CẢM NHẬN CÁC ĐOẠN
THƠ NGỮ VĂN LỚP 9
1 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
CẢM NHẬN VỀ CHI TIẾT CÁI BÓNG
Đọc chuyện người con gái Nam Xương một chi tiết đặc sắc đó là
hình ảnh cái bong mà người đọc không thể nào quên.
Cái bóng là 1 chi tiết nghệ thuật snág tạo, độc đáo, giàu ý nghĩa. chi
tiết này xuất hiện từ đầu tác phẩm có tác dụngt hắt nút câu chuyện(
đẩy các mâu thuẫn đến đỉnh điểm). cái bióng xuất hiện troing lời nói
đùa của vũ nương khi nói với người con. những ngày xa cách, bé đản
luôn hỏi về bố, VN chỉ cái bóng mình trên vách và nói vô tư con đó
là cha Đản. trong những ngày tháng xa chồng, nàg luôn nghĩ về
người chồng yêu dấu, trong suy nghĩ của nàmg, chồng luôn ở bên
cạnh, vợ chồng như hình với bóng. vậy mà không ngờ 1 lời nói đùa
trong thương nhớ laị trở thành sợi dây vô tình, oan nghiệt thắt chặt
cuộc đời nàng.
chi tiết cái bóng không chỉ có tác dụng thắt nút câu chuyện,
mà đièu thú vị là cũng chính câu chuyện này lại mở nút câu chuyện.
vũ nương đc giải oan cũng như hình tượng cái bóng:1 đêm phòng
không vắng vẻ, bé đản chỉ bóng bố mình trên vách nói rằng cha đản
lại dến. trương sinh bây mới ngộ tỉnh ra, thấu hiểu nỗi oan của vợ,
mâu thuẫn câu chuyện đã đựôc giải quyết. có thể nói rằng: cái bóng
2 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
là 1 hình tượng nghệ thuật đạt tới sự hoàn chỉnh, là sự tập trung, khái
quát hoá, hình tượng hoá sự hiểu lầm vô tình hay lưỡng ý của trương
sinh.
Qua tác phẩm ta có cảm giác cái bóng đã quyết định số phận con
người, đây phải chăng là nét vô lí, li kì vẫn có trong các truyện cổ tích
truyền kì? Không chỉ dừng lại ở đó, cái bóng còn là tượng trưng cho
oan trái khổ đau, cho bất hạnh của biết bao người phụ nữ sống dưới
xã hội đương thời). Nỗi oan của họ rồi cũng chỉ là những cái bóng mờ
ảo, không bao giờ được sáng tỏ). Hủ tục phong kiến hay nói đúng hơn
là cái xã hội phong kiến đen tối đã vùi dập, phá đi biết bao tâm hồn,
bao nhân cách đẹp, đẩy họ đến đường cùng không lối thoát. Để rồi
chính những người phụ nữ ấy trở thành “ cái bóng” của chính mình ,
của gia đình, của xã hội. Chi tiết “ cái bóng” được tác giả dùng để
phản ánh số phận, cuộc đời người phụ nữ đầy bất công ngang trái
nhưng cũng như bao nhà văn khác ông vẫn dành một khoảng trống
cho tiếng lòng của chính nhân vật được cất lên, được soi sáng bởi tâm
hồn người đọc. “ Cái bóng” được đề cao như một hình tượng đẹp của
văn học, là viên ngọc soi sáng nhân cách con người. Bạn đọc căm
phẫn cái xã hội phong kiến bao nhiêu thì lại càng mở lòng yêu thương
đồng cảm với Vũ Nương bấy nhiêu. “ Cái bóng” là sản phẩm tuyệt
vời từ tài năng sáng tạo của Nguyễn Dữ góp phần nâng câu chuyện
3 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
lên một tầm cao mới: chân thực hơn và yêu thương hơn.
Chi tiết cái bong này tạo nên sự bất ngờ cho câu chuyện. nó góp
phần làm nên thành công trong việc xây dựng tình huống truyện
trong việc bộc lộ nội dung chủ đề của Tác phẩm.
GIÁ TRỊ NHÂN ĐẠO CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM
XƯƠNG
Truyền kỳ mạn lục là một tác phẩm có giá trị của văn học cổ nước ta
ở thế kỷ XVI, một tập truyện văn xuôi bằng chữ Hán đầu tiên ở Việt
Nam. Truyện “ Chuyện người con gái Nam Xương” là một truyện
hay trong tác phẩm đó được trích trong Truyền kì mạn lục của
Nguyễn Dữ.
Truyện kể về một người phụ nữ tên là Vũ Thị Thiết ở Nam Xương.
Vốn là một người vợ đoan chính, đảm đang. Nàng giữ lòng chung
thuỷ, hầu hạ mẹ chồng,chăm sóc con thơ trong suốt thời gian chồng
đi lính ở phương xa. Khi trở về vì nghe lời ngây thơ của con trẻ,
người chồng nghi ngờ nàng thất tiết nên đánh mắng đuổi đi. Không
thể phân giải được oan tình, nàng trẫm mình ở sông Hoàng Giang.
Cảm động vì lòng trung thực của nàng, Linh Phi (vợ vua biển) cứu
vớt nàng và cho ở lại Long Cung. Người chồng biết vợ bị oan nên rất
hối hận, lập đàn giải oan cho nàng. Vũ Nương hiện lên, ẩn hiện trong
chốc lát rồi trở lại Long Cung. 4 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
Chuyện ca ngợi một người phụ nữ có phẩm chất, có tâm hồn trong
sáng, sáng ngời như ngọc lại bị nỗi oan tày trời vì một chuyện vờ
ghen vớ vẩn của người chồng nông nổi. Cuối cùng nàng phải tìm đến
cái chết để giải nỗi oan tình.
Tác giả đặt nhân vật Vũ Nương vào những hoàn cảnh khác nhau, qua
đó bộc lộ những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ. Vũ Nương vốn
là người con gái có tư dung tốt đẹp, tính tình thuỳ mị, nết na. Khi lấy
chồng, nàng luôn giữ gìn khuôn phép, không để vợ chồng phải thất
hoà dù Trương Sinh vốn có tính hay ghen. Khi chồng đi lính, Vũ
Nương rót chén rượi đầy tiễn chồng. Lời của nàng thật xúc động, nói
về niềm yêu thương, mong nhớ của mình đối với người chồng sẽ đi
xa, rồi bày tỏ nỗi lo lắng trước những gian lao nguy hiểm mà người
chồng sẽ trải qua, niềm mong ước được đoàn tụ ... làm mọi người
trong tiệc đều ứa hai hàng lệ.
Chồng đi đánh giặc ngoài biên ải, nàng một lòng son sắt, thuỷ chung,
“cách biệt ba năm, giữ gìn một tiết”, mong đợi chồng về trong cô đơn
mòn mỏi “mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì
nỗi buồn góc bể, chân trời không thể nào ngăn được”. Hơn nữa, nàng
là một người con dâu hiếu kính, tận tuỵ chăm sóc khi mẹ chồng còn
sống, chôn cất mẹ chồng khi mẹ qua đời (lo liệu như đối với mẹ đẻ
5 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
mình).
Rồi đằng đẳng thời gian trôi qua, chồng ra lính trở về, cùng là lúc
nàng bị nghi oan. Vũ Nương đã phân trần để chồng hiểu rõ tấm lòng
mình: “Thiếp vốn con kẻ khó ... mong chàng đừng một mực nghi oan
cho thiếp”. Nàng đã nói đến thân phận mình, tình nghĩa vợ chồng và
khẳng định lòng chung thuỷ, hết lòng tìm cách hàn gắn hạnh phúc gia
đình đang có nguy cơ bị tan vỡ. Dù họ hàng, làng xóm có bênh vực
và biện bạch, Trương Sinh vẫn không tin. Bất đắc dĩ Vũ Nương thống
thiết: “Thiếp sỡ dĩ nương tựa vào chàng ... đâu có thể lên núi vọng
phu kia nữa!”. Đó là hạnh phúc gia đình, niềm khao khát của cả đời
nàng giờ đây tan vỡ. Tình yêu không còn, cả nỗi đau khổ chờ chồng
giờ đây hoá đá....Tuyệt vọng vì phải gành chịu nỗi oan khuất tày trời
không phương giải bày, cứu chữa nàng đành mượn cái chết để chứng
tỏ tiết hạnh trong sáng của mình. lời khấn nguyện với thần linh vô
cùng thảm thiết: “Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng,
vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Nga Mĩ.
Nhựợc bằng lòng chim, dạ cá, lừa dối chồng con, được xin làm mồi
cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi
người phỉ nhổ ...” lời khấn nguyện đã làm cho người đọc xót xa - con
người rơi cảnh ngộ bế tắc, không thể tiếp tục sống để tự giải oan tình
mà phải tìm đến cái chết để thần linh chứng dám.
6 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
Sau một năm ở thuỷ cung, khi nghe kể chuyện nhà, nàng đã ứa
nước mắt khóc, nghĩ đến câu “ngựa Hồ gầm giá Bắc, chim Việt đậu
cành Nam” rồi hiện về trên dòng nước cho thoả lòng nhớ chồng, con.
Qua những hoàn cảnh khác nhau của vũ Nương, với những lời tự
thoại của nàng, truyện đã khẳng định những nét đẹp truyền thống của
người phụ nữ Việt Nam - một người phụ nữ đẹp người, lại nết na,
hiền thục, đảm đang, tháo vát, rất mực hiếu kính với mẹ chồng, giữ
vẹn lòng chung thuỷ sắt son với chồng, hết lòng vun đắp hạnh phúc
gia đình, .... lẽ ra phải được hạnh phúc trọn vẹn thế mà phải chết một
cách oan uổng, đau đớn.
Cái chết của Vũ Nương có nhiều nguyên nhân sâu xa, bắt nguồn từ
hiện thực nghiệt ngã của lễ giáo phong kiến của xã hội cũ, với chế độ
“nam quyền”, coi rẻ thân phận của người phụ nữ, rồi tính đa nghi,
ghen tuông của chồng, thói hung bạo, gia trưởng của chồng đã làm
khổ đau bao cuộc đời những người phụ nữ.
Cuộc hôn nhân giữa Vũ Nương và Trương Sinh có phần không bình
đẳng (thiếp vốn con nhà khó, được nương tựa nhà giàu). Xã hội
phong kiến lại coi trọng “nam quyền”, hơn nữa Trương Linh lại có
tính đa nghi, đối với vợ thì phòng ngừa quá mức. Những chi tiết này
chuẩn bị cho những hành động độc đoán của Trương Sinh sau này.
Khi đánh giặc trở về, Trương Sinh cũng mang một tâm trạng
7 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
nặng nề: mẹ qua đời, con vừa học nói, lòng buồn bã. Trong hoàn
cảnh như thế, lời của Bé Đản dễ kích động tính hay ghen của Trương
Sinh: “trước đây, thường có một người đàn ông đêm nào cũng
đến.Điều đáng trách là thái độ và hành động độc đoán của Trương
Sinh khi ấy. Không đủ bình tĩnh để tìm hiểu vấn đề, chàng bỏ ngoài
tai những lời phân trần của vợ, những lời bênh vực của họ hàng, làng
xóm, không chịu nói ra duyên cớ ghen hờn. Cuối cùng, Sinh lại mắng
nhiếc nàng và đánh đuổi nàng đi. Thái độ và hành động của Trương
Sinh vô hình dung dẫn đến cái chết oan nghiệt của Vũ Nương.Hành
động gieo mình xuống sông Hoàng Giang của Vũ Nương phản ánh
một thực trạng về thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Họ bị buộc chặt trong khuôn khổ khắt khe của lễ giáo, bị đối xử bất
công, bị áp bức và chịu nhiều khổ đau, bất hạnh. Đó cũng chính là giá
trị tố cáo hiện thực của tác phẩm. Đằng sau nỗi oan của người thiếu
phụ Nam xương, còn bao nhiêu oan tình bất hạnh mà người phụ nữ
ngày xưa phải gánh chịu: Nàng Kiều trong “Truyện Kiều” của
Nguyễn Du, người cung nữ trong “cung oán ngâm khúc” của Nguyễn
Gia Thiều, người phụ nữ lỡ duyên tình trong thơ Hồ Xuân
Hương.Phải nhận thấy rõ rằng với truyện ngắn đầu tiên viết bằng chữ
Hán, Nguyễn Dữ đã có những mặt thành công trong nghệ thuật xây
dựng truyện, xây dựng những đoạn đối thoại. Cách kể chuyện hấp
8 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
dẫn, xây dựng tình tiết, thắt nút và gỡ nút thật bất ngờ, đầy kịch tính,
càng làm cho nỗi oan tình của nhân vật hiện ra với tất cả nét thảm
khốc.“Thắt nút” truyện bằng yếu tố bất ngờ. Một câu nói ngây thơ
nghe như thật của trẻ thơ mà gây bão tố dây chuyền trong cuộc đời.
Bão tố nghi kị trong một đầu óc nam quyền độc đoán, thiếu trí tuệ ;
bão tố bất hoà dữ dội phá tan hạnh phúc của một gia đình êm ấm.
Bão tố oan khiên phá nát cuộc đời của một người con gái trong trắng,
phải kết thúc bi thảm trêm một dòng sông.
“Gỡ nút” cũng bất ngờ bằng một câu nói trẻ thơ non dại (khi chỉ cái
bóng của chàng Trương trên vách: “cha Đản lại đến kia kìa” thì bao
nhiêu oan khiên gây thảm kịch trong phút chốc bỗng được sáng tỏ.
Truyện có những đoạn đối thoại và những lời tâm tình của nhân vật
được sắp xếp đúng chỗ, làm cho câu chuyện trở nên sinh động, góp
phần khắc hoạ diễn biến tâm lí và tính cách nhân vật ; lời nói của bà
mẹ Trương Sinh nhân hậu, từng trải ; lời lẽ của Vũ Nương bao giờ
cũng chân thành, dịu dàng, mềm mỏng, có lí, có tình - lời của người
phụ nữ hiền thục, đoan chính ; lời của Bé Đản hồn nhiên, ngây thơ,
thật thà.
Chuyện đáng lẽ có thể kết thúc ở đoạn “gỡ nút” truyện, chàng
Trương Sinh tỉnh ngộ, thấu hiểu nỗi oan của Vũ Nương nhưng
Nguyễn Dữ đã thêm phần Vũ Nương trở về dương thế, gặp chồng
9 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
trong thoáng chốc. So với truyện cổ tích “Vợ chàng Trương”,
Nguyễn Dữ đã tái tạo truyền kì từ cổ tích để nâng truyện lên những
giá trị tư tưởng và thẩm mĩ mới. Điều đó, làm tăng thêm sức hấp dẫn
của truyện và hoàn chỉnh tính cách nhân vật Vũ Nương, thoả mãn
ước mơ của nhân dân là “ở hiền gặp lành”, ngưởi tốt sẽ được đền bù.
Truyện kết thúc có hậu. Trong truyện, những yếu tố truyền kì tập
trung ở phần sau của truyện như con rùa mai xanh được Phan Lang
cứu, Vũ Nương được ở lại Thuỷ Cung, rồi hiện về với kiệu hoa rực
rỡ trên sông... đó là những tình tiết kì ảo, không có thực nhưng đã tạo
ra một thế giới nghệ thuật A thực xưa nay. Yếu tố hoang đường
truyền kì không thể cứu được cuộc đời Vũ nương với số phận bi thảm
của nàng. Vũ Nương muốn sống lại mà không được sống, muốn trở
về với chồng con và quê hương mà không thể trở về được.
Truyện “Người con gái Nam Xương” có giá trị hiện thực tố cáo
và ý nghĩa nhân đạo sâu sắc. Nghĩ về Vũ Nương và biết bao thân
phận người phụ nữ khác trong xã hội phong kiến được phản ánh
trong các tác phẩm văn học cổ, chúng ta càng thấy rõ giá trị cuộc
sống của những người phụ nữ Việt Nam trong một xã hội tốt đẹp
hôm nay. Họ đang vươn lên làm chủ cuộc đời, sống bình đẳng, hạnh
phúc với chồng con và được đề cao nhân phẩm trong xã hộ, xã hội
10 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
của thời đại mới.
CẢM NHẬN BỨC TRANH XUÂN
Mùa xuân là đề tài bất tận của thi ca nói riêng và các lĩnh vực nghệ
thuật khác nói chung. Cái đẹp của mùa xuân là sự khám phá và sáng
tạo bất biệt của nghệ thuật. Thế nhưng cứ nhắc đến mùa xuân trong
thơ, ta không khỏi bồi hồi nhớ đến câu thơ của Đại thi hào dân tộc
Nguyễn Du :
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
Nguyễn Du khi viết truyện Kiều đã tả bức tranh bốn mùa xuân, hạ,
thu, đông. Cả bốn bức tranh đều chỉ bằng những nét gợi tả nhưng
cũng đủ vẽ ra cái thần thái của cảnh vật bốn mùa. Trong đó đáng chú
ý là bức tranh mùa xuân trong đoạn trích Cảnh ngày xuân của Truyện
Kiều. Đoạn thơ Cảnh ngày xuân tả cảnh ngày xuân trong tiết
Thanh minh, chị em Thuý Kiều đi chơi xuân. Bức tranh khung cảnh
ngày xuân được tác giả gợi tả với hình ảnh cánh chim én. Chim én là
hình ảnh A giới quan của con người. Mùa xuân cánh chim én bay về
từ phương Nam xa xôi, mang theo không khí ấm áp của phương Nam
để xua đi cái giá lạnh của phương Bắc. Không biết từ lúc nào hình
ảnh cánh chim én đã trở thành hình ảnh mang tính biểu tượng của
11 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
mùa xuân.Hình ảnh con én đưa thoi được tác giả sử dụng biện pháp
ẩn dụ nhân hoá. Ngày xuân với hình ảnh chim én bay đi, bay lại trong
bầu trời xuân, rất nhanh như chiếc thoi chạy trên khung cửi. Hình ảnh
thơ vừa có tác dụng tả cảnh. Gợi ra sự liên tưởng mùa xuân hình ảnh
con chim én đang dệt nên bầu trời mùa xuân. Không những thế biện
pháp tư từ ẩn dụ còn gợi cảm giác ngày xuân trôi qua rất nhanh. Đó
là một cảm giác nuối tiếc thời gian. Thời gian mùa xuân trôi quan rất
nhanh.Thiên tài Nguyễn Du không gợi tả bức tranh xuân vào thời
khắc chớm xuân, thời khắc của sự tinh khiết, trong trẻo và mơn mởn
nhất của mùa xuân. Ngược lại Nguyễn Du lựa chọn một khoảng thời
gian đặc biệt:
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
Một mùa được tính gồm có chín mươi ngày, nhưng khi thời gian
đã ngoài sáu mươi có nghĩa đó là khoảng thời gian tháng ba, tháng
cuối cùng của mùa xuân. Không gian mùa xuân được gợi lên từ hình
ảnh “thiều quang” là một thứ ánh sáng đẹp. Ánh sáng đó gợi sự mênh
mông, thoáng đãng bởi ánh sáng đẹp của ngày xuân. Ở vào khoảng
thời gian cuối của mùa xuân nhưng không gian xuân vẫn tràn trề sự
trong trẻo của mùa xuân, giữ được sự tươi mát của mùa xuân. Những
yếu tố đó tạo ra bức tranh mùa xuân:
Cỏ non xanh tận chân trời
12 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
Tác giả lấy thảm cỏ non trải rộng tới chân trời là gam màu nền
cho bức tranh xuân. Một bức tranh xuân với gam màu xanh non - một
màu xanh tràn đầy sức sống trải dài bất tận. Trên nền màu xanh non
điểm xuyết một vài bông lê trắng.Xét về màu sắc, bức tranh xuân có
sự hài hoà tuyệt diệu giữa màu xanh non và màu trắng. Hai gam màu
tạo nên sự trong trẻo lạ thường cho bức tranh.Xét về hình ảnh, tác giả
sử dụng những chất liệu quen thuộc của thơ cổ để vẽ nên bức tranh.
Đó là hình ảnh của cỏ non, cành lê và bầu trời. Đây là những hình
ảnh rát gần gũi, quen thuộc và có tính biểu tượng cho mùa xuân. Điều
đặc biệt của bức tranh xuân, tác giả vẽ được đường nét sống động của
bức trang xuân với các tính từ “tận” và động từ “điểm”. Một thảm cỏ
non xanh trải dài và những bông hoa lê đang điểm xuyết vào bức
tranh xuân.Trong văn học cổ thì trong thơ có vẽ và bức tranh xuân
của Nguyễn Du thể hiện rất rõ điều đó. Nguyễn Du đã vẽ bức tranh
xuân bằng màu sắc, bằng đường nét và bằng các chất liệu cổ. Tuy
nhiên khi đọc câu thơ ta còn cảm giác đang bắt gặp họa sĩ Nguyễn Du
đang đưa từng nét bút để vẽ. Ông đang sử dụng thủ pháp điểm xuyết
mà ta thường gặp trong nghệ thuật vẽ tranh thủy mặc của người
Trung Quốc - một trường phái nổi tiếng ngày xưa. Chỉ bằng những
nét phác họa thôi nhưng cũng đủ vẽ được cái thần thái, cái hồn của
13 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
bức tranh. Sự khác biệt của nhà họa sĩ Nguyễn Du và nhà thơ Nguyễn
Du đó là ông vẽ bức tranh bằng ngôn từ. Bằng ngôn ngữ ông vẽ nên
bức tranh xuân với vẻ đẹp mùa xuân: mới mẻ, tinh khôi, giàu sức
sống, khoáng đạt, trong trẻo, nhẹ nhàng và thanh khiết. Một bức tranh
xuân tuyệt bích trong văn học. Đó chính là thiên tài của Nguyễn Du.
Vẽ bức tranh mùa xuân trên, Nguyễn Du đã tiếp thu và sáng tạo
từ thơ cổ.
Sự tài tình và khéo léo của Nguyễn Du là khi ông lấy cái màu
xanh non của cỏ để vẽ cái màu xanh trong mát của bầu trời. Không
cần tả trời xanh vậy mà bầu trời ấy vẫn hiện lên trong trẻo trong tâm
hồn người đọc bởi sự trải dài bất tận, không có khoảng cách giữa sự
vật và bầu trời. Bằng nghệ thuật đảo từ “trắng điểm” Nguyễn Du đã
để cho những bông hoa lê trắng điểm xuyết vào bức tranh giống như
một người họa sĩ đang vẽ từng đường nét cho bức tranh ấy. Sự sống
động của bức tranh không chỉ là cái hồn của cảnh mà ở đó còn lột tả
được cái hồn người say sưa, ngây ngất trước sự trong trẻo, tinh khiết
của mùa xuân.
Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên trong truyện Kiều qua bức tranh
xuân tuyệt bích cũng là một nét nghệ thuật độc đáo. Nguyễn Du miêu
tả thiên nhiên bằng bút pháp trực tiếp nhưng lại sử dụng thủ pháp
điêu luyện kết hợp với những nét phác họa và việc sử dụng những từ
14 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
ngữ đắt lột tả được cái hồn của cảnh vật.
Vì thế trong văn học phong kiến nói chung và thơ ca dân tộc
hiếm có một bức tranh xuân nào tuyệt bích hơn thế. Một bức tranh
làm say lòng người đọc như đang chiêm ngưỡng người họa sĩ - thi sí
Nguyễn Du đang vẽ đường nét sống động của mùa xuân.
PHÂN TÍCH NHÂN VẬT LỤC VÂN TIÊN ĐÁNH CƯỚP
Đọc tác phẩm “Lục Vân Tiên” cuarNguyễn Đình Chiểu ta bắt
gặp nhiều nhân vật có tấm long sang ngời nhân nghĩa.Trong đó tiêu
biểu và được nhiều người biết đến nhất là Lục Vân Tiên . Đó là 1
đoạn thơ hay chói ngời tinh thần nhân đạo trong xã hội phong kiến
xưa được thể hiện Trong đoạn trích " Lục Vân Tiên Đánh Cướp " thật
là đặc sắc
Nhân vật chính trong tác phẩm là 1 nho sinh văn võ song tòan
đang trên đường lên kinh ứng thí , giữa đường bắt chợt gặp bọn cướp
Phong Lai đang hoành hành hại dân . Không màng đến thân mình
Lục Vân Tiên đã ra tay đánh cướp cứu người . Qua đó chúng ta thấy
nỗi bật phẩm chất đáng quý tinh thần hiệp nghĩa vong thân .
Vân Tiên ghé lại bên đàng
Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô
Kêu rằng bớ đảng hung đồ
Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân
15 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
Có cảm giác sự việc xảy ra qua nhanh chóng bất ngờ . Bất ngờ
cũng phải thôi Vân Tiên chỉ mới dừng chân thôi mà đã gặp chuyện
bất bình . Chàng không kịp suy nghĩ gì cả đã "bẻ cây làm gậy" xông
vào bọn cướp . Chàng là ai! . Chỉ là 1 người nho sinh lên kinh ứng thí
. Nhưng tại sao lại có 1 dũng khí đến như vậy ? Do Lục Vân Tiên đã
hội tụ những phẩm chất tốt đẹp của các bậc " chính nhân quân tử "
xưa . Coi việc nghĩa trên hết quên cả bản thân mình.Nếu Vân Tiên
chỉ dừng lại 1 chút thôi để tính toán thiệt hơn thì có lẽ đã mất đi hình
tượng đẹp đẽ lay động lâu người này . Hình tượng " văn võ song tòan
" Phảng phất đâu đây cái chỉ của anh hùng " triệu tử " thời tam
quốc.Nhưng nó có nét khác biệt bởi Triệu Tử Long xông vào giữa
đám trăm vạn quân Tào Không quản than mình để cứu chúa thì Vân
Tiên xông vào giữa đám cướp không tiếc thân mình để cứu dân.
Vân Tiên tả đột hữu xung
Khác nào Triệu Tử phá vòng đương giang
Bọn cướp khá đông mà Vân Tiên không hề e sợ . Xông pha
như Triệu Tử đột phá vòng vây vậy . thấy cướp " quen thói hồ đồ hại
dân " là xông vào đánh hết mình, đánh bằng lòng dũng cảm , bằng võ
nghệ điêu luyện . Hình ảnh Vân Tiên hiên ngang xông vào giữa đám
thảo khấu giống như chính nghĩa đang trừng trị cáci ác cái xấu vậy .
Nhân nghĩa và can trừơng biết bao!
16 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
Chàng chỉ đánh cướp chỉ vì bản năng con người thôi ! Chứ không
tính toán thiệt hơn . Nhưng chàng cũng không ngờ rằng người mình
cứu được chính là Kiều Nguyệt Nga . Thái độ của chàng đối với giai
nhân thật thú vị ! Càng xông xáo đánh cướp bao nhiêu thì lại e dè ,
nhút nhát trước người con gái này bấy nhiêu :
Khoan khoan ngồi đó chớ ra
Nàng là phận gái ta là phận trai
Dẫu chưa nguôi sợ hãi nhưng chắc hẳn Kiều Nguyệt Nga sẽ
mở miệng cười thầm đối với người con trai nhút nhát . Nếu thay vào
đó là 1 người con trái thạo đời thì chắc hẳn sẽ tấn công vồ vập với
người con gái tuyệt đẹp này . Nhưng Vân Tiên lại khác , chàng là con
ngừời biết giữ lễ nghĩa xưa . Điều đó càng nói lên bản chất của chàng
thật trong sáng và ẩn dấu trong đó là lòng dũng cảm . Đó chính là
mẫu mực của con người " văn võ song tòan "
Tuy nhiên không giống như Từ Hải " Vai năm tấc rộng , thân
mười thước cao " và " vao trong phong nhã ra ngòai hào hoa " như
Kim Trọng trong Kiều. Vân Tiên chỉ là 1 thư sinh thôi mà qua những
lời nói , việc làm của chàng . Nguyễn Đình Chiểu đã cho ta những ấn
tượng khó phai
Làm ơn há dễ trông người trả ơn
17 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
CẢM NHẬN HÌNH ẢNH ĐẦU SÚNG TRĂNG TREO
Không biết tự bao giờ ánh trăng đã đi vào văn học như một huyền
thoại đẹp. ở truyền thuyết “Chú cuội cung trăng” hay Hằng Nga trộm
thuốc trường sinh là những mảng đời sống tinh thần bình dị đậm đà
màu sắc dân tộc của nhân dân ta. Hơn thế nữa, trăng đã đi vào cuộc
chiến đấu, trăng bảo vệ xóm làng, trăng được Chính Hữu kết tinh
thành hình ảnh “đầu súng trăng treo” rất đẹp trong bài thơ Đồng chí
của mình.
Sau hơn mười năm làm thơ, Chính Hữu cho ra mắt tập “Đầu
súng trăng treo”. Thế mới biết tác giả đắc ý như thế nào về hình ảnh
thật đẹp, thơ mộng, rất thực nhưng không thiếu nét lãng mạn đó.
Đầu súng trăng treo- đó là một hình ảnh tả thực một bức tranh tả thực
và sinh động. Giữa núi rừng heo hút “rừng hoang sương muối” giữa
đêm thanh vắng tĩnh mịch bỗng xuất hiện một ánh trăng treo lơ lửng
giữa bầu trời. Và hình ảnh này cũng thật lạ làm sao, súng và trăng
vốn tương phản với nhau, xa cách nhau vời vợi bỗng hoà quyện vào
nhau thành một hình tượng gắn liền. Nhà thơ không phải tả mà chỉ
gợi, chỉ đưa hình ảnh khiến ta liên tưởng nhiều điều. Đêm thanh vắng
người lính bên nhau chờ giặc tới, trăng chếch bóng soi sáng rừng
hoang bao la rộng lớn, soi sáng tình cảm họ, soi sáng tâm hồn họ…
Giờ đây, người chiến sĩ như không còn vướng bận về cảnh chiến đấu
18 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
sắp diễn ra, anh thả hồn theo trăng, anh say sưa ngắm ánh trăng toả
ngời trên đỉnh núi, tâm hồn người nông dân “nước mặn đồng chua”
hay “đất cày trên sỏi đá” cằn cỗi ngày nào bỗng chốc trở thành người
nghệ sĩ đang ngắm nhìn vẻ đẹp ánh trăng vốn có tự ngàn đời. Phải là
một người có tâm hồn giàu lãng mạn và một phong thái ung dung
bình tĩnh lạc quan thì anh mới có thể nhìn một hình ảnh nên thơ như
thế. Chút nữa đây không biết ai sống chết, chút nữa đây cũng có thể
là giây phút cuối cùng ta còn ở trên đời này nhưng ta vẫn “mặc kệ”,
vẫn say sưa với ánh trăng.
Ánh trăng như xua tan cái lạnh giá của đêm sương muối, trăng
toả sáng làm ngời ngời lòng người, trăng như cùng tham gia, cùng
chứng kiến cho tình đồng chí đồng đội thiêng liêng của những ngươì
lính. Trăng truyền thêm sức mạnh cho họ, tắm gội tâm hồn họ thanh
cao hơn, trong sạch hơn, trăng cũng là bạn, là đồng chí của anh bộ
đội Cụ Hồ.Đầu súng trăng treo- hình ảnh thật đẹp và giàu sức khái
quát. Súng và trăng kết hợp nhau; súng tượng trưng cho chiến đấu-
trăng là hình ảnh của thanh bình hạnh phúc. Súng là con người, trăng
là đất nước quê hương của bốn nghìn năm văn hiến. Súng là hình ảnh
người chiến sĩ gan dạ kiên cường- Trăng là hình ảnh người thi sĩ. Sự
kết hợp hài hoà tạo nên nét lãng mạn bay bổng vừa gợi tả cụ thể đã
nói lên lí tưởng, mục đích chiến đấu mà người lính ấy đang tham gia.
19 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
Họ chiến đấu cho sự thanh bình, chiến đấu cho ánh trăng mãi nghiêng
cười trên đỉnh núi. Ta hãy tưởng tượng xem: giữa đêm khuya rừng
núi trập trùng bỗng hiện lên hình ảnh người lính đứng đó với súng
khoác trên vai, nòng súng chếch lên trời và ánh trăng lơ lửng ngay
nòng ngọn súng. Đó là biểu tượng Khát Vọng Hoà Bình, nó tượng
trưng cho tư thế lạc quan bình tĩnh, lãng mạn của người bảo vệ Tổ
quốc.
Cái thần của câu thơ “Đầu súng trăng treo” nằm ở từ “treo”,, làm tăng
thêm nét lãng mạn? Chỉ có trăng “treo”. Phải, chỉ có “Đầu súng trăng
treo” mới diễn tả hết được cái hay, cái bồng bềnh thơ mộng của một
đêm trăng “đứng chờ giặc tới”. Ta nên hiểu bài thơ dường như được
sáng tác ở thời điểm hiện tại “đêm nay” trong một không gian mà mặt
đất là “rừng hoang sương muối” lạnh lẽo và lòng đầy phấp phỏng
giặc sẽ tới có nghĩa là cái chết có thể đến từng giây từng phút. Thế
nhưng người lính ấy vẫn đứng cạnh nhau để tâm hồn họ vút lên nở
thành vầng trăng. Nếu miêu tả hiện thực thì vầng trăng ấy sẽ có hình
khối của không gian . Ở đây, từ điểm nhìn xa, cả vầng trăng và súng
đều tồn tại trên một mặt phẳng trong hội hoạ nó mang tính biểu
tượng cao. Tố Hữu cũng có một câu thơ kiểu này: “ánh sao đầu súng
bạn cùng mũ nan” và Phạm Tiến Duật thì “Và vầng trăng vượt lên
trên quầng lửa” hay Hoàng Hữu “Chỉ một nửa vầng trăng thôi một
20 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
nửa. Ai bỏ quên ở phía chân trời…”. Nhưng có lẽ cô kết nhất, hay
nhất vẫn là “Đầu súng trăng treo”.Như đã nói ở trên, không phải ngẫu
nhiên mà Chính Hữu lấy hình ảnh “Đầu súng trăng treo” làm tựa đề
cho tập thơ của mình. Nó là biểu tượng, là khát vọng và cũng là biểu
hiện tuyệt vời chất lãng mạn trong bài thơ cách mạng. Lãng mạng
nhưng không thoát li, không quên được nhiệm vụ và trách nhiệm của
mình. Lãng mạn vì con người cần có những phút sống cho riêng
mình. Trước cái đẹp mà con người trở nên thờ ơ lãnh đạm thì cuộc
sống vô cùng tẻ nhạt. Âm hưởng của câu thơ đã đi đúng với xu thế
lịch sử của dân tộc. Hình ảnh trăng và súng đã có nhiều trong thơ
Việt Nam nhưng chưa có sự kết hợp kì diệu nào bằng hình ảnh Đầu
súng trăng treo của Chính Hữu.
Chính Hữu bằng tâm huyết đã tạo nên câu thơ tuyệt vời để cống
hiến cho cuộc kháng chiến của chúng ta. Và bạn ơi! Bạn hãy thả cùng
tôi những chú chim trắng trên bầu trời, hãy hát vang lên ca khúc Hoà
Bình vì hình ảnh đầu súng trăng treo mà nhà thơ đã gởi vào đó bao
nhiêu khát vọng nay đã thành hiện thưc.
CẢM NHẬN TÁM CÂU CUỐI KIỀU Ở LÀU NGƯNG BÍCH
Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là sự kết hợp ,giao hòa của hai yếu
tố cảnh vật và tâm trạng .Về cảnh vật có lầu cao ,có non xanh nước
biếc ,sơn thủy hữu tình .Nếu Thúy Kiều ở vào một hoàn cảnh khác 21 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
,trong tâm trạng khác thì hẳn cảnh đó sẽ rất đẹp .Tuy nhiên tâm trạng
Kiều lại đang rất u ám ,sầu não : bị Tú Bà giam lỏng ở lầu Ngưng
Bích ,Kiều da diết nhớ cha mẹ ,nhớ người yêu ,đồng thời lại rất đau
xót cho thân phận mình .Cảnh vật do đó nhuốm màu tâm trạng :
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Từ đó ,ta thấy tám câu thơ cuối nằm trong số những câu thơ tả cảnh
hay nhất của Truyện Kiều .Chúng thể hiện rất rõ nét nghệ thuật " tả
cảnh ngụ tình " của Nguyễn Du :
Buồn trong cửa bể chiều hôm ,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa ?
Buồn trong ngọn nước mới sa ,
Hoa trôi man mác biết là về đâu ?
Buồn trong ngọn cỏ rầu rầu ,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Nếu tách ra riêng các yếu tố ngoại cảnh ra mà xét thì có thể thấy đó là
một khung cảnh thật thơ mộng và lãng mạn : có cánh buồm thấp
thoáng ,có man mác hoa trôi ,có nội cỏ chân mây mặt đất một màu
...Thế nhưng khi đọc những câu thơ này chỉ khiến cho lòng người
thêm sầu muộn ,ảo não .Nguyên nhân là trước mỗi cảnh vật kia ,sừng
22 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
sững án ngữ cụm từ " buồn trông " .Không phải là ' xa trông " như
người ta vẫn nói ,cũng không phải "là ghé mắt trông "như Xuân
Hương đã từng tinh nghịch mà điền trước đền thờ Sầm Nghi Đống ,Ở
đây ,nhân vật trữ tình chỉ có một tâm thế duy nhất : buồn trông "
.Tâm trạng nàng đang ngổn ngang trăm mối : nhớ người yêu ,nhớ cha
mẹ ,cảm giác mình là người có lỗi ...và nhất là đang hết sức đau xót
cho thân phận mình .Bởi vậy cảnh vật ấy được cảm nhận theo con
mắt của Thúy Kiều :cánh buồm thấp thoáng nỗi trôi vô định ,hoa trôi
man mác càng gợn nỗi phân li ,nội cỏ không mơn mởn xanh mà " rầu
rầu " trong sắc màu tàn úa ...Nỗi bậc lên trong cảnh vật đó là những
âm thanh mê hoặc :
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi .
Trong Truyện Kiều Nguyễn Du cũng đã nhiều lần miêu tả âm thanh
.Nguyễn Du đặc biệt thành công khi ông tả tiếng đàn của Kiều .Tùy
theo tâm trạng ,mỗi lần tiếng đàn của Kiều cất lên là một lần nhười
nghe phỉ chảy nước mắt khóc cho số phận oan nghiệt của nàng .
Nguyễn Du không tả tiếng đàn mà tả tiếng sóng .Khung cảnh bát ngát
mênh mang ,tiếng song vỗ " ầm ầm ",nhà thơ đã đảo ngữ để cho ấn
tượng đó càng rõ hơn quả là một thứ âm thanh hết sức bất thường
.Dường như nó muốn phá vỡ khung cảnh nặng nề nhưng yên tĩnh ,nó
23 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
dứt Kiều ra khỏi dòng suy tư về gia đình ,người thân mà trả nàng về
với thực tại nghiệt ngã ..
Tám câu thơ ,mỗi cặp câu gợi ra một nỗi buồn sâu thẳm " Buồn trông
" là buồn mà nhìn xa ,nhưng cũng là buồn mà trông ngóng một cái gì
mơ hồ sẽ đến làm đổi thay tình trạng hiện tại .Hình như nàng trong
một cánh buồm ,nhưng cánh buồm chỉ thấp thoáng xa xa ,không rã
,như một ước vọng mơ hồ sẽ đến làm đổi thay tình trạng hiện tại mỗi
lúc một xa .Nàng lại trong ngọn nước mới từ cửa sông chảy ra biển
,ngọn sóng xô đẩy cánh hoa phiêu dạt ,không biết về đâu .Kiều ngồi
trên lầu cao làm sao thấy được cánh hoa trôi trên dòng nước .Đây chỉ
là cảnh tưởng tượng về số phận mình .
Tám câu thơ câu nào cũng vừa thực vừa hư ,vừa là thực cảnh
vừa là tâm cảnh .Toàn là hình ảnh về sự vô vọng ,sự dạt trôi ,sự bế
tắc và sự chao đảo ,nghiêng đổ .Đây chính là lúc mà tình cảm Kiều
trở nên mong manh và yếu đuối nhất ,là lúc mà nàng rất dễ rơi vào
cạm bẫy .
Nhìn chung tám câu thơ cuối của đoạn thơ này là những câu thơ tả
cảnh ngụ tình rất đặc sắc .Tả xung quanh cảnh là để tả tâm trạng Kiều
,nói lên tâm trạng đau buồn da diết của Thúy Kiều .Nguyễn Du đã
khắc họa được một bức tranh sinh động về ngoại cảnh và tâm cảnh
,trong đó nỗi lên tâm trạng Thúy Kiều bề bộn bao nỗi buồn đau ,chua
24 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
xot ,lo sợ ,vô vọng ... ,góp phần tạo nên vẻ đẹp thủy chung ,hiếu thảo
và nhân hậu ở Thúy Kiều cùng với tâm trạng cô đơn thương nhớ ở
hai phần trên .
CẢM NHẬN ĐOẠN CUỐI BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG
KÍNH
Ai đã đọc bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật chắc
không thể quên đươc đoạn thơ cuối cùng nói về.Lòng yêu nước một
động lực tạo nêný chí quyết tâm giải phóng miền Nam, đánh bại giặc
Mỹ và tay sai để thống nhất Tổ quốccủa người lính lái xe :
Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Khổ thơ cuối cùng vẫn giọng thơ mộc mạc, mà nhạc điệu hình ảnh rất
đẹp, rất thơ, cảm hứng và suy tưởng vừa bay bổng vừa sâu sắc để
hoàn thiện bức chân dung tuyệt vời của những chiến sĩ vận tải
Trường Sơn. Bốn dòng thơ dựng hai hình ảnh đối lập đầy kịch tính,
bất ngờ thú vị. Hai câu đầu dồn dập những mất mát khó khăn do quân
thù gieo xuống, do đường trường gây ra : xe không kính, không đèn,
không mui, thùng xe bị xước ... Điệp ngữ "không có" nhắc lại ba lần
25 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
như nhân lên những thử thách khốc liệt. Hai dòng thơ ngắt làm bốn
khúc "không có kính/ rồi xe không có đèn / Không có mui xe / thùng
xe có xước" như bốn chặng gập ghềnh, khúc khuỷu, đầy chông gai
bom đạn. Hai câu cuối âm điệu đối chọi lại, trôi chảy, hình ảnh đậm
nét. Đoàn xe đã chiến thắng, vượt lên bom đạn, hăm hở hướng ra tiền
tuyến lớn với tình cảm thiêng liêng "vì miền Nam", vì cuộc chiến đấu
giành độc lập, thống nhất cho cả nước. Chói ngời, toả sáng khổ thơ,
cả bài thơ là hình ảnh "trong xe có một trái tim Cội nguồn sức mạnh
của cả đoàn xe, gốc rễ anh hùng của mỗi người cầm lái tích tụ, kết
đọng ở "trái tim" gan góc, kiên cường, chứa chan tình yêu nước này.
Ẩn sau ý nghĩa câu thơ "chỉ cần trong xe có một trái tim" là chân lý
của thời đại chúng ta :sức mạnh quyết định, chiến thắng không phải
là vũ khí, công cụ mà là con người giàu ý chí, anh hùng, lạc quan,
quyết thắng. Có thể cả bài thơ hay nhất là câu cuối, "con mắt của
thơ", làm bật lên chủ đề, toả sáng vẻ đẹp của hình tượng nhân vật
trong bài thơ. Thiếu phương tiện vật chất nhưng những chiến sĩ vận
tải Đoàn 559 vẫn hoàn thành vẻ vang nhiệm vụ, nêu cao phẩm chất
con người Việt Nam anh hùng như Tố Hữu đã ca ngợi :
Thiếu tất cả, ta rất giàu dũng khí
Sống chẳng cúi đầu, chết vẫn ung dung
Giặc muốn ta nô lệ, ta lại hoá anh hùng
26 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
Sức nhân nghĩa mạnh hơn cường bạo
"Bài thơ về tiểu đội xe không kính" là một bài thơ đặc sắc tiêu biểu
cho phong cách thơ Phạm Tiến Duật.Chất giọng trẻ, chất lính của bài
thơ bắt nguồn từ tâm hồn phơi phới của thế hệ chiến sĩ Việt Nam thời
chống Mỹ mà chính nhà thơ đã sống, đã trải nghiệm. Từ sự giản dị
của ngôn từ, sự sáng tạo của hình ảnh chi tiết, sự linh hoạt của nhạc
điệu, bài thơ đã khắc hoạ, tôn vính vẻ đẹp phẩm giá con người, hoà
nhập với cảm hứng lãng mạn cách mạng và âm hưởng sử thi hào
hùng của văn học Việt Nam trong ba mươi năm chống Mĩ xâm lược .
CẢM NHẬN VỀ BÀI THƠ BẾP LỬA
Ai đã một lần đọc bài thơ “bếp lửa” của Bằng Việt thì không thể nào
quên cái tình cản thiêng liêng,đượm nồng mà sâu lắng bao hàm cả
nỗi tri ân của người cháu đối với bà.
Thơ của bằng Việt thật thiết tha và nồng đượm . chỉ là 1 bếp lửa chờn
vờn sương sớm ... mà sao tha thiết nghĩa tình thế , mà sao lắng sâu
đến thế Thì ra có khi những điều nhỏ nhoi , giản dị nhất lại ẩn chứa
tâm tình , chắt đọng những điều thiêng liêng , lại hiện hình lên những
tình cảm thiết tha , chân thành không thể nao quên . Cứ thế bài thơ
Bếp lửa đã đọng trong lòng ta nhưng dư vị ngọt ngào .
. với bằng việt hình ảnh bếp lửa, nó là biểu tượng cho sự ấm áp ,
nồng đượm của tình bà cháu . Bếp lửa đã khơi gợi nhóm lên , lan tỏa ,
tan chảy mãi dòng hồi ức tuổi ấu thơ , thao thức , đượm đùa ... Hình 27 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
ảnh bếp lửa thật giàu ý nghĩa cho nên mở đầu bài thơ chính là mở đầu
cho nỗi nhớ của tác giả . Nỗi nhớ bà , nhớ chính cái bếp lửa thân
quen ấy .
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nộng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa
Những hình ảnh mở đầu vừa thực vừa hư như trong truyện cổ
tích . Ngọn lửa nhỏ mờ trong sương sớm mai hình ảnh lúc ẩn lúc
hiện ... tạo nên 1 quãng cảnh trữ tình làm lay động cảm xúc dạt dào
của tác giả . Bếp lửa ! .hình ảnh bếp lửa từ trong sâu thẳm tiềm thức
khi ẩn khi hiện , khi mờ trong nỗi nhớ nôn nao của đứa cháu khi xa
cách lâu ngày . Từ "ấp iu" được dùng rất sáng tạo . Đó là kết quả rút
gọn và nối kết của bao từ " ấp lửa , chắt chiu , nâng niu " Đi với động
từ này là tính từ " nồng đượm " Những điều đó đã nói lên rằng bếp
lửa đã có 1 linh hồn , trờ thành bếp lửa ủ chứa tình thương của cháu
đôi với cuộc đời lam lũ , trải qua " nắng mưa " của người Bà . Từ đây
2 hình ảnh , 2 nỗi nhớ đan xen nhau thành làm cho cảm xúc nhà thơ
thăng hoa . Rồi tác giả đã vận dụng các giác quan để làm sống lai đời
thơ bé cùng sống với người bà chịu thương chịu khó :
Lên 4 tuổi cháu đã quen mùi khói
28 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
Năm ấy là năm đói mòn đói moỉ
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
Từ thị giác " chờn vờn sương sớm" cảm giác " ấp iu nồng
đượm" và khứu giác " hum nhèm mắt cháu " để nói về đoạn đời đói
khổ , đói đến mòn ỏi , hình ảnh ngừời bố đi đánh xe về khô rạc với
con ngựa gầy còm . Tất cả đều hội tụ trong mùi khói hum đên ngẹt
thở nao lòng cả tuổi thơ . Đó là 1 vòm trơi cổ tích nào cao rồng và
nhồm màu lãng mãn trong thời thơ bé , hay nói đúng hơn khói bếp đã
bao trùm suốt khung trời tuổi thơ của tác giả . Ấn tượng về cuộc sóng
đói khổ và khói bếp nhà nghèo đã đọng lại và da diết trong kí ức của
nhà thơ " nghĩ bây giờ sống mũi còn cay " Quá khứ tuổi thơ cay cực
đã qua rồi mà dư vị 1 thời thơ bé vẫn ám ảnh Bằng Việt . Nghĩ lại
trhấy xót thương trong hồi ức về bà ... Tuy chỉ là 1 đoạn thời thơ ấi
những thời gian ấy dài lắm những 8 năm :
Cháu cùng bà nhóm lửa
Tú hú kêu trên những tầm gần xa
Khi tu hú kêu bà còn nhớ ko bà
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế .
Cuộc sống đói khổ đã làm vấy đen đi tuổi bé thơ hồn nhiên của
tác giả . Chỉ mới 4 tuổi thôi mà trông già dặn làm rồi , già đi do 8
29 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
năm trời dài vô tận . 8 năm của biết bao khó nhóc , 8 năm của cái đói
và cái vất vả đeo đẳng nhưng chẳng thể nào thoát ra được . Từ bếp
lửa cho đến nhóm lửa Đã góp phần tô đậm thêm cái vất vả của bà .
Nhưng chính bên bếp lửa , trong cái ánh lửa ấm sáng của tình bà cháu
. Đã hồng lên ngọn lửa kiên trì dai dẳng , niềm tin vào ngày kháng
chiến thắng lợi , đất nước sẽ trở lại bình yên . Và bấy giờ lại xuất
hiện thêm 1 hình ảnh gần gũi thân quen . Tiếng tu hú !. Sóng đôi
cùng bếpl lửa nói gợi lên những liên tưởng gần xa . Đời bà và cháu
chỉ quanh quẫn bên chiếc bếp gần gũi mà nghe tiêng tu hú kia sao
giục giã như khắc khỏai những khao khát rộng dài đến 1 không gian
xa xôi ở cuộc sống khác 1 không gian có những cánh đồng ,có mùa
quả ngọt trong mùa hè rực nắng , có cánh phượng đỏ, có mùa lúa
chính ... Nghe não lòng ! Cái âm thanh quen thuộc ấy cứ nhắc đi ,
nhắc lại nhiều lần làm cho lòng tác giả càng trở nên tha thiêt, bồi hồi ,
đó là tiếng vọng gợi nhớ nơi thơi gian , năm tháng của kỷ niệm về gia
đình về quê hương yêu thương, về những giây phút vắng bóng mẹ
cha , chỉ còn bà . Cháu ở cùng bà , cháu lớn lên trong sự nuôi dưỡng
yêu thương của bà.
Cháu ở cùng bà bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm bà chăm cháu học
" Cháu ở cùng bà " từ ngữ thật hay và hàm xúc " bà bảo" " bà dạy" "
30 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
bà chăm " vai trò của bà trong gia đình thật to lớn . Năm tháng đã trôi
qua , thế mà bà vẫn khó nhọc vất vả nhóm bếp. Ngẫm nghĩ ngọn lửa
hồng và tiếng chim tu hú gọi bầy , đứa cháu nhỏ bỗng thốt lên câu
nói giản dị những dạt dao tình yêu thương " chim tu hú kêu chi hoài "
Câu thơ cảm thán và câu hỏi tu từ diễn tả nỗi thương nhớ bà da diết .
Cảm xúc cứ trào lên như sóng vỗ :
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc
Tu hú ơi ! Chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hòai trên những cánh đồng xa
Cháu cảm thông với nỗi nhọc nhằn của bà , cháu đã dần khôn lớn
trong vòng tay chở che ấm áp ấy . Cháu càng lớn càng cảm thấy xót
thương cho mảnh đời bất hạnh của tu hú .Cháu muốn tu hú cũng
được sự chăm sóc như bà đối với mình . Kỷ niệm cứ hiện dần lên và
trong xúc cảm hình ảnh bà và hình ảnh bếp lửa đã hòa quyền đồng
nhất thành 1 . Trong lòng cháu , 2 hình ảnh như 1 . Tuy 1 mà 2 . Để
chỉ còn hiện lên trong tâm trí người cháu 1 xúc cảm mãnh liệt , 1 cái
gì đó rất nồng đượm :
Bố ở chiến khu , bố còn việc bố
Mày có viết thư chớ kể này kể nỏ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên !
Năm ấy giặc đốt nhà bà ! . Cuộc sống bà đã khổ rồi giờ còn khó
31 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
khăn thêm . Nhưng vẫn giữ vừng niềm tin sắt đá . vẫn mang trong
mình dòng máu bà mẹ Việt Nam anh hùng . Vẫn quan tâm ko muốn
con lo lắng . Bà đã nén chịu đau thương để con mình chuyên tâm
đánh giặc để đem lại hòa bình cho đất nước . Lúc ấy thì nhà bà có sá
gì so với cuộc sống bình yên . Cho nên bà đã dặn cháu không được
kể . Đến đây ta thấy thật cảm động trước hành đồng cao cả ấy . Chỉ
cần ai ai cũng làm theo tấm gương bà thì ngày hòa bình độc lập
không còn quá xa vời .
Lận đận đời bà biết mấy nắng mứa
Mấy chục năm rồi đến tân bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sơm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Công lao của bà thật to lớn , ngay từ nhỏ cháu đã không được
sống trong bàn tay chăm sóc dạy dỗ của cha mẹ . Chỉ có bà là ngừơi
quan tâm chăm sọc dạy dỗ cháu " bà bảo cháu nghe bà chăm cháu
học " Công lao dưỡng dục của bà khó có bậc cha mẹ nào bì kịp . Cứ
thế bà đã sống cực khổ , lam lũ cả mấy chuc năm . Đời bà đã trải qua
biết bao nhiều nắng mưa . Vậy mà cuộc sống của bà vẫn thế. Vẫn
32 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
không có gì đổi thay . Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm . Dậy để làm
việc , quét nhà , nấu ăn tất cả công việc nội trợ . Cuộc đời bà thật vất
vả . Chỉ vì đất nước đang có chiến tranh nên con cái bà đều thoát li đi
kháng chiến , để lại đứa cháu bé bỏng ngây thơ cho bà chăm sóc ,
nuôi nấng . Trong bài thơ , khi cháu nhớ về bà thì luôn gắn liến với
hình ảnh bếp lửa. Có lẽ hình ảnh bếp luẳ thân quen với cháu lắm với
bà lắm . Mỗi sớm mỗi chiều bà đều nhóm bếp lửa , phải chăng bà
muôn nhóm lên tình thương yêu nồng ấm , nhóm lên tình cảm yêu
thương mà bà dành cho cháu . Trong những năm đói mòn đói mỏi ấy
có phải chăng bà cháu đã dựa vào hơi ấm tình người , tình bà cháu,
niềm tin hi vọng , và chính cái bếp lửa thân quen đễ mà sống , tồn tại
, để vượt qua mọi khó khăn . Chính lúc này đây ta như hình dung ra
được hình ảnh 1 người bà nhỏ nhắn trong bộ quần áo nâu đắp đổi qua
ngày , mái tóc bạc , đôi mắt ngời lên vẻ vị tha phúc hậu , đôi bàn tay
khéo léo, và những vết nhăn do cuộc đời lam lũ . Bà ngồi bên bếp lửa
, da tay sằn sùi hăn đi dấu vết thời gian cô gắng giữ cho ngọn lửa
nồng đượm . " nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm " Vì ngọn lửa này bà
đã chịu bao cực nhọc trong cuộc sống . Nhóm lửa 1 công việc tuy
hình sức bình thường như bao công việc khác mà trách nghiệm của
người phụ nữ đảm đang phải làm , nhưng ngọn lửa của bà lại khác ,
ngọn lửa cao quý hơn đặc biết hơn . Ngọn lửa ấp iu nồng đượm . Từ
33 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
ấp iu được dùng rất khéo là sự giao thoa , kết hợp của 2 từ ấp ủ và
yêu thương cộng với tính từ nồng đượm. CÓ phải chăng ngọn lửa bà
nhóm lên là tình thương , tình yêu mà ba dành cho cháu . Lúc này
không chỉ tác giả cảm nhận được hơi ấm dịu dàng mà cả ta người đọc
: tâm hồn cũng được sưởi ấm bên ngọn lửa thiêng liêng ấy, ngọn lửa
của niềm yêu thương khoai sắn ngọt bụi , của nồi xôi gạo mới sẻ
chung vui .Và đặc biệt chính ngọn lửa này , ngọn lửa đã tiêu hao mấy
chục năm đời của bà đã giúp cháu nên người , đã nhóm dậy cả những
tâm tình của tác giả . Đên tận bây giờ , dù đã trải qua rất lâu , tác giả
đã ở trong 1 cuộc sống tiện nghi , đang trên đừơng đi học vậy mà
khói bếp bà nhem vẫn con hum nhèm mắt . Ngọn lửa ấy cao cả quá,
vĩ đại quá làm tác giả không thể nào quên.
Rồi sớm rồi chiều lại bếp lủa bà nhen
Một ngọn luẳ lòng bà luôn ủ sẳn
Một ngọn luẳ chứa niềm tin dai dẳng....
Một lần nữa qua lời thơ của tác giả ta đã cảm nhận được sự khó
nhọc của người bà khi ngày ngày , sớm chiều nhen bếp lửa . Tại sao
bà có thể nhẫn nại hi sinh đến như vậy ! Do trong lòng bà luôn có 1
ngọn lửa niềm tin ủ sẳn . Ngọn lửa của niềm tin đất nước sẽ hòa bình
độc lập , cuộc sống sẽ được nâng cao , không còn viễn cảnh đói
nghèo nữa , đất nước sẽ thống nhất với nhau , người thân và gia đình
34 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
sẽ không còn chịu cảnh thoát li nữa mà sẽ về sum họp cùng bà lúc
cuối đời . Là ngọn lửa của niềm tin đứa cháu mình sau này sẽ nên
người , sẽ noi gương được cha mẹ , sẽ nhận ra được sự khó nhọc của
bà trong công việc nuôi dạy cháu tù đó người cháu có thể quyết tâm
học thành tài để xây dựng đất nước tươi đẹp hơn , giàu đẹp hơn . Bà
luôn mong cháu sẽ cống hiến mãi không nguôi cho tổ quốc . Nếu bài
thơ dừng lại ở đây thì đã có thể xem là 1 áng thơ hay lắm rồi . Vỡi
nhưng cảm xúc của đứa cháu khi nhớ về bà , nhớ về quãng đời cơ cục
cùng bà nhóm lửa , nhớ về công lao dạy dỗ của bà .... qua những vần
thơ giản dị mà thắm thía , với những điệp ngữ và từ ngữ được vận
dụng 1 cách rất linh hoạt sáng tạo . Nhưng đến đây dòng tâm niệm
của tác giả vẫn chưa nguôi . Vẫn thốt lên những câu thơ lay động tâm
hồn.
Giờ cháu đã đi xa
Có lửa trăm nha, niềm vui trăm ngả
Những vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhỏ
Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa ?
Dù cho tác giả đã hòan thành nguyện ước của bà . Đã là 1 con
người thành đạt , sống có ích cho xa hổi .Đã sống trong 1 điều kiện
đầy đủ tiện nghi" có lửa trăm nhà niềm vui trăm ngả " Nhưng lòng
tác giả vẫn luống hướng về cội nguồn sinh dưỡng của mỗi con người
35 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
. Bằng Việt sẽ mãi mãi không quên cái bếp lửa bà nhen , công lao
nuôi dưỡng . Tác giả luôn luôn tự hỏi với lòng : bà bây giờ sống thế
nào ? có khỏe mạnh không ? bà nhóm bếp lên chưa ? Chắc chắn rồi
sẽ có 1 ngày tác giả quay về nơi chôn rau cắt rồn của mình để chăm
sóc người bà thân yêu trong những phút cuối cùng . Đây kà 1 bài thơ
dạt dào cảm xúc . Tác giả đã khéo léo sủ dụng các biện pháp nghệ
thuật đặc sắc , cách gieo vần , láy điệp từ và những hình ảnh có sức
thuyết phục cao và những liên tưởng độc đáo tạo nên giá trị cho bài
thơ. Ta cảm nhận được ở đây tám lòng biết ơn sâu nặng , nhớ nhung
da diết , tâm chân tình của nhà thơ đối với người bà yêu dấu ( mở
rộng) Đặc biệt qua 2 khổ cuối này ta đã hiểu thêm được nguyên do vì
sao tác giả lại có tình thương yêu vô bờ đối với quê hương như vậy ?
. Do công lao trời biển của bà mà chắc hẳn rất ít 1 sánh được . Khâm
phục , cảm động , bất giác ta có thể thốt lên rằng " Ôi bà thật là con
người vĩ đại " .
Đọc bài thơ thêm một lần nữa , chúng ta cảm thấy trong lòng
lại trao dâng niêm cảm xúc . Bài thơ đã khơi dậy cho chúng ta 1 tình
cảm cao đẹp đối với gia đình , quê hương và xã hội . Càng suy ngẫm ,
thấm từng lời thơ của bằng việt ta càng hiểu thế nào là nỗi nhớ quê
hương . Ôi! làm sao có thể quên cho được
Ôi kì lạ và thiêng liêng bếp lửa!
36 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
CẢM NHẬN VỀ NHÂN VẬT BÉ THU
Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng là một truyện ngắn viết về
tình phụ tử sâu nặng của cha con ông Sáu sau chiến tranh. Đây là một
truỵên ngắn giản dị nhưng chứa đầy sức bất ngờ . Đoạn trích SGK
ngữ văn 9 đã cho thấy một khoảnh khắc nhỏ mà trong đó có sự cao cả
thiêng liêng về tình phụ tử .
“Chiếc lược ngà ” được viết vào năm 1966 khi tác giả hoạt động ở
chiến trường Nam Bộ . Nội dung văn bản trong SGK là cuộc gặp gỡ
của anh Sáu - một người xa nhà đi kháng chiến. Mãi khi con gái lên
tám tuổi, anh mới có dịp về thăm nhà, thăm con. Bé Thu - con gái
anh không nhận cha , trái lại đã đối xử lạnh nhạt, có lúc vô lễ với cha.
Điều đó làm anh Sáu đau lòng, nhưng anh vẫn yêu thương con bằng
tình cha con ruột thịt. Sau vài ngày ngắn ngủi sum họp gia đình, anh
Sáu phải ra đi. Đến lúc ấy Bé Thu bỗng thay đổi thái độ. Em ôm chặt
lấy cha không muốn cha con phải xa nhau .Mọi người ngỡ ngàng
sửng sốt. Thì ra mấy ngày trước do nhìn thấy trên mặt anh Sáu có vết
sẹo lớn, bé Thu thấy anh không giống cha chụp chung ảnh với mẹ.
Nhờ bà ngoại giảng giải, Thu đã hiểu ra mọi chuyện, em cất tiếng gọi
“Ba…ba!..” và hẹn “Ba mua cho con một cây lược nghe!”. Ở khu căn
cứ, anh Sáu dồn hết tình cảm yêu quí nhớ con vào việc làm một chiếc
lược bằng ngà voi để mang về tặng cô con gái bé bỏng. Nhưng trong
37 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
một cuộc chiến đấu anh đã ngã xuống. Trước lúc nhắm mắt anh còn
kịp trao cây lược cho người bạn, gửi về tận tay cho con. Truyện được
viết theo lời kể qua cái nhìn của ông Ba - nhân vật xưng tôi. Tuy đây
là một đề tài khá phổ biến trong văn chương nhưng chính vì thế mà
giá trị nhân văn của truyện càng trở nên sâu sắc.
Truyện xoay quanh một kỉ vật đơn sơ mà vô giá ấy là chiếc lược
ngà. Nhưng suốt cả câu chuyện, suốt những quãng đời, suốt cả cuộc
đời ấy chỉ có một tiếng kêu, một tiếng kêu bình dị và thiêng liêng bậc
nhất cõi đời này: tiếng cha. Câu chuyện “Chiếc lược ngà” đã kể lại
thật cảm động về cuộc gặp gỡ và những tình cảm của cha con anh
Sáu. Hình ảnh anh Sáu đã để lại trong lòng người đọc nỗi cảm thông,
yêu mến và những ấn tượng sâu sắc.
Cũng như bao người khác anh Sáu đi theo tiếng gọi của quê hương
đã lên đường chiến đấu, để lại người vợ và đứa con thân yêu. Sự xa
cách càng làm dâng lên trong anh nỗi nhớ nhung tha thiết đứa con gái
mà khi anh đi nó chưa đầy một tuổi. Nỗi nhớ ấy đã trở thành niềm
khao khát, mơ ước cháy bỏng trong lòng anh. Chính vì vậy mỗi lần
vợ lên thăm là một lần anh hỏi “Sao không cho con bé lên cùng ?’’.
Không gặp được con anh đành ngắm con qua ảnh vậy … Mặc dầu
tấm ảnh đó đã rách nát, cũ kĩ lắm rồi, nhưng anh luôn giữ gìn nó vô
38 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
cùng cẩn thận, coi nó như một báu vật. Còn đối với con gái Thu của
anh thì sao? Từ nhỏ đến hồi tám tuổi nó chỉ được biết ba nó qua ảnh
và qua lời kể của bà ngoại và . Dù được sống trong tình yêu thương
của mọi người nhưng có lẽ Thu cũng cảm thấy thiếu hụt một tình
thương, sự che chở của người cha. Chắc bé Thu từng giờ từng phút
trông chờ ba nó lắm nhỉ? Và tám năm trời là những năm tháng dài
đằng đẳng ấy cũng làm tăng lên trong lòng hai cha con anh sáu nỗi
nhớ nhung, mong chờ, anh Sáu ao ước gặp con, còn bé Thu ao ước
gặp bố.
Thế rồi niềm ao ước ấy đã trở thành hiện thực. Anh Sáu được
nghỉ phép. Ngày về thăm con, trên xuồng mà anh Sáu cứ nôn nao cả
người. Anh đang nghĩ tới đứa con, nghĩ tới giây phút hai cha con gặp
nhau như thế nào. Những điều ấy choáng hết tâm trí khiến anh không
còn biết mình đang ngồi trên xuồng với người bạn. Khi xuồng vừa
cập bến, anh Sáu đã nhón chân nhảy thót lên bờ. Người bạn đi cùng
cũng rất hiểu anh nên không hề trách. Tôi không thể quên được giây
phút vô cùng thiêng liêng và trọng đại của anh Sáu, là giây phút
người cha mong chờ đứa con sẽ chạy tới ôm xiết lấy mình, là bước
trở về sau bao xa cách…
Hẳn vì quá xúc động nên lúc ấy anh Sáu đã có những cử chỉ mà
ngay cả người bạn của anh cũng không ngờ tới “giọng anh tập bập
39 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
run run”, anh dang hai tay chờ đó con và sải những bước dài đến gần
con. Tưởng rằng con bé sẽ chạy tới nhào vào lòng anh nhưng không
ngờ bỗng nó hét lên “má…má” và bỏ chạy. Tại sao Thu lại có những
hành động như vậy ? Nó yêu ba nó lắm cơ mà ? Nó mong ba về từng
ngày từng giờ. Vậy mà tất cả đều lật ngược với nó. Ba nó thật đây,
sao nó không nhận ? Hành động của con bé khiến anh sững sờ. Bao
yêu thương, mong chờ mà anh dồn nén bấy lâu dường như tan biến
hết chỉ còn lại trong anh là nỗi đau khổ vô bờ.
Nỗi đau ấy còn dày vò anh trong suốt ba ngày ở nhà. Ba ngày ở
nhà anh Sáu không đi đâu xa mà chỉ quanh quẩn ở nhà chơi với con.
Anh muốn dùng lời nói, hành động của mình để bù đắp những mất
mát về tình cảm cho con bé. Dường như anh muốn bằng những cử chỉ
và lời nói yêu thương tràn đầy âu yếm, anh sẽ xoa dịu đi những nghi
ngờ, xoá tan những lạnh lùng của con bé đối với anh. Anh muốn ôm
con mà nói rằng: “Ba yêu con nhiều lắm Thu à!” và có lẽ chắc anh
cũng mong đứa con gái của mình có thể chạy sà vào lòng mà rằng
“Con cũng yêu bố nhiều lắm ạ!” thế nhưng không… những gì anh
từng mơ ước, từng suy nghĩ, giờ chỉ như giấc mơ không thật bởi
chính thái độ của Thu đối với ba nó. Khi mẹ bảo nó gọi bố vào ăn
cơm thì con bé đã nói trổng: “Vô ăn cơm!”. Câu nói của con bé như
đánh vào tâm can anh, nhưng anh vẫn ngồi im giả vờ không nghe,
40 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
chờ nó gọi “Ba vô ăn cơm.” Thế nhưng Thu vẫn bướng bỉnh không
chịu gọi ba, đã vậy còn bực dọc nói mấy câu “Cơm chín rồi!” và
“Con kêu rồi mà người ta không nghe”. Đến lúc này anh chỉ biết
“nhìn con bé vừa khe khẽ lắc đầu vừa cười. Có lẽ vì khổ tâm đến nỗi
không khóc được, nên anh phải cười vậy thôi.” Tôi thoáng nghĩ đến
cảm xúc lúc này và những câu hỏi xoay quanh anh. Tại sao thế nhỉ?
Thu làm vậy là sao? Ba nó sao nó không chịu nhận? Nhìn nó tôi như
có cảm giác nó cự nự, quyết không chịu gọi ba. Thái độ này thật
không đúng với tình cha con xa cách bấy lâu, hay con bé đang giận
ba vẩn vơ gì đó chăng?
Cao trào của câu chuyện càng nâng cao khi nồi cơm sôi, một
mình nó bé, không thể tự nhấc nồi để chắt nước, nó đã phải cầu cứu
đến người lớn. Tình thế khiến người đọc ngỡ rằng nó sẽ phải thua
không thể “chiến tranh lạnh” được nữa – nó buộc phải gọi ba để giúp
đỡ. Nhưng nó vẫn không chịu cất lên cái tiếng mà ba nó mong! Chỉ
cần nói lên cái tiếng ba ấy thế thôi, là nó sẽ thoát khỏi thế bí. Nhưng
quyết không! Nó vẫn hành động theo sự bướng bỉnh tự mình làm lấy
một công việc nguy hiểm và quá sức! Nghĩa là nó không chịu nhượng
bộ, không chịu thua cuộc. Điều ấy làm cho người cha, người bạn của
cha và cả người đọc phải đau lòng. Còn gì đau khổ bằng người cha
giàu lòng thương yêu con mà lại bị chính đứa con ấy chối bỏ!
41 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
Dưòng như sự lạnh lùng và bướng bỉnh của bé Thu đã làm tổn
thương những tình cảm đang trào dâng tha thiết nhất trong lòng ông.
Vì quá yêu thương con nên anh Sáu không cầm nổi cảm xúc của
mình. Trong bữa cơm, cưng con, anh gắp cho nó cái trứng cá nhưng
bất ngờ nó hất tung cái trứng ra khỏi chén cơm. Giận quá, anh đã
vung tay đánh và quát nó. Có lẽ việc đánh con bé là nằm ngoài những
mong muốn của ông. Tất cả cũng chỉ là do anh quá yêu thương con.
Có thể coi việc bé Thu hết cái trứng ra khỏi chén như một ngoài nổ
làm bùng lên những tình cảm mà lâu nay anh dồn nén và chất chứa
trong lòng.
Nhưng khi ta hiểu ra thì lại thấy rằng : Chính cái hành động đáng
ghét ấy lại vô cùng đáng quý. Chính thái độ ngang ngạnh đó lại là
biểu hiện tuyệt vời của tình cảm người con dành cho cha. Đơn giản vì
lúc bấy giờ trong trí nhớ thơ ngây của Thu thì cha em đẹp lắm. Vì
bom đạn quân thù, cha mang sẹo trên mặt. Đấy là điều đau khổ vậy
mà nó không hiểu, lại xa lánh khiến cha đau khổ thêm. Cô bé không
tin, thậm chí còn ngờ vực, điều đó chứng tỏ cô bé không dễ tin người.
Cả bạn của cha, cả mẹ xác nhận là cha nhưng không ai tháo gỡ được
thắc mắc thầm kín trong lòng mình thì cô bé vẫn chưa gọi. Nó không
đơn thuần là sự bướng bỉnh của một cô bé đỏng đảnh, nhiễu sách mà
đó là sự kiên định, quyết liệt của một người có lập trường. Đây chính
42 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
là cái mầm sâu kín sau này làm nên tính cách cứng cỏi, ngoan cường
của cô giao liên giải phóng. Đến khi được bà ngoại giảng giải về cái
thẹo trên ** ba, thì Thu mới vỡ lẽ đó thực là ba mình. Hình ảnh người
cha thân yêu trên ảnh, người cha kính mến mà cô ghi sâu trong lòng,
đến lúc ấy mới nhập vào người đang xưng ba có vết thẹo dài đây. Đã
vỡ lẽ thì tình yêu ba nhân lên gấp bội nhưng … đã muộn rồi. Song
đến giây phút cuối cùng, trước khi anh Sáu đi xa thì tình cảm thiêng
liêng ấy bỗng cháy bùng lên. Lúc ra đi, chân anh ngập ngừng không
muốn bước. Hẳn rằng anh Sáu muốn ôm con, hôn con nhưng sợ nó
lại giẫy đạp và bỏ chạy nên anh chỉ đứng đấy nhìn nó với cặp mắt trìu
mến xen lẫn buồn rầu. Trong ánh mắt của anh, chất chứa bao yêu
thương mà anh muốn trao gởi tới con . “Thôi ba đi nghe con”. Phải
chi bé Thu hiểu được ánh mắt của ba nó, hiểu được tâm trạng của ba
nó lúc này nhỉ? Rồi bỗng nó chạy đến kêu thất thanh
“Ba…a….a…ba!”. Tiếng kêu như tiếng xé, xé sự im lặng và xé cả
ruột gan mọi người, nghe thật xót xa. Tiếng kêu bật lên sau bao năm
kìm nén, chờ đợi khắc khoải. Đó cũng là cái tiếng ba mà anh Sáu đã
chờ đợi suốt tám năm trời xa con, đã chờ đợi suốt mấy ngày về bên
con, ông đã tưởng chẳng thể còn được nghe thì bất ngờ nó thét lên.
Nó vỡ ra còn lòng người đọc thì nghẹn lại. Người cha không cầm nổi
nước mắt vì bất ngờ, vì sung sướng, vì thương yêu và vì cả sự éo le
43 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
của tình cảm nữa. Cùng với cử chỉ “vừa kêu vừa chạy xô tới nhanh
như một con sóc, nó nhảy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba
nó, làn tóc tơ sau ót nó dựng đứng lên”. “Vừa ôm chặt lấy cổ ba, nó
vừa nói trong tiếng khóc “Ba…ba…không cho ba đi nữa, ba ở nhà
với con”. Nó ôm hôn anh Sáu và “hôn cả vết thẹo dài trên ** của ba”,
biểu hiện một tình yêu ruột thịt nồng nàn của đứa con đối với ba. Và
khi nghe anh Sáu nói “Ba đi rồi ba về với con”, cô bé hét lên
“không”, rồi hai tay xiết chặt cổ, dang cả hai chân quặp chặt lấy ba,
đôi vai nhỏ run run! Chắc cô bé khóc. Phải chăng lúc ấy Thu thật sự
thấy xót xa, ân hận về lỗi lầm của mình, thật sự thấy xót thương
người cha đau khổ? Nó mếu máo “Ba về! Ba mua cho con một cây
lược nghe ba…”. Tất cả lời nói thể hiện rõ tính cách của một cô bé
bồng bột thơ ngây và chứng tỏ lòng yêu thương vô bờ của em đối với
ba. Thật sâu sắc và cao đẹp biết bao. Có lẽ lúc này bé Thu đã trở
thành một nguời lớn thực sự. Tất cả sự dỗi hờn của bé Thu lúc này
đều chuyển thành lòng yêu thương sâu sắc ba nó. Trong cái ương
ngạch, bướng bỉnh, trong cái giận dỗi và cả sự hối hận của Thu, ta
vẫn thấy bé thật thơ ngây, thật đáng yêu. Về phần anh Sáu hạnh phúc
đến với anh quá đột ngột khiến cổ anh nghẹn lại. Không kìm được
xúc động, anh Sáu đã khóc. Giọt nước mắt của anh là giọt nước mắt
của vui sướng, hạnh phúc. Và không muốn cho con thấy mình khóc,
44 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
anh Sáu một tay ôm con một tay rút khăn lau nước mắt rồi hôn lên
mái tóc con…Thế là con bé đã gọi anh bằng ba. Ai có thể ngờ được
một người lính đã dày đạn nơi chiến trường và quen với cái chết cận
kề lại là người vô cùng mềm yểu trong tình cảm cha con. Sau bao
năm tháng mong chờ, đau khổ, anh Sáu đã được đón nhận một niềm
vui vô bờ. Bây giờ anh có thể ra đi với một yên tâm lớn rằng ở quê
nhà có một đứa con gái thân yêu luôn chờ đợi anh, từng giây từng
phút mong anh quay về.
Gấp trang sách lại mà hình ảnh bé thu cứ lắng mãi trong ta.Càng
thương bé thu bao nhiêu chúng ta càng căm thù chiến tranh bấy
nhiêu.Chúng ta phải đấu tranh để hòa bình vĩnh viễn trên đất nước
này.
TÂM TRẠNG BÉ THU LÚC CHIA TAY ÔNG SÁU
Đọc truyện ngắn “chiếc lược ngà” của nhà văn Nguyễn Quang Sáng
ấn tượng sâu sắc đối với chúng ta là tâm trạng bé Thu lúc chia tay
ông Sáu.
Ở đoạn cuối,khi mà bé Thu nhận ra cha,thật khó để phủ nhận bé Thu
là đứa bé giàu tình cảm.Tình cha con trong Thu cất giữ bấy lâu
nay,giờ trỗi dậy,vào cái giây phút mà cha con phải tạm biệt nhau.Có
ai ngờ một cô bé không được gặp cha từ năm 1 tuổi vẫn luôn vun đắp
một tình yêu bền bỉ và mãnh liệt với cha mình,dù người cha ấy chưa 45 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
hề bồng bế nó,cưng nựng nó,săn sóc,chăm lo cho nó,làm cho nó một
món đồ chơi kể từ khi nó bắt đầu làm quen với cuộc sống.Nó gần như
chưa có chút ấn tượng nào về cha,song chắc không ít lần nó đã tự
tưởng tượng hình ảnh người cha nó tài giỏi nhường nào,cao lớn
nhường nào,có vòng tay rộng để ôm nó vào lòng ra sao?Tình cảm
mãnh liệt trong nó ngăn không cho nó nhận một người đàn ông có vết
sẹo kia làm bố.Khi đến lúc ông Sáu phải đi,con bé cứng cỏi mạnh
mẽ ngày nào lại “như bị bỏ rơi”,”lúc đứng ở góc nhà,lúc đứng tựa
cửa và cứ nhìn mọi người vây quanh ba nó,dường như nó thèm khát
cái sự ấm áp của tình cảm gia đình,tình cảm cha con ,nó cũng muốn
chạy lại và ôm hôn cha nó lắm chứ,nhưng lại có cái gì như chặn
lại,làm nó cứ đứng nguyên ở đấy, ước mong cha nó sẽ nhận ra sự có
mặt của nó.Và rồi đến khi cha nó chào nó trước khi đi,có cảm giác
mọi tình cảm trong lòng bé Thu bỗng trào dâng.Nó không nén nổi
tình cảm như trước đây nữa,nó bỗng kêu hét lên “Ba…”,”vừa kêu
vừa chạy xô đến nhanh như một con sóc,nó chạy thót lên và dang hai
tay ôm chặt lấy cổ ba nó”,”Nó hôn ba nó cùng khắp.Nó hôn tóc,hôn
cổ,hôn vai,hôn cả vết thẹo dài trên má của ba nó nữa”.Tiếng kêu
“Ba” từ sâu thẳm trái tim bé Thu,tiếng gọi mà ba nó đã dùng mọi
cách để ép nó gọi trong mấy ngày qua,tiếng gọi ba gần gũi lần đầu
46 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
tiên trong đời nó như thể nó là đứa trẻ mới bi bô tập nói,tiếng gọi mà
ba nó tha thiết được nghe một lần.Bao nhiêu mơ ước,khao khát như
muốn vỡ òa ra trong một tiếng gọi ba.Tiếng gọi ấy không chỉ khiến
ba nó bật khóc mà còn mang một giá trị thiêng liêng với nó.Lần đầu
tiên nó cảm nhận mơ hồ về niềm sung tám năm trời sướng của một
đứa con có cha.sung sướng hơn là nó được trực tiếp ôm cái hình hài
máu mủ của mình mà nó mòn mỏi chờ trông.
Dưới ngòi bút của tác giả đã cho chúng ta hiểu một nhân vật Bé Thu
thông minh, giàu tình cảm,có cá tính mạnh mẽ,kiên quyết nhưng vẫn
hồn nhiên,ngây thơcủa một đứa trẻ đáng yêu.
__________________________________________________
____________
PHÂN TÍCH NHÂN VẬT ÔNG SÁU
Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng là một truyện ngắn viết về
tình phụ tử sâu nặng của cha con ông Sáu sau chiến tranh. Đây là một
truỵên ngắn giản dị nhưng chứa đầy sức bất ngờ . Đoạn trích SGK
ngữ văn 9 đã cho thấy một khoảnh khắc nhỏ mà trong đó có sự cao cả
thiêng liêng về tình phụ tử .
Tình cảm của anh Sáu dành cho bé thu trở nên mãnh liệt hơn,
cao cả, thiêng liêng và cảm động hơn bao giờ hết là việc anh tự tay
47 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
làm chiếc lược nhà cho con gái. “Ba về! Ba mua cho con một cái
lược nghe ba!”, đó là mong ước đơn sơ của đứa con gái bé bỏng
trong giây phút cha con từ biệt. Nhưng đối với người cha ấy, đó là
mong ước đầu tiên và cũng là duy nhất cho nên nó cứ thôi thúc trong
lòng. Kiếm cho con cây lược trở thành bổn phận của người cha, thành
tiếng gọi cầu khẩn của tình phụ tử trong lòng. Anh bật dậy như bỗng
loé lên một sáng kiến lớn: làm lược cho con bằng ngà voi. Có lẽ
không đơn thuần vì ở rừng rú chiến khu, anh không thể mua được cây
lược nên làm lược từ ngà voi là một cách khắc phục khó khăn. Mà
cao hơn thế, sâu hơn thế, ngà voi là thứ quí hiếm - chiếc lược cho con
của anh phải được làm bằng thứ quý gí ấy. Và anh không muốn mua,
mà muốn tự tay mình làm ra. Anh sẽ đặt và trong đấy tất cả tình cha
con của mình. Kiếm được ngà voi, mặt anh “hớn hở như một đứa trẻ
được quà”. Vậy đấy, khi người ta hoá thành con trẻ lại chính là lúc
người ta đang hiện lên cái tư cách người cha cao quý của mình. Rồi
anh “ngồi cưa từng chiếc răng lược, thận trọng tỉ mỉ và khổ công như
người thợ bạc ”, “gò lưng tẩn mẩn khắc từng chữ: “Yêu nhớ tặng Thu
con của ba”. Anh thường xuyên “lấy cây lược ra ngắm nghía rồi mài
lên tóc cho cây lược thêm bóng thêm mượt”. Lòng yêu con đã biến
người chiến sĩ trở thành một nghệ nhân - nghệ nhân chỉ sáng tạo ra
một tác phẩm duy nhất trong đời cho nên chiếc lược ngà đã kết tinh
48 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
trong nó tình phụ tử mộc mạc mà đằm thắm sâu xa, đơn sơ mà kỳ
diệu làm sao!
Nhưng ngày ấy đã vĩnh viễn không bao giờ đến nữa. Anh không kịp
đưa chiếc lược ngà đến tận tay cho con thì người cha ấy đã hi sinh
trong một trận đánh lớn của giặc. Nhưng “hình như chỉ có tình cha
con là không thể chết được”. Không còn đủ sức trăn trối điều gì, tất
cả tàn lực cuối cùng chỉ còn cho anh làm được một việc “đưa tay vào
túi, móc cây lược” đưa cho người bạn chiến đấu thân thiết và cứ nhìn
bạn hồi lâu. Nhưng đó là điều trăn trối không lời, nó rõ ràng là thiêng
liêng hơn cả một lời di chúc, bởi đó là sự uỷ thác, là ước nguyện cuối
cùng của người bạn thân, ước nguyện của tình phụ tử! Bắt đầu từ
giây phút ấy, chiếc lược ngà của tình phụ tử đã biến người đồng đội
thành một người cha - người cha thứ hai của cô bé Thu.
Các bạn ạ! Trong những ngày đen tối ấy, người sống phải sống bí
mật cũng đã đành một lẽ còn người chết cũng phải chết bí mật nữa.
Mộ của anh không thể đắp cao lên được, vì tìm thấy mồ mã bọn
chúng sẽ đào lên và tìm ra dấu vết, cho nên ngôi mộ của anh là ngôi
mộ bằng, bằng phẳng như mặt rừng vậy. Bác Ba bạn của anh đã lấy
dao khắc vào một gốc cây rừng cạnh chỗ anh nằm làm dấu cho dễ
nhớ. Sống như thế và chết như thế hỏi vậy làm sao mà chịu được.
Chúng ta buộc phải cầm súng. Và bé Thu không còn là cô bé ngày
49 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
xưa nữa mà là một cô giao liên thông minh, quả cảm. Thu đi theo con
đường mà ba cô đã chọn. Thu đi để trả thù cho quê hương, cho cha
mình đã bị bọn giặc giết hại.
Tuy anh Sáu đã hi sinh nhưng câu chuyện vè hai cha con anh sẽ
còn sống mãi. Hình ảnh chiếc lược ngà với dòng chữ sẽ mãi là kỉ vật,
là nhân chứng về nỗi đau, bi kịch của chiến tranh. Cảm ơn nhà văn
Nguyễn Quang Sáng đã khắc hoạ rõ nét tâm hồn, tình cảm của anh
Sáu và bé Thu. Truyện dẫn người đọc dõi theo số phận và lòng quả
cảm, dõi theo tâm tình của cha con một người chiến sĩ diễn ra hàng
chục năm trời đi qua hai cuộc chiến tranh. Người còn, người mất
nhưng kỉ vật, gạch nối giữa cái mất mát và sự tồn tại của chiếc lược
ngà vẫn còn đây. Đây là minh chứng đối với chúng ta “cái mất mát
lớn nhất mà thiên truyện ngắn đề cập đến là người đã khuất, là tổ ấm
gia đình không còn tồn tại trọn vẹn trong thực tại. Đó là tội ác, là
những đau thương, mất mát của chiến tranh xâm lược mà các thế hệ
bạo tàn gây ra cho chúng ta. Song cái được mà chúng ta nhìn thấy là
không có sự bi luỵ xảy ra, sức mạnh của lòng căm thù đã biến cô bé
Thu trở thành một người chiến sĩ thông minh, dũng cảm, đã gắn bó
cuộc đời con người có ít nhiều mất mát xich lại gần nhau để cùng
đứng lên viết tiếp bản ca chiến thắng.
Gấp sách lại, chia tay với ông Ba, câu chuyện về “Chiếc lược ngà”
50 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
với lời nói cuối cùng của ông - giọng trầm ấm khoan thai - cứ âm
vang mãi trong bạn đọc chúng ta, như sự âm vang của một truyện cổ
tích. Truyện cổ tích hiện đại đó đã thành công trong việc tạo tình
huống truyện, miêu tả tâm lý, tình cảm nhân vật và giọng kể nhẹ
nhàng, thấm thía truyền cảm. Ông Ba - người kể chuyện – hay chính
là nhà văn Nguyễn Quang Sáng? Phải là người từng trải sống hết
mình vì công cuộc kháng chiến của quê hương, gắn bó máu thịt với
những con người quê hương giàu tình nghĩa, rất nhân hậu mà kiên
cường, bất khuất, bất diệt, nhà văn mới nhập được vào các nhân vật,
sáng tạo được nhiều hình tượng, chi tiết sinh động, bất ngờ, có được
giọng văn dung dị và cảm động như vậy. Đồng thời truyện đã làm
sống lại quãng thời gian giữ nước để thông qua đó tác giả muốn
người đọc phải suy nghĩ và thấm thía nỗi đau, sự mất mát mà chiến
tranh mang đến. Tình cảm cha con sâu sắc của cha con ông Sáu đã
vượt qua bom đạn của chiến tranh để ngày càng thiêng liêng, ngời
sáng và gắn bó chặt chẽ với tình yêu quê hương, đất nước. Qua cuộc
đời nhân vật, từ cô bé Thu đến ông Sáu, ông Ba, Nguyễn Quang Sáng
như muốn nói rẳng trong cuộc kháng chiến gian khổ chống ngoại
xâm vừa qua của dân tộc ta, tình nghĩa con người Việt Nam, nhất là
tình cha con, đồng đội, sự gắn bó thế hệ già với thế hệ trẻ, người chết
51 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
và người sống… mãi mãi bất diệt. Như chiếc lược ngà ba tặng lại
không bao giờ có thể mất, tình cha con của bé Thu cũng sẽ mãi mãi
bất diệt!.
CẢM NHẬN KHỔ THƠ ĐẦU BÀI ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ
Bài đoàn thuyền đánh cá của nhà thơ Huy Cận là một bức tranh sơn
mài lộng lẫy mà ai đã đọc đến thì không thể quên.Đặc biệt là khổ thơ
đầu tiên viết về hình ảnh đoàn thuyền ra khơi.
" Mặt trời xuống biển như hòn lử
Sóng đã cài then đêm chặt cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơ
Câu hát căng buồm cùng gió khơi"
Mở đầu bài thơ vói giọng thơ mạnh mẽ gân guốc kêt hợp với nghệ
thuật so sánh mặt trời như một hòn lửa rực hồng đang từ từ rơi xuống
biển tạo nên một không gian huy hoàng tráng lệ của biển lúc hoàng
hôn làm ngây ngất người đọc trước vẻ đẹp tuyệt vời của trời biển
Việt nam.Nhưng bức tranh huyền ảo ấy chỉ diễn ra trong chốc lát rồi
nhường chỗ cho màn đêm lan tỏa.Với những động từ mạnh “cài,sập”
kết hợp với biện pháp nhân hóa đã thể hiện được sự dứt khoát của
biển sau một ngày vất vả đã đi vào nghỉ ngơi thư giãn,Trong lúc đó
52 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
thì con người lại bắt tay vào lao động.Cách sử dụng hình ảnh tương
phản đó đã cho thấy đươgj tinh thần lao động không quản ngày đêm
của người dân làng chài trong những năm tháng lao động xây dựng
CNXH ở Miền Bắc.Đây không phải là lần đầu tiên đoàn thuyền ra
khơi mà đây là công việc thường xuyên của họ,từ “lại” trong câu thơ
đã cho ta biết điều dó.Họ ra đi với tinh thần vui vẻ lạc quan.Câu hát
của họ vang lên hoàh vào trong gió đẩy thuyền thaawnhr tiến ra
khơi.Đó là tiếng hát khỏe khoắn thể hiện niềm vui say lao động,tinh
thần phấn chấn của người lao động mới.Với cặp mắt quan sát tinh tế
kết hợp với sử dụng nghệ thuật tài tình nhà thơ đã phác họa nên một
bức tranh tuyệt đẹp về biển lúc hoàng hôn.
Phân tích " Lặng Lẽ Sa Pa"
Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long là một câu chuyện nhẹ nhàng
mà sâu sắc, mang đậm tính trữ tình. Tác giả đã khắc họa hình ảnh
người lao động bình thường, tiêu biểu là anh thanh niên làm công tác
khí tượngkiêm vật lí địa cầu.
" Sa Pa không chỉ là sự yên tĩnh, mà dưới sự yên tĩnh đó người ta
làm việc". Quả thật khi đến Sa Pa, k ai có thể cưỡng nổi vẻ đẹp nên
thơ của nơi đây " nhà họa sĩ và cô gái bỗng nín bặt, vì cảnh trước mặt
đẹp một cách kì lạ". Ai cũng nghĩ Sa Pa là nơi của nghỉ ngơi, vì
53 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
khung cảnh ở đây mang lại sự thanh bình cho tâm hồn " nắng bắt đầu
len tới, đốt cháy rừng cây. Những cây thông chỉ cao quá đầu, rung tít
trong nắng những ngón tay bằng bạc, dưới cái nhìn bao che của
những cây tử kinh thỉnh thoảng nhô cái đầu màu hoa cà lên màu xanh
của rừng. Mây bị nắng xua, cuộn tròn lại từng cục, lăn trên các vòm
lá ướt sương, rơi xuống đường cái, luồn cả vào gầm xe."
Theo lời giới thiệu của bác lái xe, cái con người "cô độc nhất
thế gian" là "một anh thanh niên hai mươi bảy tuổi, sống một mình
trên đỉnh núi Yên Sơn cao hai nghìn sáu trăn mét. Anh làm công tác
khí tượng kiêm vật lí địa cầu". A sống trong hoàn cảnh khắc nghiệt "
bốn bề chỉ có cây cỏ và mây mù lạnh lẽo". Đó là một thử thách của a
thanh niên.
Trước khi xuất hiện, a thanh niên đã gợi được sự tò mò, cuốn hút qua
lời giới thiệu độc đáo của bác lái xe. Cho đến khi gặp a, nhà họa sĩ
già không khỏi xúc động mạnh. " Người con trai tầm vóc nhỏ bé, nét
mặt rạng rỡ từ trên sườn núi trước mặt chạy lại chỗ xe đỗ". Người
thanh niên đã khơi gợi sự tò mò trong ông họa sĩ già và cô kĩ sư
trẻ_một con người có nhiều điều để khám phá. Công việc của a có
phần đơn điệu, cô đơn và tẻ nhạt. Nhưng với tinh thần trách nghiệm
và tình yêu công việc, a luôn biết tự cân bằng cuộc sống của mình. A
coi công việc là bạn " khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi
54 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
là 1 mình được".
Nhiệm vụ của anh thanh niên là " đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây,
đo chấn động mặt đất, dự vào việc báo trước thời tiết, phục vụ sản
xuất, phục vụ chiến đấu". Công việc đòi hỏi a phải có kỉ luật cao, mà
thời tiết khắc nghiệt " rét bác ạ. Ở đây có cả mưa tuyết đấy", " chui ra
khỏi chăn, ngọn đèn bão vặn to đến cỡ nào vẫn biết là không đủ sáng.
Xách đèn ra vườn, gió tuyết và lặng im như chỉ trực mình ra là ào ào
xô tới. Cái lặng im đó mới thật dễ sợ: nó như bị gió chặt ra từng
khúc, mà gió thì giống những nhát chổi lớn muốn quét đi tất cả, ném
vứt lung tung...". Đó là cái khắc nghiệt của thời tiết, cái đáng sợ của
im lặng và là thử thách mà anh thanh niên phải trải qua. A hiểu rằng
công việc của anh ảnh hưởng tới cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ
và lao động sản xuất. Dù hoàn cảnh khắc nghiệt a vẫn nghiêm túc
thực hiện những lần ghi và báo một cách chính xác.
Hơn nữa, a luôn tự tạo cho mình một cuộc sống sôi nổi, đầy hứng thú
" một căn nhà ba gian, sạch sẽ...cuộc đời riêng của a thu gọn lại một
góc trái gian với chiếc giường con, một chiếc bàn học, một giá sách".
Cuộc sống tinh thần của anh trong như pha lê vậy, không hề vương
hạt bụi. Đồng thời, a cũng yên tâm gắn bó lâu dài với mảnh đất này.
A biết cách tổ chức cuộc sống một cách phong phú và hài hòa giữa
tinh thần và vật chất. A là người có kỉ luật cao nên nhà cửa lúc nào
cũng gọn gàng, ngăn nắp, nước sôi lúc nào cũng có sẵn. A làm giàu 55 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
cho đời sống tinh thần của mình bằng cách đọc sách và trồng hoa. A
cải thiện đời sống vật chất bằng việc nuôi gà. A cũng là người giàu
tình cảm. Chỉ nghe nói vk bác lái xe bị ốm, anh đã đi đào củ tam thất
biếu bác gái ngâm rượu uống. A đã ra tận xe để đón khách 1 cách vồn
vã. Nhà họa sĩ cũng đã phải thừa nhận " a thật đáng y". Khi biết nhà
họa sĩ đang vẽ mình, a lại tha thiết từ chối và giới thiệu những người
đáng để vẽ hơn như ông kĩ sư vườn rau, đồng chí nghiên cứu sét. A
quả thật là một người khiêm tốn nữa!
Vẻ đẹp của a thanh niên đc toát ra từ lời nói, hành động và nét
mặt. Vẻ đẹp ấy tất cả nhân vật trong truyện đều cảm nhận được. A đã
làm thay đổi quan niệm về Sa Pa của ông họa sĩ. Ông cũng đã xác
nhận " những suy nghĩ đúng đắn bao giờ cũng có những vang âm,
khơi gợi bao điều trong óc người khác..". Sa Pa _ đối với ông không
còn là mảnh đất để nghỉ ngơi nữa mà là nơi để con người cống hiến
cho đất nước. A còn giúp cô kĩ sư trẻ tự tin hơn khi bước vào đời. A
đã trở thành nguồn cảm hứng mãnh liệt và là thử thách của ông họa sĩ
" Chao ôi, bắt gặp một con người như anh ta là một cơ hội hãn hữu
cho sáng tác, nhưng hoàn thành sáng tác còn là một chặng đường dài.
Mặc dù vậy, ông đã chấp nhận sự thử thách".
Chỉ một cuộc gặp gỡ ngắn ngủi trong ba mươi phút thôi,
56 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
anh thanh niên đã để lại một ấn tượng khó quên trong lòng ông họa sĩ
và cô kĩ sư. Cuộc gặp gỡ đầy thú vị với anh thanh niên khiến cho ông
họa sĩ phải suy ngẫm, cô kĩ sư cảm mến, bâng khuâng. Họ như cùng
hiểu ra rằng cuộc sống của mỗi chúng ta được tạo nên từ bao nỗ lực
hy sinh thầm lặng của những con người vô danh. Thực sự câu chuyện
đã đọng lại trong tim mỗi chúng ta một lòng cảm phục và biết ơn vô
hạn với sự cống hiến lớn lao của họ. Bằng nghệ thuật xây dựng tình
huống hợp lí, cách kể chuyện hết sức tự nhiên, có sư kết hợp trữ tình
và nghị luận đã tạo nên một câu chuyện vô cùng sâu sắc. Qua đó, tác
giả ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn của những con người lao động và ý nghĩa
của công việc thầm lặng.
Phân tích diễn biến tâm trạng của ông Hai trong đoạn trích
'làng' khi làng chợ dầu theo giặc
Kim Lân là nhà văn chuyên viết truyện ngắn về nông thôn và cuộc
sống của những người nông dân. truyện ngắn 'làng' được ông viếtvào
thời kì đầu cho cuộc kháng chiến chống Pháp. Trong truyện ngắn
này, ông đã xây dựng thành công nhân vật ông Hai- một con người
giàu lòng yêu làng, yêu nước tha thiết, chính vì vậy khi nghe tin làng
chợ Dầu theo giặc ông cảm thấy rất đau khổ, nhục nhã.
Ngôi làng đối với mỗi người nông dân rất quan trọng. Nó là
ngôi nhà chung cho cộng đồng, họ mạc. đời này qua đời khác, người 57 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
nông dân gắn bó với cái làng như máu thịt, ruột rà. Nó là nhà cửa, đất
đai, là tổ tiên, là hiện thân cho đất nước đối với họ. Vốn là một người
có tình yêu làng, yêu nước sâu sắc, ông Hai không muốn đi tản cư bởi
ông nghĩ:' mình sinh ra ở đây từ bé, giờ gặp lúc hữu sự mà bỏ đi thì
còn ra gì nữa' Nhưng khi nghe các chến sỹ cán bộ giảng giải, ông
hiểu rằng ' đi kháng chiến cũng là kháng chiến ' nên ông mới đồng
ý.Những ngày đầu ở nơi tản cư, do mới lên lạ đất , lạ người lại không
có việc gì để làm nên ông hớ làng da diết, cháy bỏng, ông nhớ những
ngày làm việc cùng với anh em, ông cảm thấy như mình được trẻ ra.
Hơn thế nữa, gia đình ông lại ở nhờ nhà của một mụ xấu tính nên ông
phải sống trong tâm trạng ngột ngat, khó chịu. Lúc này, niềm vui của
ông chỉ là hàng ngày đi nghe tin tức thời sự kháng chiến và khoe cái
làng chợ Dầu của ông đánh Tây. Hôm nay, ở phòng thông tin ông
nghe được rất nhiều tin chiến thắng từ trẻ con đến người phụ nữ ;
điều này 'làm rột gan ông cứ múa cả lên, vui quá'. Đang tràn ngập
trong niềm vui và sự sung sướng, ông Hai có cảm giác cảnh vật bên
đường như đẹp hơn rất nhiều.
Cũng trên đoạn đường trở về, trong tâm trạng vui vẻ ấy , nhà văn
Kim Lân đã khéo léo đan cài vào đó 1 kịch tính thứ 2- một biến cố
bất ngờ xảy ra. Ông gặp những người đàn bà tản cư từ Gia Lâm lên,
58 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
khi gặp họ, ông tưởng mình sẽ nghe được nhiều tin vui hơn nữa
nhưng thật bất ngờ, ông Hai nhận được tin cả làng chợ Dầu làm việc
gian theo Tây. Cái tin ấy là một tin chết người, nó chẳng những làm
mất hết niềm tin, sụp đổ niềm tự hào về làng của ông mà còn khiến
ông tủi khổ, nhục nhã vì đã khoe bao điều hay về nó. Vừa nghe như
vậy, ông Hai thấy cổ họng mình nghẹn ắng lại, da mắt tê rần rật., ông
lặng đi tưởng chừng như không thở được; ông đang ở trong một trạng
thái bất ngờ, đột ngột và vô vùng xấu hổ. Ông vờ lảng sang chuyện
khác để trốn những người đàn bà kia nhưng lời nói của họ như những
nhát dao chém vào người ông đau đớn. trên đg trở về ông chỉ dám cúi
gằm mặt xuống đát khhoong dám ngẩng mặt nhìn ai. Vừa về đến nhà,
ông nằm vật ra giường, nước mắt trào ra, ông tức giận chửi bon Việt
gian làng Dầu bán nước nhưng ông lại thấy những lời chửi của mình
thật vô lí. Ông kiểm đếm từng người trong óc nhưng không tìm được
ai có thể phản bội, họ toàn là những người coa tinh thần cả mà.
Nhưng thằng chánh Bêu thì đích thị là người làng ông rồi khiến ông
có tâm trạng bối rối, phân vân, nửa tin nửa ngờ. Chỉ bằng một đoạn
văn ngắn, tác giả đã cụ thể hoá sững sờ, ngạc nhiên cao độ đến bốc
lửa, nghẹn ngào đau đớn, tức giận khi nghe tin làng chợ Dầu theo
giặc. Qua đây, một lần nữa, nhà văn Kim Lân đã chứng tỏ bút lực dồi
dào, khả năng phân tích sắc sảo, tái hiện sinh động trạng thái tình
59 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
cảm, hành động của ông hai trong biến cố này.
Cả nhà ông Hai những ngày sau đó, sống trong bầu không khí ảm
đảm, nặng nề, đầy lo lắng. Họ nghĩ đến sự ghẻ lạnh, tẩy chay của mọi
người và đạc biệt lo lắng khi không biết sẽ phải làm thé nào. Ông Hai
ăn ko ngon, ngủ ko yên, lúc nào cũng mơm mớp, bất ổn trong nỗi tủi
nhục ê chề. Thậm chí ông không dám nhắc tới, phải gọi tên cái
chuyện phải bội là ' chuyện ấy', Ông tuyệt giao với tất cả mọi người ,
trốn biệt ở nhà, ko dám bước chân ra ngoài vì xấu hổ. Và cái chuyện
vợ chồng ông lo nhất cũng đã đến. Bà chủ nhà bóng gió đuổi gđ ông
đi, chỉ vì họ là người làng theo Tây.. Gia đình ông Hai ở vào tình thế
căng thẳng, khó khăn nhất:' thật là tuyệt đường sinh sống', đâu đâu có
người chợ Dầu người ta cũng đuổi như đuổi hủi. Trong tình cảnh ấy
ông Hai đã nghĩ hay là quay về làng nhưng rồi ông đã dứt khoát' về
làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ, chịu đầu hàng Tây là cam chịu
kiếp sống nô lệ, cô độc' nên ông đã quyết định' làng thì yêu thật
nhưng làng theo Tây thì phải thù'.. Đến đây, tình yêu làng của ông
Hai đã hoà quyện vào tình yêu nước. Tình cảm cách mạng khi bị đặt
vào tình huống thử thách gay cấn buộc phải lựa chon giữa làng và
nước, ông Hai đã chấp nhận hi sinh tình cảm làng vì có 1 tình cảm
thiêng lêng, lớn hơn- đó là tình cảm dành cho kháng chiến, cho cụ
Hồ. Trong tâm trạng bế tắc và tuyệt vọng ông Hai chỉ còn biết chút
60 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
nỗi lòng của mình qua lời nói thủ thỉ, tâm sự với đứa con út của
mình. Thực chất, những lời tâm sự với con chính là lời dãi bày của
ông .
Xây dựng thành công diễn biến tâm trạng nhân vật ông Hai là
thành cồn lón nhất của truyện ngắn 'làng'. Điều đó đã thể hiện dk tài
năng của nhà văn Kim Lân trong việc khám phá chiều sâu tâm lí nhân
vật. Và hơn hết, điều đó đã xây dựng trong lòng độc giả một chân
dung sống động, cảm động của người nông đan Việt Nam chất phác,
thật thà.
TÂM TRẠNG ÔNG HAI KHI NGHE TIN LÀNG ĐƯỢC CẢI
CHÍNH
khi nghe tin làng Dầu theo Tây được cải chính, ông Hai là
người sung sướng nhất. Ông vui tươi rạng rỡ hẳn lên, “ mồm bỏm
bẻm nhai trầu, cặp mắt hung hung đỏ…” Ông mua quà cho
con,Ông chạy đi khoe” cái tin làng Dầu không theo giặc.Đặc biệt là
ông “khoe” cái tin nhà mình bị đốt, “.Đối với người nông dân thì căn
nhà là cả một gia tài lớn thế nhưng ông không buồn không khóc mà
ngược lại rất vui sướng.Bởi viftrong cuộc kháng chiến thánh thần của
dân tộc gia đình ông cũng có đóng góp một phần nhỏ bé ở trong đó.
Nỗi mất mát về nhà cửa dường như tan biến trong niềm hạnh phúc
dâng trào – Làng chợ Dầu, ngôi làng mà ông luôn yêu mến tự hào giờ
61 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
đây vẫn là làng kháng chiến. Có thể nói, ông Hai là nhân vật điển
hình cho lớp nông dân trong kháng chiến. Vốn là những con người
chân thực, chất phác, những ngày đầu tiếp xúc với cách mạng, họ vẫn
còn bỡ ngỡ. Nhưng rồi cảm giác ấy tan đi nhanh chóng, họ đón nhận
cách mạng với tình cảm chân thành, với lòng hăm hở nhiệt tình. Họ
háo hức hoà nhịp cùng phong trào kháng chiến, học hăng hái cầm
súng bảo vệ quê hương. Cách mạng đã trở thành một phần trong cuộc
đời của họ. Lòng trung thành, tình cảm gắn bó bền chặt của người
nông dân trong kháng chiến làm cho chúng ta xúc động. Nhà văn
Kim Lân đã tinh tế phát hiện những nét đẹp tâm hồn của người nông
dân để từ đó khắc hoạ nên một bức chân dung gần gũi và sống động.
Trong tác phẩm, nhà văn Kim Lân đã xây dựng những tình huống
đầy kịch tính đẩy nhân vật vào trong sự bế tắc đến tuyệt vọng,
qua đó làm nổi bật tâm hồn tính cách và tình yêu của ông Hai đối
với làng quê, đất nước. Ngôn ngữ diễn đạt mộc mạc chân quê
càng giúp người đọc hiểu và yêu mến ông Hai nhiều hơn.
Đề 9: So sánh hình ảnh người lính cách mạng qua hai bài thơ
Đồng chí của Chính Hữu và Bài thơ về tiểu đội xe không kính
62 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
của Phạm Tiến Duật..
BÀI LÀM
Trong hai cuộc kháng chiến chống pháp và chống Mỹ thì người lính
là điểm tựa của lịch sử vì vẫy văn học luôn phản ánh và ca ngợi
họ.Tuy ra đời trong hai hoàn cảnh khác nhau nhưng họ đều giống
nhau đó là tình yêu quê hương đất nước,lòng căm thù giặc đó là phẩm
chất anh bộ đội cụ Hồ. Hình ảnh rõ nét nhất của các anh được thể
hiện qua hai bài thơ “Đồng chí”của Chính Hữu trong kháng chiến
chống pháp và “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” Phạm tiến Duật
trong khang chiến chống Mỹ.
Dân tộc ta đứng lên tiến hành hai cuộc chiến tranh cách mạng
oanh liệt chống Pháp và chống Mỹ. Lẽ tất nhiên, ở đất nước hơn ba
mươi năm chưa dời tay súng. Hình ảnh anh Bộ đội cụ Hồ là hình ảnh
con người đẹp nhất đáng yêu nhất trong văn thơ và là niềm tự hào lớn
của dân tộc.
Cùng với nhiều bài thơ khác, bài thơ Đồng chí sáng tác vào đầu
năm 1948 khi tác giả Chính Hữu chiến đấu trong chiến dịch Việt Bắc,
bài thơ Tiểu đội xe không kính sáng tác năm 1969 khi tác giả Phạm
Tiến Duật tham gia họat động ở tuyến đường Trường Sơn đã khắc
họa thành công về đề tài người lính.
63 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
Hình tượng anh bộ đội được ghi lại trong hai bài thơ đã lưu giữ
trong văn chương Việt Nam hai gương mặt đẹp, đáng yêu của người
lính trong hai thời kỳ lịch sử.
Đây là người lính của nhân dân nên họ cùng mang những vẻ đẹp
chung đó là lòng Yêu nước, yêu quê hương yêu đồng chí.Nếu như
người lính trong thơ Chính hữu họ ra đi từ những mái tranh nghèo để
lại sau lưng tất cả (gốc đa, giếng nước) dể đi chiến đấu bảo vễ non
song thì những người lính trong chống Mỹ vì tình yêu quê hương đất
nước họ sẵn sàng gác lại viêc học hành để xông pha ra tuyến lửa, họ
ra đi với tinh thần :
Xẻ dọc trường sơn đi đánh Mỹ
Mà lòng phơi phới dậy tương lai.
Một nét chung của người lính trong chống pháp và chống Mĩ mà ta
không thể không nhắc tới đó là tình cảm đồng chí keo sơn.Nếu như
trong “đồng chí”những người nông dân xa lạ vì đi kháng chiến mà họ
trở thành tri kỉ rồi thành đồng chí của nhau thì những người lính lái
xe chỉ cần chung bát đũa là trở thành gia đình người lính.Vì sao vẫy
bởi vì ở họ có cùng lý tưởng chiến đấu vì đất nước quê hương.Chi tiết
nắm tay trong hai bài thơ chứa chất bao tình cảm không lời:
“Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”
“Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
64 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
Bắt tay qua cửa kính vở rồi”
Đó là những cái bắt tay trao cho nhau biết bao tình camrvaf ý chí
quyết tâm vì sự nghiệp giải phóng non sông.
Một điểm tương đồng giữa hai người lính trong thơ Chính Hữu
và Phạm Tiến Duật nữa đó là sự chịu đựng gian khổ, vượt qua mọi
khó khăn gian khổ để quyết tâm tiêu diệt giặc hoàn thành nhiệm vụ.
Tất cả những khó khăn gian khổ, thử thách được tái hiện bằng những
chi tiết hết sức thật, không né tránh tô vẽ trong cả hai bài thơ.Anh vễ
quốc phải chịu cảnh áo rách quần vá chân không dày,ốm đau không
có thuốc.Thì người lính lái xe vì những chuyến hàng ra tiền tuyến họ
phải chịu cảnh “mưa xối”,”bụi phun”.Thế mà, các chiến sĩ đều có
một tư thế ngoan cường chờ giặc tới, ung dung nhìn thẳng.Điều gì đã
giúp họ chịu đựng được như vậy phải chăng đó là tinh thần lạc quan
tin tưởng. Cả hai bài thơ đều thể hiện tinh thần lạc quan của người
lính. Từ miệng cười buốt giá của anh bộ đội kháng chiến chống Pháp
đến nhìn nhau mặt lấm cười ha ha của anh lính lái xe thời chống Mỹ
đều thể hiện tinh thần lạc quan, khí phách anh hùng.
Tuy có nhiều nét tương đồng nhưng ở họ vẫn có những điểm khác
nhau. Bài thơ Đồng chí của Chính Hữu khắc hoạ hình ảnh người lính
nông dân thời kỳ đầu cuộc kháng chiến chống Pháp với vẻ đẹp giản
dị, mộc mạc mà sâu sắc. Tình đồng chí thiềng liêng hòa quyện với
65 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
tình yêu nước khi lý tưởng chiến đấu đã rực sáng trong tâm hồn.
Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ
Đồng chí!
Còn “bài thơ Tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật thể
hiện người lính lái xe trong cuộc kháng chiến chống Mỹ với vẻ đẹp
trẻ trung, ngang tàng. Đây là thế hệ những người lính có học vấn, có
bản lĩnh chiến đấu, có tâm hồm nhạy cảm, có tính cách riêng mang
chất lính đáng yêu. Họ tất cả vì miền Nam ruột thịt với trái tim yêu
nước cháy bỏng.
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim
Hình tượng người lính dù ở thời kỳ kháng chiến chống Pháp
hay kháng chiến chống Mỹ đều mang phẩm chất cao đẹp của anh bộ
đội cụ Hồ thời đại đã cung cấp cho các nhà thơ những nguyên mẫu
đẹp đẽ, họ tạo nên những hình tượng làm xúc động lòng người. Viết
về những người lính, các nhà thơ nói về chính mình và những người
đồng đội của mình. Vì thế, hình tượng người chân thật và sinh động.
PHÂN TÍCH KHỔ THƠ CUỐI BÀI THƠ VÈ TIỂU ĐỘI XE
66 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
KHÔNG KÍNH
Đọc “bài thơ về tiểu đội xe không kính” của PTD ấn tượng sâu sắc
nhất đối với chúng ta đó là tinh thần và ý chí quyết tâm giải giải
phóng Mền Nam ở khổ thơ cuối cùng.
Thắng lợi càng đến gần thì ác liệt càng gia tăng và mất mát do
chiến tranh gây ra càng lớn.Những chiếc xe bị bom đạn Mỹ làm cho
biến dạng trơ trụi, ”Không có kính rồi xe không đèn- không có mui
xe, thùng xe có xước” .Điệp từ” không có” được nhắc đi nhắc lại
nhằm nhấn mạnh sự mất mát của nhữngchiếc xe .Nhưng điều kì lạ là
những chiếc xe trụi trần ấy vẫn chạy, vẫn băng ra tiền tuyến. Không
có thì nhiều mà chỉ cần thì có một.Tác giả lại một làn nữa lí giải bất
ngờ và rất chí lí: “chỉ cần trong xe có một trái tim” Trái tim người lính
cách mạng- trái tim của lòng quả cảm đó là ý chí quyết tâm giải
phóng miền nam.Với lời thơ tự nhiên như lời nói bình thường, giọng
điệu thơ gần gủi, vui tươi, dí dỏm, bài thơ đã nêu bật hình ảnh người
lái xe trên tuyến đường Trường Sơn: dũng cảm hiên ngang, với niềm
vui sôi nổi, lạc quan yêu đời bất chấp mọi khó khăn, nguy hiểm để ra
trận vì Miền Nam ruột thịt . Họ luôn đối diện với khó khăn thử thách,
mà vẫn cười đùa, tếu táo, hồn nhiên, tự tin. Đó là nét đặc sắc của bài
67 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
thơ cũng như ngôn ngữ, giọng điệu riêng của thơ Phạm Tiến Duật.
Hôm nay đất nước dã hoà bình sau hơn 30 năm giải phóng Miền
Nam con đường Trường Sơn đã đi vào lịch sử, đọc lại bài thơ này,
chúng ta càng tự hào và khâm phục biết bao các chiến sĩ lái xe ở
Trường Sơn ngày trước cùng bộ đội Trường Sơn đã góp phần vào
chiến thắng huy hoàng của dân tộc.
CẢM NHẬN VỀ ÁNH TRĂNG
Vầng trăng dịu mát, sáng trong, vầng trăng huyền diệu tròn đầy tự
bao giờ đã trở nên thân thương gắn bó với con người. Nếu Bác
kính yêu coi trăng như bè bạn tri âm thì Nguyễn Duy_nhà thơ
trưởng thành thời kháng chiến chống Mỹ lại coi trăng là nguồn
sáng lung linh để thanh lọc tâm hồn, để ăn năn hối lỗi. Bài thơ
“Ánh trăng” (1978)của ông được khơi nguồn từ những cảm xúc
chân thành và cao đẹp như thế
Bài thơ mang dnág dấp như một câu chuyện với lời kể mở đầu
tự nhiên,trôi chảy về mối quan hệ gán bó giữa trăng và nhà thơ:
Hồi nhỏ sống với đồng
68 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
Với sông rồi với bể
Hồi chiến tranh ở rừng
Vầng trăng thành tri kỉ
Chỉ bằng 4 câu thơ ngắn Nguyễn Du đã dựng lại được cả thời
niên thiếu cho đến lúc trưởng thành,1 không gian thân thương:
đồng, sông, bể.Từ không gian đầy ắp kỉ niệm ấy ta nhận ra niềm
say mê,sảng khoái của con người trong cái mát lành dịu ngọt ân
tình của quê hương qua ánh trăng lai láng trên cánh đồng, dòng
sông, bãi biển.Không gian cứ mở rộng mãi ra, bao la bát ngát theo
nhịp trưởng thành của con người.Thời gian không ngừng vận
động và cậu bé lớn lên từ quê hương ấy đã trở thành chiến sĩ. Khi
xa quê, đi vào cuộc chiến, nỗi nhớ thương chợt hiện về quay quắt
tâm hồn,lúc này người và trăng lại càng gắn bó _ánh trăng là bạn
tri kỉ chia sẻ mọi gian nan thiếu thốn, mọi buồn vui sướng khổ
trong những năm tháng chiến tranh của tác giả.NHư vậy là tuổi
thơ chớp mắt đã trôi qua.Cái còn lại lúc này là vầng trăng thật
đơn sơ,chung thuỷ.
Hai chữ hồi ở câu thơ thứ nhất và thứ 3 làm cho khổ thơ
như có một chỗ dừng chân. Cái dừng chân giữa ranh giới của ấu
thơ và trưởng thành. Ánh trăng soi rọi về quá khứ khiến tiếng nói
69 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
tâm tình trở nên sâu lắng thiết tha.
Trần trụi giữa thiên nhiên
Hồn nhiên như cây cỏ
Ngỡ không bao giờ quên
Cái vầng trăng tình nghĩa
Trăng hồn nhiên như trẻ thơ, trăng chân thành như bè bạn,trăng
gắn bó sâu nặng với con người mà không trở lực nào có thể ngăn
cách. Những năm tháng con người sống thật nhất với mình, trần
trụi,hồn nhiên là khi con người ta trân trọng, đinh ninh một lời thề
son sắt “ngỡ không bao gìơ quên,cái vầng trăng tình nghĩa” Từ
ngỡ là chiếc cầu nối ngôn từ vừa khép lại thời qua khứ vừa mở ra
thời hiện tại tạo nên sự chuyển tiếp cho khổ thơ thứ 3.
Từ hồi về thnàh phố
Quen đèn điện cửa gương
Vầng trăng đi qua ngõ
Như người dưng qua đường
Cuộc sống hiện đại với ánh sáng chói loà của ánh điện cửa
gương,với những vật dụng ngày càng hiện đại dường như đã làm
lu mờ ánh sáng của vầng trăng.Tác giả đã tạo ra sự đối lập giữa
vầng trăng nghĩa tình trong quá khứ với vầng trăng xa lạ như
70 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
người dưng qua đường bây giờ.Là ánh trăng đã khác ánh trăng
của ngày xưa?Không! Ánh trăng vẫn thế vẫn gần gũi thân thương
dịu dàng,chỉ có hoàn cảnh sống của con người đã thay đổi khiến
họ không nhận ra vẻ đẹp của vầng trăng tri kỉ ngày xưa hay chính
họ đã thờ ơ,họ quên đi.Thật xót xa cho vầng trăng tuổi thơ vầng
trăng đi bên nhau một thời chinh chiến như tri kỉ,vậy mà khi
người ta sống giữa phồn hoa đô thị thị nó lại bị lãng quên .Ánh
trăng đã đựơc tác giả nhân hoá để gửi gắm suy tư về nhân tình thế
thái.Lời thơ so sánh của Nguyễn Duy “vầng trăng đi qua ngõ, như
người dưng qua đường” như xoáy vào lòng người một nỗi niềm
xót xa nhức nhối,bới sự phản bội ở đây không chỉ với lịch sử,với
thiên nhiên mà còn với chính bản thân mình nữa.Cuộc đời như
một dòng sông khi duị êm lặng lẽ, lúc cuộn sóng trào dâng,bởi thế
cuộc sống thời hiện đại sao có thể êm đềm mãi cho được.
Thình lình đèn điện tắt
Phòng buyn_đinh tối om
Vội bật tung cửa sổ
Đột ngột vầng trăng tròn
Đây là khổ thơ quan trọng trong cấu tứ của toàn bài,là sự
chuyển biến có ý nghĩa bước ngoặt của mạch cảm xúc, bộc lộ rõ
71 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
chủ đề tư tưởng của bài thơ. Ở đây không chỉ là sự thay thế ánh
trăng cho ánh điện mà còn là sự thức tỉnh trong tiềm thức của con
người. Các từ “bật tung”, “đột ngột” diễn tả cảm xúc mạnh mẽ bất
ngờ có cái gì như là thoảng thốt âu lo trong hình ảnh”Vội bật tung
cửa sổ” Vầng trăng ấy đâu phải chỉ khi đèn điện tắt mới xuất hiện
mà nó vẫn nguyên vẹn như thế, tròn đầy như thế, dịu lành như
thế, vẫn lặng lẽ đi bên cạnh cuộc đời con người,nó làm sáng lên
cái góc tối đánh thức sự quên lãng trong cái đời sống đủ đầy đến
thừa thãi của con người.
Trong khoảng khắc thình lình đối diện với vầng trăng,một thời
kỉ niệm ân tình ngày xưa ùa về “rưng rưng” sống dậy thổn
thức,lay động da diết lòng người Ngửa mặt lên nhìn mặt.
Có cái gì rưng rưng
Như là đồng là bể
Như là sông là rừng
Hai chữ “mặt” trong một câu thơ là hai tấm lòng đang đối
diện:mặt trăng và mặt người.Hay chính là con người đang đối
diện với chính lòng mình,với cái phần ân tình quá khứ mà mình
đã vô tình lãng quên.Có cái gì đó trào dâng lên trong lòng
người,rưng rưng,cay xè và giọt lệ như sắp tuôn trào bên hàng
72 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
mi.Nhà văn Nam Cao đã từng nói rất đúng rằng:“Nước mắt là tấm
kính biến hình của vũ trụ” Nước mắt có thể thanh lọc tâm hồn con
người, khi nào người ta còn biết khóc là khi họ còn có một trái
tim,một tấm lòng để rung động và để yêu thương.Cái tốt lành
trong sáng đã hé nở trong hai chữa “rưng rưng” nao lòng người
ấy.Nguyễn Duy gặp lại ánh trăng như gặp lại một không gian tình
nghĩa: đồng bể, sông, rừng. Ánh trăng soi rọi tâm hồn, khiến nhà
thơ bừng tỉnh”.
Trăng cứ tròn vành vạnh
Kể chi người vô tình
Vầng trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình.
Khổ thơ kết bài của bài thơ là hai vế đối lập mà song song.
Đối lập giữa cái tròn đầy vạnh vạnh của vầng trăng là hao khuyết
thiếu hụt của kẻ đã vô tâm quên đi quá khứ _cái qua khứ ân tình
thuỷ chung mà họ “ngỡ không bao giờ quên”. Đối lập giữa cái im
lặng độ lượng của trăng là sự thức tỉnh trong lương tri con người.
Đối lập giữa hiện tại và quá khứ.Suy nghĩ của tác giả ở khổ thơ
này đã được nâng lên tầm cao triết lí.Nếu ai đó có lúc quên đi
những điều thiêng liêng tốt đẹp của quá khứ thì phải có những lúc
73 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
giật mình tỉnh thức trong hiện tại mới mong đạt được những ân
nghĩa tốt lành ở tương lai.Bởi đó là chân lí đã trở thành đạo lí của
người Việt ta:”Uống nước nhớ nguồn”.
“Ánh trăng” nhẹ nhàng,trong sáng về câu chữ,tự nhiên, thuần
thục về kết cấu,bình dị, dễ hiểu về ý thơ,tha thiết trong giọng
điệu.Bài thơ đã đem đến cho người đọc một bài học sâu sắc:con
người cần sống có trước có sau,có tình có nghĩa để không bao giờ
phải giật mình day dứt về những năm tháng vô tình hờ hững đã
qua.Dù XH ngày càng văn minh, hiện đại nhưng ánh trăng trên
trời cao và cả ánh trăng của Nguyễn Duy vẫn thật sự cần thiết với
mỗi con người bởi nó là tấm gương sáng nhất giúp chúng ta soi
vào để nhận ra những gì trong lành tinh khôi nhất của cuộc
đời.Vầng trăng soi sáng những tâm hồn vô tình lãng quên.
Phân tích khổ thơ đầu bài "Mùa xuân nho nhỏ"
Đề:Suy nghĩ của em về khổ thơ đầu bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh
Hải.
74 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
Nếu ở dòng văn học trung đại ta bắt gặp cảm xúc dâng trào trước vẻ đẹp
của thiên nhiên đất trời mùa xuân của đại thi hào Nguyễn Du:
“Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vào bông hoa”
thì với dòng thơ hiện đại,nối tiếp mạch cảm xúc ấy đến với một hồn thơ sắp kề
cận cát bụi- Thanh Hải nhưng tình yêu thiên nhiên đất trời vẫn luôn mãnh
liệt,luôn dâng trào qua khổ thơ mở đầu bài thơ “Mùa xuần nho nhỏ” viết tháng
11 năm 1980:
“ Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời ”
Khổ thơ đẹp như một bức tranh với âm thanh,màu sắc,với sức xuân hài
hòa,sống động:
Từ “mọc” được đặt ở đầu câu với lối đảo ngữ tạo nên sự khỏe khoắn,tạo nên
sức sống tiềm ẩn,tạo nên sự vươn lên trỗi dậy.Giữa dòng sông rộng lớn ,không
gian mênh mông,chỉ một bông hoa thôi,một bông hoa tím biếc cũng làm nên
sức xuân,cũng làm nên ánh xuân lung linh sắc màu.Bức tranh xuân được tô
điểm với gam màu thật hài hòa,dịu nhẹ,tươi tắn: màu xanh lam của nước sông
Hương hài hòa cùng màu tím biếc của hoa,một màu tím thật giản dị,thủy
chung mà cũng thật mộng mơ,quyến rũ. Đó cũng chính là màu đặc trưng của
xứ Huế. 75 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
Đâu đó tiếng chim chiền chiện hót vang trời.Với những thán từ
”gọi”,”ơi”,”chi” mang chất giọng ngọt ngào,đáng yêu và đậm chất xứ Huế
mang nhiều màu sắc thái cảm xúc như một lời trách yêu. Khung cảnh mùa
xuân có không gian cao rộng,màu sắc tươi thắm,âm thanh vang vọng.Âm
thanh vang vọng,hót vang trời,một không gian bay bổng,đằm thắm,dịu
dàng.Mùa xuân trong thơ Thanh Hải chẳng có mai vàng,đào thắm cũng chẳng
có muôn sắc màu rực rỡ nhưng sao mà tất cả rộ lên sắc màu những âm thanh
đều đang ở độ tràn đầy nhựa sống.
Cảm xúc trước mùa xuân tươi đẹp của thiên nhiên đất trời sao mà say sưa,
ngây ngất, xốn xang đến thế.
“Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”
Giọt long lanh phải chăng là giọt sương,giọt mưa,giọt nắng,giọt mùa
xuân hay giọt của âm thanh, giọt của hạnh phúc. Tiếng chim chiền chiện hót
vang trời nhưng không tan biến vào không trung mà ngưng đọng lại thành
từng giọt âm thanh như những giọt lưu ly trong vắt long lanh, chói ngời .Với
bút pháp ẩn dụ chuyển đổi cảm giác từ thính giác đến thị giác và xúc
giác”hứng” đó là sự trân trọng vẻ đẹp của thi nhân đối với vẻ đẹp của sự sống
,của đất trời,của chim đó cũng là sự đồng cảm của thi nhân
trước thiên nhiên,cuộc đời.
76 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
SUY NGHĨ VỀ HAI KHỔ THƠ CUỐI CỦA BÀI THƠ " MÙA XUÂN
NHO NHỎ"
Đề : Suy nghĩ của em về hai khổ thơ trích trong bài “ Mùa xuân nho nhỏ”
của Thanh Hải :
Bài làm
Như chúng ta đã biết, mùa xuân là mùa hội tụ của các thi sĩ, là một mùa mang
đậm chất thơ, cũng giống như các nhà thơ khác, nhà thơ Thanh Hải cũng đã
cảm nhận được mùa xuân để sáng tác bài thơ “ Mùa xuân nho nhỏ” để thể
hiện ước nguyện nhỏ nhoi, cuối cùng trong đời của ông trước khi từ trần. ông
đã để lại cho kho tàng văn học Việt Nam một bài thơ rất đặc sắc, đơn giản mà
ấn đậm những dòng cảm xúc, ước nguyện của ông, điển hình qua hai khổ thơ
trong bài :
Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến.
Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
77 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
Dù là khi tóc bạc.
Ôi, chỉ vẻn vẹn hai khổ thơ thôi mà ta thấm nhuần được biết bao nhiêu cảm
xúc. Tác giả muốn hóa thân vào những cảnh vật mà mình đang thấy, đang
nghe trước mắt. Từ “ta” của tác giả không chỉ là cảm xúc chung của mọi
người mà là chỉ riêng tác giả thôi, tác giả chỉ muốn một mình dâng hiến cho
cuộc đời, cho đất nước. “Ta làm con chim hót”, ôi…câu thơ nghe êm ái làm
sao, ước nguyện của tác giả thật khiêm tốn, chỉ muốn làm một con chim trong
muôn vàn loài chim trên đất nước, chỉ muốn cất một tiếng hót trong bao nhiêu
rung động của đất trời góp thêm một sắc xuân nhỏ nhoi cho đất nước. Kế nữa,
tác giả lại muốn làm một cành hoa, có lẽ chỉ là một cành hoa dại ven đường
thôi, cành hoa mang một màu sắc nhẹ nhàng và quyến rũ, một cành hoa của
“mùa xuân nho nhỏ” chen chút với bao cành hoa đẹp đẽ, quí hiếm khác để đi
vào cái “mùa xuân của đất nước” một niềm khao khát nhưng đáng quí biết
bao! Đẹp đẽ biết bao! Sau đó tác giả lại muốn nhập vào một bài ca chỉ bởi
“một nốt trầm xao xuyến”, chỉ một nốt trầm trong một bài ca thôi, một nốt
trầm mà khi nghe xong ta lại còn vương vấn. Tác giả muốn cất lên một âm
vọng bình thường mà lặng lẽ, muốn góp thêm cho cuộc đời một nốt nhạc
trong những âm vang hấp dẫm hơn khi đất nước đang bước vào một mùa xuân
rực rỡ.
Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời.
Đến đây, có lẽ giọng thơ đã trầm lại. Bây giờ, tác giả đã muốn dâng cả
cuộc đời mình cho đất nước, nhưng thực chất lại là dâng một cái rất nhỏ “một
mùa xuân nho nhỏ”, tuy mùa xuân cũa tác giả nhỏ nhưng nó là cả hàng triệu 78 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
trái tim của những con người Việt Nam dâng cho đất nước một mùa xuân, một
mùa xuân trong một mùa xuân rộng lớn của đất nước. Thanh Hải âm thầm,
“lặng lẽ dâng cho đời” một món quà rất đặc biệt, đó là “mùa xuân nho nhỏ”,
một mùa xuân mà chưa ai nghĩ đến. Thơ rất độc đáo, rất hay và rất tình cảm.
Tác giả luôn muốn cống hiến tất cả cuộc đời mình vào đất nước dù ở bất cứ
thời điểm nào của cuộc đời :
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc.
Điệp từ “dù” nó như là một lời hứa, một sự khẳng định là mãi mãi, là vĩnh
viễn sẽ không bao giờ phai theo thời gian. Dù khi còn trẻ hay khi đã già thì tác
giả vẫn cống hiến. tác giả thật là một người đáng khâm phục, một người rất
thơ, rất tình cảm!
Với những âm điệu rộn ràng, rồi lại trầm lặng, từ ngữ sâu sắc, luyến láy rất
vần tác giả đã đưa ta một “Mùa xuân nho nhỏ” của riêng mình để rồi ước
nguyện cùng tác giả. Chỉ những hình ảnh ước muốn: con chim, cành hoa, một
nốt trầm trong một bản hòa ca,… mà tác giả khiến ta thấu được biết bao nhiêu
là tình cảm. Những ước nguyện thật khiêm tốn giản đơn mà lại đầy ý nghĩa,
tác giả thật là một người đáng kính nể! Luôn muốn dâng hết tất cả cuộc đời
mình cho đất nước. Gấp trang sách lại, em lại cảm thấy một cái gì đó bồi hồi,
xao xuyến muốn đọc lại lần nữa. Những ước nguyện nhỏ nhoi, khiêm tốn của
tác giả lại khiến cho ngưới đọc động lòng. Thật độc đáo!
Cảm nhận về bài thơ mùa xuân nho nhỏ
79 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
Trước lúc vĩnh viễn ra đi ông cũng để lại cho đời những vần thơ thật
nhân hậu, thiết tha và thanh thản, không hề gợn một nét u buồn nào của
một cuộc đời sắp tắt. Khi cuộc đời mình đã bước vào cuối đông, nhà thơ
vẫn nghĩ đến một mùa xuân bất diệt, muôn thuở và nguyện dâng hiến
cho đời.
Hình ảnh của một mùa xuân rất Huế đã được tác giả mở đầu cho bài
thơ:
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc.
Ơi con chim chiền chiện
Hót cho mà vang trời,
Từng giọt long lanh rơi,
Tôi đưa tay tôi hứng”
Đây là bức tranh mùa xuân được vẽ lên bằng tâm hồn của người nghệ
sĩ với những nét chấm phá rất dễ thương rất tuyệt vời, một nét đặc trưng
rất Huế đó là hình ảnh màu "tím biếc " của "một bông hoa" hòa với màu
"xanh" của "dòng sông". Một màu tím thật gợn nhẹ như màu tím hoa
sim mọc giữa con sông xanh biếc hay như những tà áo dài với màu tím
thật nhẹ nhàng của những cô gái Huế. Cả hai màu sắc đều rất hài hòa
như vẫy gọi mùa xuân. Động từ "Mọc" xuất hiện một cách đột ngột
trong câu thơ như một lời báo hiệu của sự trỗi dậy của sức vươn lên
mạnh mẽ của một bông hoa giữa bốn bề sông nước mênh mông rộng
lớn. Cả hai hình ảnh "dòng sông xanh" và "hoa tím biết" ấy gợi lên trong
lòng người đọc một bức tranh mùa xuân tươi đẹp, tràn đầy sức sống
80 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
Bức tranh xứ Huế vào xuân lại càng sinh động hơn bởi tiếng hót líu lo
của chim chiền chiện:
“Ơi con chim chiền chiện
Hót cho mà vang trời,
Từng giọt long lanh rơi,
Tôi đưa tay tôi hứng”.
Tiếng hót của chim chiền chiện vút cao, lãnh lót như mở thêm không
gian, gợi cảm, trong trẻo, đáng yêu. Từ cảm thán “Ơi” đặt ở đầu câu,
một từ “chi” đứng sau động từ “hát” đã đưa cách nói ngọt ngào, thân
thương của Huế vào nhạc điệu của thơ tạo cho ta một cảm giác bình yên,
sự dịu dàng tha thiết của xứ Huế cố đô. Tác giả lắng nghe tiếng chim
hót, nghe bằng tai chưa đủ, nhà thơ còn nghe bằng của trái tim xao động,
bằng trí tưởng tượng, bằng sự liên tưởng độc đáo. Từ “giọt” được hiểu
theo rất nhiều nghĩa: có thể là “giọt nắng bên thềm”, giọt mưa xuân, giọt
sương sớm, tiếng hót của những chú chim chiền chiện hay là giột nước
mắt hạnh phúc của tác giả? Sự chuyển đổi cảm giác trong tác giả thật kì
lạ từ thị giác sang thính giác và giờ là xúc giác "tôi đưa tay tôi hứng" Sự
chuyển đổi cảm giác này thể hiện sự say sưa, ngây ngất, nâng niu của
nhà thơ trước vẻ đẹp của thiên nhiên, đất trời vào xuân. Niểm vui đó,
niềm hạnh phúc đó hoàn toàn khác với tâm trạng buồn chán trước cảnh
xuân đất nước đang đắm chìm trong đêm đen nô lệ:
Tôi có chờ đâu, có đợi đâu,
Đem chi xuân đến gợi thêm sầu?
Với tôi, tất cả như vô nghĩa,
81 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau!
Với những vầng thơ giản dị nhưng Thanh Hải vẫn miêu tả được mùa
xuân cách mạng quê hương của tác giả:
“Mùa xuân người cầm súng,
Lộc giắt đầy trên lưng.
Mùa xuân người ra đồng,
Lộc trãi dài nương mạ.
Tất cả như hối hả,
Tất cả như xôn xao…”
Hai câu thơ đầu tác giả muốn nhấn mạnh đến mùa xuân của người cầm
súng và của người ra đồng biểu thị cho hai nhiệm vụ chính lúc bấy giờ là
bảo vệ và xây dưng đất nước. Từ "Lộc" có hai tầng nghĩa: "Lộc" có
nghĩa đen là cành non, lá mới, là cành lá ngụy trang trên lưng người
chiến sĩ ra mặt trận. "Lộc" còn là mạ non theo chận người nông dân ra
đồng ruộng. Với biện pháp ẩn dụ "Lộc" còn mang ý nghĩa tượng trưng
hơ. "Lộc" biểu thị cho một niềm tin, một sức sống, là sự trẻ trung vươn
lên quyết giành chiến thắng, giành lấy những kết quả tốt đẹp, đem sự
bình yên đến với mọi nhà. Mà chính người chiến sĩ sẽ mang mùa xuân
yên vui đến cho mọi nơi trên đất nước. "Lộc" tượng trưng cho sự ấm no,
"trúng mùa" của công việc sản xuất. Người dân lao động muốn mình
cống hiến hết sức lực, tài năng vào công việc xây dựng quê hương ngày
một giàu mạnh bởi vậy tất cả mọi người đều tự nguyện:
"Tất cả như hối hả,
Tất cả như xôn xao…
82 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
Điệp từ "tất cả" xuất hiện liên tục nhấn mạnh đây là nhiệm vụ chung
của mỗi người. Từ láy "hối hả", "xôn xao" gợi hình gợi tả thể hiện nhịp
độ khẩn trương, tươi vui, thể hiện nhiệt tình và trách nhiệm của những
con người đang bắt tay xây dựng chủa nghĩa xã hội.
Sức sống của “mùa xuân đất nước” còn được cảm nhận qua nhịp
điệu hối hả, những âm thanh xôn xao của đất nước bốn ngàn năm, trải
qua biết bao vất vả và gian lao để vươn lên phía trước và mãi khi mùa
xuân về lại được tiếp thêm sức sống để bừng dậy, được hình dung qua
hình ảnh so sánh rất đẹp:
“Đất nước bốn ngàn năm
Vất và vào gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước”
Một lời tổng kết về lịch sử đất nước “bốn ngàn năm” với bao “vất vả”,
“gian lao” bao nhiêu sóng gió thăng trầm. Để ca ngợi truyền thống đó,
Nguyễn Trãi đã từng viết:
"Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu"
Không tự hào sao được khi đất nước đi lên từ “vất và”, “gian lao”. Từ
ngữ giản dị nhưng cũng đã tái hiện cuộc hành trình lịch sử của dân tộc ta
khi chiến tranh cũng như thiên tai “sáng chống bão dông, chiều ngăn
nắng lửa”, đói nghèo không buông. Đúng là:
“Việt nam ơi việt nam
Riếng súng tiếng gươm không bao giờ dứt
83 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
Bởi Tổ quốc ta không bao giờ chịu nhục
Dân tộc ta không chịu cuối đầu”
Thế nhưng đất nước vẫn vươn mình về phía trước, vẫn rạng ngời “như vì
sao”
“Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước"
Cách so sánh đầy ấn tượng. Một vì sao lấp lánh không chói lọi nhưng
bền vững, trường tồn. Vì sao ấy còn là lá cờ Tổ quốc cứ tung bay, hãnh
hiện cùng bạn bè năm châu bốn bể. Từ “cứ” khẳng định mãnh mẽ qui
luật tất yếu “cứ đi lên phía trước” của dân tộc ta. Đó là niềm tin của tác
giả vào sức sống của dân tộc, vào sự phát triển khổng ngừng của đất
nước.
Từ cảm xúc của thiên nhiên, đất nước, mạch thơ đã chuyển một cách tự
nhiên sang bày tỏ suy ngẫm và tâm niệm của nhà thơ trước mùa xuân
của đất nước. Mùa xuân của thiên nhiên, đất nước thường gợi lên ở mỗi
con người niềm khát khao và hi vọng; với Thanh Hải cũng thế, đây
chính là thời điểm mà ông nhìn lại cuộc đời và bộc bạch tâm niệm thiết
tha của một nhà cách mạng, một nhà thơ đã gắn bó trọn đời với đất
nước, quê hương với một khát vọng cân thành và tha thiết:
“Ta làm con chim hót,
Ta làm một cành hoa.
Ta nhập vào hoà ca,
Một nốt trầm xao xuyến”
Lời thơ như ngân lên thành lời ca. Nếu như đoạn đầu Thanh Hải xưng
84 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
tôi kín đáo và lặng lẽ thì đến đoạn này ông chuyển giọng xưng ta. Vì sao
có sự thay đổi như vậy? Ta ở đây là nhà thơ và cũng chính là tất cả mọi
người. Khát vọng của ông là được làm con chim hót, một cành hoa để
hoà nhập vào “mùa xuân lớn” của đất nước, góp một nốt trầm vào bản
hoà ca bất tận của cuộc đời. Hiến dâng “mùa xuân nho nhỏ” nghĩa là tất
cả những gì tốt đẹp nhất, dù nhỏ bé của mỗi người cho cuộc đời chung
cho đất nước. Điều tâm niệm đó thật chân thành, giản dị và tha thiết –
xin được làm một nốt trầm trong bản hoà ca của cuộc đời nhưng là “một
nốt trầm xao xuyến”. Điều tâm niệm của tác giả: “lặng lẽ dâng cho đời”
chính là khát vọng chung của mọi người, ở mọi lứa tuổi, chứ đâu phải
của riêng ai. Thanh Hải đã thể hiện hết mình vì lòng tin yêu cuộc sống
và khiêm tốn hiến dâng cho đất nước, cho cuộc đời, bởi vậy, xuất phát từ
tiếng lòng thiết tha, nhỏ nhẹ, chân thành của tác giả nên lời thơ dễ dàng
được mọi người tiếp nhận và chia sẻ cho nhau. Quan niệm sống ấy của
Thanh Hải thật giống với quan niệm sống của Tố Hữu:
“Nếu là con chim, chiếc lá,
Con chim phải hót, chiếc lá phải xanh
Lẽ nào vay mà không trả,
Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình.”
Đến khổ thơ tiếp theo, tác giả đã giúp ta hiểu rõ hơn nhan đề của bài thơ
– Mùa xuân nho nhỏ:
“Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
85 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
Dù là khi tóc bạc”.
“Mùa xuân” là ý niệm chỉ thời gian nhưng “mùa xuân nho nhỏ ở đây
của tác giả đã trở thành lẽ sống đẹp, lý tưởng. “Lặng lẽ dâng” ước vông
tha thiết khiêm tốn cả cuộ đời cho đi mà không hề đòi hỏi. “Lặng lẽ”
một hành động âm thần, tự nguyện không ồn ào, khồng cần mọi người
biết đến. Đã gọi là cống hiến cho đời thì dù ở tuổi nào đi chăng nữa cũng
phải luôn biết cố gắng hết tâm trí để phục vụ và hiến dâng cho quê
hương, đất nước mến yêu của chính mình. Già - cống hiến tuổi già, trẻ -
cống hiến sức trẻ để không bao giờ thất vọng trước chính bản thân mình.
Thật cảm động và kính phục biết bao khi đọc những vần thơ như lời
tổng kết của cuộc đời. “Dù là tuổi hai mươi” khi mới tham gia kháng
chiến cho đến khi tóc bạc là thời điểm hiện thời vẫn lặng lẽ dâng hiến
cho đời và bài thơ này là một trong những bài thơ cuối cùng. “Một mùa
xuân nho nhỏ” cuối cùng của Thanh Hải dâng tặng cho đời trước lúc ông
bước vào thế giới cực lạc, chuẩn bị ra đi mãi mãi.
Kết thúc bài thơ bằng một âm điệu xứ Huế: điệu Nam ai, Nam Bình
mênh mang tha thiết, là lời ngợi ca đất nước, biểu hiện niềm tin yêu và
gắn bó sâu nặng của tác giả với quê hương, đất nước, một câu chân tình
thắm thiết:
“Mùa xuân ta xin hát
Câu Nam ai, Nam Bình
Nước non ngàn dặm tình
Nước non ngàn dặm mình
Nhịp phách tiền đất Huế”
86 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
Những lời tâm sự cuối cùng của người sắp mất luôn là những lời
thực sự, luôn chứa chan tình cảm, ước nguyện sâu lắng nhất… và bài thơ
này cũng chính là những điều đúc kết cả cuộc đời của ông. Ông đã giải
bày, tâm tình những điều sâu kín nhất trong lòng, và chính lúc đó Thanh
Hải đã thả hồn vào thơ, cùng chung một nhịp đập với thơ để ông và thơ
luôn được cùng nhau, hiểu nhau và giải bày cho nhau.
Tóm lại bài thơ đã sử dụng thể thơ năm chữ, mang âm
hưởng dân ca nhẹ nhàng tha thiết, giàu hình ảnh, nhạc điệu, cất trúc thơ
chặt chẽ, giọng điệu đã thể hiện đúng tâm trạng, cảm xúc của tác giả.
Nét đặc sắc của bài thơ là ở chỗ nó đề cập đến một vấn đề lớn và quan
trọng “nhân sinh”, vấn đề ý nghĩa cuộc sống của mỗi cá nhân được
Thanh Hải thể hiện một cách chân thành, thiết tha, bằng giọng văn nhỏ
nhẹ như một lời tâm sự, gửi gắm của mình với cuộc đời. Nhà thơ ước
nguyện làm một “mùa xuân” nghĩa là sống đẹp, sống với tất cả sức sống
tươi trẻ của mình nhưng rất khiêm nhường; là “một mùa xuân nho nhỏ”
góp vào “mùa xuân lớn” của đất nước của cuộc đời chung và bài thơ
cũng có ý nghĩa hơn khi Thanh Hải nói về “mùa xuân nho nhỏ” nhưng
nói được tình cảm lớn, những xúc động của chính tác giả và của cả
chúng ta.
Viếng lăng Bác
Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị cha già kính yêu của dân tộc Việt Nam – đã cống
hiến trọn đời mình vì sự nghiệp giải phóng đất nước. Người ra đi năm 1969,
87 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
để lại biết bao nỗi thương nhớ và xót xa cho Tổ quốc. Có nhiều nhà thơ đã
viết bài thơ tưởng nhớ về Bác, và "Viếng lăng Bác” của Viễn Phương là một
trong những bài thơ xuất sắc nhất. Chúng ta hãy cùng đến với bài thơ để cảm
nhận được cảm xúc ấy.
"Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”
Năm 1976, sau ngày đất nước ta được hoàn toàn giải phóng, lăng Bác được
khánh thành. Nhà thơ Viễn Phương từ miền Nam đã ra thăm lăng Bác. Cảm
xúc dâng trào, nhà thơ đã làm một bài thơ như một lời bộc bạch chân tình của
hàng triệu người con miền Nam với Bác. Đây là một bài thơ đặc sắc, giàu ý
nghĩa, làm cho người đọc xúc động.khổ thơ đầu là những dòng cảm xúc ban
đầu của nhà thơ khi được lần đầu đến thăm lăng Bác: một chút tự hào, xen lẫn
vui sướng, lẫn xúc động khi sắp đc kề cận bên Ng` cha thân yêu của dân
tộc.Bằng những hình ảnh ẩn dụ giàu sức gợi, nhôn ngữ bình dị mà hàm súc,
tinh tế, đoạn thơ đã để lại trong lòng người đọc những cảm xúc vô cùng sâu
sắc.khổ cuối bài thơ như những nốt nhạc du dương, trầm bổng, réo rắt như
tấm lòng tha thiết yêu mến của nhà thơ với Bác. Bằng những ngôn từ ẩn dụ
đặc sắc,từ ngữ bình dị mà giàu sức gợi, câu thơ đã khơi gợi trong lòng người
đọc những rung động sâu sắc và đáng quý.
Bài thơ được phân chia theo bố cục thời gian, và khổ thơ đầu tiên nói về
cảm xúc của tác giả khi nhìn thấy lăng Bác từ xa.
"Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”
Câu thơ đầu tiên thật ngắn gọn nhưng nó lại là một lời tâm sự chân tình của
nhà thơ cũng như hàng triệu người con miền Nam. Một tiếng "con” thật ấm 88 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
áp, gần gũi, thể hiện lòng kính yêu to lớn đối với Bác. Bác thật gần gũi với
người dân, như là một vị cha già của dân tộc. "Con ở miền Nam” - mấy tiếng
ấy bao hàm một nỗi đau và một niềm tự hào. Miền Nam gian khổ và anh
hùng, miền Nam đi trước về sau, miền Nam thành đồng Tổ quốc, miền Nam
vừa chiến thắng kẻ thù hung bạo trở về trong đại gia đình Việt Nam đây Bác
ơi! Nhà thơ mong nhìn thấy Bác một lần sau khi đất nước đã giải phóng
nhưng thật đau xót, Bác đã không còn. Vì vậy, từ "viếng” đã được nhà thơ
thay bằng từ "thăm” để giảm nhẹ nỗi đau cũng như bày tỏ niềm tin rằng Bác
vẫn sống mãi.
"Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”
Đập vào mắt nhà thơ là hình ảnh hàng tre xanh ngắt trước lăng Bác. Cây tre -
biểu tượng cho sự bất khuất, kiên cường nhưng giản dị, thanh cao của người
dân Việt Nam – đã để lại một dấu ấn đậm nét trong lòng tác giả trước khi
bước vào lăng Bác. Hàng tre bát ngát – Hàng tre xanh xanh – Hàng tre Việt
Nam: hàng tre bao đời như một dấu hịêu đặc biệt của dân tộc. Hàng tre trùm
bóng mát rượi lên bao thế hệ cuộc đời, hàng tre mang bao phẩm chất của con
người Tổ quốc ta: dẻo dai, đoàn kết, bất khuất, kiên cường. Ở Bác có tất cả
những gì mà những con người Việt Nam từng có, cũng cái dấu hiệu xanh tươi
sự sống ấy, cũng cái kiên cường "đứng thẳng hàng” trong "bão táp mưa sa”
ấy. Dân tộc ta thật sự có sức sống mãnh liệt, cho dù những thử thách của thiên
nhiên, của lịch sử có khắc nghiệt cách mấy thì vẫn kiên cường chống chọi, và
vẫn cố gắng đứng thẳng chứ nhất quyết không chịu bị bẻ cong. Hàng tre đứng 89 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
đó, bên lăng Bác như ru giấc ngủ ngàn thu của Bác, gắn bó mãi mãi với Bác
như dân tộc Việt Nam vẫn kính trọng Bác mãi mãi.
Đến gần lăng Bác, xếp hàng vào viếng thì tác giả có thêm nhiều cảm xúc mới.
"Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”
Hai câu thơ sinh động với nhiều hình ảnh gợi cảm được tạo nên từ những
hình ảnh thực và hình ảnh ẩn dụ sóng đôi với nhau. Một mặt trời thực đi qua
trên lăng, là mặt trời của tự nhiên, của muôn loài, soi sáng cho muôn loài, đem
lại sức sống cho thế giới. Từ mặt trời thật ấy, một mặt trời ẩn dụ khác hiện ra
trong lăng, rất đỏ. Bác nằm trong lăng với ánh sáng đỏ xung quanh như một
mặt trời. Bác tồn tại vĩnh cửu trong lòng mỗi người dân Việt Nam như sự tồn
tại của một mặt trời thật. Bác soi sáng đường cho dân tộc ta đi, cống hiến cả
cuộc đời cho sự nghiệp giành độc lập của Tổ quốc. Bác giúp nhân dân ta thoát
khỏi kiếp sống nô lệ, trở thành một con người tự do để bây giờ được hạnh
phúc. Công lao của Bác đối với dân tộc ta cũng như mặt trời, to lớn không kể
xiết. Bác là một mặt trời. Cái ẩn dụ mặt trời ở đây không biết đã đủ nói về Bác
chưa ?. Không, nếu nói Bác là mặt trời thì phải nhấn mạnh thêm cho rõ cái
đặc tính của vầng mặt trời ấy: rất đỏ. Cái mặt trời đang tỏa sáng trên cao kia,
cái mặt trời của thiên nhiên, tượng trưng của nguồn nóng, nguồn sáng, nguồn
sự sống ấy, không phải bao giờ cũng nguyên vẹn thế đâu, không phải lúc nào
cũng ấm nóng thế đâu! Vầng mặt trời ấy có thể bị bóng đêm lấn át. Nhưng
vầng mặt trời Bác Hồ của ta thì mãi mãi đỏ thắm, mãi mãi là nguồn sưởi ấm,
nguồn sáng soi đường cho con người Việt Nam. Hôm nay có hai mặt trời
chiếu rọi trên đường đời: một mặt trời tỏa sáng trước mặt, một mặt trời tỏa 90 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
sáng tâm hồn…Như mặt trời kia, Bác thuộc về vĩnh cửu. Bác sẽ sống mãi
trong lòng mỗi con người Việt Nam.
"Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân…”
Cùng với mặt trời đi qua trên lăng, ngày ngày dòng người vẫn đi qua
lăng trong thương nhớ. Điệp ngữ "ngày ngày” ý nói rằng nhân dân ta mãi luôn
ghi nhớ công lao to lớn của Bác, mãi mãi là như vậy. Nhịp thơ của đoạn
chậm, diễn tả đúng tâm trạng khi đứng xếp hàng trước lăng chờ đến lượt vào,
ngậm ngùi tưởng nhớ đến Bác đã khuất. Tuy vậy, nhịp thơ chầm chậm như
bước chân người đi trong cuộc tưởng niệm mà sao câu thơ vẫn không buồn ?
Phải rồi. Chúng ta không làm cái việc tưởng niệm bình thường với Bác như
một người đã khuất. Dòng người đang đi đây là đang đi trong cuộc hành trình
ngợi ca vinh quang của Bác. Và tràng hoa vinh quang này không phải được
kết bằng những bông hoa bình thường như mọi tràng hoa vinh hiển khác trên
đời đâu. Tràng hoa đây là một hình ảnh ẩn dụ của tác giả, đó chính là những
đoá hoa thật sự của đời, là đàn con mà Bác đã cố công tạo nên suốt bảy mươi
chín mùa xuân Bác sống trên đời. Những bông hoa trong vườn Bác nay đã lớn
lên, nở rộ ngát hương kính dâng lên Bác.
Vào bên trong lăng Bác, thấy Bác đang nằm đó, nhà thơ lại một lần nữa cố
giấu tiếng nấc nghẹn ngào:
"Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền”
Khung cảnh bên trong lăng thật êm dịu, thanh bình. Lúc này, trước mặt
mọi người chỉ có hình ảnh Bác. Bác nằm đó trong giấc ngủ vĩnh hằng. Bác 91 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
mất thật rồi sao? Không đâu. Bác chỉ nằm đó ngủ thôi, Bác chỉ ngủ thôi mà!
Suốt bảy mươi chín năm cống hiến cho đất nước, bây giờ đất nước đã bình
yên, Bác phải được nghỉ ngơi chứ. Bao quanh giấc ngủ của Bác là một "vầng
trăng sáng dịu hiền”. Đó là hình ảnh ẩn dụ cho những năm tháng làm việc của
Bác, lúc nào cũng có vầng trăng bên cạnh bầu bạn. Từ giữa chốn tù đày, đến
"cảnh khuya” núi rừng Việt Bắc, rồi "nguyên tiêu”…Tuy vậy, Bác chưa bao
giờ thảnh thơi để ngắm trăng đúng nghĩa. Khi thì "trong tù không rựơu cũng
không hoa”, khi thì "việc quân đang bận”. Chỉ có bây giờ, trong giấc ngủ yên,
vầng trăng ấy mới thật sự là vầng trăng yên bình, để Bác nghỉ ngơi và ngắm.
Trăng dịu hiền, soi sáng hình ảnh Bác. Nhìn Bác ngủ ở đấy thật bình yên,
nhưng có một sự thật dù đau lòng cách mấy ta vẫn phải chấp nhận: Bác đã thật
sự ra đi mãi mãi.
"Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim!”
Trời xanh bao la kia kéo dài đến vô tận, không bao giờ chấm dứt. Dù lí trí vẫn
luôn trấn an lòng mình rằng Bác vẫn sống đấy, vẫn còn dõi theo Tổ quốc mãi
mãi như màu xanh thanh bình trên nền trời Tổ quốc độc lập nhưng con tim ta
vẫn nhói đau vì một sự thật đau lòng. Một từ "nhói” của nhà thơ nói hộ ta nỗi
đau đớn, nỗi đau vượt lên mọi lí lẽ, mọi lập luận lí trí. Bác như trời xanh, Bác
là mãi mãi, Bác vẫn sống trong tâm tưởng mỗi chúng ta, Bác mãi hiện diện
trên mỗi phần đất, mỗi thành quả, mỗi phần tử tạo nên đất nước này. Nhưng
mà Bác mất thật rồi, ta không còn có Bác trong cuộc đời thường này. Mất
Bác, cái thiếu vắng ấy liệu có thể nào bù đắp được? Tổ quốc ta đã thật sự
không còn Bác dõi theo từng bước chân, không còn được Bác nâng đỡ mỗi 92 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
khi vấp ngã. Bác ra đi, nỗi đau ấy liệu có từ ngữ nào diễn tả hết? Cả đàn con
Việt Nam luôn tiếc thương Bác, luôn nhớ về Bác như một cái gì đó thật vĩ đại,
không thể xoá nhoà. Dù Bác ra đi thật sự rồi nhưng những điều Bác đã làm
vẫn sẽ đọng lại trong tâm hồn, hình ảnh Bác vẫn tồn tại trường kì trong trái
tim mỗi người dân Việt Nam.
Cuối cùng dẫu thương tiếc Bác đến mấy, cũng đến lúc phải rời lăng Bác để ra
về. Khổ thơ cuối như một lời từ biệt đầy xúc động:
"Mai về miền Nam thương trào nước mắt”
Ngày mai phải rời xa Bác rồi. Một tiếng "thương của miền Nam” lại vang
lên, gợi về miền đất xa xôi của Tổ quốc, một nơi từng có vị trí sâu sắc trong
trái tim người. Một tiếng "thương” ấy là yêu, là biết ơn, là kính trọng cuộc đời
cao thượng, vĩ đại của Người. Đó là tiếng thương của nỗi đau xót khi mất Bác.
Thương Bác lắm, nước mắt trào ra, thật đúng là tình thương của người Việt
Nam, vô bờ bến và rất thật.
"Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”
Cùng với nỗi niềm yêu thương vô hạn, tác giả nói lên muôn vàn lời tự
nguyện. Điệp ngữ "muốn làm” khẳng định mạnh mẽ những ước nguyện ấy.
Ước chi ta có thể biến hình thành những gì thân yêu quanh nơi Bác ngủ để
mãi mãi được chiêm ngưỡng Bác, cuộc đời và tâm hồn của Bác, để bày tỏ
lòng ta với Bác. Một con chim nhỏ góp tiếng hót làm vui những bình minh
của Bác, một đóa hoa góp mùi hương làm thơm không gian quanh Bác hay
một cây tre trong hàng tre xanh xanh VN tỏa bóng mát dịu dàng quê hương 93 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
của Bác, tất cả đều làm Bác vui và ngủ an giấc hơn. Đây cũng chính là nguyện
ước chân thành, sâu sắc của hàng triệu con tim người Việt sau một lần ra thăm
lăng Bác. Bác ơi! Bác hãy ngủ lại bình yên nhé, chúng cháu về miền Nam tiếp
tục xây dựng Tổ quốc từ nền móng Bác đã tạo ra đây! Câu thơ trầm xuống để
kết thùc, ngừng lặng hòan toàn.
Về nghệ thuật, bài thơ Viếng lăng Bác có nhiều điểm nghệ thuật rất đặc
sắc, giúp biểu hiện thành công thêm về những giá trị nội dung. Bài thơ viết
theo thể tám chữ, trong có có xen một vài câu bảy và chín chữ. Nhiều hình
ảnh trong bài thơ lấy từ ngoài đời thực đã được ẩn dụ, trở thành một cách thể
hiện cảm xúc thành kính của tác giả. Nhịp thơ của bài linh hoạt, lúc nhanh là
biểu hiện cho ước nguyện đền đáp công ơn Bác, lúc chậm là lúc thể hiện lòng
thành kính với Bác. Giọng điêu của bài trang trọng, tha thiết, ngôn ngữ thơ
bình dị mà cô đúc.
Bằng những từ ngữ, lời lẽ chân thành, giàu cảm xúc, nhà thơ Viễn
Phương đã bày tỏ được niềm xúc động cùng lòng biết ơn sâu sắc đến Bác
trong một dịp ra miền Bắc viếng lăng Bác. Bài thơ như một tiếng nói chung
của toàn thể nhân dân Việt Nam, biểu lộ niềm đau xót khi thấy Bác kính yêu
ra đi. Qua bài thơ, tôi cảm thấy rằng đất nước ta có hoà bình như ngày hôm
nay một phần lớn là nhờ công lao của Bác, như vậy chúng ta cần phải biết xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc ta, để những công ơn to lớn của Bác không bị bỏ phí.
Phân tích khổ thơ thứ ba bài viếng lăng bác
94 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
Viễn Phương là nhà thơ có nhiều đóng góp cho nền văn học giải phóng . Sự
liên tưởng và sáng tạo nghệ thuật trong thơ của ông thường bắt đầu từ tình yêu
và cảm xúc . Điều đó càng đc thể hiện rõ trong tác phẩm Viếng Lăng Bác ông
viết vào 4-1976 . Bài thơ là đỉnh điểm của niềm xúc động vô biên khi nhà thơ
đc ra Hà Nội viếng lăng Bác . Khoẳnh khắc viếng lăng đã để lại những dư âm
trong sâu thẳm tâm trí nhà thơ để từ đó có một tiếng vọng tha thiết vào thơ .
Qua t/yêu thương , niềm tự hào và thái độ t/kính của t/giả . H/ả bác hiện lên
thật thiêng liêng , cao đẹp . Trong đó có đoạn :
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim
Khổ thơ miêu tả cảnh trong lăng vs rất nhiều h/ảnh có giá trị nghệ thuật cao
và đc chia làm 2 phần rất rõ ràng . Hai cầu đầu miêu tả cảm nhận của nhà thơ
về cái chết của Bác.Với hai câu sau tâm trạng của nhà thơ đã thay đổi hẳn thể
nỗi đau đớn của tác giả trước sự thật Bác đã ra đi mãi mãi . Giọng điệu bài thơ
lắng lại , nghẹn ngào . Được tận mắt chiêm ngưỡng Bác kính yêu nhà thơ như
quên đi sự thật – Bác đã qua đời – mà ông tưởng như người đang ngon giấc
trog giấc ngủ bình yên sau những bộn bề bận rộn của công việc . Ánh sang
xanh nhạt của những ngọn đèn neon tỏa dịu dàng trong trẻo khiến nhà thơ ngỡ
như Bác đang yên giấc dưới ánh sang của vầng trăng . Dùng hình ảnh này và
kết hợp vs phép tu từ ẩn dụ , phép nói giảm đã làm cho những cảm xúc của
câu thơ càng trân trọng thiêng liêng . Sự liên tưởng sang tạo nghệ thuật trong
thơ thường xuất hiện bắt đầu từ tình yêu và cảm xúc . Đọc những câu thơ này 95 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
ta có lien tưởng như mình đc vào lăng viếng Bác để được chiêm ngưỡng giấc
ngủ thanh thản của Bác như một thánh nhân sau khi đã làm cho đời biết bao
việc ý nghĩa .
Hai câu sau là cảm xúc mãnh liệt , dâng tràn trong trái tim của nhà thơ ngay
khi đc tận mắt ngắm nhìn thấy Bác
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim
Hai câu thơ dung cấu trúc khá độc đáo : “ vẫn biết “ – “ mà sao “ diễn
tả một nghịch lý đau đớn - giữa khát vọng và thực tế , giữa ước mơ và hiện
thực . Nhà thơ tự an ủi mình bằng những luận thuyết - trời xanh là mãi mãi –
Bác vĩ đại thiên liêng nên người trường tồn , bất diệt như trời xanh . Nhưng đó
là sự bất diệt của một vĩ nhân đã khuất - sự thật này kg thể kg nhìn thấy , kg
thừa nhận : Bác đã vĩnh viễn ra đi . Vì thế nên ông mới nhận ra nỗi đau đớn
đột ngột đang nhói lên trong trái tim của mình . Chữ “ nhói “ diễn ta sắc thái
đau đớn tột đỉnh của tâm trạng diễn ra quặng thắt khó tả . Điều đó cho ta thấy
t/yêu thương của nhà thơ dành cho Bác sâu nặng đến mức nào .
Chỉ qua một đoạn thơ ngắn ngủi , ta đã thấy đc tình cảm chân thành ,
mãnh liệt của tác giả đối với Bác kính yêu , thể hiện niềm yêu kính , biết ơn
thương tiếc , đối vs con người đẹp nhất Việt Nam...Qua cảm xúc ấy hình ảnh
Bác hiện lên thật đẹp , thật thiêng liêng . Người là biểu tượng của ánh sáng ,
của sự sống , của sự bất tử . Nhờ những cảm xúc , những hình ảnh ấy ta mới
thấy được hình ảnh Hồ Chí Minh khắc sâu trong lòng những con người Nam
Bộ , những con người Việt Nam như thế nào .
96 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
Cảm nhận về khổ thơ cuối
Qua Khổ thơ cuối cũa bài Viếng lăng Bác của tác giả Viễn Phương đã bộc lộ
cảm xúc đến tận cùng của khi Giã từ " Bác" để trở về miền Nam :
" Mai về miền nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này "
“ Mai về miền Nam thương trào nước mắt ".Cho thấy tác giả đã lặn lội từ
miền Nam xa xôi ra thăm Lăng Bác , Nhửng hình ảnh về " hàng tre bát nhát
.Cây tre 1 hình ảnh đẹp biểu tượng cho 1 dân tộc Việt Nam kiên cường bất
Khuất Vẫn đứnng thẳng hàng cho Dù " bão táp mưa xa " . " Dòng người đi
trong thương nhớ " luôn ở cùng tác giả . Trước Khung cảnh về" một mặt
trời trong lăng rất đỏ , Giất ngủ bình yên , vầng trăng sáng trong diệu hiền
.." một khung cảnh nhẹ nhàng nhưng tác giả lại " mà sao nghe nhói ở trong
tim " Niềm sót thương vô bờ bến của tác giả đã đc bộc lộ rõ nét nhất qua
đoạn thơ nhe nhàng nhưng mang 1 bầu tâm trạng buồn của tác giã , Nỗi
buốn của tác giả là nỗi buồn không của riêng ai để rồi ngày trở về miền
Nam những hình ảnh đó , một khung trời vừa nhẹ nhàng ,vừa trử tình luôn
ở bên tác giả khiếng cho ngày trở về miền nam lại càng thêm cảm động .
97 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
" Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này "
Qua việc vận dụng điệp từ " muốn làm " thể hiện nỗi luyến tiết muốn
ở lại bên lăng không muốn xa rời Bác , Tác Giả đã cảm nhận ra đc 1 vẻ đẹp
tuyệt vời bên ngoài lăng , những hình ảnh tuyệt đẹp đó đả khiếng tác giả
muốn gửi hồn minh vào để ở mãi bên Lăng: " Con chim hót , Đóa hoa tỏa
hương " , Nhưng trên hết tác muốn gửi hồn mình vào Cây tre một biểu
tượng để tôn vinh thêm nỗi hùng vĩ cũa lăng bÁc , tác giả muốn làm Cây tra
để tăng thêm sự bất khuất của dân tộc việt nam , Sự hùnh vỉ tráng lệ của
Lăng bÁc . Lăng Chủ Tịch Hồ Chi Minh , Ngoài những ý nghĩa việc " Muốn
làm cây tre " để tác giả có thể đc thấy mặt trời đi qua trên lăng cũng Như
mặt trời đỏ của Bác để vơi bớt đi phần lưu luyến khi về miền Nam của tác
giả.
Khóc thương cho một vị cha Già của dân tộc , khóc thương cho 1 sự mất
mát lớn của người dân VN , khóc thương cho sự lưu luyến ko muốn rời
lăng cũa những người con dân Việt Nam , Qua tác phẩm " Viếng Lăng Bác "
tác giả Viễn Phương như muốn Nhắn nhủ với chúng ta rằng : Tuy Bác đã
mất, nhưng hình ảnh về Bác sẻ không theo dòng lệ của những người con
dân Việt Nam mà nhạt nhòa đi sẻ vẩn sống mãi mãi trong những vần thơ
bất tận và Bác sẻ là 1 ngôi sao lớn tõa kháp trên cả bầu trời non nước Việt
Nam "
98 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
*** Sang thu ***
Cũng như mùa xuân, mùa thu luôn là đề tài gợi nhiều cảm xúc cho các
thi nhân. Mỗi người lại có cách nhìn cách miêu tả rất riêng, mang đậm
dấu ấn cá nhân của mình. Có nhà thơ, mùa thu là dáng liễu buồn, là
màu áo mờ phai, là tiếng đạp lá vàng cuả con nai ngơ ngác. Hữu
Thỉnh cũng góp vào tuyển tập thơ mủa thu của dân tộc một cái nhìn
mới mẻ. Ông là nhà thơ viết nhiều, viết hay về những con người, cuôc
sống ở nông thôn, về mùa thu. Những vẩn thơ thu của ông mang cảm
xúc bâng khuâng vương vấn trước đất trời trong trẻo đang chuyển
biến nhẹ nhàng. Điều này thể hiện rõ qua bài "Sang thu" được ông
sáng tác cuối năm 1977.Bài thơ diễn tả tâm trạng ngỡ ngàng trườc
cảnh đất trời đang chuyển biến giao mùa từ hạ sang thu.
Không như những nhà thơ khác, cảm nhận mùa thu qua sắc
vàng của hoa cúc, của lá ngô đồng hay qua tiếng lá vàng rơi xào xạc.
Hữu Thỉnh đón nhận mùa thu với một hương vị khác: hương ổi.
" Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se"
99 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
"Bỗng nhận ra" là một trạng thái chưa được chuẩn bị trứơc,
như là vô tình, sững sốt để cảm nhận, giữa những âm thanh, hương vị
và màu sắc đặc trưng của đất trời lúc sang thu. Nhà thơ nhận ra tín
hiệu của sự chuyển mùa từ ngọn gió nhè nhẹ, lành lạnh se khô mang
theo hương ổi. "Phả" là một động từ mang ý tác động được dùng như
một cách khẳng định sự xuất hiện của hơi thu trong không gian:
"hương ổi", một mùi hương không dễ nhận ra, bởi hương ổi không
phải là một mùi hương thơm ngào ngạt, nồng nàn mà chỉ là một mùi
hương thoảng đưa êm dịu trong gió đầu thu, nhưng cũng đủ để đánh
thức những cảm xúc trong lòng người.
Không chỉ cảm nhận mùa thu bằng khứu giác, xúc giác mà nhà thơ
còn cảm nhận màn sương thu trong phút giao mùa. Màn sương hình
như cũng muốn tận hưởng trọn vẹn khoảnh khắc vào thu nên chùng
chình chưa muốn dời chân:
"Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về"
Từ láy tương hình "chùng chình" gợi cảm giác về sự lưu luyến ngập
ngừng, làm ta như thấy một sự dùng dằng, gợi cảnh thu sống động
trong tĩnh lặng, thong thả, yên bình. "Chùng chình" là sự quãng ngắt
nhịp nhàng, chuyển động chầm chậm hay cũng chinh là sự rung động
trong tâm hồn nhà thơ? Một chút ngỡ ngàng, một chút bâng khuâng,
nhà thơ phát hiện ra vẻ đẹp rất riêng của không gian mùa thu. "Hình
như" là một từ tình thái diễn tả tâm trạng của tác giả khi phát hiện sự 100 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
hiện hữu của mùa thu. Sự góp mặt của màn sương buổi sáng cùng với
hương ổi đã khiến cho nhà thơ giật mình thản thốt. Không phải là
những hình ảnh đã trở nên ước lệ nữa mà là một chi tiết thật mới mẻ,
bất ngờ. Có lẽ với Hữu Thỉnh, làn hương ổi rất quen với người Việt
Nam, mà rất lạ với thơ được tác giả đưa vào một cách hết sức tự
nhiên.
Rồi mùa thu được quan sát ở những không gian rộng hơn, nhiều tầng
bậc hơn.
"Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu"
Nếu ở khổ một, mùa thu mới chỉ là sự đoán định với ít nhiều bỡ ngỡ,
thì ở khổ thơ này, tác giả đã có thể khẳng định: thu đến thật rồi. Thu
có mặt ở khắp nơi, rất hiện hình, cụ thể Dòng sông không còn cuôn
cuộn dữ dội như những ngày mưa lũ mùa hạ mà trôi một cách dềnh
dàng, thanh thản. Mọi chuyển động dường như có phần chậm lại, chỉ
riêng loài chim là bắt đầu vội vã. Trời thu lạnh làm cho chúng phải
chuẩn bị những chuyến bay chống rét khi đông về. Phải tinh tế lắm
mới có thể nhận ra sự bắt đầu vội vã trong những cánh chim bay bởi
mùa thu chỉ vửa mới chớm, rất nhẹ nhàng, rất dịu dàng. Điểm nhìn
của nhà thơ đuợc nâng dần lên từ dòng sông, rồi tới bầu trời cao rộng.
101 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
"Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu"
Cảm giác giao mùa được Hữu Thỉnh diễn tả thật thú vị. Đây là một
phát hiện rất mới và độc đáo của ông. Mùa thu mới bắt đầu vì thế mây
mùa hạ mới thảnh thơi, duyên dáng "vắt nửa mình sang thu". Đám
mây như một dải lụa mềm trên bầu trời đang còn là mùa hạ, nửa đang
nghiêng về mùa thu. Bức tranh chuyển mùa vì thế càng trở nên sinh
động và giàu sức biểu cảm.
Ở khổ cuối, khoảnh khắc giao mùa không còn được nhà thơ diễn tả
bằng cảm nhận trực tiếp mà bằng sự suy ngẫm, chiêm nghiệm.
"Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi."
Nắng cuối hạ vẫn còn nồng, còn sáng nhưng đang nhạt dần.
Những ngày giao mùa này đã vơi đi những cơn mưa rào ào ạt. Vẫn là
nắng, vẫn là mưa, sấm như mùa hạ nhưng mức độ đã khác rồi. Lúc
này, những tiếng sấm bất ngờ cùng những cơn mưa rào không còn
nhìêu nữa. Hai câu thơ cuối gợi cho ta nhìu suy nghĩ, liên tưởng thú vị.
"Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng đứng tuổi"
102 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
Giọng thơ trầm hẳn xuống, câu thơ không đơn thuần chỉ là
gượng kể, là sự cảm nhận mà còn là sự suy ngẫm, chiêm nghiệm.
Cụm từ "hàng cây đứng tuổi" gợi cho người đọc nhiều liên tưởng. Đời
người như một loài cây, cũng non tơ, trưởng thành rồi già cỗi. Phải
chăng, cái đứng tuổi của cây chính là cái đứng tuổi của đời người.
Hình ảnh vừa có ý nghĩa tả thực, vừa có ý nghĩa biểu tượng. Vẻ chính
chắn, điềm tĩnh của hàng cây trước sấm sét, bão giông vào lúc sang
thu cũng chính là sự từng trải, chính chắn của con người khi đã đứng
tuổi. Phải chăng mùa thu của đời người là sự khép lại những ngày
tháng sôi nổi bồng bột của tuổi trẻ, để mở ra một mùa mới, một
không gian mới thâm trầm, điềm đạm, vững vàng hơn.Ở tuổi "sang
thu", con người không còn bất ngờ trước những tác động bất thường
của ngoại cảnh, của cuộc đời.
Xưa nay, màu thu thường gắn liền với hình ảnh lá vàng rơi ngoài ngõ,
lá khô kêu xào xạc... Và ta ngỡ như chỉ những sự vật ấy nới chính là
đặ điểm của mùa thu. Nhưng đến với "Sang thu" của Hữu Thĩnh,
người đọc chợt nhận ra một làn hương ổi, một màn sương, một dòng
sông, một đám mây, một tia nắng. Những sự vật gần gũi thế cũng làm
nên những đường nét riêng của mùa thu Việt Nam và chính điều này
đã làm nên sức hấp dẫn của "Sang thu".
Bài thơ kết câu theo một trình tự tự nhiên. Đó cũng là diễn biến
mạch cảm xúc của tác giả vào lúc sang thu. Bài thơ gợi cho ta hình
dung một bức tranh thiên nhiên tươi đẹp vào thời điểm giao mùa hạ- 103 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
thu ở vùng nông thôn Bắc Bộ. Câu thơ của Hữu Thỉnh như có một chút
gì đó thăng trầm, kín đáo, rất hợp với cách nghĩ, cách nói của nguời
thôn quê. Bài thơ giúp ta cảm nhận được tình cảm thiết tha, tâm hồn
tinh tế của nhà thơ giàu lòng yêu thiên nhiên của nhà thơ.
Bài thơ ngắn với thể thơ năm chữ mộc mạc, ngôn ngữ giản dị mà ý
nghĩa sâu sắc, hình ảnh đơn sơ mà gợi cảm. Hữu Thĩnh đã phát họa
một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp bằng nhiều cảm xúc tinh nhạy.
Đọc thơ Hữu Thĩnh ta càng cảm thấy yêu quê hương đất nước hơn,
càng cảm thấy mình cần phải ra sức góp phần xây dựng quê hương
ngày càng giàu đẹp.
Cảm nhận khổ thơ cuối bài "Sang Thu" - Hữu Thỉnh
Cuối hạ, thu đến mang theo những cảm xúc bất chợt để lại trong lòng ai
những bồi hồi, xao xuyến về một mùa thu nồng nàn, êm ái. Ngày hạ đi để
nhường chỗ cho nàng thu dịu dàng bước tới, sự chuyển mình giữa hai mùa
thật nhẹ nhàng và ngập ngừng như lưu luyến, vấn vương một cái gì đó của
thời đã qua. Khoảnh khắc ấy thật đẹp, nhưng không phải ai cũng dễ dàng nhận
thấy. Riêng nhà thơ Hữu Thỉnh thì khác, ông đã có một cái nhìn thật tinh
tường, một cảm nhận thật sắc nét và một cách sống hòa hợp với thiên nhiên
nên mới có thể vẽ lại bức tranh in dấu sự chuyển mình của đất trời qua bài thơ
104 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
“Sang Thu” – linh hồn của cả bài thơ chỉ vẻn vẹn trong hai từ thế thôi, song ý
nghĩa sâu sắc chất chứa trong hai từ ngắn ngủi ấy lại không hề ít. Và có lẽ
những ý nghĩa đó, lại tập trung nhiều hơn vào khổ thơ cuối bài:
“Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đừng tuổi”
Mở đầu khổ thơ vẫn là nắng và mưa của mùa hạ đấy thôi, nhưng chỉ là
“vẫn còn” và “vơi dần” – tất cả ngày một nhạt đi, chứ không như cái nắng gay
gắt, chói chan cùng cơn mưa ào, xối xả của một mùa hạ sôi động nữa. Dường
như vẫn còn luyến tiếc lắm, nhưng cuối cùng hạ vẫn phải chấp nhận rằng:
“thu sang” và hạ phải đến một chân trời khác. Bằng nghệ thuật ẩn dụ sâu sắc,
Hữu Thỉnh đã kết thúc khổ thơ qua hai câu văn thấm đẫm triết lý đáng để ta
phải suy ngẫm:
“Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng câu đừng tuổi.”
“Sấm” – đơn thuần là một hiện tượng đặc trưng của mùa hạ khi trước và sau
cơn mưa lớn, “cây đứng tuổi” – theo nghĩa dễ hiểu nhất thì đó chỉ là những cái
cây đã nhiều tuổi vì sống lâu năm. Nhưng điều mà Hữu Thỉnh muốn gửi đến
chúng ta đâu chỉ là những điều giản đơn đến thế, mà “sấm” ở đây cũng được
xem là những thăng trầm, sóng gió của vòng đời luôn thay đổi và qua những
gian nan, thử thách ấy, con người cũng sẽ đổi thay một cách mạnh mẽ hơn và
vững vàng hơn. Hình ảnh “hàng cây đứng tuổi” - tức chỉ người từng trải, 105 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
những con người đã nếm được hết mùi vị ngọt ngào, cay đắng, mặn mà hay
chua chát của cuộc sống, và tất nhiên khi họ đã trải nghiệm qua những khó
khăn đó, thì giờ đây sẽ không phải rơi vào tình thế xao động hay lung lay
trước những biến cố của vòng xoáy cuộc đời nữa. Nhìn sâu hơn qua hai câu
thơ trên, Hữu Thỉnh cũng muốn nói lên sức mạnh của dân tộc Việt Nam thật
kiên cường và bất khuất, thật dũng cảm và mạnh mẽ chống lại bọn giặc ngoài
xâm để gửi trọn niềm tin yêu đến Tổ quốc, quê hương và bảo vệ bờ cỏi nước
nhà.
Từ bao nỗi suy tư của mình, Hữu Thỉnh đã góp phần làm cho cả bài thơ và
khổ thơ cuối thêm nhiều ý nghĩa sâu sắc, in dấu trong lòng người đọc một ấn
tượng khó phai mờ về một mùa thu tha thiết, nồng hậu và cả mùa hạ sôi động
của dĩ vãng nữa. Cũng chính vì lẽ đó, mà ta cảm thấy yêu thiên nhiên hơn, yếu
cái giao mùa và sự chuyển biến của đất trời trên quên hương mình, cũng như
yêu vòng tuần hoàn máu chạy khắp cơ thể qua chính con tim này !
Cảm nhận về khổ thơ đầu của bài nói với con
Trong thành tựu của văn học hiện đại Việt Nam từ sau cách mạng tháng tám
có những đóng góp không nhỏ của thơ ca các dân tộc anh em trong đó có Y
Phương - nhà thơ dân tộc Tày . Thơ Y Phương có những đặc điểm rất dễ nhận
ra . Đó là cách nói , nghĩ bằng hình ảnh mộc mạc , khái quát và giàu chất thơ
về gia đình , quê hương đất nước .
Từ những đề tài rất quen thuộc về tình phụ tử , tác giả Y Phương đã
106 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
cho ra đời bài thơ "Nói với con". Suốt chiều dọc của bài thơ , tác giả nhắn nhủ
với đứa con về tình yêu quê hương , đất nước và phát huy truyền thống quý
báu của dân tộc .
Mở đầu bài thơ là mười một câu thơ đầy tình yêu thương , ấm áp của gia
đình .
"Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười
Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ caì nan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng
Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời ."
Đứa con sinh ra và suốt một thời thơ ấu của nó được sống trong vòng tay
đùm bọc của bố và mẹ . Bước đi chập chững đầu tiên của một con người thật
trang trọng , bởi lần đầu đứa trẻ đi bằng chính đôi chân của mình , còn cảm
động vì nó có thể yên tâm , tin cậy trong vòng tay của bố và mẹ . Đứa trẻ ấy
sinh ra trong hạnh phúc và lớn lên bằng sự đùm bọc dắt dìu .
"Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ"
Câu thơ tưởng như chỉ là kể , tả mà xiết bao trìu mến , thân thương . Tấm 107 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
lòng của mẹ , của cha là để con hướng tới . Sự lớn lên của đứa trẻ rất đỗi hồn
nhiên . Tiếng nói , tiếng cười là cái phía đông rạng rỡ . Hình ảnh cụ thể mà
giàu chất thơ là ở cách đo đếm chiều dài
"Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười"
Hai thao tác tư duy không cùng một hệ thống thật ngộ nghĩnh , đáng yêu
. Câu thơ có cái ríu rít , ngọt ngào , một thứ âm vang mà những người làm bố ,
làm mẹ ai không bồi hồi , xao xuyến . Tuy vậy , dù tấm lòng cha mẹ có bao
dung rộng lớn đến đâu , đứa con rất cần nhưng vẫn chưa là đủ . Phải có cả quê
hương nuôi lớn con từng ngày.
Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng
Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời ."
Những hoạt động thật bình dị , thường nhật của dân tộc Tày "đan lờ ,
ken" mà sao lại thiêng liêng vô cùng . "Người đồng mình yêu lắm con ơi" . Từ
"người đồng mình" nghe sao thật gần gũi , thương yêu . Những người dân
làng mình yêu lắm con ơi . Ta dù có nghèo khó nhưng chỉ cần tình cảm vẫn có
thể gắn kết yêu thương . Dù vậy người dân làng mình vẫn sống hoà quyện
cùng với thiên nhiên , núi rừng bạt ngàn Tây Bắc . Vì vậy nên "rừng cho hoa ,
con đường cho những tấm lòng" . Rừng nuôi sống con người ta , từng con 108 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
đường cho ta tấm lòng bao dung , rộng mở .
Cha mẹ luôn là người cho con trưởng thành trên những quãng đường đời
thật dài , đầy chông gai , khúc khuỷu nhưng hãy luôn phát huy những truyền
thống tốt đẹp của miền quê nghèo ta.
Viết đoạn văn
Bài thơ ''Nói với con''của Y Phương bằng những cách nói ,cách
nghĩ,những hình ảnh mộc mạc,cụ thể của người dân tộc Tày,tác giả cho người
đọc hiểu được sự nuôi dưỡng,che chở của cha mẹ đối với con và mong con
sống xứng đáng với quê hương.Đứa con sinh ra suốt một thời ấu thơ của
nó.Bước đi chập chưỡng đầu tiên của một con người thật trang trọng và cảm
động.Vì nó có thể yên tâm ,tin cậy trong vòng tay của cha,của mẹ..Con lớn lên
từng ngày trong tình thương yêu của cha và mẹ.Bằng những hình ảnh thật cụ
thể,Y Phương đã tạo được không khí gia đình đầm ấm,quấn quýt.Đứa trẻ sinh
ra trong gia đình hạnh phúc và lớn lên bằng sự đùm bọc,dìu dắt:''Chân trái
bước tới cha-Chân phải bước tới mẹ''.Tấm lòng của mẹ,của cha là cái đích để
con hướng tới.Sự lớn lên của đứa trẻ rất đỗi hồn nhiên.Hình ảnh cụ thể mà
giàu chất thơ: ''Một bước chạm tiếng nói-Hai bước tới tiếng cười''.Hai thao tác
tư duy không cùng hệ thống,vừa ngọ nghĩnh vừa sáng tạo biết bao!Không biết
đó là sáng tạo của nhà thơ hay của dân tộc Tày ở Cao Bằng,một cách nói mộc
mạc vốn dĩ đã có hồn thơ.Câu thơ có được cái ấm áp,rối rít,ngọt ngào,một thứ
âm vang của những người làm mẹ,làm cha ai mà không bồi hồi,xao
xuyến.Tuy vậy,dù tấm lòng của cha mẹ có độ bao dung sâu lớn đến đâu,đứa
con rất cần nhưng chưa đủ.Ở đây có bầu sữa tinh thần thứ hai là quê 109 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
hương.Như vậy,khổ thơ đầu của bài thơ là bức tranh gia đình đầm ấm,hạnh
phúc trong sự chăm chút đứa con,đồng thời người cha nói với con lời đầu
tiên,nhắc nhở con về tình cảm gia đình rột thịt,về cội nguồn của mỗi người.
Cảm nghĩ bài thơ nói với con
Tình mẫu tử là đề tài phong phú cho thơ ca. Nhưng những bài thơ về tình
cha con thì có lẽ khá ít. Bài thơ "Nói với con" cuả Y Phương là 1 trong những
tác phẩm hiếm hoi đó. Bài thơ thể hiện tình cảm gia đình êm ấm, tình quê
hương tha thiết, ngọt ngào và ngợi ca truyền thống nghĩa tình, sức sống mạnh
mẽ của người dân tộc miền núi.
Cảm nhận đầu tiêntrong lời cha nói là hình ảnh con lớn lên trong tình
yêu thương của cha mẹ, sự đùm bọc, che chở của người đồng mình, của quê
hương. Bài thơ mở ra với khung cảnh gia đình ấm cúng, đầy ấp giọng nói
tiếng cười:
Chân phải....
....tiếng cười.
Khung cảnh ấy đẹp như 1 bức tranh: hình ảnh em bé ngây thơ lẫm chẫm tập
đi, bi bô tập nói trong vòng tay, trong tình yêu thương, chăm sóc, nâng niu của
cha mẹ; hình ảnh cha mẹ giang rộng vòng tay, chăm chút từng bước đi, từng
bước đi, từng nụ cười, tiếng nói của con. Gia đình chính là cái nôi êm ái, tổ
ấm để con sống, lớn khôn và trường thành trong niềm yêu thương con cái. Đó
là không khí thường thấy trong các gia đình hạnh phúc. Nhưng cách diễn đạt ở
đay có nét độc đáo riêng cảu người miền núi: nói bằng hình ảnh cụ thể. Điệp
110 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
ngữ "bước tới", trong tình cảm người cha, ko khỏi niềm sung sướng, tự hào.
Không chỉ có gia đình, con còn lớn lên, trưởng thành trong cuộc sống
lao động, trong quê hường sâu nặng nghĩa tình:
Người đồng mình yêu lắm con ơi
...........tấm lòng
Một cách nói rất riêng, rất ngộ : "người đồng mình", là người miền mình,
người vùng mình, là những người cùng sống trên 1 miền đất, cùng quê hương,
cùng 1 dân tộc. Đó là cách nói mộc mạc, mang túnh địa phương của dân tộc
Tày nhưng giàu sức biểu cảm, Tác giả vận dụng lối diễn đạt của người dân tộc
miền núi để xây dựng hình ảnh thơ. Những suy nghĩ, tình cảm, cảm xúc đều
được diễn tả trực tiếp bằng hình ảnh. Đan lờ để bắt cá, dưói bàn tay của người
Tày, những nan trúc, nan tre đã trở thành "nan hoa". Vách nhà ko chỉ ken
bằng gỗ mà còn đc ken bằng "câu hát". Rừng đâu chỉ cho nhìu gỗ quý, lâm
sản mà còn cho hoa. Ba đông từ "đan", "cài", "ken" còn thể hiện sự đoàn kết,
gắn bó cảu quê hương. Lao động đã đem đến cho con bao điều tốt đẹp, "người
đồng mình" và quê hương ấp ủ, nuôi sống con trong tình thương yuê, trong
tình đoàn kết buôn làng. Và con đường đâu chỉ để đi mà nó còn cho "những
tấm lòng" nhân hậu, bao dung, nghĩa tình. Con đường đó là hình bóng thân
thuôc của quê hương, còn in dấu những bước chân đi xuôi ngược, làm ăn sinh
sống của buôn làng, nên nó mang 1 ý nghĩa thật to lớn trong quá trình khôn
lớn của con. Sung sứong nhìn con khôn lớn, nha thơ suy ngẫm về tình làng
bản quê nhà, về cội nguồn hạnh phúc:
Cha mẹ ...
....trên đời 111 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
Không chỉ gọi cho con về nguồn sinh dưỡng, cha còn nói với con về những
đức tính cao đẹp của "người đồng mình" và ước mơ của cha về con. Đó là
lòng yêu lao động, hăng say lao động với cả tấm lòng. Đó là sức sống bền bỉ
mạnh mẽ vượt wa mọi khó khăn, gian khổ.
Người đồng mình thương lắm con ơi
...........Không lo cực nhọc
Trước hết đó là tình thương yêu, đùm bọc nhau. Cách nói mộc mạc mà chứa
đựng bao ân tình rất cảm động đó được lặp đi lặp lai như một điệp khúc trong
bài ca. Chính tình thưong đó là sức mạnh để "người đồng mình" vượt wa bao
gian khổ cuộc đời. Những câu thơ ngắn, đối xứng nhau "cao đo nỗi buồn xa
nuôi chí lớn" diễn tả thật mạnh mẽ chí khí của "người đồng mình": sống vất
vả, nghèo đói, cực nhọc, lam lũ nhưng có chí lớn, luôn yêu quý tự hào, gắn bó
với quê hương. Đó là phẩm chất thứ hai. Thứ ba, về cách sống, người cha
muốn giáo dục con sống phải có nghĩa tình, chung thủy với quê hương, bit
chấp nhận vượt wa gian nan, thử thách bằng ý chí và niềm tin của mình.
Không chê bai, phản bội quê hưong : "không chê...không chê....không lo" dù
quê hương còn nghèo, còn vất vả. "Người đòng mình sống khoáng đạt, hồn
nhiên, mạnh mẽ "như sông như suối-lên thác xuống ghềnh-ko lo cực nhọc".
Lời cha nói với con mà cũng là lời dạy con về bài học đạo lý làm người. Đoạn
thơ rất dồi dào nhạc điệu, tạo nên bởi điệp từ, điệp ngữ, điệp cấu trúc câu và
nhịp thơ rất linh họat , lúc vươn dài, khi rút ngắn, lời thơ giản dị, chắc nịch mà
lay độg, thấm thía, có tác dụng truyền cảm manh mẽ.
Để nhắc nhở giáo dục con, người cha nhấn mạnh truyền thống của người đồng
mình: 112 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
Người đồng mình thô sơ da thịt
.......Nghe con
Truyền thống ấy thật đáng tự hào, tuy "thô sơ da thịt", ăn mặc giản dị, áo
chàm, khăn piêu, cuộc sống mộc mạc thiếu thốn... nhưng ko hề nhỏ bé về tâm
hồn, ý chí nghị lực và đặc biệt là khát vọng xây dựng quê hương. Họ xây dựng
quê hương bằng chính sức lực và sự bền bỉ của mình: "tự đục đá kê cao quê
hương". Họ sáng tạo, lưu truyền và bảo vệ phong tục tốt đẹp của mình biết tự
hào với truyền thống quê hương, dặn dò con cần tự tin, vững bước trên đường
đời, ko bao giờ được sống tầm thường, nhỏ bé, ích kỷ. Hai tiếng "nghe con"
kết thúc bài thơ với tấm lòng thương yêu, kỳ vọng, vừa là lời dặn dò nhắc nhở
ý chí tình của nhười cha đối với đứa con thân yêu. Hai tiếng ấy nghe sao mà
thân thương trìu mến .
Bài thơ có giọng điệu nhò nhẹ, chân tình và rất mới lạ trong phong cách,
một phong cách miền núi với ngôn ngữ "thổ cẩm" rất độc đáo, với cảm xúc, tư
duy rất riêng. Qua đó, Y Phương đã thể hiện tình cảm gia đình ấm cúng, ca
ngợi truyền thống cần cù, sức sống mạnh mẽ của quê hưong và dân tộc mình.
Bài thơ giúp ta hiểu thêm sức sống và vẻ đẹp tâm hồn của 1 dân tộc miền núi,
gợi nhắc tình cảm gắn bó với truyền thống, với quê hương và ý chí vươn lên
trong cuộc sống
Phân tích về nhân vật ba cô thanh niên xung phong
Là cây bút chuyên về truyện ngắn ,trong chiến tranh Lê Minh Khuê viết
về cuộc sống chiến đấu của tuổi trẻ ở tuyến đường Trường Sơn . “Những
113 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
ngôi sao xa xôi” là tác phẩm đầu tay của bà ,được viết năm 1971 giữa lúc
cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc đang diễn ra rất ác liệt.Truyện
giúp ta hiểu hơn về cuộc sống của những cô gái thanh niên xung phong
trên một cao điểm ở tuyến đường Trường Sơn .
Truyện xoay quanh ba nhân vật nữ thanh niên xung phong trong tổ
trinh sát mặt đường . Họ là ba người nhưng công việc gắn bó họ thành
một khối thống nhất. Họ cùng sống và chiến đấu tronh hoàn cảnh vô cùng
gian khổ , ác liệt : ở trên một cao điểm trọng yếu của tuyến đường
Trường Sơn, làm công việc đặc biệt nguy hiểm: “khi có bom nổ thì đo
khối lượng đất lấp vào hố bom ,đếm bom chưa nổ và nếu cần thì phá
bom” . Nghĩa là họ ở nơi tập trung nhiều bom đạn , làm công việc luôn
đối mặt với cái chết . Họ cảm nhận rõ ràng : “Đất bốc khói , không khí
bàng hoàng , máy bay đang ầm ì xa dần .Thần kinh căng như chão , tim
đập bất chấp cả nhịp điệu ,chân chạy mà vẫn biết rằng khắp chung quanh
có nhiều quả bom chưa nổ .” Công việc thường ngày mạo hiểm ấy đòi hỏi
họ phải là những người dũng cảm ,gan góc có tinh thần trách nhiệm cao
trong công việc ,không sợ gian khổ hy sinh .
Mặc dù phải sống cách biệt , ở xa đồng đội , làm công việc nguy hiểm
song cả ba cô gái ấy sống gắn bó cùng nhau và không hề mất đi những
nét tính cách đáng yêu của những cô gái trẻ .Họ luôn yêu thương, lo lắng
,chăm sóc cho nhau , tâm hồn họ trong sáng , giàu mơ ước , dễ vui , dễ
buồn và đặc biệt , họ rất thích làm đẹp cho cuộc sống của mình .Chị Thao
114 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
nhiều tuổi nhất , chăm chép bài hát , sợ máu và vắt. Nho thích thêu thùa ,
thích ăn kẹo , cô rất đáng yêu “trắng và tròn như một que kem mát lạnh”,
có vẻ dịu dàng và gan góc . Người thứ 3 nổi bật nhất ,tiêu biểu cho tổ
trinh sát mặt đường là Phương Định . Là một cô gái Hà Nội xinh xắn “hai
bím tóc dày tương đối mềm ,một cái cổ cao , kiêu hãnh như đài hoa loa
kèn”và đôi mắt đẹp:“có cái nhìn sao mà xa xăm”.Vừa qua thời học
sinh,cuộc sống chiến trường tôi luyện Định thành một chiến sỹ kiên
cường , dũng cảm .Ngày nào Định cũng phá bom nhiều lần ,cô có nghĩ
tới cái chết nhưng điều quan trọng hơn là “liệu mìn có nổ , bom có nổ
không ?không thì làm cách nào để châm mìn lần thứ hai ?”.Tâm trạng
Phương Định khi phá bom được miêu tả cụ thể ,tinh tế đến từng cảm giác
.Từ sự cảm nhận không khí đầy căng thẳng đến cảm giác “các anh cao xạ
đang dõi theo từng cử chỉ ,động tác của mình” và lòng dũng cảm như
được tăng lên bởi sự tự trọng :“Tôi đến gần quả bom …tôi sẽ không đi
khom, các anh ấy không thích cái kiểu đi khom khi có thể cứ đàng hoàng
mà bước tới ”.Cảm giác căng thẳng của Định khi ở bên quả bom , kề sát
cái chết im lìm và bất ngờ được miêu tả tỉ mỉ đến từng chi tiết :“thỉnh
thoảng lưỡi xẻng chạm vào quả bom .Một tiếng động sắc đến gai người
,cứa vào da thịt tôi …Vỏ quả bom nóng .Một dấu hiệu chẳng lành .”Đó là
công việc hàng ngày đã quen của Định . Công việc hiểm nguy ấy khiến
ba cô gái thanh niên xung phong trở nên thật phi thường ,thật đáng khâm
phục .
115 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
Tuy vậy sự ác liệt của chiến trường không làm vơi đi đời sống tâm hồn
trong sáng, giàu cảm xúc của Định .Cô hay mơ mộng, thích hát ,thậm chí
“bịa lời ra mà hát ”thích dân ca quan họ ,thích hành khúc , thích Cachiusa
, thích dân ca Ý…Định còn hay ngồi bó gối mơ màng, sống với những
hồi tưởng về gia đình,quê hương…Cô ý thức về mình ,tự hào vì được
nhiều người để ý nhưng lại tỏ ra hờ hững như là kiêu kỳ .Tuy vậy trong
suy nghĩ và tình cảm của cô thì “những người đẹp nhất ,thông minh ,can
đảm và cao thượng nhất là những người mặc quân phục,có sao trên mũ”.
Định thực sự là cô thiếu nữ mộng mơ ,hồn nhiên ,trong sáng và dũng
cảm.
Ngôi kể thứ nhất ,cách kể chuyện tự nhiên ,ngôn ngữ sinh động ,trẻ trung
cùng nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật đặc sắc của tác giả đã góp phần
không nhỏ trong việc khắc hoạ thành công thế giới tinh thần phong phú
và trong sáng của những cô gái trẻ .
Những trang cuối cùng của truyện khép lại nhưng dư âm của câu
chuyện vẫn còn đọng mãi trong em .Vẻ đẹp tâm hồn của họ ,những chiến
công lặng thầm của họ mãi toả sáng ,lung linh , lấp lánh và bí ẩn như
những ngôi sao xa xôi..
Cảm nhận về nhân vật Phương Định
Đến với “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê ta lại không khỏi
thán phục trước tinh thần dũng cảm, tình đồng đội nồng ấm, tâm hồn lạc
116 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
quan trong sáng của ba nữ thanh niên xung phong mà đề lại ân tượng sâu
sắc nhất trong em là Phương Định.
Phương Định cùng Nho và Thao – những cô gái thanh niên xung
phong sống trên cao điểm mênh mông khói bụi Trường Sơn và bom đạn
hủy diệt của kẻ thù.Công việc của chị và đồng đội trong tổ chinh sát mặt
đường là “đo khối lượng đất đá lấp hố bom,đếm bom chưa nổ và nếu cần
thì phá bom” để bảo vệ con đường cho những đoàn xe băng về phía
trước,góp phần vào sự nghiệp giải phóng miền Nam thống nhất đất
nước.Công việc của chị thật vinh quang nhưng cũng đầy hi sinh gian
khổ.Song chính hoàn cảnh gian khó hiểm nguy ấy đã làm cho chúng ta
cảm nhận được những phẩm chất đáng quý của chị.
Cảm nhận đầu tiên về nhân vật Phương Định là vẻ đẹp của tinh thần
dũng cảm,thía độ bình tĩnh vượt lên mọi hiểm nguy.Hằng ngày,chị
thường xuyên phải chạy trên cao điểm bị bom đạn cày nát mà còn ẩn dấu
những quả bom chưa nổ.Điều đó cũng có nghĩa chị luôn phải đối mặt với
thần chết.Mỗi ngày, chị phải phá từ 3-5 lần bom, nguy hiểm là vậy nhưng
chị vẫn bình thản thậm chí còn thấy thú vị dù trên mình còn có vết
thương chưa lành miệng.Cứ mỗi lần phá bom,đất rắn,tiếng xẻng va chạm
vào cỏ quả bom nghe sắc lạnh đến ghê người.Ngay cả lúc ấy,chị vừa
trách vừa nhắc nhở mình “phải nhanh hơn chút nữa”,nếu không vỏ quả
bom nóng lên hoặc nóng từ bên trong quả bom hay nóng do mặt trời khi
đó sẽ rất nguy hiểm”.Xác đinh được tính chất nguy hiểm ,song với tinh
117 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
thần dũng cảm cùng tình yêu Tổ quốc,chị đã vượt qua tất cả.Thao tác,tư
thế,thái độ bình tĩnh khi phá bom là vẻ đẹp đáng quý ở Phương Đinh nói
riêng và những cô gái trẻ nói chung.Có những lúc,chị cũng nghĩ đến cái
chết nhưng cái chết này mờ nhạt.Còn ý nghĩa cháy bỏng là “ Liệu mìn có
nổ.bom có nổ không? LÀm thế nào để châm mìn lần thứ hai?”Mục đích
hoàn thành nhiệm vụ luôn được chị đặt lên trên hết.
Trong chị luôn thường trực tình đồng đội,đồng chí nồng ấm.Tấm
long vị tha của chị luôn quan tâm tới đồng đội.Khi chị Nho và Thao ở
trên cao điểm,phải ở nhà trực máy nhưng trong lòng Phương Đinh luôn lo
lắng,sốt ruột,đứng ngồi không yên.Chị lo lắng đến mức chạy ra chạy vào
lắng nghe cả tiếng súng hỗ trợ của các anh bộ đội pháo binh.sự lo lắng ấy
khiến chị cáu với cả đội trưởng “Chinh sát chưa về”.Điều đó thể hiện
lòng quan tâm,lo lắng của chị với đồng đội thật sâu sắc.Chị luôn trìu
mến,yêu thương bạn bè,chẳng thế mà chị đã nhận xét về người đồng đội
trẻ tuổi-Nho,chị phát hiện ra vẻ dễ thương của Nho “nhẹ,mát mẻ như một
que kem trắng”,chị còn hiểu rất rõ sở thích của bạn,của đồng đội.Chị
Thao thích ghi bài hát mặc dù chị hát toàn sai nhạc,chị ghi tới ba cuốn sổ
dày bài hát,chị Thao còn thích tỉa đôi long mày nhỏ như que tăm,chị hiểu
được sự cương quyết,tạo báo nhưng rất đáng gờm trong công việc của chị
Thao.Tuy vậy chị Thao rất sợ máu và vắt.Chị hiểu được ở Nho thích thuê
thùa,trên ngực áo của Nho luôn có một bông hoa.Chị còn hiểu được tâm
trạng của đồng đội như khi Nho bị thương,chị Thao thì cuống quýt lên
118 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
còn Nho lại bình tĩnh,gan dạ.Phương ĐỊnh băng bó,tiêm thuốc và pha sữa
cho Nho.Tình cảm đồng đội,đồng chí là ngọn lửa sưởi ấm lòng,là niềm
tin,là động lực,là nguồn động viên khích lệ các chị thêm vững lòng trên
mặt trận đầy gian nguy này.Ngược lại,chị Phượng Đinhk cũng rất cần sự
cổ vũ,động viên của đồng đội.Chị cảm thấy ấm lòng và tự tin hơn khi
cảm thấy ánh mắt dõi theo,khích kệ của các anh chiến sĩ pháo binh.Chị
được rất nhiều chiến sĩ cảm mến.Điều đó càng làm tình đồng đội,đồng chí
trong chị thêm sâu đậm biết bao!
Nét nổi bật và cũng là điểm hấp dẫn nhất của Phương ĐInh với người
đọc chúng ta là tâm hồn trong sáng,giàu mơ mộng,là sự hồn nhiên như trẻ
thơ của chị.Chị là cô gái Hà Nội vào chiến trường khói lửa,chị vẫn hay
nhớ nhà,nhớ những kỉ niệm tuổi thơ.Chị hay hát,hay cười một mình,ngắm
mình trong gương.Chị tự đánh giá mình là “một cô gái khá”.Chị có cái
điệu đà của người Hà Nội nhưng là cái điệu thật đáng yêu vì nó hồn nhiên
và vô cùng chân thực.
Qua nhân vât Phương Định,ta càng hiểu thêm về những vẻ đẹp đáng
quý của những cô giá thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường
Sơn nói riêng và thế hệ trẻ Việt Nam trong những năm tháng hào hùng
ấy.Âm vang của những câu hát sau sẽ luôn vang vọng trong con người
Việt Nam với lòng tự hào đầy trân trọng:
119 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
Cảm nghĩ của em về 'Những ngôi sao xa xôi' của
Lê Minh Khuê.
Là cây bút chuyên về truyện ngắn ,trong chiến tranh Lê Minh Khuê
viết về cuộc sống chiến đấu của tuổi trẻ ở tuyến đường Trường Sơn .
“Những ngôi sao xa xôi” là tác phẩm đầu tay của bà ,được viết năm
1971 giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc đang diễn ra
rất ác liệt.Truyện giúp ta hiểu hơn về cuộc sống của những cô gái
thanh niên xung phong trên một cao điểm ở tuyến đường Trường
Sơn.
Truyện xoay quanh ba nhân vật nữ thanh niên xung phong trong tổ
trinh sát mặt đường . Họ là ba người nhưng công việc gắn bó họ
thành một khối thống nhất. Họ cùng sống và chiến đấu tronh hoàn
cảnh vô cùng gian khổ , ác liệt : ở trên một cao điểm trọng yếu của
tuyến đường Trường Sơn, làm công việc đặc biệt nguy hiểm: “khi có
bom nổ thì đo khối lượng đất lấp vào hố bom ,đếm bom chưa nổ và
nếu cần thì phá bom” .
Nghĩa là họ ở nơi tập trung nhiều bom đạn , làm công việc luôn đối
120 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
mặt với cái chết . Họ cảm nhận rõ ràng : “Đất bốc khói , không khí
bàng hoàng , máy bay đang ầm ì xa dần .Thần kinh căng như chão ,
tim đập bất chấp cả nhịp điệu ,chân chạy mà vẫn biết rằng khắp
chung quanh có nhiều quả bom chưa nổ .” Công việc thường ngày
mạo hiểm ấy đòi hỏi họ phải là những người dũng cảm ,gan góc có
tinh thần trách nhiệm cao trong công việc ,không sợ gian khổ hy sinh
.
Mặc dù phải sống cách biệt , ở xa đồng đội , làm công việc nguy hiểm
song cả ba cô gái ấy sống gắn bó cùng nhau và không hề mất đi
những nét tính cách đáng yêu của những cô gái trẻ .Họ luôn yêu
thương, lo lắng ,chăm sóc cho nhau , tâm hồn họ trong sáng , giàu
mơ ước , dễ vui , dễ buồn và đặc biệt , họ rất thích làm đẹp cho cuộc
sống của mình.
Chị Thao nhiều tuổi nhất , chăm chép bài hát , sợ máu và vắt. Nho
thích thêu thùa , thích ăn kẹo , cô rất đáng yêu “trắng và tròn như
một que kem mát lạnh”, có vẻ dịu dàng và gan góc . Người thứ 3
nổi bật nhất ,tiêu biểu cho tổ trinh sát mặt đường là Phương Định
. Là một cô gái Hà Nội xinh xắn “hai bím tóc dày tương đối mềm
,một cái cổ cao , kiêu hãnh như đài hoa loa kèn”và đôi mắt
đẹp:“có cái nhìn sao mà xa xăm”.Vừa qua thời học sinh,cuộc
121 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
sống chiến trường tôi luyện Định thành một chiến sỹ kiên cường ,
dũng cảm .Ngày nào Định cũng phá bom nhiều lần ,cô có nghĩ tới
cái chết nhưng điều quan trọng hơn là “liệu mìn có nổ , bom có
nổ không ?không thì làm cách nào để châm mìn lần thứ hai ?”.
Tâm trạng Phương Định khi phá bom được miêu tả cụ thể ,tinh tế
đến từng cảm giác .Từ sự cảm nhận không khí đầy căng thẳng
đến cảm giác “các anh cao xạ đang dõi theo từng cử chỉ ,động tác
của mình” và lòng dũng cảm như được tăng lên bởi sự tự trọng
:“Tôi đến gần quả bom …tôi sẽ không đi khom, các anh ấy không
thích cái kiểu đi khom khi có thể cứ đàng hoàng mà bước tới
”.Cảm giác căng thẳng của Định khi ở bên quả bom , kề sát cái
chết im lìm và bất ngờ được miêu tả tỉ mỉ đến từng chi tiết :“thỉnh
thoảng lưỡi xẻng chạm vào quả bom .Một tiếng động sắc đến gai
người ,cứa vào da thịt tôi …Vỏ quả bom nóng .Một dấu hiệu
chẳng lành .”Đó là công việc hàng ngày đã quen của Định . Công
việc hiểm nguy ấy khiến ba cô gái thanh niên xung phong trở nên
thật phi thường ,thật đáng khâm phục .
Tuy vậy sự ác liệt của chiến trường không làm vơi đi đời sống
tâm hồn trong sáng, giàu cảm xúc của Định .Cô hay mơ mộng,
122 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
thích hát ,thậm chí “bịa lời ra mà hát ”thích dân ca quan họ ,thích
hành khúc , thích Cachiusa , thích dân ca Ý…Định còn hay ngồi
bó gối mơ màng, sống với những hồi tưởng về gia đình,quê
hương…Cô ý thức về mình ,tự hào vì được nhiều người để ý
nhưng lại tỏ ra hờ hững như là kiêu kỳ .Tuy vậy trong suy nghĩ và
tình cảm của cô thì “những người đẹp nhất ,thông minh ,can đảm
và cao thượng nhất là những người mặc quân phục,có sao trên
mũ”. Định thực sự là cô thiếu nữ mộng mơ ,hồn nhiên ,trong sáng
và dũng cảm.
Ngôi kể thứ nhất ,cách kể chuyện tự nhiên ,ngôn ngữ sinh động
,trẻ trung cùng nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật đặc sắc của tác
giả đã góp phần không nhỏ trong việc khắc hoạ thành công thế
giới tinh thần phong phú và trong sáng của những cô gái trẻ
.Những trang cuối cùng của truyện khép lại nhưng dư âm của câu
chuyện vẫn còn đọng mãi trong em .Vẻ đẹp tâm hồn của họ
,những chiến công lặng thầm của họ mãi toả sáng ,lung linh , lấp
lánh và bí ẩn như những ngôi sao xa xôi.
Cảm nhận về chi tiết Ông Hai tâm sự với con
123 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
Kim Lân nhà vănchuyên viết chuyện ngắn về đề tài nông thôn việt
nam. Ông sinh ra và lớn lên ở một vùng quê có truyền thống văn hóa
lâu đời nên am hiểu rất nhiều về nông thôn Việt Nam và cảnh ngộ
của người nông dân. Vì thế, khi viết về đề tài này, Kim Lân thành
công hơn cả. Đặc biệt ở truyện ngắn “ Làng”, tác giả đã xây dựng
được hình tượng ông Hai,một người nông dân cần cù chất phác, giàu
tình yêu đối với quê hương đất nước, gắn bó bền chặt với cuộc
kháng chiến trường kỳ của dân tộc.nhưng ấn tượng sâu sắc hơn cả là
chi tiết ông hai tâm sự với đứa con trai út của mình.
Bi kịch dâng lên đến đỉnh cao. Ông Hai bị đẩy vào trong tình cảnh bế
tắc tuyệt vọng khi bà chủ nhà muốn đuổi gia đình ông đi. “ Thế là
tuyệt đường sinh sống!” Ông đi đâu bây giờ? Khắp nơi, “không chỉ
cái đất Thắng này mà cả ở Đài, Nhã Nam, Bố Hạ, Cao Thượng… ở đâu
nghe đến người làng chợ Dầu là người ta đuổi như đuổi hủi”. Còn ai
muốn chứa chấp người dân của cái làng Việt gian này nữa
chứ?Trước mắt ông Hai chỉ có hai con đường. Ở lại thì không được
rồi. Còn về làng… Vừa chớm nghĩ đến thôi, ta đã thấy ông Hai gạt
phắt đi ngay. “Về làm gì cái làng ấy nữa. Chúng nó làm Việt gian theo
124 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
Tây cả rồi”.Và ông cũng khẳng định: “ về làng là phản bội kháng
chiến, phản bội cụ Hồ”. Dù ông Hai luôn ước mong được trở về làng,
nhưng lúc này ông lại khẳng định: “ Làng thì yêu thật, nhưng làng
theo Tây mất rồi thì phải thù”.
Mâu thuẫn trong nội tâm và tình thế trước mắt làm cho ông Hai
bế tắc. Trong tâm trạng bị dồn nén và bế tắc ấy, ông Hai chỉ còn biết
trút nỗi lòng của mình vào nhưng lời thủ thỉ tâm sự với đứa con nhỏ
ngây thơ trong sang chưa hiểu biết chuyện đời. Nói với con mà thực
ra là đang trút nỗi lòng mình.Ông hỏi con những điều đã biết trước
câu trả lời:“Thế nhà con ở đâu?”,“thế con ủng hộ ai ?”…Lời đứa con
vang lên trong ông thiêng liêng mà giản dị:“Nhà ta ở làng Chợ
Dầu”,“ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm !”…Những điều ấy ông đã
biết,vẫn muốn cùng con khắc cốt ghi tâm.Ông mong “anh em đồng
chí biết cho bố con ông, tấm lòng bố con ông là như thế đấy,có bao
giờ dám đơn sai,chết thì chết có bao giờ dám đơn sai ”.Những suy
nghĩ của ông như những lời nguyện thề son sắt.Ông xúc động,nước
mắt “chảy ròng ròng trên hai má”.Tấm lòng của ông với làng,với
nước thật sâu nặng,thiêng liêng.Dẫu cả làng Chợ dầu làm Việt gian
thì ông vẫn một lòng trung thành với kháng chiến,với Cụ Hồ .Cuộc
Trò chuyện ở đây thực ra là cách để ông Hai tự thổ lộgiãi bày nỗi
125 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
lòng chung thuỷ của mình với làng quê với cuộc kháng chiến. Ở đây
ngôn ngữ đối thoại đã mang giọng điệu độc thoại. Nhữn lời văn diễn
tả thật cảm động làm sao, tình cảm ông Hai dành cho quê hương,
đất nước và với cách mạng với cuộc kháng chiến thật chân thành.
Lòng trung thành của cha con ông,cũng là của hàng triệu nông dân
Việt Nam đối với lãnh tụ là vô cùng sâu sắc. Vẻ đẹp ấy rất đáng tự
hào và ca ngợi.Đến giây phút này, từ trong bi kịch của ông Hai, ta lại
thấy sáng ngời lên một tình cảm cao đẹp khác. Đó là tinh thần yêu
nước, gắn bó với kháng chiến, với cụ Hồ.Tình cảm thiêng liêng ấy đã
bao trùm lên tình cảm đối với làng quê.
Qua cuộc trò chuyện người đọc thấy được trong lòng ông Hai đang
diễn ra một cuộc xung đột nội tâm lớn. Xung đột nội tâm của nhân
vật ông Hai là xung đột giữa tình yêu làng với tình yêu nước. Bởi lẽ
xung đột này xảy ra là do ông Hai có một tình yêu làng, yêu nước
thật đặc biệt đó là 1 tình cảm thống nhất trong lòng ông, ông Hai đã
quyết định đứng về đất nước, cách mạng,….. Kim Lân đã tạo ra một
tình huống thật gay cấn để cho ông Hai phải lựa chọn, qua tình
huống này ta thấy rõ tình cảm của ông Hai là một tình cảm rất đặc
biệt đó là tình cảm của chính tác giả và cũng là những người nông
126 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
dân làng quê Việt Nam lúc bấy giờ.Qua đó ta cũng thấy được nghệ
thuật phân tích nhân vật tinh tế,sinh động của Kim Lân.
Với Cách miêu tả chân thực,sinh động,ngôn ngữ đối thoại,độc
thoại và độc thoại nội tâm đa dạng,tự nhiên như cuộc sống đời
thường cùng với những mâu thuẫn căng thẳng,dồn nén, bức bối đã
góp phần không nhỏ tạo nên thành công của câu chuyện, đồng thời
còn thể hiện sự am hiểu và gắn bó sâu sắc của nhà văn với người
nông dân và công cuộc kháng chiến của đất nước.
Qua đoan trích nhân vật ông Hai tâm sự với con ta hiểu thêm về vẻ
đẹp tâm hồn của người nông dân Việt Nam thời kỳ kháng chiến
chống thực dân Pháp xâm lược :Yêu làng,yêu nước và gắn bó với
kháng chiến.Có lẽ vì thế mà tác phẩm “Làng ” xứng đáng là một
trong những truyện ngắn xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại.
Viết đoạn văn ngắn bàn về nhân vật bác Phi-líp?
Trong cuộc sống, đôi khi những trò đùa độc ác, vô ý có thể dẫn đến
hậu quả nghiêm trọng cho người khác. Nhất là khi trò đùa ấy lại
nhắm vào một đứa trẻ không có bố. Chúng ta tự hỏi điều gì sẽ đến
với Xi-Mông nếu không gặp được bác thợ rèn Phi-líp, trong đoạn
trích;" Bố của Xi - mông", truyện ngắn đặc sắc của nhà văn hiện thực
127 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
Pháp nổi tiếng thế kỉ XIX G.Mô-pa-xăng ? Cuộc gặp tình cờ ấy đã thay
đổi số phận của cậu bé, đem đến cho em một người bố thực thụ.
Nhưng chính Phi-líp đã bị chinh phục bởi chú bé đáng yêu và người
mẹ của em. Diến biến tâm trạng nhân vật Phi-líp trong đoạn trích sẽ
giúp mọi người cảm nhận rõ ý nghĩa nhân văn của tác phầm này.
Xi-mông là con trai của chị Blang-sốt, người phụ nữ xinh đẹp trót
bị lừa dối nên phải đơn độc nuôi con. Xi-mông đi học, bị bạn bè giễu
cợt , đánh đập vì không có bố. Chú bé dại dột định tìm đến cái chết.
Bác thợ rèn đã dẫn em về nhà và gặp mẹ em. Thông cảm với hoàn
cảnh của Xi-mông và chị Blang-sốt, bác đã đồng ý làm bố của Xi-
mông. Cuộc gặp gỡ giữa hai người thợ rèn tốt bụng và chú bé diễn
ra thật tình cờ bên bờ sông. Lúc ấy em đã tuyệt vọng vì bị đối xử một
cách tàn tệ. Đâu phải lỗi của nó! em cô đơn biết bao, khi những lời
chế nhạo ấy như cao dao đâm thẳng vào trái tim của em. Bởi vậy.
em đã nghĩ đến cái chết một cách dại dột. May thay, hôm ấy khôg
phải là một ngày u ám để những ý nghĩ đen tối thành hình. Thiên
nhiên đã nhân hậu biết bao trước chú bé đáng thương. Trời ấm áp,
ánh mặt trời êm đềm, nước lấp lành như gương, đã xóa đi phần nào
nỗi buồn trong lòng em, để em được trở lại với bản tính hồn nhiên
trẻ con của mình. Dẫu bất hạnh vì thiếu bàn tay chăm sóc của người
128 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
cha, nhưng em vẫn là một đứa trẻ ngoan hiểu động. Hình ảnh em
chơi đùa trên bãi cỏ, đuổi theo chú nhái con màu xanh lục và vồ hụt
ba lần. Nhưng ngay lập tức, những cảm giác tủi nhục lại ùa đến ngay
chính vào lúc em bắt đk con nhái và chứng kiến cảnh con vật cố giãy
giụa thoát thân.Hình ảnh ấy khiến Xi-mông liên tưởng ngay đến bản
thân mình, em có khác gì con nhái đáng thương kia đâu, hẫng hụt
chới với bởi sự vô tâm trong trò đùa độc ác của đám bạn. Em vô
cùng nhạy cảm nên ngay lúc ấy "em nghĩ đến nhà, rồi nghĩ đến mẹ,
và cảm thấy buồn bà vô cùng em lại khóc". Tiếng khóc ấy khiến bất
cứ ai biết quan tâm đến những đứa trẻ cũng dễ mủi lòng. Trong lúc
ấy, Xi-mông đã gặp được bác thợ rèn Phi-líp, một con người tốt
bụng. Bác được giới thiệu là "một người thợ cao lớn, râu tóc đen,
quăn, đang nhìn em với vẻ nhân hậu". Dáng vể ấy có lẽ đã tạo được
niềm tin và chỗ dựa tin cậy để em thổ lộ lòng mình. Em đã không
ngần ngại trước người đàn ông lạ này, để tiếp tục những dòng lệ tủi
cực cùng giọng nói đầy nước mắt. Câu trả lời thật thà của Xi-mông
"cháu không có bố" được khẳng định hai lần khiến bác đã đoán định
được nguyên nhân sau tiềng nấc buồn tủi của em. Bởi thế, cái mỉm
cười ban đầu đã được thay thế bằng thái độ nghiêm trang vì bác
hiểu đây kô phải chuyện trẻ con mà là vấn đề hệ trọng gây thương
129 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
tổn cho tâm hồn của chú bé ngây thơ đáng yêu này. Bản thẩn bác đã
biết mong manh về mẹ em, vì vậy bác đã quyết định đưa em về. Khi
giáp mặt với mẹ Xi-mông , chính thái độ của mẹ em đã phải khiến
bác thay đổi hẳn thái độ: bác hiểu ra ngay là không bỡn cợt được
nữa với cô gái cao lớn, xanh xao, đứng nghiêm nghị trước cửa nhà
mình, như muốn cấm đàn ông bước qua ngưỡng cửa ngôi nhà nơi
chị đã bị kẻ khác lừa dôi. Điều đó chứng tỏ bác là một con người
đứng đắn và từng trải để có thể nhận ra bản chất người khác chỉ sau
một cái nhìn. Được chứng kiến nỗi đau khổ của người mẹ trước đứa
con không có bố, bác đã thể hiên sự trân trọng trước nhân cách một
người mẹ và một đứa con đang được bao bọc. Chính vì vậy em đã
nhận ra phẩm chất của một người bố tuyệt vời - một chỗ dựa đáng
tin cậy cho cậu bé thiếu tình thương này. Chú bé đã không ngần ngại
đề nghị bất ngờ nhận bác làm bố. Trước khao khát ấy đã khiến bác
không thể từ chối. Không những thế, bác còn bộc lộ sự xúc động
trước tâm hồn trong trắng của em: "Người thợ nhấc bổng em lên,
đột ngột hôn vào hai má em, rồi sải từng bước dài, bỏ đi rất nhanh."
Niềm vui có bố đã giúp em khẳng định đầy kiều hãnh trước đám
bạn. Bản chất tốt đẹp của một người lao động chân chính đã giúp
bác có niềm thông cảm sâu sắc trước những số phận bất hạnh.
130 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
Đoạn trích còn nhắc nhở chúng ta về thái độ ứng sử với người
xung quanh, cần có một tấm lòng nhân hậu, không nên dửng dưng
trước những đau khổ bất hạnh của người khác.
Cảm nghĩ về nhân vật Xi-Mông
Trong cuộc sống, đôi khi những trò đùa độc ác, vô ý có thể dẫn đến
hậu quả nghiêm trọng cho người khác. Nhất là khi trò đùa ấy lại
nhắm vào một đứa trẻ không có bố. Chúng ta tự hỏi điều gì sẽ đến
với Xi-Mông nếu không gặp được bác thợ rèn Phi-líp, trong đoạn
trích;" Bố của Xi - mông", truyện ngắn đặc sắc của nhà văn hiện thực
Pháp nổi tiếng thế kỉ XIX G.Mô-pa-xăng ? Cuộc gặp tình cờ ấy đã thay
đổi số phận của cậu bé, đem đến cho em một người bố thực thụ.
Nhưng chính Phi-líp đã bị chinh phục bởi chú bé đáng yêu và người
mẹ của em. Diến biến tâm trạng nhân vật Phi-líp trong đoạn trích sẽ
giúp mọi người cảm nhận rõ ý nghĩa nhân văn của tác phầm này.
Xi-mông là con trai của chị Blang-sốt, người phụ nữ xinh đẹp trót
bị lừa dối nên phải đơn độc nuôi con. Xi-mông đi học, bị bạn bè giễu
cợt , đánh đập vì không có bố. Chú bé dại dột định tìm đến cái chết.
Bác thợ rèn đã dẫn em về nhà và gặp mẹ em. Thông cảm với hoàn
131 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
cảnh của Xi-mông và chị Blang-sốt, bác đã đồng ý làm bố của Xi-
mông. Cuộc gặp gỡ giữa hai người thợ rèn tốt bụng và chú bé diễn
ra thật tình cờ bên bờ sông. Lúc ấy em đã tuyệt vọng vì bị đối xử một
cách tàn tệ. Đâu phải lỗi của nó! em cô đơn biết bao, khi những lời
chế nhạo ấy như cao dao đâm thẳng vào trái tim của em. Bởi vậy.
em đã nghĩ đến cái chết một cách dại dột. May thay, hôm ấy khôg
phải là một ngày u ám để những ý nghĩ đen tối thành hình. Thiên
nhiên đã nhân hậu biết bao trước chú bé đáng thương. Trời ấm áp,
ánh mặt trời êm đềm, nước lấp lành như gương, đã xóa đi phần nào
nỗi buồn trong lòng em, để em được trở lại với bản tính hồn nhiên
trẻ con của mình. Dẫu bất hạnh vì thiếu bàn tay chăm sóc của người
cha, nhưng em vẫn là một đứa trẻ ngoan hiểu động. Hình ảnh em
chơi đùa trên bãi cỏ, đuổi theo chú nhái con màu xanh lục và vồ hụt
ba lần. Nhưng ngay lập tức, những cảm giác tủi nhục lại ùa đến ngay
chính vào lúc em bắt đk con nhái và chứng kiến cảnh con vật cố giãy
giụa thoát thân.Hình ảnh ấy khiến Xi-mông liên tưởng ngay đến bản
thân mình, em có khác gì con nhái đáng thương kia đâu, hẫng hụt
chới với bởi sự vô tâm trong trò đùa độc ác của đám bạn. Em vô
cùng nhạy cảm nên ngay lúc ấy "em nghĩ đến nhà, rồi nghĩ đến mẹ,
132 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
và cảm thấy buồn bà vô cùng em lại khóc". Tiếng khóc ấy khiến bất
cứ ai biết quan tâm đến những đứa trẻ cũng dễ mủi lòng. Trong lúc
ấy, Xi-mông đã gặp được bác thợ rèn Phi-líp, một con người tốt
bụng. Bác được giới thiệu là "một người thợ cao lớn, râu tóc đen,
quăn, đang nhìn em với vẻ nhân hậu". Dáng vể ấy có lẽ đã tạo được
niềm tin và chỗ dựa tin cậy để em thổ lộ lòng mình. Em đã không
ngần ngại trước người đàn ông lạ này, để tiếp tục những dòng lệ tủi
cực cùng giọng nói đầy nước mắt. Câu trả lời thật thà của Xi-mông
"cháu không có bố" được khẳng định hai lần khiến bác đã đoán định
được nguyên nhân sau tiềng nấc buồn tủi của em. Bởi thế, cái mỉm
cười ban đầu đã được thay thế bằng thái độ nghiêm trang vì bác
hiểu đây kô phải chuyện trẻ con mà là vấn đề hệ trọng gây thương
tổn cho tâm hồn của chú bé ngây thơ đáng yêu này. Bản thẩn bác đã
biết mong manh về mẹ em, vì vậy bác đã quyết định đưa em về. Khi
giáp mặt với mẹ Xi-mông , chính thái độ của mẹ em đã phải khiến
bác thay đổi hẳn thái độ: bác hiểu ra ngay là không bỡn cợt được
nữa với cô gái cao lớn, xanh xao, đứng nghiêm nghị trước cửa nhà
mình, như muốn cấm đàn ông bước qua ngưỡng cửa ngôi nhà nơi
chị đã bị kẻ khác lừa dôi. Điều đó chứng tỏ bác là một con người
133 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
đứng đắn và từng trải để có thể nhận ra bản chất người khác chỉ sau
một cái nhìn. Được chứng kiến nỗi đau khổ của người mẹ trước đứa
con không có bố, bác đã thể hiên sự trân trọng trước nhân cách một
người mẹ và một đứa con đang được bao bọc. Chính vì vậy em đã
nhận ra phẩm chất của một người bố tuyệt vời - một chỗ dựa đáng
tin cậy cho cậu bé thiếu tình thương này. Chú bé đã không ngần ngại
đề nghị bất ngờ nhận bác làm bố. Trước khao khát ấy đã khiến bác
không thể từ chối. Không những thế, bác còn bộc lộ sự xúc động
trước tâm hồn trong trắng của em: "Người thợ nhấc bổng em lên,
đột ngột hôn vào hai má em, rồi sải từng bước dài, bỏ đi rất nhanh."
Niềm vui có bố đã giúp em khẳng định đầy kiều hãnh trước đám
bạn. Bản chất tốt đẹp của một người lao động chân chính đã giúp
bác có niềm thông cảm sâu sắc trước những số phận bất hạnh.
Đoạn trích còn nhắc nhở chúng ta về thái độ ứng sử với người
xung quanh, cần có một tấm lòng nhân hậu, không nên dửng dưng
trước những đau khổ bất hạnh của người khác.
Viết đoạn văn về nhân vật Rô-Bin-xơn
Rô-bin-xơn Cru-xô trong đoạn trích "robinxon ngoài đảo hoang"là 1
nhân vật đáng yêu,đáng mến và đáng khâm phục.Sinh ra và lớn lên ở
134 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
miền quê Y-oóc-sai của nước Anh,một ngày kia khi cả đoàn tàu bị đắm
chìm một mình robinxon sống sót trôi dạt vào đảo hoang không môt
bóng người.Ở đây,robinxon đã sống nhũng tháng ngày không bằng
chết.Ấy vậy mà,con ngươi đó vẫn không chịu khuất phục trước hoàn
cảnh,trước sfận anh vẫn đi lên bằng chính đôi tay,đôi chân,con người
mình.Sống giữa nơi hoang vắng ko 1 bóng người,robinxon đã tự tạo
trang phục và trang bị cho mình.Đó la mũ,là áo quần,là thăt lưng,dây
đeo,gùi và súng.Tất ca mọi thứ đều đc làm từ da dê trông rất lôi
thôi,cồng kềnh nhưng lại rất tiện dụng trong hoàn cảnh ở ngoài đảo
hoang.Mọi thứ dường như rất kì kạ,ngộ nghĩnh,và khong thể tưởng
tượng nổi nhưng đó thực sự la csống của"robinxon ngoài đảo
hoang".Trang phục và trang bị của robinxon đấng yêu nhu thế
đấy,nhưng chúng ta còn phải khâm phục anh hơn bởi anh là 1 con ng`
có tinh thần dũng cảm,có nghị lực phi thg`.Là 1 con ng` có đầu óc
thông minh,biết sáng tạo,cải biến hoàn cảnh. Đặc biệt anh còn là 1 con
ng`có smạnh và khả năng lđộng chiến thắng thiên nhiên.Cuộc đời có
những con ng` như robinxon sẽ làm ta yêu đời hơn,sống vững tin hơn.
Cảm nhận về nhân vật Rô-Bin-Xơn
135 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
Rô-bin-xơn Cru-sô là cuốn tiểu thuyết từng làm say mê bao thế hệ trẻ em
Việt Nam. Dựa trên một câu chuyện có thật, Đ. Đi-phô đã sáng tạo hình
tượng chàng thủy thủ Rô-bin-xơn lạc giữa đảo hoang hơn hai mươi tám
năm đã cho thấy con người có thể vượt qua những hoàn cảnh khắc nghiệt
nhất, chiến thắng thiên nhiên và tự chiến thắng nỗi cô đơn của chính mình
để trở về với đồng loại. Cuộc sống ấy hiện lên qua lời kể của chính nhân
vật, khiến chúng ta thích thú và bị cuốn hút theo giọng kể hài hước, ngôn
ngữ đặc tả chi tiết sống động hóm hỉnh, toát lên vẻ đẹp tinh thần lạc quan
của con người. Đoạn trích Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang sẽ cho thấy rõ vẻ
đẹp ấy.
Nhân vật tự hình dung diện mạo chính mình để thuật lại cho người đọc
bằng giọng điệu hài hước cố hữu nổi tiếng của người Anh. Tính chất của
lời tự thuật khiến cho trình tự miêu tả cũng hết sức độc đáo, khác với lối tả
chân dung thông thường. Đằng sau giọng kể ấy là cả một quãng thời gian
đằng đẵng tách biệt với đồng loại, chàng phải một mình đối mặt với bao
hiểm nguy rình rập, với thời tiết mưa nắng thất thường của vùng xích đạo.
Cần phải nói ngay rằng, dù phải một mình sống giữa đảo hoang, Rô-bin-
xơn không khi nào nguôi những tình cảm hướng về nước Anh, vùng Y-óoc-
sai quê hương của chàng. Bởi thế, lời kể của một người đã gần ba mươi
năm sống tách biệt đồng loại vẫn in đậm dấu ấn suy tưởng hướng về xứ
sở. Nếu không có tình cảm mãnh liệt ấy, có lẽ chàng đã chết trong mòn mỏi
và tuyệt vọng rồi ! Sống để trở về, đó là cơ sở hành động để chàng phải
chuẩn bị chu đáo, chống chọi với mọi mối đe doạ từ nhiều phía, tổ chức
cuộc sống cho mình. Bản thân câu chuyện được kể lại đã có thể xem như
khúc khải hoàn sau gần ba mươi năm của một con người dũng cảm đã tự 136 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
tạo được niềm tin ở chính mình. Trước hết, hãy nghe chàng tả về trang
phục: “Tôi đội một chiếc mũ to tướng cao lêu đêu chẳng ra hình thù gì làm
bằng da một con dê, với mảnh da rủ xuống phía sau gáy, vừa để che nắng,
vừa để chắn không cho mưa hắt vào cổ”. Bộ dạng ấy quả thật đã tạo nên
được nụ cười mỉm từ phía bạn đọc và có lẽ chính người tạo ra nó cũng
phải thú vị trước hiệu quả, công dụng của chiếc mũ này. Không chỉ có
chiếc mũ, mà cả áo, quần, “giày” cũng được làm bằng da dê – trang phục
ấy không còn bất cứ dấu vết nào của đời sống văn minh. Rô-bin-xơn tự
ngắm nghía mình, phô ra tất cả những nét vụng về thô kệch trong bộ dạng
từ đầu đến chân là … dê của mình, hài lòng với sự hào phóng của đảo
hoang đã hào phóng cho chàng những tấm da dê quý giá. Nhưng có lẽ sự
hài lòng hiện ra sau lời kể chính là ở chỗ tất cả đều được tạo nên từ bàn
tay lao động, là công sức và sự khéo léo của chính chàng để chế tác ra
những sản phẩm độc nhất vô nhị này. Cuộc sống gần ba mươi năm buồn
tẻ không lấy mất được của chàng tính hài hước khi tự thuật : “tôi không có
bít tất mà cũng chẳng có giày, nhưng đã làm cho mình được một đôi, chẳng
biết gọi là gì, giống như đôi ủng, bao quanh bắp chân và buộc dây hai
bên…”. Có lẽ đến tận bây giờ, các nhà thiết kế thời trang giàu óc tưởng
tượng nhất cũng không thể chế tác được một bộ đồng phục … dê độc đáo
đến thế ! Nhưng với Rô-bin-xơn, giá trị sử dụng của món thời trang này
mới là mục đích của chàng, bởi nhờ thế, chàng tồn tại với tư cách một con
người đàng hoàng, không phải một con người bị lôi kéo trở về với bản
năng nguyên thủy ăn lông ở lỗ.
Vị lãnh chúa và cũng là thần dân duy nhất của đảo hoang này trong suốt
mười lăm năm còn trang bị cho mình những vật dụng cần thiết để bảo đảm 137 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
cuộc sống nơi hoang dã. Vẫn bằng giọng điệu hóm hỉnh, Rô-bin-xơn thuật
lại cho chúng ta hình ảnh một anh chàng nai nịt chỉnh tề như một chiến
binh nhưng “không đeo kiếm và dao găm mà lủng lẳng bên này một chiếc
cưa nhỏ, bên kia một chiếc rìu con”. Thêm vào đó là hai cái túi cũng bằng
da dê, “một túi đựng thuốc súng, túi kia đựng đạn ghém”. Với những vật
dụng lỉnh kỉnh như vậy, ta hình dung ra một con người suốt ngày bận rộn
với công việc chặt cây, cưa gỗ dựng lều, rào giậu, dựng lên “cơ ngơi” cho
riêng mình. Qua hình ảnh Rô-bin-xơn “đeo gùi sau lưng, khoác súng bên
vai, và giương trên đầu một chiếc dù lớn bằng da dê”, ta như nhìn thấy
bóng dáng con người thời tiền sử sống bằng nghề hái lượm, săn bắt.
Nhưng điểm khác biệt duy nhất là khẩu súng - vật bất li thân của chàng. Vũ
khí của xã hội văn minh phần nào cũng giúp chàng tăng thêm sức mạnh và
lòng can đảm để đối chọi với thiên nhiên, chủ động đối phó với mọi bất trắc
một cách tự tin hơn. Rô-bin-xơn không hề ỷ lại vào đó để sống sót mà điều
quan trọng là sống một cách vững vàng trong điều kiện thiếu thốn. Đàng
sau nụ cười thấp thoáng qua lời kể, ta có thể hình dung ra quyết tâm và ý
chí của một con người đầy nghị lực vươn lên. Biết bao lo toan, tính toán từ
“sáng tạo” để thích nghi với hoàn cảnh, khẳng định bản năng sinh tồn mạnh
mẽ của con người hiện lên qua câu chuyện của Rô-bin-xơn. Chiếc mũ da
dê kì quái che đến tận cổ vì “chẳng có gì tai hại bằng nước mưa luồn trong
áo thấm vào da thịt”. Một trận cảm lạnh bất ngờ có thể làm chàng gục ngã,
ý thức được điều đó nên chàng phòng ngừa tối đa cho sức khoẻ chính
mình. Những công việc bận rộn với vật dụng bất li thân đáp ứng những nhu
cầu tối thiểu cũng là cách để chàng vượt qua cảm giác buồn chán thường
dễ xảy đến với con người cô đơn. Nếu như chỉ ngồi khắc từng vạch lên
138 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
thân cây đếm thời gian, hẳn chàng đã không đủ sức mạnh để tồn tại suốt
một thời gian dài đằng đẵng như vậy. Ý chí của Rô-bin-xơn mới mạnh mẽ
làm sao! Chàng không chỉ đối chọi với thiên nhiên mà đã thể hiện rõ tư thế
người làm chủ, bắt thiên nhiên phải khuất phục. Không những thế, qua
những chi tiết chàng tự mô tả bản thân, ta hiểu Rô-bin-xơn đã tự chiến
thắng chính mình. Đây mới quả thực là chiến thắng vinh quang đáng tự
hào nhất, vì là thử thách khó vượt nhất !
Khép lại bức chân dung tự hoạ bản thân, Rô-bin-xơn mới tự hoạ diện mạo
của mình bằng mấy dòng ngắn ngủi nhưng khiến ta phải nở nụ cười sảng
khoái. Không hề có một tấm gương soi, nên việc chăm chút dung nhan chỉ
giới hạn ở trong tầm mắt của Rô-bin-xơn : bộ ria mép kiểu cách được chăm
sóc cẩn thận. Hoá ra trong hoàn cảnh ấy, một chàng thợ may tồi vẫn có thể
thành một anh thợ cạo cầu kì tạo dáng cho bộ ria : “tôi xén tỉa thành một
cặp ria mép to tướng kiểu Hồi giáo như ria vài gã Thổ Nhĩ Kì tôi gặp ở Xa-
lê”. Nhu cầu làm đẹp ấy hiệu quả ra sao ? Hãy nghe Rô-bin-xơn tự thưởng
thức : “tôi chẳng dám nói cặp ria mép ấy dài đến mức có thể dùng treo mũ
của tôi ; nhưng chiều dài và hình dáng kì quái của chúng cũng khiến cho
mọi người phải khiếp sợ nếu như là ở nước Anh”. Bộ ria ấy chẳng biết có
gợi lên vẻ oai vệ trịnh trọng như một Xun-tan (lãnh chúa) người Thổ hay
không, nhưng gợi cho ta tiếng cười đầy chất u-mua (humour) của người
Anh chính hiệu. Tính hài hước là liều thuốc vô giá, xua đi những muộn
phiền. Tiếng cười ấy không tách rời niềm hi vọng khao khát trở về với nước
Anh thân yêu của Rô-bin-xơn, thấm đượm tinh thần lạc quan của con
người đầy bản lĩnh.
139 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
Khép lại trang sách, chân dung Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang vẫn sống
động từng chi tiết, với nụ cười thường trực có sức hấp dẫn lạ kì. Rô-bin-
xơn là hiện thân của con người lí tưởng không biết lùi bước trước bất kì
thử thách khắc nghiệt nào. Bản lĩnh phi thường và tình yêu sự sống của
chàng là bài học cho bất cứ ai muốn hoàn thiện giá trị tốt đẹp của con
người. Ta chợt hiểu, vì sao Rô-bin-xơn Cru-sô của Đ. Đê-phô lại cuốn hút
sự say mê của biết bao nhiêu thế hệ trên khắp hành tinh này !
Cảm nghĩ về bài nói với con
Xưa nay tình mẫu tử là đề tài phong phú cho thơ ca. Nhưng
những bài thơ về tình cha con thì có lẽ khá ít. Bài thơ "Nói với
con" cuả Y Phương là 1 trong những tác phẩm hiếm hoi đó. Bài
thơ thể hiện tình cảm gia đình êm ấm, tình quê hương tha thiết,
ngọt ngào và ngợi ca truyền thống nghĩa tình, sức sống mạnh mẽ
của người dân tộc miền núi.
Cảm nhận đầu tiêntrong lời cha nói là hình ảnh con lớn lên
trong tình yêu thương của cha mẹ, sự đùm bọc, che chở của người
đồng mình, của quê hương. Bài thơ mở ra với khung cảnh gia đình
ấm cúng, đầy ấp giọng nói tiếng cười:
Chân phải....
....tiếng cười.
140 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
Khung cảnh ấy đẹp như 1 bức tranh: hình ảnh em bé ngây thơ
lẫm chẫm tập đi, bi bô tập nói trong vòng tay, trong tình yêu
thương, chăm sóc, nâng niu của cha mẹ; hình ảnh cha mẹ giang
rộng vòng tay, chăm chút từng bước đi, từng bước đi, từng nụ
cười, tiếng nói của con. Gia đình chính là cái nôi êm ái, tổ ấm để
con sống, lớn khôn và trường thành trong niềm yêu thương con
cái. Đó là không khí thường thấy trong các gia đình hạnh phúc.
Nhưng cách diễn đạt ở đay có nét độc đáo riêng cảu người miền
núi: nói bằng hình ảnh cụ thể. Điệp ngữ "bước tới", trong tình
cảm người cha, ko khỏi niềm sung sướng, tự hào.
Không chỉ có gia đình, con còn lớn lên, trưởng thành trong cuộc
sống lao động, trong quê hường sâu nặng nghĩa tình:
Người đồng mình yêu lắm con ơi
...........tấm lòng
Một cách nói rất riêng, rất ngộ : "người đồng mình", là người miền
mình, người vùng mình, là những người cùng sống trên 1 miền
đất, cùng quê hương, cùng 1 dân tộc. Đó là cách nói mộc mạc,
mang túnh địa phương của dân tộc Tày nhưng giàu sức biểu cảm,
Tác giả vận dụng lối diễn đạt của người dân tộc miền núi để xây
141 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
dựng hình ảnh thơ. Những suy nghĩ, tình cảm, cảm xúc đều được
diễn tả trực tiếp bằng hình ảnh. Đan lờ để bắt cá, dưói bàn tay
của người Tày, những nan trúc, nan tre đã trở thành "nan hoa".
Vách nhà ko chỉ ken bằng gỗ mà còn đc ken bằng "câu hát". Rừng
đâu chỉ cho nhìu gỗ quý, lâm sản mà còn cho hoa. Ba đông từ
"đan", "cài", "ken" còn thể hiện sự đoàn kết, gắn bó cảu quê
hương. Lao động đã đem đến cho con bao điều tốt đẹp, "người
đồng mình" và quê hương ấp ủ, nuôi sống con trong tình thương
yuê, trong tình đoàn kết buôn làng. Và con đường đâu chỉ để đi
mà nó còn cho "những tấm lòng" nhân hậu, bao dung, nghĩa tình.
Con đường đó là hình bóng thân thuôc của quê hương, còn in dấu
những bước chân đi xuôi ngược, làm ăn sinh sống của buôn làng,
nên nó mang 1 ý nghĩa thật to lớn trong quá trình khôn lớn của
con. Sung sứong nhìn con khôn lớn, nha thơ suy ngẫm về tình
làng bản quê nhà, về cội nguồn hạnh phúc:
Cha mẹ ...
....trên đời
Không chỉ gọi cho con về nguồn sinh dưỡng, cha còn nói với con
về những đức tính cao đẹp của "người đồng mình" và ước mơ của
cha về con. Đó là lòng yêu lao động, hăng say lao động với cả
tấm lòng. Đó là sức sống bền bỉ mạnh mẽ vượt wa mọi khó khăn,
gian khổ.
Người đồng mình thương lắm con ơi
...........Không lo cực nhọc
142 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
Trước hết đó là tình thương yêu, đùm bọc nhau. Cách nói mộc
mạc mà chứa đựng bao ân tình rất cảm động đó được lặp đi lặp lai
như một điệp khúc trong bài ca. Chính tình thưong đó là sức
mạnh để "người đồng mình" vượt wa bao gian khổ cuộc đời.
Những câu thơ ngắn, đối xứng nhau "cao đo nỗi buồn xa nuôi chí
lớn" diễn tả thật mạnh mẽ chí khí của "người đồng mình": sống
vất vả, nghèo đói, cực nhọc, lam lũ nhưng có chí lớn, luôn yêu
quý tự hào, gắn bó với quê hương. Đó là phẩm chất thứ hai. Thứ
ba, về cách sống, người cha muốn giáo dục con sống phải có
nghĩa tình, chung thủy với quê hương, bit chấp nhận vượt wa gian
nan, thử thách bằng ý chí và niềm tin của mình. Không chê bai,
phản bội quê hưong : "không chê...không chê....không lo" dù quê
hương còn nghèo, còn vất vả. "Người đòng mình sống khoáng đạt,
hồn nhiên, mạnh mẽ "như sông như suối-lên thác xuống ghềnh-
ko lo cực nhọc". Lời cha nói với con mà cũng là lời dạy con về bài
học đạo lý làm người. Đoạn thơ rất dồi dào nhạc điệu, tạo nên bởi
điệp từ, điệp ngữ, điệp cấu trúc câu và nhịp thơ rất linh họat , lúc
vươn dài, khi rút ngắn, lời thơ giản dị, chắc nịch mà lay độg, thấm
thía, có tác dụng truyền cảm manh mẽ.Để nhắc nhở giáo dục con,
người cha nhấn mạnh truyền thống của người đồng mình:
Người đồng mình thô sơ da thịt
.......Nghe con
Truyền thống ấy thật đáng tự hào, tuy "thô sơ da thịt", ăn mặc
143 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
giản dị, áo chàm, khăn piêu, cuộc sống mộc mạc thiếu thốn...
nhưng ko hề nhỏ bé về tâm hồn, ý chí nghị lực và đặc biệt là khát
vọng xây dựng quê hương. Họ xây dựng quê hương bằng chính
sức lực và sự bền bỉ của mình: "tự đục đá kê cao quê hương". Họ
sáng tạo, lưu truyền và bảo vệ phong tục tốt đẹp của mình biết tự
hào với truyền thống quê hương, dặn dò con cần tự tin, vững
bước trên đường đời, ko bao giờ được sống tầm thường, nhỏ bé,
ích kỷ. Hai tiếng "nghe con" kết thúc bài thơ với tấm lòng thương
yêu, kỳ vọng, vừa là lời dặn dò nhắc nhở ý chí tình của nhười cha
đối với đứa con thân yêu. Hai tiếng ấy nghe sao mà thân thương
trìu mến .
Bài thơ có giọng điệu nhò nhẹ, chân tình và rất mới lạ
trong phong cách, một phong cách miền núi với ngôn ngữ "thổ
cẩm" rất độc đáo, với cảm xúc, tư duy rất riêng. Qua đó, Y
Phương đã thể hiện tình cảm gia đình ấm cúng, ca ngợi truyền
thống cần cù, sức sống mạnh mẽ của quê hưong và dân tộc mình.
Bài thơ giúp ta hiểu thêm sức sống và vẻ đẹp tâm hồn của 1 dân
tộc miền núi, gợi nhắc tình cảm gắn bó với truyền thống, với quê
hương và ý chí vươn lên trong cuộc sống
Cảm nhận về chi tiết Ông Hai tâm sự với con
Kim Lân nhà vănchuyên viết chuyện ngắn về đề tài nông thôn việt
144 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
nam. Ông sinh ra và lớn lên ở một vùng quê có truyền thống văn hóa
lâu đời nên am hiểu rất nhiều về nông thôn Việt Nam và cảnh ngộ
của người nông dân. Vì thế, khi viết về đề tài này, Kim Lân thành
công hơn cả. Đặc biệt ở truyện ngắn “ Làng”, tác giả đã xây dựng
được hình tượng ông Hai,một người nông dân cần cù chất phác, giàu
tình yêu đối với quê hương đất nước, gắn bó bền chặt với cuộc
kháng chiến trường kỳ của dân tộc.nhưng ấn tượng sâu sắc hơn cả là
chi tiết ông hai tâm sự với đứa con trai út của mình.
Bi kịch dâng lên đến đỉnh cao. Ông Hai bị đẩy vào trong tình cảnh bế
tắc tuyệt vọng khi bà chủ nhà muốn đuổi gia đình ông đi. “ Thế là
tuyệt đường sinh sống!” Ông đi đâu bây giờ? Khắp nơi, “không chỉ
cái đất Thắng này mà cả ở Đài, Nhã Nam, Bố Hạ, Cao Thượng… ở đâu
nghe đến người làng chợ Dầu là người ta đuổi như đuổi hủi”. Còn ai
muốn chứa chấp người dân của cái làng Việt gian này nữa
chứ?Trước mắt ông Hai chỉ có hai con đường. Ở lại thì không được
rồi. Còn về làng… Vừa chớm nghĩ đến thôi, ta đã thấy ông Hai gạt
phắt đi ngay. “Về làm gì cái làng ấy nữa. Chúng nó làm Việt gian theo
Tây cả rồi”.Và ông cũng khẳng định: “ về làng là phản bội kháng
chiến, phản bội cụ Hồ”. Dù ông Hai luôn ước mong được trở về làng,
145 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
nhưng lúc này ông lại khẳng định: “ Làng thì yêu thật, nhưng làng
theo Tây mất rồi thì phải thù”.
Mâu thuẫn trong nội tâm và tình thế trước mắt làm cho ông Hai
bế tắc. Trong tâm trạng bị dồn nén và bế tắc ấy, ông Hai chỉ còn biết
trút nỗi lòng của mình vào nhưng lời thủ thỉ tâm sự với đứa con nhỏ
ngây thơ trong sang chưa hiểu biết chuyện đời. Nói với con mà thực
ra là đang trút nỗi lòng mình.Ông hỏi con những điều đã biết trước
câu trả lời:“Thế nhà con ở đâu?”,“thế con ủng hộ ai ?”…Lời đứa con
vang lên trong ông thiêng liêng mà giản dị:“Nhà ta ở làng Chợ
Dầu”,“ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm !”…Những điều ấy ông đã
biết,vẫn muốn cùng con khắc cốt ghi tâm.Ông mong “anh em đồng
chí biết cho bố con ông, tấm lòng bố con ông là như thế đấy,có bao
giờ dám đơn sai,chết thì chết có bao giờ dám đơn sai ”.Những suy
nghĩ của ông như những lời nguyện thề son sắt.Ông xúc động,nước
mắt “chảy ròng ròng trên hai má”.Tấm lòng của ông với làng,với
nước thật sâu nặng,thiêng liêng.Dẫu cả làng Chợ dầu làm Việt gian
thì ông vẫn một lòng trung thành với kháng chiến,với Cụ Hồ .Cuộc
Trò chuyện ở đây thực ra là cách để ông Hai tự thổ lộgiãi bày nỗi
lòng chung thuỷ của mình với làng quê với cuộc kháng chiến. Ở đây
ngôn ngữ đối thoại đã mang giọng điệu độc thoại. Nhữn lời văn diễn
146 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
tả thật cảm động làm sao, tình cảm ông Hai dành cho quê hương,
đất nước và với cách mạng với cuộc kháng chiến thật chân thành.
Lòng trung thành của cha con ông,cũng là của hàng triệu nông dân
Việt Nam đối với lãnh tụ là vô cùng sâu sắc. Vẻ đẹp ấy rất đáng tự
hào và ca ngợi.Đến giây phút này, từ trong bi kịch của ông Hai, ta lại
thấy sáng ngời lên một tình cảm cao đẹp khác. Đó là tinh thần yêu
nước, gắn bó với kháng chiến, với cụ Hồ.Tình cảm thiêng liêng ấy đã
bao trùm lên tình cảm đối với làng quê.
Qua cuộc trò chuyện người đọc thấy được trong lòng ông Hai đang
diễn ra một cuộc xung đột nội tâm lớn. Xung đột nội tâm của nhân
vật ông Hai là xung đột giữa tình yêu làng với tình yêu nước. Bởi lẽ
xung đột này xảy ra là do ông Hai có một tình yêu làng, yêu nước
thật đặc biệt đó là 1 tình cảm thống nhất trong lòng ông, ông Hai đã
quyết định đứng về đất nước, cách mạng,….. Kim Lân đã tạo ra một
tình huống thật gay cấn để cho ông Hai phải lựa chọn, qua tình
huống này ta thấy rõ tình cảm của ông Hai là một tình cảm rất đặc
biệt đó là tình cảm của chính tác giả và cũng là những người nông
dân làng quê Việt Nam lúc bấy giờ.Qua đó ta cũng thấy được nghệ
thuật phân tích nhân vật tinh tế,sinh động của Kim Lân.
147 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
Với Cách miêu tả chân thực,sinh động,ngôn ngữ đối thoại,độc
thoại và độc thoại nội tâm đa dạng,tự nhiên như cuộc sống đời
thường cùng với những mâu thuẫn căng thẳng,dồn nén, bức bối đã
góp phần không nhỏ tạo nên thành công của câu chuyện, đồng thời
còn thể hiện sự am hiểu và gắn bó sâu sắc của nhà văn với người
nông dân và công cuộc kháng chiến của đất nước.
Qua đoan trích nhân vật ông Hai tâm sự với con ta hiểu thêm về vẻ
đẹp tâm hồn của người nông dân Việt Nam thời kỳ kháng chiến
chống thực dân Pháp xâm lược :Yêu làng,yêu nước và gắn bó với
kháng chiến.Có lẽ vì thế mà tác phẩm “Làng ” xứng đáng là một
trong những truyện ngắn xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại.
Phân tích bài thơ Qua đèo ngang của Bà huyện Thanh quan:
Bà huyện Thanh Quan là một nhà thơ nổi tiếng đầu thế kỷ
19.Bà đã để lại cho nền văn học nước nhà sáu bài thơ nôm
xuất sắc.Nhưng ấn tượng hơn cả là bài thơ “Qua đèo ngang” .
Thơ của bà hay nói đến hoàng hôn, man mác buồn, giọng
điệu du dương, ngôn ngữ trang nhã, hồn thơ đẹp, điêu
luyện.Trên đường vào Phú Xuân, bước tới Đèo Ngang lúc
chiều tà, cảm xúc dâng trào lòng người, Bà huyện Thanh
Quan sáng tác bài “Qua Đèo Ngang”. Bài thơ tả cảnh Đèo 148 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
Ngang lúc xế tà và nói lên nỗi buồn cô đơn, nỗi nhớ nhà của
người lữ khách .Lần đầu nữ sĩ “bước tới Đèo Ngang”, đứng
dưới chân con đèo “đệ nhất hùng quan” này, địa giới tự nhiên
giữa hai tỉnh Hà Tĩnh - Quảng bình, vào thời điểm “bóng xế
tà”, lúc mặt trời đã nằm bên kia sườn sườn núi, phía tây chỉ
còn lại những ánh tà dương. Trời sắp tối. Âm “tà” cũng gợi
buồn thấm thía. Câu thứ hai, tả cảnh sắc cỏ cây, lá, hoa… đá.
Hai vế tiểu đối, điệp ngữ “chen”, vần lưng: “đá” – “lá”, vần
chân: “tà” – “hoa”, thơ giàu âm điệu, réo rắt như một tiếng
lòng, biểu lộ sự ngạc nhiên và xúc động về cảnh sắc hoang
vắng nơi Đèo Ngang vào lúc hoàng hôn.“Cỏ cây chen đá, lá
chen hoa”.
Chỉ có hoa rừng, cây dại, mà Cỏ cây, hoa lá phải “chen” với
đá mới tồn tại được. Cảnh vật hoang sơ, đã khiến thi sĩ buồn
đến nao lòng.Nữ sĩ sử dụng phép đối và đảo ngữ trong miêu
tả đầy ấn tượng. Âm điệu thơ trầm bổng du dương, đọc lên
nghe sao mà thú vị:
“Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà”.
Điểm nhìn đã thay đổi: đứng cao nhìn xuống dưới và nhìn
149 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
xa. Thế giới con người là tiểu phu, nhưng chỉ có “tiều vài
chú”. Hoạt động là “lom khom” vất vả đang gánh củi xuống
núi. Một nét vẽ ước lệ rong thơ cổ , nhưng rất thần tình, tinh
tế trong cảm nhận. Mấy nhà chợ bên sông thưa thớt, lác đác.
chỉ mấy cái lều chợ nơi miền hoang vắng, sở dĩ nữ sĩ gọi “chợ
mấy nhà” để gieo vần mà thôi.Đó cũng là cảnh hoang vắng,
heo hút, buồn hoang sơ nơi con đèo xa xôi lúc bóng xế tà.
Tiếp theo nữ sĩ tả âm thanh tiếng chim rừng, chim gia gia,
chim cuốc gọi bầy lúc hoàng hôn. Điệp âm “con cuốc cuốc” và
“cái gia gia” tạo nên âm hưởng du dương của khúc nhạc
rừng, của khúc nhạc lòng người lữ khách. Lấy cái động (tiếng
chim rừng) để làm nổi bật cái tĩnh, cái vắng lặng im lìm đìu
hiu nơi chốn đỉnh đèo Ngang trong khoảnh khắc hoàng hôn,
đó là nghệ thuật lấy động tả tĩnh trong thi pháp cổ. Phép đối
và đảo ngữ vận dụng rất tài tình:
“Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc,
Thương nhà mỏi miệng cái gia gai”.
Nghe tiếng chim rừng mà “nhớ nước đau lòng”, mà
“thương nhà mỏi miệng’ nỗi buồn thấm thía vào 9 tầng sâu
của cõi lòng, toả rộng trong không gian từ con đèo tới miền
150 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
quê thân thương. Sắc điẹu trữ tình dào dạt, thiết tha, trầm
lắng. Lữ khách là một nữ sĩ nên nỗi “nhớ nước”, nhớ kinh kỳ
Thăng Long, nhớ nhà, nhớ chồng con, nhớ làng Nghi Tàm
thân thuộc không thể nào kể xiết!
Ở hai câu kết bốn chữ “dừng chân đứng lại” thể hiện một
nỗi niềm xúc động đến bồn chồn. Một cái nhìn mênh mang:
“Trời non nước”; nhìn xa, nhìn gần, nhìn cao, nhìn sâu, nhìn
4 phíamà nữ sĩ thấytrống vắng vô buồn thương, như tan nát
cả tâm hồn, chỉ còn lại “một mảnh tình riêng”. Lấy cái bao la,
mênh mông, vô hạn của vũ trụ, của “trời non nước” tương
phản với cái nhỏ bé của “mảnh tình riêng”, của “ta” với “ta”
đã cực tả nỗi buồn cô đơn xa vắng của người lữ khác khi
đứng trên cảnh Đèo Ngang đang lúc ngày tàn. Phải chăng đó
là tâm trang nhớ quê, nhớ nhà của tác giả.
“Dừng chân đứng lại trời non nước,
Một mảnh tình riêng ta với ta”.
“Qua Đèo Ngang” là bài thơ thất ngôn bát cú Đường
luật tuyệt bút. Thế giới thiên nhiên kỳ thú của Đèo Ngang như
hiển hiện qua dòng thơ. Cảnh sắc hữu tình thấm một nỗi
buồn man mác. Giọng thơ du dương, réo rắt. Phép đối và đảo
151 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
ngữ có giá trị thẩm mỹ trong nét vẽ tạo hình đầy khám phá.
Cảm hứng thiên nhiên trữ tình chan hoà với tình yêu quê
hương đất nước đậm đà qua một hồn thơ trang nhã. Bài thơ
“Qua Đèo Ngang” là tiếng nói của một người mà trở thành
khúc tâm tình của muôn triệu con người, nó là bài thơ một
thời mà mãi mãi, bài thơ của Nước non.
Cảm nhận của em về người anh hung Nguyễn Huệ
Trong lịch sử và văn học nước nhà đã có bao nhiêu tác giả đã giành
thời gian và công sức viết về người anh hung Nguyễn Huệ .Nhưng ấn
tượng sâu sắc nhất đối với chúng ta đó là hình ảnh của ông tấn công ra
bắc đại phá quân Thanh.
Đến với đoạn trích hồi 14 trong " Hoàng Lê nhất thống chí"
của Ngô gia văn phái thuộc dòng họ Ngô Thì. Đoạn trích làm lộ rõ
bản mặt của bọn xâm lược và bọn bán nước cầu vinh. Sự thất bại
thảm hại của chúng đặc biệt làm nổi rõ tính cách của người anh
hùng dân tộc Nguyễn Huệ khí thế quật khởi thần tốc đại phá quân
Thanh của nghĩa quân Tây Sơn là hình tương người anh hùng tiếp
nối lịch sử, tin vào lich sử chống giặc ngoại xâm cua dân tộc nhưng
152 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
ngoài ra lai có tính cách riêng là người anh hùng có tấm lòng yêu
nước nồng nàn có tinh thần nhân ái, thông minh tài chí tuyệt vời.
Trước hết Nguyễn Huệ là người có tấm lòng nồng nàn yêu nước.
Trước khi tiến quân ra Bắc ông đã truyền đi một lời dụ có khí thế
như một bài hịch. Trong lời lệnh dụ này Nguyễn Huệ thể hiện rõ ý
thức tự chủ dân tộc:" Trong khoảng vũ trụ đất nào sao ấy đều đã
phân biệt rõ ràng, phương Nam, phương Bắc chia nhau mà cai trị."
Lời lệnh dụ chính là sự tiếp nối tinh thần " Nam quốc sơn hà nam
đế cư" từ thơ Lý Thường Kiệt tinh thần quyết chiên quyết thắng kẻ
thù xâm lược và mang hòa khí " Hịch tướng sĩ" của Trần Quốc
Tuấn:" Các ngươi là những kẻ có lương tri nương năng hãy cùng ta
đồng tâm hiệp lực để dựng lên công lớn". Niềm tự hào dân tộc của
vua Quang Trung lại âm vang lời tuyên bố hào hùng chủ quyền dân
tộc của " Bình Ngô đại cáo".Rõ ràng lời dụ của Nguyễn Huệ mang
tiếng nói của hồn thiêng sông núi.
Nguyễn Huệ là người có tinh thần quả quyết chí thông minh sáng
suốt, có tài cầm quyền . Ngay cả những người trong triều đình Lê,
những người đối lập với phong trào Tây Sơn cũng phải thừa nhận
Nguyễn Huệ là người anh hùng dũng mãnh có tài cầm quân. Thể
hiện ở khả năng biết địch biết ra. Nguyễn Huệ đã hiểu được chiến
153 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
lược của quân Thanh vì chiếm được thành Thăng Long nhanh
chóng nên ắt sẽ chủ quan khinh địch đặc biệt la trong nhưng ngày
Tết vì thế vua Quang Trung đã tiến hành cuộc hành quân thần tốc
đánh một trận tiêu diệt 20 vạn quân Thanh. Ông không chỉ có tài
phán đoán mà còn có tài điều binh khiển tướng. Ông biết tập
chung vào các điểm then chốt trực tiếp chỉ huy các trận đánh chiến
thuật. Vua Quang Trung rất linh hoạt, xuất quỷ nhập thần, lúc thì
nghi binh thanh thế. Nguyễn Huệ là người có tầm nhìn chiến lược
lúc xuất quân ông đã định trước ngày chiến thắng trở về:" Lần này
ta ra thân hành cầm quân, phương lược tiến đánh đã có tính sẵn.
Chẳng qua mươi ngày có thể đuổi được người Thanh." Đang đi
đánh giặc mà lòng đã nghĩ tới mối quan hệ hai nước và đời sống
nhân dân 2 dân tộc:" Nhưnng nghĩ chúng là nước lớn gấp 10 lần
nước mình, sau khi thua trận ắt lấy làm thẹn mà lo báo thù. Như
thế việc binh đao không bao giờ dứt, không phải phúc cho dân, nỡ
nào làm như vậy.Quả thực hình ảnh vua Quang Trung oai phong
lẫm liệt vào thành Thăng Long sớm trước 2 ngày và chiếc áo bào
đỏ sạm đen khói súng. Vị vua đó đã trở thành niềm tự hào của con
dân đất Việt.
Mấy trăm năm đã trôi qua nhưng mỗi lần đọc” lại Hoàng Lê
154 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
nhất thống chí” ta như thấy cuộc hành quân thần tốc vừa mới đâu
đây.Tự hào với truyền thống của dan tộc ta nguyễn sống làm sao
cho không hổ thẹn với cha ông.
Ý NGHĨA NHAN ĐỀ MỘT SỐ TÁC PHẨM TRONG CHƯƠNG TRÌNH
NGỮ VĂN 9
1.Bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu
- Đồng chí là tên gọi của một tình cảm mới,đặc biệt xuất hiện và phổ
biến trong những năm cách mạng và kháng chiến.
- Tên bài thơ gợi chủ đề tác phẩm: viết về tình đồng chí ở những
người lính trong chống Pháp- những con người nông dân ra lính. Với
họ tình đồng chí là một tình cảm mới mẻ.
- Tình đồng chí là cốt lõi,là bản chất sâu xa của sự gắn bó giữa những
người lính cách mạng, trong bài thơ tác giả đã tập trung làm nổi bật
nội dung này.
- Là nốt nhấn và là lời khẳng định về tình đồng chí.
2.Bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật:
- Nhan đề làm nổi bật một hình ảnh rất độc đáo của toàn bài và đó là
hình ảnh hiếm gặp trong thơ- hình ảnh những chiếc xe không kính.
155 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
- Vẻ khác lạ còn ở hai chữ “Bài thơ” tưởng như rất thừa những là sự
khẳng định chất thơ của hiện thực,của tuổi trẻ hiên ngang, dũng
cảm,vượt lên nhiều thiếu thốn, hiểm nguy của chiến tranh.
3.Truyện ngắn “Làng”của Kim Lân:
Chủ đề của tác phẩm là viết về lòng yêu nước của người nông dân-
làng nơi gần gũi, gắn bó với người nông dân, người ta không thêt
yêu nước nếu không yêu làng.
Đặt tên “Làng” mà không phải là “Làng Chợ Dầu” vì nếu thế thì vấn
đề tác giả đề cập tới chỉ nằm trong phạm vi nhỏ hẹp của một làng cụ
thể.
Đặt tên “Làng” vì đã khai thác một tình cảm bao trùm, phổ biến
trong con người thời kì kháng chiến chống Pháp: Tình cảm với quê
hương, với đất nước.
Làng ở đây cũng chính là cái Chợ Dầu mà ông Hai yêu như máu thịt
của mình,nơi ấy với ông là niềm tin, là tình yêu và niềm tự hào vô bờ
bến là quê hương đất nước thu nhỏ.
Nhan đề Làng gọi hình ảnh người nông dân và nông thôn, đây là
mảng sáng tác thành công nhất của Kim Lân.
156 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
Vì vậy, nhan đề tác phẩm rất hya và giàu ý nghĩa.
4. “LẶNG LẼ SA PA” của Nguyễn Thành Long:
Khi nhắc đến Sapa người ta thường nghĩ ngay đến vẻ yên tĩnh của
một nơi nghỉ ngơi lý tưởng.
Sa pa lạng lẽ, đó chỉ là cái vẻ lặng lẽ bên ngoài, nhưng thực ra nó lại
không lặng lẽ, bởi đằng sau cái vẻ lặng lẽ của Sa pa là cuộc sống sôi
nổi của những con người đầy trách nhiệm đối với công việc, đối với
đất nước, với mọi người mà tiêu biểu là anh thanh niên làm công tác
khí tượng một mình trên đỉnh núi cao.
Tạo ra sự đối lập nhan đề tác phẩm tác giả muốn làm nổi bật nội
dung, ý nghĩa ma tác giả muốn gửi gắm.
Qua nhan đề tác phẩm, tác giả muốn gửi đến mọi người thong điệp:
“Trong cái không khí lặng im của Sa pa. Sa pa mà ta nhắc tới người ta
chỉ nghĩ đến chuyện nghỉ ngời lại có những con người ngày đêm lao
động hăng say, miệt mài lặng lẽ, âm thầm, cống hiến cho đất nước.”
5.TRUYỆN NGẮN “NHỮNG NGÔI SAO XA XÔI”CỦA LÊ MINH KHUÊ:
- Hình ảnh ngôi sao xa xôi thường biểu tượng cho acis đẹp, sự trong
sáng, biểu tượng cho tương lai rực rỡ.
157 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
- Những ngôi sao xa xôi trong truyện chính là những cô gái, biểu
tượng cho vẻ đẹp anh hung của những cô thanh niên.
- ở họ luôn có những phẩm chất tốt đẹp, có sức tỏa sáng kì diệu
nhưng không rực rỡ, chói chang.
- Ánh sáng ấy không phô trương mà phải chịu khó tìm hiểu chúng ta
mới cảm nhận được vẻ đẹp diệu kì. Các chị xứng đáng là “Những
ngôi sao xa sôi” trên đỉnh Trường Sơn, những ngôi sao dẫn đường
cho dân tộc Việt nam đi tới thắng lợi.
Cảm nhân về đoạn thơ cuối bài nói với con
Xưa nay tình mẫu tử là đề tài phong phú cho thơ ca. Nhưng
những bài thơ về tình cha con thì có lẽ khá ít. Bài thơ "Nói với
con" cuả Y Phương là 1 trong những tác phẩm hiếm hoi đó. Bài
thơ thể hiện tình cảm gia đình êm ấm, tình quê hương tha thiết,
ngọt ngào và ngợi ca truyền thống nghĩa tình, sức sống mạnh mẽ
của người dân tộc miền núi. 158 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
Không chỉ gọi cho con về nguồn sinh dưỡng, cha còn nói với
con về những đức tính cao đẹp của "người đồng mình" và ước mơ
của cha về con. Đó là lòng yêu lao động, hăng say lao động với
cả tấm lòng. Đó là sức sống bền bỉ mạnh mẽ vượt wa mọi khó
khăn, gian khổ.
Người đồng mình thương lắm con ơi
...........Không lo cực nhọc
Trước hết đó là tình thương yêu, đùm bọc nhau. Cách nói
mộc mạc mà chứa đựng bao ân tình rất cảm động đó được lặp đi
lặp lai như một điệp khúc trong bài ca. Chính tình thưong đó là
sức mạnh để "người đồng mình" vượt wa bao gian khổ cuộc đời.
Những câu thơ ngắn, đối xứng nhau "cao đo nỗi buồn xa nuôi chí
lớn" diễn tả thật mạnh mẽ chí khí của "người đồng mình": sống
vất vả, nghèo đói, cực nhọc, lam lũ nhưng có chí lớn, luôn yêu
quý tự hào, gắn bó với quê hương. Đó là phẩm chất thứ hai. Thứ
ba, về cách sống, người cha muốn giáo dục con sống phải có
nghĩa tình, chung thủy với quê hương, bit chấp nhận vượt wa gian
nan, thử thách bằng ý chí và niềm tin của mình. Không chê bai,
phản bội quê hưong : "không chê...không chê....không lo" dù quê
hương còn nghèo, còn vất vả. "Người đòng mình sống khoáng
159 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
đạt, hồn nhiên, mạnh mẽ "như sông như suối-lên thác xuống
ghềnh-ko lo cực nhọc". Lời cha nói với con mà cũng là lời dạy
con về bài học đạo lý làm người. Đoạn thơ rất dồi dào nhạc điệu,
tạo nên bởi điệp từ, điệp ngữ, điệp cấu trúc câu và nhịp thơ rất
linh họat , lúc vươn dài, khi rút ngắn, lời thơ giản dị, chắc nịch
mà lay độg, thấm thía, có tác dụng truyền cảm manh mẽ.
Để nhắc nhở giáo dục con, người cha nhấn mạnh truyền thống
của người đồng mình:
Người đồng mình thô sơ da thịt
.......Nghe con
Truyền thống ấy thật đáng tự hào, tuy "thô sơ da
thịt", ăn mặc giản dị, áo chàm, khăn piêu, cuộc sống mộc mạc
thiếu thốn... nhưng ko hề nhỏ bé về tâm hồn, ý chí nghị lực và đặc
biệt là khát vọng xây dựng quê hương. Họ xây dựng quê hương
bằng chính sức lực và sự bền bỉ của mình: "tự đục đá kê cao quê
hương". Họ sáng tạo, lưu truyền và bảo vệ phong tục tốt đẹp của
mình biết tự hào với truyền thống quê hương, dặn dò con cần tự
tin, vững bước trên đường đời, ko bao giờ được sống tầm thường,
nhỏ bé, ích kỷ. Hai tiếng "nghe con" kết thúc bài thơ với tấm lòng
thương yêu, kỳ vọng, vừa là lời dặn dò nhắc nhở ý chí tình của
160 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng
nhười cha đối với đứa con thân yêu. Hai tiếng ấy nghe sao mà
thân thương trìu mến.
Bài thơ có giọng điệu nhò nhẹ, chân tình và rất mới lạ
trong phong cách, một phong cách miền núi với ngôn ngữ "thổ
cẩm" rất độc đáo, với cảm xúc, tư duy rất riêng. Qua đó, Y
Phương đã thể hiện tình cảm gia đình ấm cúng, ca ngợi truyền
thống cần cù, sức sống mạnh mẽ của quê hưong và dân tộc mình.
Bài thơ giúp ta hiểu thêm sức sống và vẻ đẹp tâm hồn của 1 dân
tộc miền núi, gợi nhắc tình cảm gắn bó với truyền thống, với quê
hương và ý chí vươn lên trong cuộc sống .
__________________
161 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng