ngôn, của VB, của diễn ngôn ? (iii) Đặc điểm về cấu tạo và định danh ngữ pháp của các phương tiện ngôn ngữ được dùng trong PN? (iv) Sự thể hiện PN trong văn bản tiếng Việt và tiếng Anh có những điểm tương đồng và dị biệt như thế nào? ... Bấy nhiêu vấn đề tiềm ẩn đó, đã thôi thúc chúng tôi suy nghĩ để chọn một đề tài nghiên cứu cho mình. Từ tất cả những điều kể trên, khiến chúng tôi chọn vấn đề “So sánh phương thức nối trong văn bản tiếng Việt và tiếng Anh” làm đề tài cho luận án (LA) này. 2. Mục đích nghiên cứu Để thực hiện đề tài này LA đặt ra những mục đích nghiên cứu như sau: (i) Lý giải về vai trò tất yếu của PN trong việc tạo ra mạch lạc trong VB nói chung, trong lập luận nói riêng. (ii) Xác lập bản chất ngôn ngữ của PN tiếng Việt, có so sánh với tiếng Anh. LA tập trung khảo sát chủ yếu trên hai bình diện: cấu tạo của TNN và vai trò của chúng trong việc thiết lập các quan hệ ngữ nghĩa và ngữ pháp qua PN. (iv) Đi tìm sự tương đồng và khác biệt trên hai bình diện đã xác định của PN trong tiếng Anh – một ngôn ngữ biến hình và trong tiếng Việt – một ngôn ngữ đơn lập. (v) Từ các kết quả này, thông qua khảo sát thực tế, LA đề xuất một số biện pháp về giảng dạy và đối dịch Anh – Việt, Việt – Anh về PN. 3. Phạm vi nghiên cứu PN là một phương thức LK VB phổ biến và được coi là một trong những điều kiện cần thiết để tạo ra mạch lạc, để tổ chức VB, diễn ngôn. PN không chỉ có chức năng LK các phát ngôn với nhau mà còn LK cả những đơn vị lớn hơn như: các đoạn văn, các chương, các phần khác nhau của văn bản, của diễn ngôn để tạo nên một khối thống nhất chặt chẽ về cấu trúc và ý nghĩa. Vì vậy, nó cần phải được xem xét trước hết với tư cách một phương thức LK độc lập, đồng thời, cần được đối chiếu, xác lập chức năng LK, quan hệ ngữ nghĩa, giá trị ngữ pháp, trong hệ thống LK văn bản tiếng Việt.
  8. Và chúng ta đã biết, PN có thể xuất hiện trong một phát ngôn và giữa các phát ngôn và các cấp độ lớn hơn phát ngôn. LA này chỉ tập trung khảo sát PN giữa các phát ngôn. Dựa theo cách biện giải của Trần Ngọc Thêm (1985) có thể hình dung: - Gọi U1 là phát ngôn, U2 là phát ngôn kế cận, c là yếu tố LK thì PN có thể được hình dung bằng một mô hình tổng quát5 sau đây: U1. c U2 (U: utterance; c: connector) (3) Tôi vội vàng bước ra khỏi nhà. Và nó cũng nối gót theo sau U1 . c U2 Trong đó c là từ ngữ nối (TNN), thực hiện chức năng nối. Đây là mô hình có tính chất điển hình, trong thực tế còn có các dạng: (i) c1 U1.c2U2. c3 U3 (4) Thoạt đầu thì người vợ chính ngạc nhiên. Rồi thì tức tối. Sau cùng thì nhẫn nại, phải nhẫn nại là hơn, nếu hắn về thì cũng thế. [47, NCH, BĐC] c1 = thoạt đầu; c2 = rồi; c3 = sau cùng. (ii) U1 . Ø U 2 (5) Gió mỗi lúc một mạnh. (Và) Đoàn xe vẫn lao đi vun vút trong mưa. [13, HTHN] Đây là kiểu nối không có TNN (nối zêrô)6. Dù rằng, tác giả không dùng TNN và (hay một TNN nào khác), nhưng về mặt nguyên tắc, ta có thể xác lập quan hệ nghĩa và lựa chọn những TNN tương thích để tạo ra PN giữa hai phát ngôn trên đây. Trong phần lớn các trường hợp, LA chỉ tập trung khảo sát ở mô hình điển hình, sau đó là mô hình ở (i), còn ở (ii) chỉ xem xét khi thật cần thiết, nhất là khi cần biện giải cho PN và các phép LK liên quan. 4. Lịch sử nghiên cứu đề tài Các câu trong VB thường có ‘sợi dây liên hệ chặt chẽ’ tạo ra sự gắn kết giữa câu với câu, trong đó PN là một phương thức LK hình thức trong hệ thống LK trong VB. Việc nghiên cứu về PN trong VB tiếng Việt, trong thực tiễn, còn đặt ra nhiều vấn đề cần phải tiếp tục bàn sâu, làm rõ. Sau đây chúng tôi thử
  9. điểm qua những công trình nghiên cứu về các phương thức LK trong VB nói chung và việc nghiên cứu PN nói riêng. Trên thế giới, các công trình đầu tiên, đặt nền móng và khẳng định sự ra đời của NPVB bắt đầu xuất hiện vào cuối những năm 40 của thế kỷ XX. Các nhà NNH đều nhận thấy phải mở rộng phạm vi nghiên cứu ngôn ngữ. M. A. K. Halliday (1976), nhận định, đơn vị cơ bản khi chúng ta sử dụng ngôn ngữ không phải là từ hay câu mà là VB. Nguyễn Quang Ninh, 1989 viết “ cần dành một vị trí riêng cho chuỗi hoàn chỉnh các câu có chung ý nghĩa và là một chỉnh thể cú pháp – ngữ nghĩa nhất định”. Cùng nhận định về đối tượng nghiên cứu ngôn ngữ tương đối mới mẻ này, H. Harmann (1965) cũng cho rằng, các ký hiệu ngôn ngữ chỉ bộc lộ mình, chừng nào chúng là những cái gắn bó với nhau trong VB…Mọi người chỉ nói bằng VB, chứ không phải bằng các từ và bằng các câu, ít ra cũng bằng các câu làm thành từ các từ nằm trong VB. W. Dressler (1970) cũng thống nhất ý kiến rằng, trong thời đại chúng ta mọi người thừa nhận rằng đơn vị ngôn ngữ cao nhất, ít lệ thuộc nhất, không phải là câu mà là VB. NPVB là một bộ môn chỉ thực sự được biết đến một cách rộng rãi từ những năm 1970, sau thời kỳ cực thịnh của ngữ pháp và ngữ nghĩa tạo sinh. Tuy nhiên, sau khi ra đời, NPVB đã tỏ ra có những ứng dụng hết sức thiết thực trong việc đề ra các phương pháp xây dựng, phân tích, tóm tắt, biên tập và hiệu đính VB. Nhờ vậy, nó đã nhanh chóng được phổ biến và phát triển mạnh mẽ. NNH VB đã trải qua những giai đoạn khác nhau trong nhận diện đối tượng nghiên cứu. O. I. Moskalskaja [71] ghi nhận rằng, thời kỳ đầu người ta coi đối tượng nghiên cứu của NNH VB là chỉnh thể cú pháp trên câu ( còn gọi là thể thống nhất cú pháp). Từ những năm 1981 về sau, người ta chú ý đến toàn VB. Vậy, sự ra đời của NPVB không phải là một hiện tượng đột biến mà do yêu cầu tất yếu, là kết quả logic của quá trình nghiên cứu ngôn ngữ và cả những vấn đề nảy sinh từ thực tiễn sử dụng ngôn ngữ. NPVB không hề đối lập với ngữ pháp truyền thống mà kế tục, hoàn thiện và mở ra những bình mới, đầy hứa hẹn của ngữ pháp học. Nói đến NPVB là nói đến các phương thức LK VB. Trong đó PN có một vị trí đặc biệt, góp phần tạo nên VB. Trên cứ liệu tiếng Việt, Trần Ngọc Thêm có công rất lớn trong việc giới thiệu và nghiên cứu về NPVB, xác lập hệ thống LK tiếng Việt, trong đó có PN. Theo Diệp Quang Ban (2003) - một trong những nhà Việt ngữ học rất quan tâm nghiên cứu NPVB tiếng Việt nhận định rằng, “các mối quan hệ xuyên câu thì mờ ảo hơn nhiều so với các mối quan hệ nội câu. Những khái niệm do cú pháp tìm ra không còn đủ để
  10. giải quyết những vấn đề ngữ pháp câu nữa. Do vậy, chúng ta cần phải quan tâm, sử dụng đến cả những bộ môn ngoài NNH, logic học, dụng học, tâm lý học…”. Bên cạnh tên gọi ‘PTDN’, nhiều người cũng nhắc đến tên gọi ‘phân tích VB’. Thực tế đó cho chúng ta thấy rằng, NNH hiện đại quan tâm nghiên cứu một cách tổng hợp về NNH VB. Trần Ngọc Thêm [98] khẳng định, nếu chúng ta dừng lại ở ranh giới câu, thì NNH truyền thống gây cho mọi người ấn tượng rằng chỉ cần biết thật nhiều từ và nắm vững các mô hình cấu tạo câu là có thể giao tiếp được. Vì vậy, muốn có một VB hình như chúng ta chỉ cần ghép các câu đúng ngữ pháp lại với nhau. Cái gì là nhân tố có tác dụng biến một chuỗi câu trở thành VB? Đó chính là những mối liên hệ qua lại phức tạp về nội dung cũng như về hình thức giữa các câu văn, giữa các đoạn văn, là mạng lưới các mối liên hệ giữa các câu trong một VB, là tính LK của VB. Do vậy, hiện tượng đầu tiên được các nhà NNH VB chú ý đến là vấn đề tính LK của VB, trong đó có PN. Các nhà nghiên cứu ngôn ngữ biến hình và quan tâm xem xét các mối LK giữa các phát ngôn, ngoài M.A.K. Halliday (1970, 2004), M.A.K. Halliday và R. Hassan (1976) và những nhà NNH tiên phong, còn có thể kể đến Wolfgang Dressler (1982), Patricia L. Carrell (1982), Gillian Brown and George Yule (1983), Regina Blass (1986), Kim S. Campbell (1995), Wolfram Bublitz (2000), … Một số tác giả khác còn nghiên cứu mở rộng LK như Liên kết hội thoại (On Dialogue Cohesion) của Jeanne Mari Conte (1999), Ngữ pháp diễn ngôn và Loại hình học (Discourse Grammar and Typology) của Abraham, Werner, Talmy Givón and Sandra A. Thompson (1994), Chuyển tiếp mạch lạc và liên kết (Coherence Continuity and Cohesion) của Kim S. Campbell (1995), … Ở Việt Nam, về NPVB, PTDN tiếng Việt, cho đến hôm nay, vẫn chưa có nhiều công trình nghiên cứu, khả dĩ đáp ứng mong mỏi cho những người quan tâm đến vấn đề này - nhất là các giáo viên ngữ văn. Theo các nhà Việt ngữ học, ở Việt Nam, NPVB đã được đưa vào nghiên cứu và giảng dạy ở Trường Đại học tổng hợp Hà Nội (nay thuộc ĐHQG Hà Nội) từ năm 1978. Những năm tiếp theo, có nhiều trường ĐHSP và Cao đẳng sư phạm, đã quan tâm đến lĩnh vực mới này. Tiếp sau đó, các Trường ĐHSP Hà Nội I, Viện khoa học giáo dục, ĐHSP Qui Nhơn, ĐHSP Vinh, ĐHSP Huế …, rất chú ý đến lĩnh vực NPVB. Tài liệu tham khảo và giảng dạy lúc bấy giờ có Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt (1985) của Trần Ngọc Thêm, Ngữ pháp văn bản và việc dạy làm văn (1985) của Nguyễn Trọng Báu – Nguyễn Quang Ninh – Trần Ngọc Thêm. Nguyễn Quang Ninh (1989), có Ngữ pháp văn bản (Phục vụ chương trình CCGD). Đỗ Hữu Châu (1994) biên soạn cuốn Ngữ pháp văn bản - Tài liệu sử dụng Bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên cấp 2 phổ thông. Trần Ngọc Thêm – Trịnh Sâm (1989) có Ngữ pháp văn bản (Hỏi –
  11. Đáp) do trường CĐSP Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành … Sách dịch có tác phẩm Văn bản với tư cách đối tượng nghiên cứu của ngôn ngữ học của I. P.Gal’perin (1987), Ngữ pháp văn bản của I.O. Moskalskaja do Trần Ngọc Thêm dịch và chú giải… Nhìn chung các công trình NPVB tiếng Việt trên đây đều có đề cập đến PN. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu về PN thì chưa thật hệ thống. Giáo trình NPVB và việc dạy tập làm văn của nhóm tác giả Nguyễn Trọng Báu – Nguyễn Quang Ninh – Trần Ngọc Thêm (1985) có xem xét PN như một phương thức LK riêng biệt. Các tác giả chỉ đề cập đến PN thông qua Chương hai với đề mục 'Liên kết liên câu' [9, tr. 15-24]. Nguyễn Hữu Chỉnh [26] có bài nghiên cứu về quan hệ ngữ pháp trong văn bản. Lương Đình Dũng (Ngôn ngữ (6), 2005, tr. 38-47) có 'Phép nối và một vài suy nghĩ về phương pháp dạy phép nối trong tiếng Việt'. Trong bài này, tác giả đã đưa ra một số quan niệm về LK, PN và đưa ra sáu kiểu quan hệ nghĩa của PN. Ngoài ra, gần đây còn có một số luận văn của học viên, LA của nghiên cứu sinh về LK, liên từ và PN ... Nhưng, nhìn chung, công trình nghiên cứu về các phương thức LK cũng chưa thật sự phong phú. Các phép LK trong VB tiếng Việt thật sự được nhiều nhà Việt ngữ học quan tâm hơn. Trần Ngọc Thêm (1985) với Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt có thể coi là người đi tiên phong ở lĩnh vực này trong số các nhà NPVB tiếng Việt. Với công trình trên đây, tác giả đã đi sâu nghiên cứu các phương thức LK phổ biến về hình thức ngôn ngữ cũng như về nội dung trong VB tiếng Việt. Thành tựu này có tác dụng gợi mở cho nhiều công trình khác về phép LKVB tiếng Việt sau này, đã đặt ra nhiều đề tài cho các nghiên cứu sinh thực hiện thành công các LA của mình, xung quanh việc tìm hiểu về phép LK và PN trong VB tiếng Việt. Lịch sử NNH cho ta thấy rằng hiện tượng LK được người ta chú ý khảo sát từ rất sớm, trước hơn cả những biện pháp tu từ như ‘lặp, điệp’. Ngoài hiện tượng ‘lặp’, ‘điệp’ người ta còn chú ý đến hiện tượng khác mang chức năng LK như việc sử dụng quán từ, từ nối, sử dụng thời, thể của các động từ, sử dụng câu hỏi tu từ, các hiện tượng tỉnh lược, song hành cú pháp. Trật tự từ trong câu và ngữ điệu cũng được xem là phương thức có chức năng LKVB. Tất cả những hiện tượng đó được gọi chung là các phương tiện LKVB. Như đã nói ở trên, vấn đề ‘LK hình thức và LK nội dung’ trong VB đã được trình bày rất hệ thống, sáng tạo và chặt chẽ trong Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt. Các phương tiện LK gắn liền với các loại phát ngôn có thể được tóm tắt trong bảng dưới đây: Phát ngôn tự nghĩa (i) và Phát ngôn hợp nghĩa (ii) và Ngữ trực thuộc (iii) và phương thức LK được phương thức LK được phương thức LK được sử dụng sử dụng. sử dụng. 1- Phép lặp 1- Phép lặp 1- Phép lặp
  12. 2- Phép đối 2- Phép đối 2- Phép đối 3- Phép thế đồng nghĩa 3- Phép thế đồng nghĩa 3- Phép thế đồng nghĩa 4- Phép liên tưởng 4- Phép liên tưởng 4- Phép liên tưởng 5- Phép tuyến tính. 5- Phép tuyến tính. 5- Phép tuyến tính. 6- Phép thế đại từ 6- Phép thế đại từ 7- Phép tỉnh lược yếu 7- Phép tỉnh lược yếu 8- Phép nối lỏng 8- Phép nối lỏng 9- Tỉnh lược mạnh 10- Phép nối chặt Bảng 3. : Hệ thống các phương thức liên kết văn bản tiếng Việt (i) Phát ngôn tự nghĩa: là phát ngôn hoàn chỉnh về nội dung và đầy đủ về cấu trúc, vì vậy nó mang tính độc lập lớn nhất. (ii) Phát ngôn hợp nghĩa: là phát ngôn không hoàn chỉnh về nội dung, tuy vẫn đầy đủ về cấu trúc, vì vậy nó không mang tính độc lập về mặt nghĩa. (iii) Ngữ trực thuộc: là phát ngôn không hoàn chỉnh về nội dung và không đầy đủ về cấu trúc, vì vậy nó không độc lập cả hai phương diện nội dung và cấu trúc câu. M. A. K. Halliday và R. Hassan (1976) cho rằng các phương thức LK tạo ra trong tiếng Anh là: quy chiếu (reference), thay thế (substitution), tỉnh lược (ellipsis), phép nối (conjunction) và liên kết từ vựng ( lexical cohesion). Và các tác giả này cũng đã xem xét PN ở nhiều bình diện khác nhau, nhất là quan hệ nghĩa giữa các phát ngôn, được tạo ra bởi các TNN. Qua cách phân loại các phương thức LK, chỗ hai quan niệm gặp nhau chủ yếu là các phương tiện LK cụ thể được xem xét. Như trên đã thấy phép LK, PN là vấn đề rất cơ bản trong NPVB và thực tế còn đặt ra nhiều phương diện cần được các nhà ngữ học tiếp tục nghiên cứu và làm rõ. Các nhà Việt ngữ học khác cũng đã có những chuyên đề và công trình nghiên cứu thành công xung quanh vấn đề PN và các phương thức LK khác trong VB tiếng Việt. Diệp Quang Ban đã có nhiều bài nghiên cứu đăng trên Tạp chí Ngôn ngữ và các công trình nghiên cứu về NPVB được xuất bản như Khả năng xác lập mối liên hệ giữa phân đoạn ngữ pháp và phân đoạn thực tại câu tiếng Việt (1989), VB và liên kết trong Tiếng Việt, (1999), Giao tiếp – VB - Mạch lạc – Liên kết - Đoạn văn (2003), Giao tiếp diễn ngôn và Cấu tạo VB (2009)… Đỗ Hữu Châu và Nguyễn Thị Ngọc Diệu (1996) có Giáo trình giản yếu về NPVB. Nguyễn Thị Việt Thanh (1999) có Hệ thống liên kết lời nói tiếng Việt. Nguyễn Hữu Chỉnh (2002) có bài viết Quan hệ ngữ pháp trong VB. Phạm Văn Tình (2002) với LA tiến sĩ, Phép tỉnh lược và ngữ trực thuộc tỉnh lược trong tiếng Việt. Võ Văn Cương (2004) với chuyên luận Liên kết hồi qui trong NNH VB. Lương Đình Khánh (2006), Phương thức liên kết nối và quan hệ nghĩa các phát ngôn (LA tiến sĩ). Các giáo trình nghiên cứu về Tiếng Việt thực hành của Nguyễn Đức Dân, Bùi Minh Toán – Lê A – Đỗ Việt Hùng, Nguyễn Minh Thuyết – Nguyễn Văn Hiệp, Hà Thúc Hoan, Trịnh Sâm… hầu hết đều có đề cập đến các phương thức LK và PN. Diệp Quang Ban 2003, trong Giao
  13. tiếp – VB – mạch lạc – Liên kết – Đoạn văn, PN cũng chỉ được đề cập đến một cách khái quát. Tác giả có nói đến các 'từ ngữ nối kết' (tr. 248-249) và 'quan hệ nghĩa qua PN' (tr. 251-260). M.A.K. Halliday và R. Hassan (1976) đề cập đến PN trong một chương của công trình Cohesion in English (tr. 226-273). Có thể nói, các công trình nghiên cứu NPVB tiếng Việt nói trên đều có đề cập đến PN, trong cách quan sát tổng thể các phương thức liên kết khác. Nhưng theo quan sát của chúng tôi, chưa có một công trình nghiên cứu sâu về PN. Trên cứ liệu tiếng Anh và tiếng Việt, bước đầu PN đã được khảo sát trong mối tương quan với các phương thức LK khác. Tuy nhiên, nói không quá, tất cả các công trình vế PN còn khá khiêm tốn, còn nhiều vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu. Bên cạnh các công trình nghiên cứu về LK và mạch lạc như đã nói ở trên, Phạm Văn Tình (2002) đã đi sâu tìm hiểu một phép LK cụ thể, một phương thức LK cơ bản. Đó là ‘Phép tỉnh lược’ (ellipsis) và ngữ trực thuộc trong tiếng Việt. Với công trình này, tác giả đã đóng góp quan trọng và lý giải sâu sắc về những vấn đề hết sức ý nghĩa của NPVB tiếng Việt. Đó là việc xác định ý nghĩa và chức năng của ‘phần dư’ trong VB tiếng Việt. Như vậy có thể thấy, trên cứ liệu tiếng Anh, tiếng Đức và cả tiếng Việt, PN được coi là một phương thức LK mang tính phổ quát, một thành phần trong hệ thống LK của một ngôn ngữ đã được chú ý và bước đầu đã xác lập được quan hệ ngữ nghĩa do biện pháp LK này tạo nên. Nhưng rõ ràng, với tư cách là một PTLK độc lập và có đối sánh giữa các ngôn ngữ thì theo quan sát của chúng tôi, về PN, chưa có công trình nào đề cập đến một cách chuyên sâu, toàn diện. LA này trên cơ sở kế thừa thành quả của các công trình đi trước sẽ tiến hành khảo cứu PN một cách có hệ thống và toàn diện hơn. Đặc biệt là nghiên cứu quan hệ ngữ nghĩa và ngữ pháp của PN trong tiếng Việt và có những so sánh đối chiếu với tiếng Anh – một ngoại ngữ đa dụng ở Việt Nam cũng như nhiều quốc gia trên thế giới. 5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn ngữ liệu 5.1. Phương pháp nghiên cứu Ngoài các thủ pháp như sưu tập, nhận diện, phân loại, miêu tả, LA sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp PTDN (discourse analysis method): xem xét các ngữ liệu, gắn liền với ngữ cảnh, sử dụng phân tích cả hai quá trình: từ trên xuống (top-down process) và từ dưới lên (bottom-up process),
  14. trong đó việc tạo lập VB/ngôn bản từ nội dung đến hình thức, cũng như việc nhận diện VB từ hình thức nắm bắt nội dung, đều được xem xét. - Phương pháp thống kê (statistics method): bên cạnh các nhận định mang tính định tính, nhằm minh họa và thuyết minh có các nhận xét, chúng tôi sẽ dùng phương pháp thống kê định lượng. - Phương pháp so sánh đối chiếu (comparative-contrastive method): nhằm tìm ra sự tương đồng và khác biệt về một số phương diện của PN như cấu tạo hình thức các TNN, chức năng ngữ nghĩa của các quan hệ do chúng tạo ra giữa tiếng Việt và tiếng Anh, LA có sử dụng phương pháp này. -Phương pháp hệ thống hóa (systematized method): các đặc điểm cụ thể của các hiện tượng ngôn ngữ nói chung, PN nói riêng cần phải xem xét trong một chỉnh thể toàn diện. Do vậy, phương pháp hệ thống hóa được vận dụng, để một mặt tìm ra các đặc trưng có tính chi phối, mặt khác để thấy mối quan hệ giữa các yếu tố trong hệ thống, và, rõ ràng quan hệ khác nhau, ý nghĩa và chức năng sẽ khác nhau. Trên đây là những phương pháp chủ yếu trong quá trình nghiên cứu khoa học. Bên cạnh đó, người viết cũng thực hiện một số thủ pháp như trắc nghiệm, thăm dò thông qua các biểu mẫu, với đối tượng là học sinh trung học phổ thông. 5.2. Nguồn ngữ liệu Để thực hiện đề tài này, chúng tôi tiến hành sưu tập một nguồn ngữ liệu gồm 1500 đơn vị LK nối7, từ các VB tiếng Việt, chủ yếu từ các tác phẩm văn học được sử dụng trong nhà trường. Đối với tiếng Anh, LA cũng sưu tập một số ngữ liệu tương đương với tiếng Việt (1500 đơn vị nối). Do nhiều lý do khác nhau, ngữ liệu này có nguồn gốc từ nhiều phong cách và thể loại khác nhau, nhưng nhiều nhất vẫn là văn học nghệ thuật. Trên cơ sở đó, chúng tôi nghĩ là có thể tiến hành so sánh đối chiếu các ngữ liệu với nhau theo những chủ điểm đã xác định. 6. Ý nghĩa của đề tài nghiên cứu PN, một trong những phương thức LK logic (bên cạnh phép tuyến tính) là vấn đề được các nhà ngôn ngữ học đi trước có những giải thuyết khác nhau. Đặc trưng về phương tiện ngôn ngữ thể hiện trong PN là việc sử dụng các TNN (linking words, connectors…). Chính điều này làm cho PN trong văn bản tiếng Việt và văn bản tiếng Anh có sự tương đồng. M. A. K. Halliday gọi là ‘conjunction’ (This type of cohesion is known as conjunction) [62, tr. 303].
  15. Trong hoạt động hành chức của ngôn ngữ cho thấy, TNN trong tiếng Việt cũng như trong tiếng Anh rất phức tạp, một mặt chúng thể hiện mối quan hệ trên bề mặt VB, nhưng mặt khác chúng chứa đựng những quan hệ ngữ nghĩa-logic ngầm ẩn. Đặc biệt khi giữa các phát ngôn là quan hệ ngược logic thì bắt buộc phải dùng các TNN để diễn đạt vì phép tuyến tính không có khả năng này. PN là một trong các phép LK ( 5 phép LK: phép thế, phép tỉnh lược, phép lặp từ vựng, phép liên tưởng và phép so sánh) được đưa vào các bài học về LK câu ở Sách tiếng Việt lớp 10 (Sách tiếng Việt lớp 10, Nxb GD, năm 2000, tr. 89). Tuy nhiên, mức độ nội dung kiến thức, phương pháp thực hành, ứng dụng còn rất hạn chế. Thực hiện đề tài này, chúng tôi hy vọng góp thêm tiếng nói về mặt lý thuyết cũng như thực tiễn nghiên cứu, thực hành, vận dụng PN trong việc tổ chức VB nói chung và tập làm văn nói riêng. Về ý nghĩa lý luận, LA hướng tới xây dựng một hệ thống các tiêu chí lý luận cần thiết để nhận diện, phân loại PN trong văn bản tiếng Việt. Những kết quả nghiên cứu sẽ góp phần bổ sung vào lĩnh vực lý luận NPVB và PTDN, chỉ ra phương pháp phân tích ngữ nghĩa của phát ngôn được nhìn từ nhiều góc độ như kết học, nghĩa học và dụng học. Về ý nghĩa thực tiễn, kết quả của LA góp phần nâng cao việc dạy và học tiếng Việt, dạy và học tập làm văn, đối dịch Việt - Anh, Anh - Việt. Trong một chừng mực nào đó, những kết quả nghiên cứu có thể được ứng dụng vào việc phân tích câu văn, đoạn văn, đọc hiểu VB, mà cụ thể là việc xử lý các trường hợp đang còn là vấn đề cần được nghiên cứu trong cú pháp học, ngữ nghĩa học văn bản. 7. Cấu trúc luận án LA gồm phần mở đầu, phần nội dung (có bốn chương), phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, ngữ liệu và phần phụ lục. Chương 1. Một số vấn đề chung Trong chương này, chúng tôi sẽ đề cập đến những tiền đề lý luận liên quan đến PN. Đó là vấn đề lý luận cơ bản, có liên quan trực tiếp tới đề tài nghiên cứu. PN là một hiện tượng mang tính phổ quát với mọi ngôn ngữ. Nhưng trong mỗi ngôn ngữ nó lại có những cách thức thể hiện khác nhau. Chúng tôi cố gắng hệ thống lại một số luận điểm chính yếu dựa trên NNH văn bản, lý thuyết phân tích diễn ngôn làm cơ sở lý luận cho việc triển khai các nội dung tiếp theo. Chương 2. Quan hệ giữa phép nối, mạch lạc và văn bản
  16. Nội dung của chương này làm sáng tỏ về vai trò của các cấp độ nối LK liên quan tới PN. Mặt khác, chương này nhấn mạnh vai trò của PN trong mối quan hệ với mạch lạc – là yếu tố thứ nhất trong việc tạo lập VB. Chương 3. Cấu tạo từ ngữ nối và quan hệ nghĩa, ngữ pháp của phép nối Qua việc khảo sát, thống kê các TNN được sử dụng trong PN tiếng Việt, chúng tôi đề xuất cách phân loại, góp phần làm sáng tỏ về mặt ngữ pháp, ngữ nghĩa và cấu tạo của các TNN và các yếu tố được nối. Cũng trong chương này, qua việc thống kê, khảo sát nhiều VB khác nhau và trên cơ sở thừa hưởng các thành tựu nghiên cứu của các tác giả đi trước, chúng tôi đề xuất một hệ thống các quan hệ ngữ nghĩa và quan hệ ngữ pháp – các quan hệ làm nên bản thể của PN. Chương 4. Một số điểm tương đồng và khác biệt của phép nối trong văn bản tiếng Việt và tiếng Anh Cũng như nhiều ngôn ngữ, tiếng Việt và tiếng Anh đều có hiện tượng nối LK. Và PN trong hai ngôn ngữ đều có sử dụng các phương tiện ngôn ngữ nối kết. LA không phân tích sự khác nhau về quan niệm và cách lý giải khác nhau của các nhà NNH về PN trong VB của hai ngôn ngữ. Bằng cách so sánh, đối chiếu về chính PN của hai ngôn ngữ tiếng Việt và tiếng Anh, LA chỉ nêu lên một số điểm tương đồng và dị biệt giữa chúng. Những đặc điểm so sánh được rút ra chủ yếu từ phương diện cấu tạo ngữ nghĩa và ngữ pháp và một ít về mặt ngữ dụng. Trên cơ sở này, LA cũng mạnh dạn đề xuất một số thủ pháp đối dịch Anh – Việt, Việt – Anh.
  17. Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG Nói đến LK là đề cập đến những đơn vị giao tiếp cụ thể, gắn liền với ngữ cảnh cụ thể, thậm chí có thể hình dung ra những vai nghĩa cụ thể. Điều này hoàn toàn khác với cách làm của NNH truyền thống. Để có cơ sở miêu tả ở các chương sau, chương này sẽ bàn đến những vấn đề lý thuyết mà khi đề cập đến PN không thể không nhắc đến. 1.1. Câu, phát ngôn, đơn vị nối liên kết Về mặt học thuật câu và phát ngôn đã được tìm hiểu với nhiều quan niệm khác nhau. Có nhiều định nghĩa về câu đến nỗi mà “không dễ gì kiểm điểm lại” [3, tr. 106]. Việc xác định nội hàm và ngoại diên của các thuật ngữ này nhằm để xác định rõ ràng hơn về cơ sở và đối tượng khảo sát của LA. Như đã nói, trong giới NNH tồn tại rất nhiều định nghĩa về câu, nhưng có thể lược qui về 3 cơ sở: (i) nội dung, đó là một nội dung thông báo trọn vẹn hoặc tương đối trọn vẹn. (ii) cấu trúc, câu phải đầy đủ thành phần, hai thành phần nòng cốt câu, là chủ ngữ và vị ngữ và thường ít được định nghĩa về 2 yếu tố này, (iii) hình thức, nếu là ngôn ngữ nói, câu thường gắn liền với những ngữ điệu; nếu là viết, câu bắt đầu bằng một chữ cái viết hoa và kết thúc bằng một dấu câu mà phổ biến nhất là dấu chấm. Ngữ pháp nhà trường Việt Nam trước đây, có một thời gian rất dài coi câu là đơn vị cao nhất, thực hiện chức năng thông báo, chứ chưa đề cập đến chức năng tổ chức VB, cho nên câu thường được định nghĩa là một đơn vị ngôn ngữ, và: -có nghĩa hoàn chỉnh (hoặc tương đối hoàn chỉnh – tiêu chí về nội dung) -có những kiểu cấu tạo nhất định (tiêu chí cấu trúc) -có những dấu hiệu hình thức nhất định như ngữ điệu, dấu câu…(tiêu chí hình thức). Nhưng trong thực tế ngôn ngữ hành chức, không phải câu nào cũng bộc lộ đủ ba tiêu chí đó. Đặc biệt là có vô số những kiểu câu không đáp ứng về tiêu chí cấu trúc, thiếu thành phần ‘nòng cốt’ mà có lúc còn nhiều người đã cho rằng đó là câu sai ngữ pháp ( còn được gọi là phần dư, phần thừa). Và có một thời gian dài nhà trường không cho phép học sinh hành văn theo những kiểu câu đó trong khi làm văn. Đây đúng tình trạng mà N.D. Aruchiunova đã nói một cách hình tượng:
  18. “Ra khỏi phạm vi của những câu ‘kinh điển’, người nghiên cứu rơi vào một đại dương rộng mở và không bờ bến của những câu […] rất ít được qui phạm hoá về mặt hình thức. Các câu này là cái ‘phần dư’ còn lại … Đây chính là trung tâm tranh luận của vấn đề ở mọi ngôn ngữ”. [98, tr. 41-42] Khi mở rộng phạm vi quan sát hành chức của phát ngôn, bên cạnh tính chất luôn gắn liền với ngữ cảnh, mặt nội dung, đặc biệt là về cấu trúc được nhìn nhận một cách uyển chuyển, cách tiếp cận này không thừa nhận phát ngôn đặc biệt. Và như đã giải thích, cơ sở để xem xét PN trong LA này chính là phát ngôn. Như vậy về mặt số lượng, tối thiểu phải có ít nhất từ hai phát ngôn trở lên, mới có thể có PN. Đương nhiên PN cũng có thể xảy ra trong nội bộ từng phát ngôn, nhưng không thuộc phạm vi quan sát của LA, như đã trình bày ở 2.2.1. Về mặt lý thuyết, câu thường đối lập với phát ngôn. Nếu đơn vị trước được hiểu là một đơn vị ngôn ngữ có chất tĩnh tại, thường tách khỏi ngữ cảnh giao tiếp thì đơn vị sau là một đơn vị của lời nói, rất năng động, gắn liền với từng ngữ cảnh giao tiếp cụ thể. Có thể thấy cách hình dung về câu với 3 tiêu chí vừa nhắc qua ở trên có tính chất qui phạm. Thực tế sử dụng mách bảo số lượng câu đáp ứng tương đối đầy đủ các yêu cầu trên là rất ít. Do vậy cái mà ngữ pháp truyền thống gọi là 'câu đặc biệt', thể hiện sự bất lực hay ít nhất là chưa thật sự nghiêm ngặt về phân loại. Phát ngôn là đối tượng khảo sát của nhiều phân ngành NNH, trong đó quan niệm gắn liền với hành động ngôn ngữ của ngữ dụng học, nổi lên như một xu hướng triết học NNH. Trong nhận thức của chúng tôi, phát ngôn là đơn vị nhỏ nhất của VB. Nó thực chất là câu trong VB. Điều đó có nghĩa là khi nói tới phát ngôn là nói đến sự tương tác giữa nó và các phát ngôn khác chung quanh. Nó chịu sự tác động của đặc điểm kế thừa thông báo. Phát ngôn mở đầu là chỗ dựa cho các phát ngôn sau. Đến lượt nó, các phát ngôn sau là chỗ dựa cho các phát ngôn sau nữa, cứ thế chúng dựa vào nhau để tồn tại. Về mặt cấu trúc, phát ngôn có thể đầy đủ thành phần hoặc không đầy đủ thành phần; về mặt nội dung, có thể hoàn chỉnh hoặc không hoàn chỉnh; về mặt hình thức thì thì giống như đơn vị câu đã xác định ở trên. Tại đây phần lớn ngữ liệu là ngôn ngữ viết, cho nên cái dấu hiệu hình thức bắt đầu bằng một chữ cái viết hoa và kết thúc bằng một số dấu câu là những thuộc tính mà chúng tôi đưa ra như một tiêu chí để nhận định. Do vậy, khi khảo sát, coi phát ngôn là đơn vị nối, LK tối giản trước hết là mối quan hệ giữa hai phát ngôn nằm cạnh nhau. Đương nhiên nối ở đây là nối giữa hai phát ngôn. Cần thấy ngữ pháp chức năng
  19. hệ thống mà đứng đầu là M.A.K. Halliday coi cú mới là đơn vị cơ sở của LK [48, tr. 492]. Một cú thường bao gồm đề (theme) – thuyết (rheme). LA này xem phát ngôn như vừa minh định bên trên là đơn vị của nối LK. Do vậy, khi nghiên cứu về phát ngôn thì “không được nghiên cứu tách rời, biệt lập với văn cảnh, ngữ cảnh, ngữ nghĩa mà đi vào các hiệu dụng đa dạng trong bối cảnh giao tiếp, hiệu quả giao tiếp, trong các mối quan hệ liên nhân giữa người nói và người nghe” [102, tr. 195]. Khái niệm phát ngôn được sử dụng ở đây như là đơn vị cơ sở để khảo sát về PN trong VB. 1.2. Văn bản, diễn ngôn 1.2.1.Văn bản VB thực sự là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành NNH hiện đại. Từ L. Hjelmslev (1953), M.A.K. Halliday (1960), H. Harmann (1965), H. Wienrich (1966), đến W. Dressler (1970), người đã đầu tiên xuất bản những công trình khá hoàn chỉnh về NNH VB … thì hầu như người ta thống nhất rằng: “ trong thời đại chúng ta mọi người thừa nhận rằng đơn vị ngôn ngữ cao nhất, ít lệ thuộc nhất, không phải là câu, mà là VB” Trong thực tế, VB đã trải qua một quá trình định danh với những nội dung ý nghĩa không giống nhau. Trước đây các nhà ngôn ngữ dùng thuật ngữ ‘VB’ để chỉ tất cả các trường hợp ghi lại hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ. Nhưng hiện nay, nhiều nhà ngôn ngữ thống nhất rằng, ‘VB’ là sản phẩm thể hiện bằng văn viết; ‘ngôn bản’ là sản phẩm ngôn ngữ thể hiện qua lời nói. Còn ‘diễn ngôn’ là khái niệm bao gồm cả VB và ngôn bản. Tuy nhiên, để đi đến một định nghĩa về VB, chủ yếu để tiện làm việc, chúng tôi cũng trình bày một số quan niệm khác để tham khảo. VB cũng có khá nhiều định nghĩa khác nhau: (i) VB được xét như một lớp phân chia được thành các khúc đoạn. (L. Hjelmslev, 1953) (ii) VB được hiểu ở bậc điển thể là phát ngôn bất kỳ có kết thúc và có LK, có tính độc lập và đúng về ngữ pháp. (W. Koch, 1966). (iii) VB “là chuỗi nối tiếp các đơn vị ngôn ngữ được làm thành bởi một dây chuyền của các phương tiện thế có 2 trắc diện” - trục dọc và trục ngang.
  20. (R. Harweg, 1968) (iv) Nói một cách chung nhất, VB là một hệ thống mà trong đó các câu mới chỉ là phần tử. Ngoài các câu - phần tử, trong hệ thống VB còn có cấu trúc. Cấu trúc của VB chỉ ra vị trí của câu và những mối quan hệ, liên hệ của nó với những câu xung quanh nói riêng và với toàn VB nói chung. Sự LK là mạng lưới của những quan hệ và liên hệ ấy (Trần Ngọc Thêm, 1985). VB/ngôn bản là một sản phẩm trong sử dụng. Do tính đa dạng của phong cách và thể loại trong hành chức nên việc xác định nó là cái gì quả không đơn giản, nói như W.A.M. Carsteris (1997) khi dùng bao quát cái hiện thực ngôn ngữ - VB vào trong một định nghĩa hoàn chỉnh thì thật khó xác định cái biên giới của đơn vị ấy. Tuy nhiên, bước đầu có thể liệt kê thành các đặc điểm chung nhất của VB. Theo R.D. Beaugrande & W. Dressler (1981), VB phải gồm các đặc điểm sau: - Tính LK (cohesion) - Tính mạch lạc (coherence) - Tính chủ đích (intentionality) - Tính tiếp nhận (acceptability) - Tính thông tin (informativity) - Tính ngữ cảnh (contextuallity) - Tính tương tác (intertextuallity) Diệp Quang Ban 2003, cho rằng VB có nhiều đặc trưng và có thể tóm tắt bằng sơ đồ sau đây: VĂN BẢN Có yếu Có cấu Có mạch Có yếu Có định tố nội trúc lạc và tố chỉ biên dung liên kết lượng (tính trọn vẹn) Sơ đồ 1.2 : Tóm tắt đặc trưng của văn bản theo Diệp Quang Ban.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0