CẢM NHẬN CÁC ĐOẠN

THƠ NGỮ VĂN LỚP 9

1 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

CẢM NHẬN VỀ CHI TIẾT CÁI BÓNG

Đọc chuyện người con gái Nam Xương một chi tiết đặc sắc đó là

hình ảnh cái bong mà người đọc không thể nào quên.

Cái bóng là 1 chi tiết nghệ thuật snág tạo, độc đáo, giàu ý nghĩa. chi

tiết này xuất hiện từ đầu tác phẩm có tác dụngt hắt nút câu chuyện(

đẩy các mâu thuẫn đến đỉnh điểm). cái bióng xuất hiện troing lời nói

đùa của vũ nương khi nói với người con. những ngày xa cách, bé đản

luôn hỏi về bố, VN chỉ cái bóng mình trên vách và nói vô tư con đó

là cha Đản. trong những ngày tháng xa chồng, nàg luôn nghĩ về

người chồng yêu dấu, trong suy nghĩ của nàmg, chồng luôn ở bên

cạnh, vợ chồng như hình với bóng. vậy mà không ngờ 1 lời nói đùa

trong thương nhớ laị trở thành sợi dây vô tình, oan nghiệt thắt chặt

cuộc đời nàng.

chi tiết cái bóng không chỉ có tác dụng thắt nút câu chuyện,

mà đièu thú vị là cũng chính câu chuyện này lại mở nút câu chuyện.

vũ nương đc giải oan cũng như hình tượng cái bóng:1 đêm phòng

không vắng vẻ, bé đản chỉ bóng bố mình trên vách nói rằng cha đản

lại dến. trương sinh bây mới ngộ tỉnh ra, thấu hiểu nỗi oan của vợ,

mâu thuẫn câu chuyện đã đựôc giải quyết. có thể nói rằng: cái bóng

2 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

là 1 hình tượng nghệ thuật đạt tới sự hoàn chỉnh, là sự tập trung, khái

quát hoá, hình tượng hoá sự hiểu lầm vô tình hay lưỡng ý của trương

sinh.

Qua tác phẩm ta có cảm giác cái bóng đã quyết định số phận con

người, đây phải chăng là nét vô lí, li kì vẫn có trong các truyện cổ tích

truyền kì? Không chỉ dừng lại ở đó, cái bóng còn là tượng trưng cho

oan trái khổ đau, cho bất hạnh của biết bao người phụ nữ sống dưới

xã hội đương thời). Nỗi oan của họ rồi cũng chỉ là những cái bóng mờ

ảo, không bao giờ được sáng tỏ). Hủ tục phong kiến hay nói đúng hơn

là cái xã hội phong kiến đen tối đã vùi dập, phá đi biết bao tâm hồn,

bao nhân cách đẹp, đẩy họ đến đường cùng không lối thoát. Để rồi

chính những người phụ nữ ấy trở thành “ cái bóng” của chính mình ,

của gia đình, của xã hội. Chi tiết “ cái bóng” được tác giả dùng để

phản ánh số phận, cuộc đời người phụ nữ đầy bất công ngang trái

nhưng cũng như bao nhà văn khác ông vẫn dành một khoảng trống

cho tiếng lòng của chính nhân vật được cất lên, được soi sáng bởi tâm

hồn người đọc. “ Cái bóng” được đề cao như một hình tượng đẹp của

văn học, là viên ngọc soi sáng nhân cách con người. Bạn đọc căm

phẫn cái xã hội phong kiến bao nhiêu thì lại càng mở lòng yêu thương

đồng cảm với Vũ Nương bấy nhiêu. “ Cái bóng” là sản phẩm tuyệt

vời từ tài năng sáng tạo của Nguyễn Dữ góp phần nâng câu chuyện

3 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

lên một tầm cao mới: chân thực hơn và yêu thương hơn.

Chi tiết cái bong này tạo nên sự bất ngờ cho câu chuyện. nó góp

phần làm nên thành công trong việc xây dựng tình huống truyện

trong việc bộc lộ nội dung chủ đề của Tác phẩm.

GIÁ TRỊ NHÂN ĐẠO CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM

XƯƠNG

Truyền kỳ mạn lục là một tác phẩm có giá trị của văn học cổ nước ta

ở thế kỷ XVI, một tập truyện văn xuôi bằng chữ Hán đầu tiên ở Việt

Nam. Truyện “ Chuyện người con gái Nam Xương” là một truyện

hay trong tác phẩm đó được trích trong Truyền kì mạn lục của

Nguyễn Dữ.

Truyện kể về một người phụ nữ tên là Vũ Thị Thiết ở Nam Xương.

Vốn là một người vợ đoan chính, đảm đang. Nàng giữ lòng chung

thuỷ, hầu hạ mẹ chồng,chăm sóc con thơ trong suốt thời gian chồng

đi lính ở phương xa. Khi trở về vì nghe lời ngây thơ của con trẻ,

người chồng nghi ngờ nàng thất tiết nên đánh mắng đuổi đi. Không

thể phân giải được oan tình, nàng trẫm mình ở sông Hoàng Giang.

Cảm động vì lòng trung thực của nàng, Linh Phi (vợ vua biển) cứu

vớt nàng và cho ở lại Long Cung. Người chồng biết vợ bị oan nên rất

hối hận, lập đàn giải oan cho nàng. Vũ Nương hiện lên, ẩn hiện trong

chốc lát rồi trở lại Long Cung. 4 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

Chuyện ca ngợi một người phụ nữ có phẩm chất, có tâm hồn trong

sáng, sáng ngời như ngọc lại bị nỗi oan tày trời vì một chuyện vờ

ghen vớ vẩn của người chồng nông nổi. Cuối cùng nàng phải tìm đến

cái chết để giải nỗi oan tình.

Tác giả đặt nhân vật Vũ Nương vào những hoàn cảnh khác nhau, qua

đó bộc lộ những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ. Vũ Nương vốn

là người con gái có tư dung tốt đẹp, tính tình thuỳ mị, nết na. Khi lấy

chồng, nàng luôn giữ gìn khuôn phép, không để vợ chồng phải thất

hoà dù Trương Sinh vốn có tính hay ghen. Khi chồng đi lính, Vũ

Nương rót chén rượi đầy tiễn chồng. Lời của nàng thật xúc động, nói

về niềm yêu thương, mong nhớ của mình đối với người chồng sẽ đi

xa, rồi bày tỏ nỗi lo lắng trước những gian lao nguy hiểm mà người

chồng sẽ trải qua, niềm mong ước được đoàn tụ ... làm mọi người

trong tiệc đều ứa hai hàng lệ.

Chồng đi đánh giặc ngoài biên ải, nàng một lòng son sắt, thuỷ chung,

“cách biệt ba năm, giữ gìn một tiết”, mong đợi chồng về trong cô đơn

mòn mỏi “mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì

nỗi buồn góc bể, chân trời không thể nào ngăn được”. Hơn nữa, nàng

là một người con dâu hiếu kính, tận tuỵ chăm sóc khi mẹ chồng còn

sống, chôn cất mẹ chồng khi mẹ qua đời (lo liệu như đối với mẹ đẻ

5 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

mình).

Rồi đằng đẳng thời gian trôi qua, chồng ra lính trở về, cùng là lúc

nàng bị nghi oan. Vũ Nương đã phân trần để chồng hiểu rõ tấm lòng

mình: “Thiếp vốn con kẻ khó ... mong chàng đừng một mực nghi oan

cho thiếp”. Nàng đã nói đến thân phận mình, tình nghĩa vợ chồng và

khẳng định lòng chung thuỷ, hết lòng tìm cách hàn gắn hạnh phúc gia

đình đang có nguy cơ bị tan vỡ. Dù họ hàng, làng xóm có bênh vực

và biện bạch, Trương Sinh vẫn không tin. Bất đắc dĩ Vũ Nương thống

thiết: “Thiếp sỡ dĩ nương tựa vào chàng ... đâu có thể lên núi vọng

phu kia nữa!”. Đó là hạnh phúc gia đình, niềm khao khát của cả đời

nàng giờ đây tan vỡ. Tình yêu không còn, cả nỗi đau khổ chờ chồng

giờ đây hoá đá....Tuyệt vọng vì phải gành chịu nỗi oan khuất tày trời

không phương giải bày, cứu chữa nàng đành mượn cái chết để chứng

tỏ tiết hạnh trong sáng của mình. lời khấn nguyện với thần linh vô

cùng thảm thiết: “Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng,

vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Nga Mĩ.

Nhựợc bằng lòng chim, dạ cá, lừa dối chồng con, được xin làm mồi

cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi

người phỉ nhổ ...” lời khấn nguyện đã làm cho người đọc xót xa - con

người rơi cảnh ngộ bế tắc, không thể tiếp tục sống để tự giải oan tình

mà phải tìm đến cái chết để thần linh chứng dám.

6 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

Sau một năm ở thuỷ cung, khi nghe kể chuyện nhà, nàng đã ứa

nước mắt khóc, nghĩ đến câu “ngựa Hồ gầm giá Bắc, chim Việt đậu

cành Nam” rồi hiện về trên dòng nước cho thoả lòng nhớ chồng, con.

Qua những hoàn cảnh khác nhau của vũ Nương, với những lời tự

thoại của nàng, truyện đã khẳng định những nét đẹp truyền thống của

người phụ nữ Việt Nam - một người phụ nữ đẹp người, lại nết na,

hiền thục, đảm đang, tháo vát, rất mực hiếu kính với mẹ chồng, giữ

vẹn lòng chung thuỷ sắt son với chồng, hết lòng vun đắp hạnh phúc

gia đình, .... lẽ ra phải được hạnh phúc trọn vẹn thế mà phải chết một

cách oan uổng, đau đớn.

Cái chết của Vũ Nương có nhiều nguyên nhân sâu xa, bắt nguồn từ

hiện thực nghiệt ngã của lễ giáo phong kiến của xã hội cũ, với chế độ

“nam quyền”, coi rẻ thân phận của người phụ nữ, rồi tính đa nghi,

ghen tuông của chồng, thói hung bạo, gia trưởng của chồng đã làm

khổ đau bao cuộc đời những người phụ nữ.

Cuộc hôn nhân giữa Vũ Nương và Trương Sinh có phần không bình

đẳng (thiếp vốn con nhà khó, được nương tựa nhà giàu). Xã hội

phong kiến lại coi trọng “nam quyền”, hơn nữa Trương Linh lại có

tính đa nghi, đối với vợ thì phòng ngừa quá mức. Những chi tiết này

chuẩn bị cho những hành động độc đoán của Trương Sinh sau này.

Khi đánh giặc trở về, Trương Sinh cũng mang một tâm trạng

7 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

nặng nề: mẹ qua đời, con vừa học nói, lòng buồn bã. Trong hoàn

cảnh như thế, lời của Bé Đản dễ kích động tính hay ghen của Trương

Sinh: “trước đây, thường có một người đàn ông đêm nào cũng

đến.Điều đáng trách là thái độ và hành động độc đoán của Trương

Sinh khi ấy. Không đủ bình tĩnh để tìm hiểu vấn đề, chàng bỏ ngoài

tai những lời phân trần của vợ, những lời bênh vực của họ hàng, làng

xóm, không chịu nói ra duyên cớ ghen hờn. Cuối cùng, Sinh lại mắng

nhiếc nàng và đánh đuổi nàng đi. Thái độ và hành động của Trương

Sinh vô hình dung dẫn đến cái chết oan nghiệt của Vũ Nương.Hành

động gieo mình xuống sông Hoàng Giang của Vũ Nương phản ánh

một thực trạng về thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến.

Họ bị buộc chặt trong khuôn khổ khắt khe của lễ giáo, bị đối xử bất

công, bị áp bức và chịu nhiều khổ đau, bất hạnh. Đó cũng chính là giá

trị tố cáo hiện thực của tác phẩm. Đằng sau nỗi oan của người thiếu

phụ Nam xương, còn bao nhiêu oan tình bất hạnh mà người phụ nữ

ngày xưa phải gánh chịu: Nàng Kiều trong “Truyện Kiều” của

Nguyễn Du, người cung nữ trong “cung oán ngâm khúc” của Nguyễn

Gia Thiều, người phụ nữ lỡ duyên tình trong thơ Hồ Xuân

Hương.Phải nhận thấy rõ rằng với truyện ngắn đầu tiên viết bằng chữ

Hán, Nguyễn Dữ đã có những mặt thành công trong nghệ thuật xây

dựng truyện, xây dựng những đoạn đối thoại. Cách kể chuyện hấp

8 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

dẫn, xây dựng tình tiết, thắt nút và gỡ nút thật bất ngờ, đầy kịch tính,

càng làm cho nỗi oan tình của nhân vật hiện ra với tất cả nét thảm

khốc.“Thắt nút” truyện bằng yếu tố bất ngờ. Một câu nói ngây thơ

nghe như thật của trẻ thơ mà gây bão tố dây chuyền trong cuộc đời.

Bão tố nghi kị trong một đầu óc nam quyền độc đoán, thiếu trí tuệ ;

bão tố bất hoà dữ dội phá tan hạnh phúc của một gia đình êm ấm.

Bão tố oan khiên phá nát cuộc đời của một người con gái trong trắng,

phải kết thúc bi thảm trêm một dòng sông.

“Gỡ nút” cũng bất ngờ bằng một câu nói trẻ thơ non dại (khi chỉ cái

bóng của chàng Trương trên vách: “cha Đản lại đến kia kìa” thì bao

nhiêu oan khiên gây thảm kịch trong phút chốc bỗng được sáng tỏ.

Truyện có những đoạn đối thoại và những lời tâm tình của nhân vật

được sắp xếp đúng chỗ, làm cho câu chuyện trở nên sinh động, góp

phần khắc hoạ diễn biến tâm lí và tính cách nhân vật ; lời nói của bà

mẹ Trương Sinh nhân hậu, từng trải ; lời lẽ của Vũ Nương bao giờ

cũng chân thành, dịu dàng, mềm mỏng, có lí, có tình - lời của người

phụ nữ hiền thục, đoan chính ; lời của Bé Đản hồn nhiên, ngây thơ,

thật thà.

Chuyện đáng lẽ có thể kết thúc ở đoạn “gỡ nút” truyện, chàng

Trương Sinh tỉnh ngộ, thấu hiểu nỗi oan của Vũ Nương nhưng

Nguyễn Dữ đã thêm phần Vũ Nương trở về dương thế, gặp chồng

9 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

trong thoáng chốc. So với truyện cổ tích “Vợ chàng Trương”,

Nguyễn Dữ đã tái tạo truyền kì từ cổ tích để nâng truyện lên những

giá trị tư tưởng và thẩm mĩ mới. Điều đó, làm tăng thêm sức hấp dẫn

của truyện và hoàn chỉnh tính cách nhân vật Vũ Nương, thoả mãn

ước mơ của nhân dân là “ở hiền gặp lành”, ngưởi tốt sẽ được đền bù.

Truyện kết thúc có hậu. Trong truyện, những yếu tố truyền kì tập

trung ở phần sau của truyện như con rùa mai xanh được Phan Lang

cứu, Vũ Nương được ở lại Thuỷ Cung, rồi hiện về với kiệu hoa rực

rỡ trên sông... đó là những tình tiết kì ảo, không có thực nhưng đã tạo

ra một thế giới nghệ thuật A thực xưa nay. Yếu tố hoang đường

truyền kì không thể cứu được cuộc đời Vũ nương với số phận bi thảm

của nàng. Vũ Nương muốn sống lại mà không được sống, muốn trở

về với chồng con và quê hương mà không thể trở về được.

Truyện “Người con gái Nam Xương” có giá trị hiện thực tố cáo

và ý nghĩa nhân đạo sâu sắc. Nghĩ về Vũ Nương và biết bao thân

phận người phụ nữ khác trong xã hội phong kiến được phản ánh

trong các tác phẩm văn học cổ, chúng ta càng thấy rõ giá trị cuộc

sống của những người phụ nữ Việt Nam trong một xã hội tốt đẹp

hôm nay. Họ đang vươn lên làm chủ cuộc đời, sống bình đẳng, hạnh

phúc với chồng con và được đề cao nhân phẩm trong xã hộ, xã hội

10 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

của thời đại mới.

CẢM NHẬN BỨC TRANH XUÂN

Mùa xuân là đề tài bất tận của thi ca nói riêng và các lĩnh vực nghệ

thuật khác nói chung. Cái đẹp của mùa xuân là sự khám phá và sáng

tạo bất biệt của nghệ thuật. Thế nhưng cứ nhắc đến mùa xuân trong

thơ, ta không khỏi bồi hồi nhớ đến câu thơ của Đại thi hào dân tộc

Nguyễn Du :

Cỏ non xanh tận chân trời

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa

Nguyễn Du khi viết truyện Kiều đã tả bức tranh bốn mùa xuân, hạ,

thu, đông. Cả bốn bức tranh đều chỉ bằng những nét gợi tả nhưng

cũng đủ vẽ ra cái thần thái của cảnh vật bốn mùa. Trong đó đáng chú

ý là bức tranh mùa xuân trong đoạn trích Cảnh ngày xuân của Truyện

Kiều. Đoạn thơ Cảnh ngày xuân tả cảnh ngày xuân trong tiết

Thanh minh, chị em Thuý Kiều đi chơi xuân. Bức tranh khung cảnh

ngày xuân được tác giả gợi tả với hình ảnh cánh chim én. Chim én là

hình ảnh A giới quan của con người. Mùa xuân cánh chim én bay về

từ phương Nam xa xôi, mang theo không khí ấm áp của phương Nam

để xua đi cái giá lạnh của phương Bắc. Không biết từ lúc nào hình

ảnh cánh chim én đã trở thành hình ảnh mang tính biểu tượng của

11 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

mùa xuân.Hình ảnh con én đưa thoi được tác giả sử dụng biện pháp

ẩn dụ nhân hoá. Ngày xuân với hình ảnh chim én bay đi, bay lại trong

bầu trời xuân, rất nhanh như chiếc thoi chạy trên khung cửi. Hình ảnh

thơ vừa có tác dụng tả cảnh. Gợi ra sự liên tưởng mùa xuân hình ảnh

con chim én đang dệt nên bầu trời mùa xuân. Không những thế biện

pháp tư từ ẩn dụ còn gợi cảm giác ngày xuân trôi qua rất nhanh. Đó

là một cảm giác nuối tiếc thời gian. Thời gian mùa xuân trôi quan rất

nhanh.Thiên tài Nguyễn Du không gợi tả bức tranh xuân vào thời

khắc chớm xuân, thời khắc của sự tinh khiết, trong trẻo và mơn mởn

nhất của mùa xuân. Ngược lại Nguyễn Du lựa chọn một khoảng thời

gian đặc biệt:

Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.

Một mùa được tính gồm có chín mươi ngày, nhưng khi thời gian

đã ngoài sáu mươi có nghĩa đó là khoảng thời gian tháng ba, tháng

cuối cùng của mùa xuân. Không gian mùa xuân được gợi lên từ hình

ảnh “thiều quang” là một thứ ánh sáng đẹp. Ánh sáng đó gợi sự mênh

mông, thoáng đãng bởi ánh sáng đẹp của ngày xuân. Ở vào khoảng

thời gian cuối của mùa xuân nhưng không gian xuân vẫn tràn trề sự

trong trẻo của mùa xuân, giữ được sự tươi mát của mùa xuân. Những

yếu tố đó tạo ra bức tranh mùa xuân:

Cỏ non xanh tận chân trời

12 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa

Tác giả lấy thảm cỏ non trải rộng tới chân trời là gam màu nền

cho bức tranh xuân. Một bức tranh xuân với gam màu xanh non - một

màu xanh tràn đầy sức sống trải dài bất tận. Trên nền màu xanh non

điểm xuyết một vài bông lê trắng.Xét về màu sắc, bức tranh xuân có

sự hài hoà tuyệt diệu giữa màu xanh non và màu trắng. Hai gam màu

tạo nên sự trong trẻo lạ thường cho bức tranh.Xét về hình ảnh, tác giả

sử dụng những chất liệu quen thuộc của thơ cổ để vẽ nên bức tranh.

Đó là hình ảnh của cỏ non, cành lê và bầu trời. Đây là những hình

ảnh rát gần gũi, quen thuộc và có tính biểu tượng cho mùa xuân. Điều

đặc biệt của bức tranh xuân, tác giả vẽ được đường nét sống động của

bức trang xuân với các tính từ “tận” và động từ “điểm”. Một thảm cỏ

non xanh trải dài và những bông hoa lê đang điểm xuyết vào bức

tranh xuân.Trong văn học cổ thì trong thơ có vẽ và bức tranh xuân

của Nguyễn Du thể hiện rất rõ điều đó. Nguyễn Du đã vẽ bức tranh

xuân bằng màu sắc, bằng đường nét và bằng các chất liệu cổ. Tuy

nhiên khi đọc câu thơ ta còn cảm giác đang bắt gặp họa sĩ Nguyễn Du

đang đưa từng nét bút để vẽ. Ông đang sử dụng thủ pháp điểm xuyết

mà ta thường gặp trong nghệ thuật vẽ tranh thủy mặc của người

Trung Quốc - một trường phái nổi tiếng ngày xưa. Chỉ bằng những

nét phác họa thôi nhưng cũng đủ vẽ được cái thần thái, cái hồn của

13 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

bức tranh. Sự khác biệt của nhà họa sĩ Nguyễn Du và nhà thơ Nguyễn

Du đó là ông vẽ bức tranh bằng ngôn từ. Bằng ngôn ngữ ông vẽ nên

bức tranh xuân với vẻ đẹp mùa xuân: mới mẻ, tinh khôi, giàu sức

sống, khoáng đạt, trong trẻo, nhẹ nhàng và thanh khiết. Một bức tranh

xuân tuyệt bích trong văn học. Đó chính là thiên tài của Nguyễn Du.

Vẽ bức tranh mùa xuân trên, Nguyễn Du đã tiếp thu và sáng tạo

từ thơ cổ.

Sự tài tình và khéo léo của Nguyễn Du là khi ông lấy cái màu

xanh non của cỏ để vẽ cái màu xanh trong mát của bầu trời. Không

cần tả trời xanh vậy mà bầu trời ấy vẫn hiện lên trong trẻo trong tâm

hồn người đọc bởi sự trải dài bất tận, không có khoảng cách giữa sự

vật và bầu trời. Bằng nghệ thuật đảo từ “trắng điểm” Nguyễn Du đã

để cho những bông hoa lê trắng điểm xuyết vào bức tranh giống như

một người họa sĩ đang vẽ từng đường nét cho bức tranh ấy. Sự sống

động của bức tranh không chỉ là cái hồn của cảnh mà ở đó còn lột tả

được cái hồn người say sưa, ngây ngất trước sự trong trẻo, tinh khiết

của mùa xuân.

Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên trong truyện Kiều qua bức tranh

xuân tuyệt bích cũng là một nét nghệ thuật độc đáo. Nguyễn Du miêu

tả thiên nhiên bằng bút pháp trực tiếp nhưng lại sử dụng thủ pháp

điêu luyện kết hợp với những nét phác họa và việc sử dụng những từ

14 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

ngữ đắt lột tả được cái hồn của cảnh vật.

Vì thế trong văn học phong kiến nói chung và thơ ca dân tộc

hiếm có một bức tranh xuân nào tuyệt bích hơn thế. Một bức tranh

làm say lòng người đọc như đang chiêm ngưỡng người họa sĩ - thi sí

Nguyễn Du đang vẽ đường nét sống động của mùa xuân.

PHÂN TÍCH NHÂN VẬT LỤC VÂN TIÊN ĐÁNH CƯỚP

Đọc tác phẩm “Lục Vân Tiên” cuarNguyễn Đình Chiểu ta bắt

gặp nhiều nhân vật có tấm long sang ngời nhân nghĩa.Trong đó tiêu

biểu và được nhiều người biết đến nhất là Lục Vân Tiên . Đó là 1

đoạn thơ hay chói ngời tinh thần nhân đạo trong xã hội phong kiến

xưa được thể hiện Trong đoạn trích " Lục Vân Tiên Đánh Cướp " thật

là đặc sắc

Nhân vật chính trong tác phẩm là 1 nho sinh văn võ song tòan

đang trên đường lên kinh ứng thí , giữa đường bắt chợt gặp bọn cướp

Phong Lai đang hoành hành hại dân . Không màng đến thân mình

Lục Vân Tiên đã ra tay đánh cướp cứu người . Qua đó chúng ta thấy

nỗi bật phẩm chất đáng quý tinh thần hiệp nghĩa vong thân .

Vân Tiên ghé lại bên đàng

Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô

Kêu rằng bớ đảng hung đồ

Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân

15 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

Có cảm giác sự việc xảy ra qua nhanh chóng bất ngờ . Bất ngờ

cũng phải thôi Vân Tiên chỉ mới dừng chân thôi mà đã gặp chuyện

bất bình . Chàng không kịp suy nghĩ gì cả đã "bẻ cây làm gậy" xông

vào bọn cướp . Chàng là ai! . Chỉ là 1 người nho sinh lên kinh ứng thí

. Nhưng tại sao lại có 1 dũng khí đến như vậy ? Do Lục Vân Tiên đã

hội tụ những phẩm chất tốt đẹp của các bậc " chính nhân quân tử "

xưa . Coi việc nghĩa trên hết quên cả bản thân mình.Nếu Vân Tiên

chỉ dừng lại 1 chút thôi để tính toán thiệt hơn thì có lẽ đã mất đi hình

tượng đẹp đẽ lay động lâu người này . Hình tượng " văn võ song tòan

" Phảng phất đâu đây cái chỉ của anh hùng " triệu tử " thời tam

quốc.Nhưng nó có nét khác biệt bởi Triệu Tử Long xông vào giữa

đám trăm vạn quân Tào Không quản than mình để cứu chúa thì Vân

Tiên xông vào giữa đám cướp không tiếc thân mình để cứu dân.

Vân Tiên tả đột hữu xung

Khác nào Triệu Tử phá vòng đương giang

Bọn cướp khá đông mà Vân Tiên không hề e sợ . Xông pha

như Triệu Tử đột phá vòng vây vậy . thấy cướp " quen thói hồ đồ hại

dân " là xông vào đánh hết mình, đánh bằng lòng dũng cảm , bằng võ

nghệ điêu luyện . Hình ảnh Vân Tiên hiên ngang xông vào giữa đám

thảo khấu giống như chính nghĩa đang trừng trị cáci ác cái xấu vậy .

Nhân nghĩa và can trừơng biết bao!

16 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

Chàng chỉ đánh cướp chỉ vì bản năng con người thôi ! Chứ không

tính toán thiệt hơn . Nhưng chàng cũng không ngờ rằng người mình

cứu được chính là Kiều Nguyệt Nga . Thái độ của chàng đối với giai

nhân thật thú vị ! Càng xông xáo đánh cướp bao nhiêu thì lại e dè ,

nhút nhát trước người con gái này bấy nhiêu :

Khoan khoan ngồi đó chớ ra

Nàng là phận gái ta là phận trai

Dẫu chưa nguôi sợ hãi nhưng chắc hẳn Kiều Nguyệt Nga sẽ

mở miệng cười thầm đối với người con trai nhút nhát . Nếu thay vào

đó là 1 người con trái thạo đời thì chắc hẳn sẽ tấn công vồ vập với

người con gái tuyệt đẹp này . Nhưng Vân Tiên lại khác , chàng là con

ngừời biết giữ lễ nghĩa xưa . Điều đó càng nói lên bản chất của chàng

thật trong sáng và ẩn dấu trong đó là lòng dũng cảm . Đó chính là

mẫu mực của con người " văn võ song tòan "

Tuy nhiên không giống như Từ Hải " Vai năm tấc rộng , thân

mười thước cao " và " vao trong phong nhã ra ngòai hào hoa " như

Kim Trọng trong Kiều. Vân Tiên chỉ là 1 thư sinh thôi mà qua những

lời nói , việc làm của chàng . Nguyễn Đình Chiểu đã cho ta những ấn

tượng khó phai

Làm ơn há dễ trông người trả ơn

17 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

CẢM NHẬN HÌNH ẢNH ĐẦU SÚNG TRĂNG TREO

Không biết tự bao giờ ánh trăng đã đi vào văn học như một huyền

thoại đẹp. ở truyền thuyết “Chú cuội cung trăng” hay Hằng Nga trộm

thuốc trường sinh là những mảng đời sống tinh thần bình dị đậm đà

màu sắc dân tộc của nhân dân ta. Hơn thế nữa, trăng đã đi vào cuộc

chiến đấu, trăng bảo vệ xóm làng, trăng được Chính Hữu kết tinh

thành hình ảnh “đầu súng trăng treo” rất đẹp trong bài thơ Đồng chí

của mình.

Sau hơn mười năm làm thơ, Chính Hữu cho ra mắt tập “Đầu

súng trăng treo”. Thế mới biết tác giả đắc ý như thế nào về hình ảnh

thật đẹp, thơ mộng, rất thực nhưng không thiếu nét lãng mạn đó.

Đầu súng trăng treo- đó là một hình ảnh tả thực một bức tranh tả thực

và sinh động. Giữa núi rừng heo hút “rừng hoang sương muối” giữa

đêm thanh vắng tĩnh mịch bỗng xuất hiện một ánh trăng treo lơ lửng

giữa bầu trời. Và hình ảnh này cũng thật lạ làm sao, súng và trăng

vốn tương phản với nhau, xa cách nhau vời vợi bỗng hoà quyện vào

nhau thành một hình tượng gắn liền. Nhà thơ không phải tả mà chỉ

gợi, chỉ đưa hình ảnh khiến ta liên tưởng nhiều điều. Đêm thanh vắng

người lính bên nhau chờ giặc tới, trăng chếch bóng soi sáng rừng

hoang bao la rộng lớn, soi sáng tình cảm họ, soi sáng tâm hồn họ…

Giờ đây, người chiến sĩ như không còn vướng bận về cảnh chiến đấu

18 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

sắp diễn ra, anh thả hồn theo trăng, anh say sưa ngắm ánh trăng toả

ngời trên đỉnh núi, tâm hồn người nông dân “nước mặn đồng chua”

hay “đất cày trên sỏi đá” cằn cỗi ngày nào bỗng chốc trở thành người

nghệ sĩ đang ngắm nhìn vẻ đẹp ánh trăng vốn có tự ngàn đời. Phải là

một người có tâm hồn giàu lãng mạn và một phong thái ung dung

bình tĩnh lạc quan thì anh mới có thể nhìn một hình ảnh nên thơ như

thế. Chút nữa đây không biết ai sống chết, chút nữa đây cũng có thể

là giây phút cuối cùng ta còn ở trên đời này nhưng ta vẫn “mặc kệ”,

vẫn say sưa với ánh trăng.

Ánh trăng như xua tan cái lạnh giá của đêm sương muối, trăng

toả sáng làm ngời ngời lòng người, trăng như cùng tham gia, cùng

chứng kiến cho tình đồng chí đồng đội thiêng liêng của những ngươì

lính. Trăng truyền thêm sức mạnh cho họ, tắm gội tâm hồn họ thanh

cao hơn, trong sạch hơn, trăng cũng là bạn, là đồng chí của anh bộ

đội Cụ Hồ.Đầu súng trăng treo- hình ảnh thật đẹp và giàu sức khái

quát. Súng và trăng kết hợp nhau; súng tượng trưng cho chiến đấu-

trăng là hình ảnh của thanh bình hạnh phúc. Súng là con người, trăng

là đất nước quê hương của bốn nghìn năm văn hiến. Súng là hình ảnh

người chiến sĩ gan dạ kiên cường- Trăng là hình ảnh người thi sĩ. Sự

kết hợp hài hoà tạo nên nét lãng mạn bay bổng vừa gợi tả cụ thể đã

nói lên lí tưởng, mục đích chiến đấu mà người lính ấy đang tham gia.

19 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

Họ chiến đấu cho sự thanh bình, chiến đấu cho ánh trăng mãi nghiêng

cười trên đỉnh núi. Ta hãy tưởng tượng xem: giữa đêm khuya rừng

núi trập trùng bỗng hiện lên hình ảnh người lính đứng đó với súng

khoác trên vai, nòng súng chếch lên trời và ánh trăng lơ lửng ngay

nòng ngọn súng. Đó là biểu tượng Khát Vọng Hoà Bình, nó tượng

trưng cho tư thế lạc quan bình tĩnh, lãng mạn của người bảo vệ Tổ

quốc.

Cái thần của câu thơ “Đầu súng trăng treo” nằm ở từ “treo”,, làm tăng

thêm nét lãng mạn? Chỉ có trăng “treo”. Phải, chỉ có “Đầu súng trăng

treo” mới diễn tả hết được cái hay, cái bồng bềnh thơ mộng của một

đêm trăng “đứng chờ giặc tới”. Ta nên hiểu bài thơ dường như được

sáng tác ở thời điểm hiện tại “đêm nay” trong một không gian mà mặt

đất là “rừng hoang sương muối” lạnh lẽo và lòng đầy phấp phỏng

giặc sẽ tới có nghĩa là cái chết có thể đến từng giây từng phút. Thế

nhưng người lính ấy vẫn đứng cạnh nhau để tâm hồn họ vút lên nở

thành vầng trăng. Nếu miêu tả hiện thực thì vầng trăng ấy sẽ có hình

khối của không gian . Ở đây, từ điểm nhìn xa, cả vầng trăng và súng

đều tồn tại trên một mặt phẳng trong hội hoạ nó mang tính biểu

tượng cao. Tố Hữu cũng có một câu thơ kiểu này: “ánh sao đầu súng

bạn cùng mũ nan” và Phạm Tiến Duật thì “Và vầng trăng vượt lên

trên quầng lửa” hay Hoàng Hữu “Chỉ một nửa vầng trăng thôi một

20 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

nửa. Ai bỏ quên ở phía chân trời…”. Nhưng có lẽ cô kết nhất, hay

nhất vẫn là “Đầu súng trăng treo”.Như đã nói ở trên, không phải ngẫu

nhiên mà Chính Hữu lấy hình ảnh “Đầu súng trăng treo” làm tựa đề

cho tập thơ của mình. Nó là biểu tượng, là khát vọng và cũng là biểu

hiện tuyệt vời chất lãng mạn trong bài thơ cách mạng. Lãng mạng

nhưng không thoát li, không quên được nhiệm vụ và trách nhiệm của

mình. Lãng mạn vì con người cần có những phút sống cho riêng

mình. Trước cái đẹp mà con người trở nên thờ ơ lãnh đạm thì cuộc

sống vô cùng tẻ nhạt. Âm hưởng của câu thơ đã đi đúng với xu thế

lịch sử của dân tộc. Hình ảnh trăng và súng đã có nhiều trong thơ

Việt Nam nhưng chưa có sự kết hợp kì diệu nào bằng hình ảnh Đầu

súng trăng treo của Chính Hữu.

Chính Hữu bằng tâm huyết đã tạo nên câu thơ tuyệt vời để cống

hiến cho cuộc kháng chiến của chúng ta. Và bạn ơi! Bạn hãy thả cùng

tôi những chú chim trắng trên bầu trời, hãy hát vang lên ca khúc Hoà

Bình vì hình ảnh đầu súng trăng treo mà nhà thơ đã gởi vào đó bao

nhiêu khát vọng nay đã thành hiện thưc.

CẢM NHẬN TÁM CÂU CUỐI KIỀU Ở LÀU NGƯNG BÍCH

Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là sự kết hợp ,giao hòa của hai yếu

tố cảnh vật và tâm trạng .Về cảnh vật có lầu cao ,có non xanh nước

biếc ,sơn thủy hữu tình .Nếu Thúy Kiều ở vào một hoàn cảnh khác 21 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

,trong tâm trạng khác thì hẳn cảnh đó sẽ rất đẹp .Tuy nhiên tâm trạng

Kiều lại đang rất u ám ,sầu não : bị Tú Bà giam lỏng ở lầu Ngưng

Bích ,Kiều da diết nhớ cha mẹ ,nhớ người yêu ,đồng thời lại rất đau

xót cho thân phận mình .Cảnh vật do đó nhuốm màu tâm trạng :

Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân

Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung

Từ đó ,ta thấy tám câu thơ cuối nằm trong số những câu thơ tả cảnh

hay nhất của Truyện Kiều .Chúng thể hiện rất rõ nét nghệ thuật " tả

cảnh ngụ tình " của Nguyễn Du :

Buồn trong cửa bể chiều hôm ,

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa ?

Buồn trong ngọn nước mới sa ,

Hoa trôi man mác biết là về đâu ?

Buồn trong ngọn cỏ rầu rầu ,

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh

Nếu tách ra riêng các yếu tố ngoại cảnh ra mà xét thì có thể thấy đó là

một khung cảnh thật thơ mộng và lãng mạn : có cánh buồm thấp

thoáng ,có man mác hoa trôi ,có nội cỏ chân mây mặt đất một màu

...Thế nhưng khi đọc những câu thơ này chỉ khiến cho lòng người

thêm sầu muộn ,ảo não .Nguyên nhân là trước mỗi cảnh vật kia ,sừng

22 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

sững án ngữ cụm từ " buồn trông " .Không phải là ' xa trông " như

người ta vẫn nói ,cũng không phải "là ghé mắt trông "như Xuân

Hương đã từng tinh nghịch mà điền trước đền thờ Sầm Nghi Đống ,Ở

đây ,nhân vật trữ tình chỉ có một tâm thế duy nhất : buồn trông "

.Tâm trạng nàng đang ngổn ngang trăm mối : nhớ người yêu ,nhớ cha

mẹ ,cảm giác mình là người có lỗi ...và nhất là đang hết sức đau xót

cho thân phận mình .Bởi vậy cảnh vật ấy được cảm nhận theo con

mắt của Thúy Kiều :cánh buồm thấp thoáng nỗi trôi vô định ,hoa trôi

man mác càng gợn nỗi phân li ,nội cỏ không mơn mởn xanh mà " rầu

rầu " trong sắc màu tàn úa ...Nỗi bậc lên trong cảnh vật đó là những

âm thanh mê hoặc :

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi .

Trong Truyện Kiều Nguyễn Du cũng đã nhiều lần miêu tả âm thanh

.Nguyễn Du đặc biệt thành công khi ông tả tiếng đàn của Kiều .Tùy

theo tâm trạng ,mỗi lần tiếng đàn của Kiều cất lên là một lần nhười

nghe phỉ chảy nước mắt khóc cho số phận oan nghiệt của nàng .

Nguyễn Du không tả tiếng đàn mà tả tiếng sóng .Khung cảnh bát ngát

mênh mang ,tiếng song vỗ " ầm ầm ",nhà thơ đã đảo ngữ để cho ấn

tượng đó càng rõ hơn quả là một thứ âm thanh hết sức bất thường

.Dường như nó muốn phá vỡ khung cảnh nặng nề nhưng yên tĩnh ,nó

23 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

dứt Kiều ra khỏi dòng suy tư về gia đình ,người thân mà trả nàng về

với thực tại nghiệt ngã ..

Tám câu thơ ,mỗi cặp câu gợi ra một nỗi buồn sâu thẳm " Buồn trông

" là buồn mà nhìn xa ,nhưng cũng là buồn mà trông ngóng một cái gì

mơ hồ sẽ đến làm đổi thay tình trạng hiện tại .Hình như nàng trong

một cánh buồm ,nhưng cánh buồm chỉ thấp thoáng xa xa ,không rã

,như một ước vọng mơ hồ sẽ đến làm đổi thay tình trạng hiện tại mỗi

lúc một xa .Nàng lại trong ngọn nước mới từ cửa sông chảy ra biển

,ngọn sóng xô đẩy cánh hoa phiêu dạt ,không biết về đâu .Kiều ngồi

trên lầu cao làm sao thấy được cánh hoa trôi trên dòng nước .Đây chỉ

là cảnh tưởng tượng về số phận mình .

Tám câu thơ câu nào cũng vừa thực vừa hư ,vừa là thực cảnh

vừa là tâm cảnh .Toàn là hình ảnh về sự vô vọng ,sự dạt trôi ,sự bế

tắc và sự chao đảo ,nghiêng đổ .Đây chính là lúc mà tình cảm Kiều

trở nên mong manh và yếu đuối nhất ,là lúc mà nàng rất dễ rơi vào

cạm bẫy .

Nhìn chung tám câu thơ cuối của đoạn thơ này là những câu thơ tả

cảnh ngụ tình rất đặc sắc .Tả xung quanh cảnh là để tả tâm trạng Kiều

,nói lên tâm trạng đau buồn da diết của Thúy Kiều .Nguyễn Du đã

khắc họa được một bức tranh sinh động về ngoại cảnh và tâm cảnh

,trong đó nỗi lên tâm trạng Thúy Kiều bề bộn bao nỗi buồn đau ,chua

24 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

xot ,lo sợ ,vô vọng ... ,góp phần tạo nên vẻ đẹp thủy chung ,hiếu thảo

và nhân hậu ở Thúy Kiều cùng với tâm trạng cô đơn thương nhớ ở

hai phần trên .

CẢM NHẬN ĐOẠN CUỐI BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG

KÍNH

Ai đã đọc bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật chắc

không thể quên đươc đoạn thơ cuối cùng nói về.Lòng yêu nước một

động lực tạo nêný chí quyết tâm giải phóng miền Nam, đánh bại giặc

Mỹ và tay sai để thống nhất Tổ quốccủa người lính lái xe :

Không có kính rồi xe không có đèn

Không có mui xe thùng xe có xước

Xe vẫn chạy vì miền nam phía trước

Chỉ cần trong xe có một trái tim.

Khổ thơ cuối cùng vẫn giọng thơ mộc mạc, mà nhạc điệu hình ảnh rất

đẹp, rất thơ, cảm hứng và suy tưởng vừa bay bổng vừa sâu sắc để

hoàn thiện bức chân dung tuyệt vời của những chiến sĩ vận tải

Trường Sơn. Bốn dòng thơ dựng hai hình ảnh đối lập đầy kịch tính,

bất ngờ thú vị. Hai câu đầu dồn dập những mất mát khó khăn do quân

thù gieo xuống, do đường trường gây ra : xe không kính, không đèn,

không mui, thùng xe bị xước ... Điệp ngữ "không có" nhắc lại ba lần

25 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

như nhân lên những thử thách khốc liệt. Hai dòng thơ ngắt làm bốn

khúc "không có kính/ rồi xe không có đèn / Không có mui xe / thùng

xe có xước" như bốn chặng gập ghềnh, khúc khuỷu, đầy chông gai

bom đạn. Hai câu cuối âm điệu đối chọi lại, trôi chảy, hình ảnh đậm

nét. Đoàn xe đã chiến thắng, vượt lên bom đạn, hăm hở hướng ra tiền

tuyến lớn với tình cảm thiêng liêng "vì miền Nam", vì cuộc chiến đấu

giành độc lập, thống nhất cho cả nước. Chói ngời, toả sáng khổ thơ,

cả bài thơ là hình ảnh "trong xe có một trái tim Cội nguồn sức mạnh

của cả đoàn xe, gốc rễ anh hùng của mỗi người cầm lái tích tụ, kết

đọng ở "trái tim" gan góc, kiên cường, chứa chan tình yêu nước này.

Ẩn sau ý nghĩa câu thơ "chỉ cần trong xe có một trái tim" là chân lý

của thời đại chúng ta :sức mạnh quyết định, chiến thắng không phải

là vũ khí, công cụ mà là con người giàu ý chí, anh hùng, lạc quan,

quyết thắng. Có thể cả bài thơ hay nhất là câu cuối, "con mắt của

thơ", làm bật lên chủ đề, toả sáng vẻ đẹp của hình tượng nhân vật

trong bài thơ. Thiếu phương tiện vật chất nhưng những chiến sĩ vận

tải Đoàn 559 vẫn hoàn thành vẻ vang nhiệm vụ, nêu cao phẩm chất

con người Việt Nam anh hùng như Tố Hữu đã ca ngợi :

Thiếu tất cả, ta rất giàu dũng khí

Sống chẳng cúi đầu, chết vẫn ung dung

Giặc muốn ta nô lệ, ta lại hoá anh hùng

26 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

Sức nhân nghĩa mạnh hơn cường bạo

"Bài thơ về tiểu đội xe không kính" là một bài thơ đặc sắc tiêu biểu

cho phong cách thơ Phạm Tiến Duật.Chất giọng trẻ, chất lính của bài

thơ bắt nguồn từ tâm hồn phơi phới của thế hệ chiến sĩ Việt Nam thời

chống Mỹ mà chính nhà thơ đã sống, đã trải nghiệm. Từ sự giản dị

của ngôn từ, sự sáng tạo của hình ảnh chi tiết, sự linh hoạt của nhạc

điệu, bài thơ đã khắc hoạ, tôn vính vẻ đẹp phẩm giá con người, hoà

nhập với cảm hứng lãng mạn cách mạng và âm hưởng sử thi hào

hùng của văn học Việt Nam trong ba mươi năm chống Mĩ xâm lược .

CẢM NHẬN VỀ BÀI THƠ BẾP LỬA

Ai đã một lần đọc bài thơ “bếp lửa” của Bằng Việt thì không thể nào

quên cái tình cản thiêng liêng,đượm nồng mà sâu lắng bao hàm cả

nỗi tri ân của người cháu đối với bà.

Thơ của bằng Việt thật thiết tha và nồng đượm . chỉ là 1 bếp lửa chờn

vờn sương sớm ... mà sao tha thiết nghĩa tình thế , mà sao lắng sâu

đến thế Thì ra có khi những điều nhỏ nhoi , giản dị nhất lại ẩn chứa

tâm tình , chắt đọng những điều thiêng liêng , lại hiện hình lên những

tình cảm thiết tha , chân thành không thể nao quên . Cứ thế bài thơ

Bếp lửa đã đọng trong lòng ta nhưng dư vị ngọt ngào .

. với bằng việt hình ảnh bếp lửa, nó là biểu tượng cho sự ấm áp ,

nồng đượm của tình bà cháu . Bếp lửa đã khơi gợi nhóm lên , lan tỏa ,

tan chảy mãi dòng hồi ức tuổi ấu thơ , thao thức , đượm đùa ... Hình 27 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

ảnh bếp lửa thật giàu ý nghĩa cho nên mở đầu bài thơ chính là mở đầu

cho nỗi nhớ của tác giả . Nỗi nhớ bà , nhớ chính cái bếp lửa thân

quen ấy .

Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nộng đượm

Cháu thương bà biết mấy nắng mưa

Những hình ảnh mở đầu vừa thực vừa hư như trong truyện cổ

tích . Ngọn lửa nhỏ mờ trong sương sớm mai hình ảnh lúc ẩn lúc

hiện ... tạo nên 1 quãng cảnh trữ tình làm lay động cảm xúc dạt dào

của tác giả . Bếp lửa ! .hình ảnh bếp lửa từ trong sâu thẳm tiềm thức

khi ẩn khi hiện , khi mờ trong nỗi nhớ nôn nao của đứa cháu khi xa

cách lâu ngày . Từ "ấp iu" được dùng rất sáng tạo . Đó là kết quả rút

gọn và nối kết của bao từ " ấp lửa , chắt chiu , nâng niu " Đi với động

từ này là tính từ " nồng đượm " Những điều đó đã nói lên rằng bếp

lửa đã có 1 linh hồn , trờ thành bếp lửa ủ chứa tình thương của cháu

đôi với cuộc đời lam lũ , trải qua " nắng mưa " của người Bà . Từ đây

2 hình ảnh , 2 nỗi nhớ đan xen nhau thành làm cho cảm xúc nhà thơ

thăng hoa . Rồi tác giả đã vận dụng các giác quan để làm sống lai đời

thơ bé cùng sống với người bà chịu thương chịu khó :

Lên 4 tuổi cháu đã quen mùi khói

28 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

Năm ấy là năm đói mòn đói moỉ

Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy

Từ thị giác " chờn vờn sương sớm" cảm giác " ấp iu nồng

đượm" và khứu giác " hum nhèm mắt cháu " để nói về đoạn đời đói

khổ , đói đến mòn ỏi , hình ảnh ngừời bố đi đánh xe về khô rạc với

con ngựa gầy còm . Tất cả đều hội tụ trong mùi khói hum đên ngẹt

thở nao lòng cả tuổi thơ . Đó là 1 vòm trơi cổ tích nào cao rồng và

nhồm màu lãng mãn trong thời thơ bé , hay nói đúng hơn khói bếp đã

bao trùm suốt khung trời tuổi thơ của tác giả . Ấn tượng về cuộc sóng

đói khổ và khói bếp nhà nghèo đã đọng lại và da diết trong kí ức của

nhà thơ " nghĩ bây giờ sống mũi còn cay " Quá khứ tuổi thơ cay cực

đã qua rồi mà dư vị 1 thời thơ bé vẫn ám ảnh Bằng Việt . Nghĩ lại

trhấy xót thương trong hồi ức về bà ... Tuy chỉ là 1 đoạn thời thơ ấi

những thời gian ấy dài lắm những 8 năm :

Cháu cùng bà nhóm lửa

Tú hú kêu trên những tầm gần xa

Khi tu hú kêu bà còn nhớ ko bà

Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế

Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế .

Cuộc sống đói khổ đã làm vấy đen đi tuổi bé thơ hồn nhiên của

tác giả . Chỉ mới 4 tuổi thôi mà trông già dặn làm rồi , già đi do 8

29 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

năm trời dài vô tận . 8 năm của biết bao khó nhóc , 8 năm của cái đói

và cái vất vả đeo đẳng nhưng chẳng thể nào thoát ra được . Từ bếp

lửa cho đến nhóm lửa Đã góp phần tô đậm thêm cái vất vả của bà .

Nhưng chính bên bếp lửa , trong cái ánh lửa ấm sáng của tình bà cháu

. Đã hồng lên ngọn lửa kiên trì dai dẳng , niềm tin vào ngày kháng

chiến thắng lợi , đất nước sẽ trở lại bình yên . Và bấy giờ lại xuất

hiện thêm 1 hình ảnh gần gũi thân quen . Tiếng tu hú !. Sóng đôi

cùng bếpl lửa nói gợi lên những liên tưởng gần xa . Đời bà và cháu

chỉ quanh quẫn bên chiếc bếp gần gũi mà nghe tiêng tu hú kia sao

giục giã như khắc khỏai những khao khát rộng dài đến 1 không gian

xa xôi ở cuộc sống khác 1 không gian có những cánh đồng ,có mùa

quả ngọt trong mùa hè rực nắng , có cánh phượng đỏ, có mùa lúa

chính ... Nghe não lòng ! Cái âm thanh quen thuộc ấy cứ nhắc đi ,

nhắc lại nhiều lần làm cho lòng tác giả càng trở nên tha thiêt, bồi hồi ,

đó là tiếng vọng gợi nhớ nơi thơi gian , năm tháng của kỷ niệm về gia

đình về quê hương yêu thương, về những giây phút vắng bóng mẹ

cha , chỉ còn bà . Cháu ở cùng bà , cháu lớn lên trong sự nuôi dưỡng

yêu thương của bà.

Cháu ở cùng bà bà bảo cháu nghe

Bà dạy cháu làm bà chăm cháu học

" Cháu ở cùng bà " từ ngữ thật hay và hàm xúc " bà bảo" " bà dạy" "

30 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

bà chăm " vai trò của bà trong gia đình thật to lớn . Năm tháng đã trôi

qua , thế mà bà vẫn khó nhọc vất vả nhóm bếp. Ngẫm nghĩ ngọn lửa

hồng và tiếng chim tu hú gọi bầy , đứa cháu nhỏ bỗng thốt lên câu

nói giản dị những dạt dao tình yêu thương " chim tu hú kêu chi hoài "

Câu thơ cảm thán và câu hỏi tu từ diễn tả nỗi thương nhớ bà da diết .

Cảm xúc cứ trào lên như sóng vỗ :

Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc

Tu hú ơi ! Chẳng đến ở cùng bà

Kêu chi hòai trên những cánh đồng xa

Cháu cảm thông với nỗi nhọc nhằn của bà , cháu đã dần khôn lớn

trong vòng tay chở che ấm áp ấy . Cháu càng lớn càng cảm thấy xót

thương cho mảnh đời bất hạnh của tu hú .Cháu muốn tu hú cũng

được sự chăm sóc như bà đối với mình . Kỷ niệm cứ hiện dần lên và

trong xúc cảm hình ảnh bà và hình ảnh bếp lửa đã hòa quyền đồng

nhất thành 1 . Trong lòng cháu , 2 hình ảnh như 1 . Tuy 1 mà 2 . Để

chỉ còn hiện lên trong tâm trí người cháu 1 xúc cảm mãnh liệt , 1 cái

gì đó rất nồng đượm :

Bố ở chiến khu , bố còn việc bố

Mày có viết thư chớ kể này kể nỏ

Cứ bảo nhà vẫn được bình yên !

Năm ấy giặc đốt nhà bà ! . Cuộc sống bà đã khổ rồi giờ còn khó

31 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

khăn thêm . Nhưng vẫn giữ vừng niềm tin sắt đá . vẫn mang trong

mình dòng máu bà mẹ Việt Nam anh hùng . Vẫn quan tâm ko muốn

con lo lắng . Bà đã nén chịu đau thương để con mình chuyên tâm

đánh giặc để đem lại hòa bình cho đất nước . Lúc ấy thì nhà bà có sá

gì so với cuộc sống bình yên . Cho nên bà đã dặn cháu không được

kể . Đến đây ta thấy thật cảm động trước hành đồng cao cả ấy . Chỉ

cần ai ai cũng làm theo tấm gương bà thì ngày hòa bình độc lập

không còn quá xa vời .

Lận đận đời bà biết mấy nắng mứa

Mấy chục năm rồi đến tân bây giờ

Bà vẫn giữ thói quen dậy sơm

Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm

Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi

Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui

Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ

Công lao của bà thật to lớn , ngay từ nhỏ cháu đã không được

sống trong bàn tay chăm sóc dạy dỗ của cha mẹ . Chỉ có bà là ngừơi

quan tâm chăm sọc dạy dỗ cháu " bà bảo cháu nghe bà chăm cháu

học " Công lao dưỡng dục của bà khó có bậc cha mẹ nào bì kịp . Cứ

thế bà đã sống cực khổ , lam lũ cả mấy chuc năm . Đời bà đã trải qua

biết bao nhiều nắng mưa . Vậy mà cuộc sống của bà vẫn thế. Vẫn

32 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

không có gì đổi thay . Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm . Dậy để làm

việc , quét nhà , nấu ăn tất cả công việc nội trợ . Cuộc đời bà thật vất

vả . Chỉ vì đất nước đang có chiến tranh nên con cái bà đều thoát li đi

kháng chiến , để lại đứa cháu bé bỏng ngây thơ cho bà chăm sóc ,

nuôi nấng . Trong bài thơ , khi cháu nhớ về bà thì luôn gắn liến với

hình ảnh bếp lửa. Có lẽ hình ảnh bếp luẳ thân quen với cháu lắm với

bà lắm . Mỗi sớm mỗi chiều bà đều nhóm bếp lửa , phải chăng bà

muôn nhóm lên tình thương yêu nồng ấm , nhóm lên tình cảm yêu

thương mà bà dành cho cháu . Trong những năm đói mòn đói mỏi ấy

có phải chăng bà cháu đã dựa vào hơi ấm tình người , tình bà cháu,

niềm tin hi vọng , và chính cái bếp lửa thân quen đễ mà sống , tồn tại

, để vượt qua mọi khó khăn . Chính lúc này đây ta như hình dung ra

được hình ảnh 1 người bà nhỏ nhắn trong bộ quần áo nâu đắp đổi qua

ngày , mái tóc bạc , đôi mắt ngời lên vẻ vị tha phúc hậu , đôi bàn tay

khéo léo, và những vết nhăn do cuộc đời lam lũ . Bà ngồi bên bếp lửa

, da tay sằn sùi hăn đi dấu vết thời gian cô gắng giữ cho ngọn lửa

nồng đượm . " nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm " Vì ngọn lửa này bà

đã chịu bao cực nhọc trong cuộc sống . Nhóm lửa 1 công việc tuy

hình sức bình thường như bao công việc khác mà trách nghiệm của

người phụ nữ đảm đang phải làm , nhưng ngọn lửa của bà lại khác ,

ngọn lửa cao quý hơn đặc biết hơn . Ngọn lửa ấp iu nồng đượm . Từ

33 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

ấp iu được dùng rất khéo là sự giao thoa , kết hợp của 2 từ ấp ủ và

yêu thương cộng với tính từ nồng đượm. CÓ phải chăng ngọn lửa bà

nhóm lên là tình thương , tình yêu mà ba dành cho cháu . Lúc này

không chỉ tác giả cảm nhận được hơi ấm dịu dàng mà cả ta người đọc

: tâm hồn cũng được sưởi ấm bên ngọn lửa thiêng liêng ấy, ngọn lửa

của niềm yêu thương khoai sắn ngọt bụi , của nồi xôi gạo mới sẻ

chung vui .Và đặc biệt chính ngọn lửa này , ngọn lửa đã tiêu hao mấy

chục năm đời của bà đã giúp cháu nên người , đã nhóm dậy cả những

tâm tình của tác giả . Đên tận bây giờ , dù đã trải qua rất lâu , tác giả

đã ở trong 1 cuộc sống tiện nghi , đang trên đừơng đi học vậy mà

khói bếp bà nhem vẫn con hum nhèm mắt . Ngọn lửa ấy cao cả quá,

vĩ đại quá làm tác giả không thể nào quên.

Rồi sớm rồi chiều lại bếp lủa bà nhen

Một ngọn luẳ lòng bà luôn ủ sẳn

Một ngọn luẳ chứa niềm tin dai dẳng....

Một lần nữa qua lời thơ của tác giả ta đã cảm nhận được sự khó

nhọc của người bà khi ngày ngày , sớm chiều nhen bếp lửa . Tại sao

bà có thể nhẫn nại hi sinh đến như vậy ! Do trong lòng bà luôn có 1

ngọn lửa niềm tin ủ sẳn . Ngọn lửa của niềm tin đất nước sẽ hòa bình

độc lập , cuộc sống sẽ được nâng cao , không còn viễn cảnh đói

nghèo nữa , đất nước sẽ thống nhất với nhau , người thân và gia đình

34 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

sẽ không còn chịu cảnh thoát li nữa mà sẽ về sum họp cùng bà lúc

cuối đời . Là ngọn lửa của niềm tin đứa cháu mình sau này sẽ nên

người , sẽ noi gương được cha mẹ , sẽ nhận ra được sự khó nhọc của

bà trong công việc nuôi dạy cháu tù đó người cháu có thể quyết tâm

học thành tài để xây dựng đất nước tươi đẹp hơn , giàu đẹp hơn . Bà

luôn mong cháu sẽ cống hiến mãi không nguôi cho tổ quốc . Nếu bài

thơ dừng lại ở đây thì đã có thể xem là 1 áng thơ hay lắm rồi . Vỡi

nhưng cảm xúc của đứa cháu khi nhớ về bà , nhớ về quãng đời cơ cục

cùng bà nhóm lửa , nhớ về công lao dạy dỗ của bà .... qua những vần

thơ giản dị mà thắm thía , với những điệp ngữ và từ ngữ được vận

dụng 1 cách rất linh hoạt sáng tạo . Nhưng đến đây dòng tâm niệm

của tác giả vẫn chưa nguôi . Vẫn thốt lên những câu thơ lay động tâm

hồn.

Giờ cháu đã đi xa

Có lửa trăm nha, niềm vui trăm ngả

Những vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhỏ

Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa ?

Dù cho tác giả đã hòan thành nguyện ước của bà . Đã là 1 con

người thành đạt , sống có ích cho xa hổi .Đã sống trong 1 điều kiện

đầy đủ tiện nghi" có lửa trăm nhà niềm vui trăm ngả " Nhưng lòng

tác giả vẫn luống hướng về cội nguồn sinh dưỡng của mỗi con người

35 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

. Bằng Việt sẽ mãi mãi không quên cái bếp lửa bà nhen , công lao

nuôi dưỡng . Tác giả luôn luôn tự hỏi với lòng : bà bây giờ sống thế

nào ? có khỏe mạnh không ? bà nhóm bếp lên chưa ? Chắc chắn rồi

sẽ có 1 ngày tác giả quay về nơi chôn rau cắt rồn của mình để chăm

sóc người bà thân yêu trong những phút cuối cùng . Đây kà 1 bài thơ

dạt dào cảm xúc . Tác giả đã khéo léo sủ dụng các biện pháp nghệ

thuật đặc sắc , cách gieo vần , láy điệp từ và những hình ảnh có sức

thuyết phục cao và những liên tưởng độc đáo tạo nên giá trị cho bài

thơ. Ta cảm nhận được ở đây tám lòng biết ơn sâu nặng , nhớ nhung

da diết , tâm chân tình của nhà thơ đối với người bà yêu dấu ( mở

rộng) Đặc biệt qua 2 khổ cuối này ta đã hiểu thêm được nguyên do vì

sao tác giả lại có tình thương yêu vô bờ đối với quê hương như vậy ?

. Do công lao trời biển của bà mà chắc hẳn rất ít 1 sánh được . Khâm

phục , cảm động , bất giác ta có thể thốt lên rằng " Ôi bà thật là con

người vĩ đại " .

Đọc bài thơ thêm một lần nữa , chúng ta cảm thấy trong lòng

lại trao dâng niêm cảm xúc . Bài thơ đã khơi dậy cho chúng ta 1 tình

cảm cao đẹp đối với gia đình , quê hương và xã hội . Càng suy ngẫm ,

thấm từng lời thơ của bằng việt ta càng hiểu thế nào là nỗi nhớ quê

hương . Ôi! làm sao có thể quên cho được

Ôi kì lạ và thiêng liêng bếp lửa!

36 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

CẢM NHẬN VỀ NHÂN VẬT BÉ THU

Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng là một truyện ngắn viết về

tình phụ tử sâu nặng của cha con ông Sáu sau chiến tranh. Đây là một

truỵên ngắn giản dị nhưng chứa đầy sức bất ngờ . Đoạn trích SGK

ngữ văn 9 đã cho thấy một khoảnh khắc nhỏ mà trong đó có sự cao cả

thiêng liêng về tình phụ tử .

“Chiếc lược ngà ” được viết vào năm 1966 khi tác giả hoạt động ở

chiến trường Nam Bộ . Nội dung văn bản trong SGK là cuộc gặp gỡ

của anh Sáu - một người xa nhà đi kháng chiến. Mãi khi con gái lên

tám tuổi, anh mới có dịp về thăm nhà, thăm con. Bé Thu - con gái

anh không nhận cha , trái lại đã đối xử lạnh nhạt, có lúc vô lễ với cha.

Điều đó làm anh Sáu đau lòng, nhưng anh vẫn yêu thương con bằng

tình cha con ruột thịt. Sau vài ngày ngắn ngủi sum họp gia đình, anh

Sáu phải ra đi. Đến lúc ấy Bé Thu bỗng thay đổi thái độ. Em ôm chặt

lấy cha không muốn cha con phải xa nhau .Mọi người ngỡ ngàng

sửng sốt. Thì ra mấy ngày trước do nhìn thấy trên mặt anh Sáu có vết

sẹo lớn, bé Thu thấy anh không giống cha chụp chung ảnh với mẹ.

Nhờ bà ngoại giảng giải, Thu đã hiểu ra mọi chuyện, em cất tiếng gọi

“Ba…ba!..” và hẹn “Ba mua cho con một cây lược nghe!”. Ở khu căn

cứ, anh Sáu dồn hết tình cảm yêu quí nhớ con vào việc làm một chiếc

lược bằng ngà voi để mang về tặng cô con gái bé bỏng. Nhưng trong

37 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

một cuộc chiến đấu anh đã ngã xuống. Trước lúc nhắm mắt anh còn

kịp trao cây lược cho người bạn, gửi về tận tay cho con. Truyện được

viết theo lời kể qua cái nhìn của ông Ba - nhân vật xưng tôi. Tuy đây

là một đề tài khá phổ biến trong văn chương nhưng chính vì thế mà

giá trị nhân văn của truyện càng trở nên sâu sắc.

Truyện xoay quanh một kỉ vật đơn sơ mà vô giá ấy là chiếc lược

ngà. Nhưng suốt cả câu chuyện, suốt những quãng đời, suốt cả cuộc

đời ấy chỉ có một tiếng kêu, một tiếng kêu bình dị và thiêng liêng bậc

nhất cõi đời này: tiếng cha. Câu chuyện “Chiếc lược ngà” đã kể lại

thật cảm động về cuộc gặp gỡ và những tình cảm của cha con anh

Sáu. Hình ảnh anh Sáu đã để lại trong lòng người đọc nỗi cảm thông,

yêu mến và những ấn tượng sâu sắc.

Cũng như bao người khác anh Sáu đi theo tiếng gọi của quê hương

đã lên đường chiến đấu, để lại người vợ và đứa con thân yêu. Sự xa

cách càng làm dâng lên trong anh nỗi nhớ nhung tha thiết đứa con gái

mà khi anh đi nó chưa đầy một tuổi. Nỗi nhớ ấy đã trở thành niềm

khao khát, mơ ước cháy bỏng trong lòng anh. Chính vì vậy mỗi lần

vợ lên thăm là một lần anh hỏi “Sao không cho con bé lên cùng ?’’.

Không gặp được con anh đành ngắm con qua ảnh vậy … Mặc dầu

tấm ảnh đó đã rách nát, cũ kĩ lắm rồi, nhưng anh luôn giữ gìn nó vô

38 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

cùng cẩn thận, coi nó như một báu vật. Còn đối với con gái Thu của

anh thì sao? Từ nhỏ đến hồi tám tuổi nó chỉ được biết ba nó qua ảnh

và qua lời kể của bà ngoại và . Dù được sống trong tình yêu thương

của mọi người nhưng có lẽ Thu cũng cảm thấy thiếu hụt một tình

thương, sự che chở của người cha. Chắc bé Thu từng giờ từng phút

trông chờ ba nó lắm nhỉ? Và tám năm trời là những năm tháng dài

đằng đẳng ấy cũng làm tăng lên trong lòng hai cha con anh sáu nỗi

nhớ nhung, mong chờ, anh Sáu ao ước gặp con, còn bé Thu ao ước

gặp bố.

Thế rồi niềm ao ước ấy đã trở thành hiện thực. Anh Sáu được

nghỉ phép. Ngày về thăm con, trên xuồng mà anh Sáu cứ nôn nao cả

người. Anh đang nghĩ tới đứa con, nghĩ tới giây phút hai cha con gặp

nhau như thế nào. Những điều ấy choáng hết tâm trí khiến anh không

còn biết mình đang ngồi trên xuồng với người bạn. Khi xuồng vừa

cập bến, anh Sáu đã nhón chân nhảy thót lên bờ. Người bạn đi cùng

cũng rất hiểu anh nên không hề trách. Tôi không thể quên được giây

phút vô cùng thiêng liêng và trọng đại của anh Sáu, là giây phút

người cha mong chờ đứa con sẽ chạy tới ôm xiết lấy mình, là bước

trở về sau bao xa cách…

Hẳn vì quá xúc động nên lúc ấy anh Sáu đã có những cử chỉ mà

ngay cả người bạn của anh cũng không ngờ tới “giọng anh tập bập

39 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

run run”, anh dang hai tay chờ đó con và sải những bước dài đến gần

con. Tưởng rằng con bé sẽ chạy tới nhào vào lòng anh nhưng không

ngờ bỗng nó hét lên “má…má” và bỏ chạy. Tại sao Thu lại có những

hành động như vậy ? Nó yêu ba nó lắm cơ mà ? Nó mong ba về từng

ngày từng giờ. Vậy mà tất cả đều lật ngược với nó. Ba nó thật đây,

sao nó không nhận ? Hành động của con bé khiến anh sững sờ. Bao

yêu thương, mong chờ mà anh dồn nén bấy lâu dường như tan biến

hết chỉ còn lại trong anh là nỗi đau khổ vô bờ.

Nỗi đau ấy còn dày vò anh trong suốt ba ngày ở nhà. Ba ngày ở

nhà anh Sáu không đi đâu xa mà chỉ quanh quẩn ở nhà chơi với con.

Anh muốn dùng lời nói, hành động của mình để bù đắp những mất

mát về tình cảm cho con bé. Dường như anh muốn bằng những cử chỉ

và lời nói yêu thương tràn đầy âu yếm, anh sẽ xoa dịu đi những nghi

ngờ, xoá tan những lạnh lùng của con bé đối với anh. Anh muốn ôm

con mà nói rằng: “Ba yêu con nhiều lắm Thu à!” và có lẽ chắc anh

cũng mong đứa con gái của mình có thể chạy sà vào lòng mà rằng

“Con cũng yêu bố nhiều lắm ạ!” thế nhưng không… những gì anh

từng mơ ước, từng suy nghĩ, giờ chỉ như giấc mơ không thật bởi

chính thái độ của Thu đối với ba nó. Khi mẹ bảo nó gọi bố vào ăn

cơm thì con bé đã nói trổng: “Vô ăn cơm!”. Câu nói của con bé như

đánh vào tâm can anh, nhưng anh vẫn ngồi im giả vờ không nghe,

40 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

chờ nó gọi “Ba vô ăn cơm.” Thế nhưng Thu vẫn bướng bỉnh không

chịu gọi ba, đã vậy còn bực dọc nói mấy câu “Cơm chín rồi!” và

“Con kêu rồi mà người ta không nghe”. Đến lúc này anh chỉ biết

“nhìn con bé vừa khe khẽ lắc đầu vừa cười. Có lẽ vì khổ tâm đến nỗi

không khóc được, nên anh phải cười vậy thôi.” Tôi thoáng nghĩ đến

cảm xúc lúc này và những câu hỏi xoay quanh anh. Tại sao thế nhỉ?

Thu làm vậy là sao? Ba nó sao nó không chịu nhận? Nhìn nó tôi như

có cảm giác nó cự nự, quyết không chịu gọi ba. Thái độ này thật

không đúng với tình cha con xa cách bấy lâu, hay con bé đang giận

ba vẩn vơ gì đó chăng?

Cao trào của câu chuyện càng nâng cao khi nồi cơm sôi, một

mình nó bé, không thể tự nhấc nồi để chắt nước, nó đã phải cầu cứu

đến người lớn. Tình thế khiến người đọc ngỡ rằng nó sẽ phải thua

không thể “chiến tranh lạnh” được nữa – nó buộc phải gọi ba để giúp

đỡ. Nhưng nó vẫn không chịu cất lên cái tiếng mà ba nó mong! Chỉ

cần nói lên cái tiếng ba ấy thế thôi, là nó sẽ thoát khỏi thế bí. Nhưng

quyết không! Nó vẫn hành động theo sự bướng bỉnh tự mình làm lấy

một công việc nguy hiểm và quá sức! Nghĩa là nó không chịu nhượng

bộ, không chịu thua cuộc. Điều ấy làm cho người cha, người bạn của

cha và cả người đọc phải đau lòng. Còn gì đau khổ bằng người cha

giàu lòng thương yêu con mà lại bị chính đứa con ấy chối bỏ!

41 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

Dưòng như sự lạnh lùng và bướng bỉnh của bé Thu đã làm tổn

thương những tình cảm đang trào dâng tha thiết nhất trong lòng ông.

Vì quá yêu thương con nên anh Sáu không cầm nổi cảm xúc của

mình. Trong bữa cơm, cưng con, anh gắp cho nó cái trứng cá nhưng

bất ngờ nó hất tung cái trứng ra khỏi chén cơm. Giận quá, anh đã

vung tay đánh và quát nó. Có lẽ việc đánh con bé là nằm ngoài những

mong muốn của ông. Tất cả cũng chỉ là do anh quá yêu thương con.

Có thể coi việc bé Thu hết cái trứng ra khỏi chén như một ngoài nổ

làm bùng lên những tình cảm mà lâu nay anh dồn nén và chất chứa

trong lòng.

Nhưng khi ta hiểu ra thì lại thấy rằng : Chính cái hành động đáng

ghét ấy lại vô cùng đáng quý. Chính thái độ ngang ngạnh đó lại là

biểu hiện tuyệt vời của tình cảm người con dành cho cha. Đơn giản vì

lúc bấy giờ trong trí nhớ thơ ngây của Thu thì cha em đẹp lắm. Vì

bom đạn quân thù, cha mang sẹo trên mặt. Đấy là điều đau khổ vậy

mà nó không hiểu, lại xa lánh khiến cha đau khổ thêm. Cô bé không

tin, thậm chí còn ngờ vực, điều đó chứng tỏ cô bé không dễ tin người.

Cả bạn của cha, cả mẹ xác nhận là cha nhưng không ai tháo gỡ được

thắc mắc thầm kín trong lòng mình thì cô bé vẫn chưa gọi. Nó không

đơn thuần là sự bướng bỉnh của một cô bé đỏng đảnh, nhiễu sách mà

đó là sự kiên định, quyết liệt của một người có lập trường. Đây chính

42 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

là cái mầm sâu kín sau này làm nên tính cách cứng cỏi, ngoan cường

của cô giao liên giải phóng. Đến khi được bà ngoại giảng giải về cái

thẹo trên ** ba, thì Thu mới vỡ lẽ đó thực là ba mình. Hình ảnh người

cha thân yêu trên ảnh, người cha kính mến mà cô ghi sâu trong lòng,

đến lúc ấy mới nhập vào người đang xưng ba có vết thẹo dài đây. Đã

vỡ lẽ thì tình yêu ba nhân lên gấp bội nhưng … đã muộn rồi. Song

đến giây phút cuối cùng, trước khi anh Sáu đi xa thì tình cảm thiêng

liêng ấy bỗng cháy bùng lên. Lúc ra đi, chân anh ngập ngừng không

muốn bước. Hẳn rằng anh Sáu muốn ôm con, hôn con nhưng sợ nó

lại giẫy đạp và bỏ chạy nên anh chỉ đứng đấy nhìn nó với cặp mắt trìu

mến xen lẫn buồn rầu. Trong ánh mắt của anh, chất chứa bao yêu

thương mà anh muốn trao gởi tới con . “Thôi ba đi nghe con”. Phải

chi bé Thu hiểu được ánh mắt của ba nó, hiểu được tâm trạng của ba

nó lúc này nhỉ? Rồi bỗng nó chạy đến kêu thất thanh

“Ba…a….a…ba!”. Tiếng kêu như tiếng xé, xé sự im lặng và xé cả

ruột gan mọi người, nghe thật xót xa. Tiếng kêu bật lên sau bao năm

kìm nén, chờ đợi khắc khoải. Đó cũng là cái tiếng ba mà anh Sáu đã

chờ đợi suốt tám năm trời xa con, đã chờ đợi suốt mấy ngày về bên

con, ông đã tưởng chẳng thể còn được nghe thì bất ngờ nó thét lên.

Nó vỡ ra còn lòng người đọc thì nghẹn lại. Người cha không cầm nổi

nước mắt vì bất ngờ, vì sung sướng, vì thương yêu và vì cả sự éo le

43 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

của tình cảm nữa. Cùng với cử chỉ “vừa kêu vừa chạy xô tới nhanh

như một con sóc, nó nhảy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba

nó, làn tóc tơ sau ót nó dựng đứng lên”. “Vừa ôm chặt lấy cổ ba, nó

vừa nói trong tiếng khóc “Ba…ba…không cho ba đi nữa, ba ở nhà

với con”. Nó ôm hôn anh Sáu và “hôn cả vết thẹo dài trên ** của ba”,

biểu hiện một tình yêu ruột thịt nồng nàn của đứa con đối với ba. Và

khi nghe anh Sáu nói “Ba đi rồi ba về với con”, cô bé hét lên

“không”, rồi hai tay xiết chặt cổ, dang cả hai chân quặp chặt lấy ba,

đôi vai nhỏ run run! Chắc cô bé khóc. Phải chăng lúc ấy Thu thật sự

thấy xót xa, ân hận về lỗi lầm của mình, thật sự thấy xót thương

người cha đau khổ? Nó mếu máo “Ba về! Ba mua cho con một cây

lược nghe ba…”. Tất cả lời nói thể hiện rõ tính cách của một cô bé

bồng bột thơ ngây và chứng tỏ lòng yêu thương vô bờ của em đối với

ba. Thật sâu sắc và cao đẹp biết bao. Có lẽ lúc này bé Thu đã trở

thành một nguời lớn thực sự. Tất cả sự dỗi hờn của bé Thu lúc này

đều chuyển thành lòng yêu thương sâu sắc ba nó. Trong cái ương

ngạch, bướng bỉnh, trong cái giận dỗi và cả sự hối hận của Thu, ta

vẫn thấy bé thật thơ ngây, thật đáng yêu. Về phần anh Sáu hạnh phúc

đến với anh quá đột ngột khiến cổ anh nghẹn lại. Không kìm được

xúc động, anh Sáu đã khóc. Giọt nước mắt của anh là giọt nước mắt

của vui sướng, hạnh phúc. Và không muốn cho con thấy mình khóc,

44 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

anh Sáu một tay ôm con một tay rút khăn lau nước mắt rồi hôn lên

mái tóc con…Thế là con bé đã gọi anh bằng ba. Ai có thể ngờ được

một người lính đã dày đạn nơi chiến trường và quen với cái chết cận

kề lại là người vô cùng mềm yểu trong tình cảm cha con. Sau bao

năm tháng mong chờ, đau khổ, anh Sáu đã được đón nhận một niềm

vui vô bờ. Bây giờ anh có thể ra đi với một yên tâm lớn rằng ở quê

nhà có một đứa con gái thân yêu luôn chờ đợi anh, từng giây từng

phút mong anh quay về.

Gấp trang sách lại mà hình ảnh bé thu cứ lắng mãi trong ta.Càng

thương bé thu bao nhiêu chúng ta càng căm thù chiến tranh bấy

nhiêu.Chúng ta phải đấu tranh để hòa bình vĩnh viễn trên đất nước

này.

TÂM TRẠNG BÉ THU LÚC CHIA TAY ÔNG SÁU

Đọc truyện ngắn “chiếc lược ngà” của nhà văn Nguyễn Quang Sáng

ấn tượng sâu sắc đối với chúng ta là tâm trạng bé Thu lúc chia tay

ông Sáu.

Ở đoạn cuối,khi mà bé Thu nhận ra cha,thật khó để phủ nhận bé Thu

là đứa bé giàu tình cảm.Tình cha con trong Thu cất giữ bấy lâu

nay,giờ trỗi dậy,vào cái giây phút mà cha con phải tạm biệt nhau.Có

ai ngờ một cô bé không được gặp cha từ năm 1 tuổi vẫn luôn vun đắp

một tình yêu bền bỉ và mãnh liệt với cha mình,dù người cha ấy chưa 45 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

hề bồng bế nó,cưng nựng nó,săn sóc,chăm lo cho nó,làm cho nó một

món đồ chơi kể từ khi nó bắt đầu làm quen với cuộc sống.Nó gần như

chưa có chút ấn tượng nào về cha,song chắc không ít lần nó đã tự

tưởng tượng hình ảnh người cha nó tài giỏi nhường nào,cao lớn

nhường nào,có vòng tay rộng để ôm nó vào lòng ra sao?Tình cảm

mãnh liệt trong nó ngăn không cho nó nhận một người đàn ông có vết

sẹo kia làm bố.Khi đến lúc ông Sáu phải đi,con bé cứng cỏi mạnh

mẽ ngày nào lại “như bị bỏ rơi”,”lúc đứng ở góc nhà,lúc đứng tựa

cửa và cứ nhìn mọi người vây quanh ba nó,dường như nó thèm khát

cái sự ấm áp của tình cảm gia đình,tình cảm cha con ,nó cũng muốn

chạy lại và ôm hôn cha nó lắm chứ,nhưng lại có cái gì như chặn

lại,làm nó cứ đứng nguyên ở đấy, ước mong cha nó sẽ nhận ra sự có

mặt của nó.Và rồi đến khi cha nó chào nó trước khi đi,có cảm giác

mọi tình cảm trong lòng bé Thu bỗng trào dâng.Nó không nén nổi

tình cảm như trước đây nữa,nó bỗng kêu hét lên “Ba…”,”vừa kêu

vừa chạy xô đến nhanh như một con sóc,nó chạy thót lên và dang hai

tay ôm chặt lấy cổ ba nó”,”Nó hôn ba nó cùng khắp.Nó hôn tóc,hôn

cổ,hôn vai,hôn cả vết thẹo dài trên má của ba nó nữa”.Tiếng kêu

“Ba” từ sâu thẳm trái tim bé Thu,tiếng gọi mà ba nó đã dùng mọi

cách để ép nó gọi trong mấy ngày qua,tiếng gọi ba gần gũi lần đầu

46 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

tiên trong đời nó như thể nó là đứa trẻ mới bi bô tập nói,tiếng gọi mà

ba nó tha thiết được nghe một lần.Bao nhiêu mơ ước,khao khát như

muốn vỡ òa ra trong một tiếng gọi ba.Tiếng gọi ấy không chỉ khiến

ba nó bật khóc mà còn mang một giá trị thiêng liêng với nó.Lần đầu

tiên nó cảm nhận mơ hồ về niềm sung tám năm trời sướng của một

đứa con có cha.sung sướng hơn là nó được trực tiếp ôm cái hình hài

máu mủ của mình mà nó mòn mỏi chờ trông.

Dưới ngòi bút của tác giả đã cho chúng ta hiểu một nhân vật Bé Thu

thông minh, giàu tình cảm,có cá tính mạnh mẽ,kiên quyết nhưng vẫn

hồn nhiên,ngây thơcủa một đứa trẻ đáng yêu.

__________________________________________________

____________

PHÂN TÍCH NHÂN VẬT ÔNG SÁU

Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng là một truyện ngắn viết về

tình phụ tử sâu nặng của cha con ông Sáu sau chiến tranh. Đây là một

truỵên ngắn giản dị nhưng chứa đầy sức bất ngờ . Đoạn trích SGK

ngữ văn 9 đã cho thấy một khoảnh khắc nhỏ mà trong đó có sự cao cả

thiêng liêng về tình phụ tử .

Tình cảm của anh Sáu dành cho bé thu trở nên mãnh liệt hơn,

cao cả, thiêng liêng và cảm động hơn bao giờ hết là việc anh tự tay

47 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

làm chiếc lược nhà cho con gái. “Ba về! Ba mua cho con một cái

lược nghe ba!”, đó là mong ước đơn sơ của đứa con gái bé bỏng

trong giây phút cha con từ biệt. Nhưng đối với người cha ấy, đó là

mong ước đầu tiên và cũng là duy nhất cho nên nó cứ thôi thúc trong

lòng. Kiếm cho con cây lược trở thành bổn phận của người cha, thành

tiếng gọi cầu khẩn của tình phụ tử trong lòng. Anh bật dậy như bỗng

loé lên một sáng kiến lớn: làm lược cho con bằng ngà voi. Có lẽ

không đơn thuần vì ở rừng rú chiến khu, anh không thể mua được cây

lược nên làm lược từ ngà voi là một cách khắc phục khó khăn. Mà

cao hơn thế, sâu hơn thế, ngà voi là thứ quí hiếm - chiếc lược cho con

của anh phải được làm bằng thứ quý gí ấy. Và anh không muốn mua,

mà muốn tự tay mình làm ra. Anh sẽ đặt và trong đấy tất cả tình cha

con của mình. Kiếm được ngà voi, mặt anh “hớn hở như một đứa trẻ

được quà”. Vậy đấy, khi người ta hoá thành con trẻ lại chính là lúc

người ta đang hiện lên cái tư cách người cha cao quý của mình. Rồi

anh “ngồi cưa từng chiếc răng lược, thận trọng tỉ mỉ và khổ công như

người thợ bạc ”, “gò lưng tẩn mẩn khắc từng chữ: “Yêu nhớ tặng Thu

con của ba”. Anh thường xuyên “lấy cây lược ra ngắm nghía rồi mài

lên tóc cho cây lược thêm bóng thêm mượt”. Lòng yêu con đã biến

người chiến sĩ trở thành một nghệ nhân - nghệ nhân chỉ sáng tạo ra

một tác phẩm duy nhất trong đời cho nên chiếc lược ngà đã kết tinh

48 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

trong nó tình phụ tử mộc mạc mà đằm thắm sâu xa, đơn sơ mà kỳ

diệu làm sao!

Nhưng ngày ấy đã vĩnh viễn không bao giờ đến nữa. Anh không kịp

đưa chiếc lược ngà đến tận tay cho con thì người cha ấy đã hi sinh

trong một trận đánh lớn của giặc. Nhưng “hình như chỉ có tình cha

con là không thể chết được”. Không còn đủ sức trăn trối điều gì, tất

cả tàn lực cuối cùng chỉ còn cho anh làm được một việc “đưa tay vào

túi, móc cây lược” đưa cho người bạn chiến đấu thân thiết và cứ nhìn

bạn hồi lâu. Nhưng đó là điều trăn trối không lời, nó rõ ràng là thiêng

liêng hơn cả một lời di chúc, bởi đó là sự uỷ thác, là ước nguyện cuối

cùng của người bạn thân, ước nguyện của tình phụ tử! Bắt đầu từ

giây phút ấy, chiếc lược ngà của tình phụ tử đã biến người đồng đội

thành một người cha - người cha thứ hai của cô bé Thu.

Các bạn ạ! Trong những ngày đen tối ấy, người sống phải sống bí

mật cũng đã đành một lẽ còn người chết cũng phải chết bí mật nữa.

Mộ của anh không thể đắp cao lên được, vì tìm thấy mồ mã bọn

chúng sẽ đào lên và tìm ra dấu vết, cho nên ngôi mộ của anh là ngôi

mộ bằng, bằng phẳng như mặt rừng vậy. Bác Ba bạn của anh đã lấy

dao khắc vào một gốc cây rừng cạnh chỗ anh nằm làm dấu cho dễ

nhớ. Sống như thế và chết như thế hỏi vậy làm sao mà chịu được.

Chúng ta buộc phải cầm súng. Và bé Thu không còn là cô bé ngày

49 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

xưa nữa mà là một cô giao liên thông minh, quả cảm. Thu đi theo con

đường mà ba cô đã chọn. Thu đi để trả thù cho quê hương, cho cha

mình đã bị bọn giặc giết hại.

Tuy anh Sáu đã hi sinh nhưng câu chuyện vè hai cha con anh sẽ

còn sống mãi. Hình ảnh chiếc lược ngà với dòng chữ sẽ mãi là kỉ vật,

là nhân chứng về nỗi đau, bi kịch của chiến tranh. Cảm ơn nhà văn

Nguyễn Quang Sáng đã khắc hoạ rõ nét tâm hồn, tình cảm của anh

Sáu và bé Thu. Truyện dẫn người đọc dõi theo số phận và lòng quả

cảm, dõi theo tâm tình của cha con một người chiến sĩ diễn ra hàng

chục năm trời đi qua hai cuộc chiến tranh. Người còn, người mất

nhưng kỉ vật, gạch nối giữa cái mất mát và sự tồn tại của chiếc lược

ngà vẫn còn đây. Đây là minh chứng đối với chúng ta “cái mất mát

lớn nhất mà thiên truyện ngắn đề cập đến là người đã khuất, là tổ ấm

gia đình không còn tồn tại trọn vẹn trong thực tại. Đó là tội ác, là

những đau thương, mất mát của chiến tranh xâm lược mà các thế hệ

bạo tàn gây ra cho chúng ta. Song cái được mà chúng ta nhìn thấy là

không có sự bi luỵ xảy ra, sức mạnh của lòng căm thù đã biến cô bé

Thu trở thành một người chiến sĩ thông minh, dũng cảm, đã gắn bó

cuộc đời con người có ít nhiều mất mát xich lại gần nhau để cùng

đứng lên viết tiếp bản ca chiến thắng.

Gấp sách lại, chia tay với ông Ba, câu chuyện về “Chiếc lược ngà”

50 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

với lời nói cuối cùng của ông - giọng trầm ấm khoan thai - cứ âm

vang mãi trong bạn đọc chúng ta, như sự âm vang của một truyện cổ

tích. Truyện cổ tích hiện đại đó đã thành công trong việc tạo tình

huống truyện, miêu tả tâm lý, tình cảm nhân vật và giọng kể nhẹ

nhàng, thấm thía truyền cảm. Ông Ba - người kể chuyện – hay chính

là nhà văn Nguyễn Quang Sáng? Phải là người từng trải sống hết

mình vì công cuộc kháng chiến của quê hương, gắn bó máu thịt với

những con người quê hương giàu tình nghĩa, rất nhân hậu mà kiên

cường, bất khuất, bất diệt, nhà văn mới nhập được vào các nhân vật,

sáng tạo được nhiều hình tượng, chi tiết sinh động, bất ngờ, có được

giọng văn dung dị và cảm động như vậy. Đồng thời truyện đã làm

sống lại quãng thời gian giữ nước để thông qua đó tác giả muốn

người đọc phải suy nghĩ và thấm thía nỗi đau, sự mất mát mà chiến

tranh mang đến. Tình cảm cha con sâu sắc của cha con ông Sáu đã

vượt qua bom đạn của chiến tranh để ngày càng thiêng liêng, ngời

sáng và gắn bó chặt chẽ với tình yêu quê hương, đất nước. Qua cuộc

đời nhân vật, từ cô bé Thu đến ông Sáu, ông Ba, Nguyễn Quang Sáng

như muốn nói rẳng trong cuộc kháng chiến gian khổ chống ngoại

xâm vừa qua của dân tộc ta, tình nghĩa con người Việt Nam, nhất là

tình cha con, đồng đội, sự gắn bó thế hệ già với thế hệ trẻ, người chết

51 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

và người sống… mãi mãi bất diệt. Như chiếc lược ngà ba tặng lại

không bao giờ có thể mất, tình cha con của bé Thu cũng sẽ mãi mãi

bất diệt!.

CẢM NHẬN KHỔ THƠ ĐẦU BÀI ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ

Bài đoàn thuyền đánh cá của nhà thơ Huy Cận là một bức tranh sơn

mài lộng lẫy mà ai đã đọc đến thì không thể quên.Đặc biệt là khổ thơ

đầu tiên viết về hình ảnh đoàn thuyền ra khơi.

" Mặt trời xuống biển như hòn lử

Sóng đã cài then đêm chặt cửa

Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơ

Câu hát căng buồm cùng gió khơi"

Mở đầu bài thơ vói giọng thơ mạnh mẽ gân guốc kêt hợp với nghệ

thuật so sánh mặt trời như một hòn lửa rực hồng đang từ từ rơi xuống

biển tạo nên một không gian huy hoàng tráng lệ của biển lúc hoàng

hôn làm ngây ngất người đọc trước vẻ đẹp tuyệt vời của trời biển

Việt nam.Nhưng bức tranh huyền ảo ấy chỉ diễn ra trong chốc lát rồi

nhường chỗ cho màn đêm lan tỏa.Với những động từ mạnh “cài,sập”

kết hợp với biện pháp nhân hóa đã thể hiện được sự dứt khoát của

biển sau một ngày vất vả đã đi vào nghỉ ngơi thư giãn,Trong lúc đó

52 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

thì con người lại bắt tay vào lao động.Cách sử dụng hình ảnh tương

phản đó đã cho thấy đươgj tinh thần lao động không quản ngày đêm

của người dân làng chài trong những năm tháng lao động xây dựng

CNXH ở Miền Bắc.Đây không phải là lần đầu tiên đoàn thuyền ra

khơi mà đây là công việc thường xuyên của họ,từ “lại” trong câu thơ

đã cho ta biết điều dó.Họ ra đi với tinh thần vui vẻ lạc quan.Câu hát

của họ vang lên hoàh vào trong gió đẩy thuyền thaawnhr tiến ra

khơi.Đó là tiếng hát khỏe khoắn thể hiện niềm vui say lao động,tinh

thần phấn chấn của người lao động mới.Với cặp mắt quan sát tinh tế

kết hợp với sử dụng nghệ thuật tài tình nhà thơ đã phác họa nên một

bức tranh tuyệt đẹp về biển lúc hoàng hôn.

Phân tích " Lặng Lẽ Sa Pa"

Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long là một câu chuyện nhẹ nhàng

mà sâu sắc, mang đậm tính trữ tình. Tác giả đã khắc họa hình ảnh

người lao động bình thường, tiêu biểu là anh thanh niên làm công tác

khí tượngkiêm vật lí địa cầu.

" Sa Pa không chỉ là sự yên tĩnh, mà dưới sự yên tĩnh đó người ta

làm việc". Quả thật khi đến Sa Pa, k ai có thể cưỡng nổi vẻ đẹp nên

thơ của nơi đây " nhà họa sĩ và cô gái bỗng nín bặt, vì cảnh trước mặt

đẹp một cách kì lạ". Ai cũng nghĩ Sa Pa là nơi của nghỉ ngơi, vì

53 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

khung cảnh ở đây mang lại sự thanh bình cho tâm hồn " nắng bắt đầu

len tới, đốt cháy rừng cây. Những cây thông chỉ cao quá đầu, rung tít

trong nắng những ngón tay bằng bạc, dưới cái nhìn bao che của

những cây tử kinh thỉnh thoảng nhô cái đầu màu hoa cà lên màu xanh

của rừng. Mây bị nắng xua, cuộn tròn lại từng cục, lăn trên các vòm

lá ướt sương, rơi xuống đường cái, luồn cả vào gầm xe."

Theo lời giới thiệu của bác lái xe, cái con người "cô độc nhất

thế gian" là "một anh thanh niên hai mươi bảy tuổi, sống một mình

trên đỉnh núi Yên Sơn cao hai nghìn sáu trăn mét. Anh làm công tác

khí tượng kiêm vật lí địa cầu". A sống trong hoàn cảnh khắc nghiệt "

bốn bề chỉ có cây cỏ và mây mù lạnh lẽo". Đó là một thử thách của a

thanh niên.

Trước khi xuất hiện, a thanh niên đã gợi được sự tò mò, cuốn hút qua

lời giới thiệu độc đáo của bác lái xe. Cho đến khi gặp a, nhà họa sĩ

già không khỏi xúc động mạnh. " Người con trai tầm vóc nhỏ bé, nét

mặt rạng rỡ từ trên sườn núi trước mặt chạy lại chỗ xe đỗ". Người

thanh niên đã khơi gợi sự tò mò trong ông họa sĩ già và cô kĩ sư

trẻ_một con người có nhiều điều để khám phá. Công việc của a có

phần đơn điệu, cô đơn và tẻ nhạt. Nhưng với tinh thần trách nghiệm

và tình yêu công việc, a luôn biết tự cân bằng cuộc sống của mình. A

coi công việc là bạn " khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi

54 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

là 1 mình được".

Nhiệm vụ của anh thanh niên là " đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây,

đo chấn động mặt đất, dự vào việc báo trước thời tiết, phục vụ sản

xuất, phục vụ chiến đấu". Công việc đòi hỏi a phải có kỉ luật cao, mà

thời tiết khắc nghiệt " rét bác ạ. Ở đây có cả mưa tuyết đấy", " chui ra

khỏi chăn, ngọn đèn bão vặn to đến cỡ nào vẫn biết là không đủ sáng.

Xách đèn ra vườn, gió tuyết và lặng im như chỉ trực mình ra là ào ào

xô tới. Cái lặng im đó mới thật dễ sợ: nó như bị gió chặt ra từng

khúc, mà gió thì giống những nhát chổi lớn muốn quét đi tất cả, ném

vứt lung tung...". Đó là cái khắc nghiệt của thời tiết, cái đáng sợ của

im lặng và là thử thách mà anh thanh niên phải trải qua. A hiểu rằng

công việc của anh ảnh hưởng tới cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ

và lao động sản xuất. Dù hoàn cảnh khắc nghiệt a vẫn nghiêm túc

thực hiện những lần ghi và báo một cách chính xác.

Hơn nữa, a luôn tự tạo cho mình một cuộc sống sôi nổi, đầy hứng thú

" một căn nhà ba gian, sạch sẽ...cuộc đời riêng của a thu gọn lại một

góc trái gian với chiếc giường con, một chiếc bàn học, một giá sách".

Cuộc sống tinh thần của anh trong như pha lê vậy, không hề vương

hạt bụi. Đồng thời, a cũng yên tâm gắn bó lâu dài với mảnh đất này.

A biết cách tổ chức cuộc sống một cách phong phú và hài hòa giữa

tinh thần và vật chất. A là người có kỉ luật cao nên nhà cửa lúc nào

cũng gọn gàng, ngăn nắp, nước sôi lúc nào cũng có sẵn. A làm giàu 55 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

cho đời sống tinh thần của mình bằng cách đọc sách và trồng hoa. A

cải thiện đời sống vật chất bằng việc nuôi gà. A cũng là người giàu

tình cảm. Chỉ nghe nói vk bác lái xe bị ốm, anh đã đi đào củ tam thất

biếu bác gái ngâm rượu uống. A đã ra tận xe để đón khách 1 cách vồn

vã. Nhà họa sĩ cũng đã phải thừa nhận " a thật đáng y". Khi biết nhà

họa sĩ đang vẽ mình, a lại tha thiết từ chối và giới thiệu những người

đáng để vẽ hơn như ông kĩ sư vườn rau, đồng chí nghiên cứu sét. A

quả thật là một người khiêm tốn nữa!

Vẻ đẹp của a thanh niên đc toát ra từ lời nói, hành động và nét

mặt. Vẻ đẹp ấy tất cả nhân vật trong truyện đều cảm nhận được. A đã

làm thay đổi quan niệm về Sa Pa của ông họa sĩ. Ông cũng đã xác

nhận " những suy nghĩ đúng đắn bao giờ cũng có những vang âm,

khơi gợi bao điều trong óc người khác..". Sa Pa _ đối với ông không

còn là mảnh đất để nghỉ ngơi nữa mà là nơi để con người cống hiến

cho đất nước. A còn giúp cô kĩ sư trẻ tự tin hơn khi bước vào đời. A

đã trở thành nguồn cảm hứng mãnh liệt và là thử thách của ông họa sĩ

" Chao ôi, bắt gặp một con người như anh ta là một cơ hội hãn hữu

cho sáng tác, nhưng hoàn thành sáng tác còn là một chặng đường dài.

Mặc dù vậy, ông đã chấp nhận sự thử thách".

Chỉ một cuộc gặp gỡ ngắn ngủi trong ba mươi phút thôi,

56 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

anh thanh niên đã để lại một ấn tượng khó quên trong lòng ông họa sĩ

và cô kĩ sư. Cuộc gặp gỡ đầy thú vị với anh thanh niên khiến cho ông

họa sĩ phải suy ngẫm, cô kĩ sư cảm mến, bâng khuâng. Họ như cùng

hiểu ra rằng cuộc sống của mỗi chúng ta được tạo nên từ bao nỗ lực

hy sinh thầm lặng của những con người vô danh. Thực sự câu chuyện

đã đọng lại trong tim mỗi chúng ta một lòng cảm phục và biết ơn vô

hạn với sự cống hiến lớn lao của họ. Bằng nghệ thuật xây dựng tình

huống hợp lí, cách kể chuyện hết sức tự nhiên, có sư kết hợp trữ tình

và nghị luận đã tạo nên một câu chuyện vô cùng sâu sắc. Qua đó, tác

giả ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn của những con người lao động và ý nghĩa

của công việc thầm lặng.

Phân tích diễn biến tâm trạng của ông Hai trong đoạn trích

'làng' khi làng chợ dầu theo giặc

Kim Lân là nhà văn chuyên viết truyện ngắn về nông thôn và cuộc

sống của những người nông dân. truyện ngắn 'làng' được ông viếtvào

thời kì đầu cho cuộc kháng chiến chống Pháp. Trong truyện ngắn

này, ông đã xây dựng thành công nhân vật ông Hai- một con người

giàu lòng yêu làng, yêu nước tha thiết, chính vì vậy khi nghe tin làng

chợ Dầu theo giặc ông cảm thấy rất đau khổ, nhục nhã.

Ngôi làng đối với mỗi người nông dân rất quan trọng. Nó là

ngôi nhà chung cho cộng đồng, họ mạc. đời này qua đời khác, người 57 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

nông dân gắn bó với cái làng như máu thịt, ruột rà. Nó là nhà cửa, đất

đai, là tổ tiên, là hiện thân cho đất nước đối với họ. Vốn là một người

có tình yêu làng, yêu nước sâu sắc, ông Hai không muốn đi tản cư bởi

ông nghĩ:' mình sinh ra ở đây từ bé, giờ gặp lúc hữu sự mà bỏ đi thì

còn ra gì nữa' Nhưng khi nghe các chến sỹ cán bộ giảng giải, ông

hiểu rằng ' đi kháng chiến cũng là kháng chiến ' nên ông mới đồng

ý.Những ngày đầu ở nơi tản cư, do mới lên lạ đất , lạ người lại không

có việc gì để làm nên ông hớ làng da diết, cháy bỏng, ông nhớ những

ngày làm việc cùng với anh em, ông cảm thấy như mình được trẻ ra.

Hơn thế nữa, gia đình ông lại ở nhờ nhà của một mụ xấu tính nên ông

phải sống trong tâm trạng ngột ngat, khó chịu. Lúc này, niềm vui của

ông chỉ là hàng ngày đi nghe tin tức thời sự kháng chiến và khoe cái

làng chợ Dầu của ông đánh Tây. Hôm nay, ở phòng thông tin ông

nghe được rất nhiều tin chiến thắng từ trẻ con đến người phụ nữ ;

điều này 'làm rột gan ông cứ múa cả lên, vui quá'. Đang tràn ngập

trong niềm vui và sự sung sướng, ông Hai có cảm giác cảnh vật bên

đường như đẹp hơn rất nhiều.

Cũng trên đoạn đường trở về, trong tâm trạng vui vẻ ấy , nhà văn

Kim Lân đã khéo léo đan cài vào đó 1 kịch tính thứ 2- một biến cố

bất ngờ xảy ra. Ông gặp những người đàn bà tản cư từ Gia Lâm lên,

58 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

khi gặp họ, ông tưởng mình sẽ nghe được nhiều tin vui hơn nữa

nhưng thật bất ngờ, ông Hai nhận được tin cả làng chợ Dầu làm việc

gian theo Tây. Cái tin ấy là một tin chết người, nó chẳng những làm

mất hết niềm tin, sụp đổ niềm tự hào về làng của ông mà còn khiến

ông tủi khổ, nhục nhã vì đã khoe bao điều hay về nó. Vừa nghe như

vậy, ông Hai thấy cổ họng mình nghẹn ắng lại, da mắt tê rần rật., ông

lặng đi tưởng chừng như không thở được; ông đang ở trong một trạng

thái bất ngờ, đột ngột và vô vùng xấu hổ. Ông vờ lảng sang chuyện

khác để trốn những người đàn bà kia nhưng lời nói của họ như những

nhát dao chém vào người ông đau đớn. trên đg trở về ông chỉ dám cúi

gằm mặt xuống đát khhoong dám ngẩng mặt nhìn ai. Vừa về đến nhà,

ông nằm vật ra giường, nước mắt trào ra, ông tức giận chửi bon Việt

gian làng Dầu bán nước nhưng ông lại thấy những lời chửi của mình

thật vô lí. Ông kiểm đếm từng người trong óc nhưng không tìm được

ai có thể phản bội, họ toàn là những người coa tinh thần cả mà.

Nhưng thằng chánh Bêu thì đích thị là người làng ông rồi khiến ông

có tâm trạng bối rối, phân vân, nửa tin nửa ngờ. Chỉ bằng một đoạn

văn ngắn, tác giả đã cụ thể hoá sững sờ, ngạc nhiên cao độ đến bốc

lửa, nghẹn ngào đau đớn, tức giận khi nghe tin làng chợ Dầu theo

giặc. Qua đây, một lần nữa, nhà văn Kim Lân đã chứng tỏ bút lực dồi

dào, khả năng phân tích sắc sảo, tái hiện sinh động trạng thái tình

59 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

cảm, hành động của ông hai trong biến cố này.

Cả nhà ông Hai những ngày sau đó, sống trong bầu không khí ảm

đảm, nặng nề, đầy lo lắng. Họ nghĩ đến sự ghẻ lạnh, tẩy chay của mọi

người và đạc biệt lo lắng khi không biết sẽ phải làm thé nào. Ông Hai

ăn ko ngon, ngủ ko yên, lúc nào cũng mơm mớp, bất ổn trong nỗi tủi

nhục ê chề. Thậm chí ông không dám nhắc tới, phải gọi tên cái

chuyện phải bội là ' chuyện ấy', Ông tuyệt giao với tất cả mọi người ,

trốn biệt ở nhà, ko dám bước chân ra ngoài vì xấu hổ. Và cái chuyện

vợ chồng ông lo nhất cũng đã đến. Bà chủ nhà bóng gió đuổi gđ ông

đi, chỉ vì họ là người làng theo Tây.. Gia đình ông Hai ở vào tình thế

căng thẳng, khó khăn nhất:' thật là tuyệt đường sinh sống', đâu đâu có

người chợ Dầu người ta cũng đuổi như đuổi hủi. Trong tình cảnh ấy

ông Hai đã nghĩ hay là quay về làng nhưng rồi ông đã dứt khoát' về

làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ, chịu đầu hàng Tây là cam chịu

kiếp sống nô lệ, cô độc' nên ông đã quyết định' làng thì yêu thật

nhưng làng theo Tây thì phải thù'.. Đến đây, tình yêu làng của ông

Hai đã hoà quyện vào tình yêu nước. Tình cảm cách mạng khi bị đặt

vào tình huống thử thách gay cấn buộc phải lựa chon giữa làng và

nước, ông Hai đã chấp nhận hi sinh tình cảm làng vì có 1 tình cảm

thiêng lêng, lớn hơn- đó là tình cảm dành cho kháng chiến, cho cụ

Hồ. Trong tâm trạng bế tắc và tuyệt vọng ông Hai chỉ còn biết chút

60 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

nỗi lòng của mình qua lời nói thủ thỉ, tâm sự với đứa con út của

mình. Thực chất, những lời tâm sự với con chính là lời dãi bày của

ông .

Xây dựng thành công diễn biến tâm trạng nhân vật ông Hai là

thành cồn lón nhất của truyện ngắn 'làng'. Điều đó đã thể hiện dk tài

năng của nhà văn Kim Lân trong việc khám phá chiều sâu tâm lí nhân

vật. Và hơn hết, điều đó đã xây dựng trong lòng độc giả một chân

dung sống động, cảm động của người nông đan Việt Nam chất phác,

thật thà.

TÂM TRẠNG ÔNG HAI KHI NGHE TIN LÀNG ĐƯỢC CẢI

CHÍNH

khi nghe tin làng Dầu theo Tây được cải chính, ông Hai là

người sung sướng nhất. Ông vui tươi rạng rỡ hẳn lên, “ mồm bỏm

bẻm nhai trầu, cặp mắt hung hung đỏ…” Ông mua quà cho

con,Ông chạy đi khoe” cái tin làng Dầu không theo giặc.Đặc biệt là

ông “khoe” cái tin nhà mình bị đốt, “.Đối với người nông dân thì căn

nhà là cả một gia tài lớn thế nhưng ông không buồn không khóc mà

ngược lại rất vui sướng.Bởi viftrong cuộc kháng chiến thánh thần của

dân tộc gia đình ông cũng có đóng góp một phần nhỏ bé ở trong đó.

Nỗi mất mát về nhà cửa dường như tan biến trong niềm hạnh phúc

dâng trào – Làng chợ Dầu, ngôi làng mà ông luôn yêu mến tự hào giờ

61 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

đây vẫn là làng kháng chiến. Có thể nói, ông Hai là nhân vật điển

hình cho lớp nông dân trong kháng chiến. Vốn là những con người

chân thực, chất phác, những ngày đầu tiếp xúc với cách mạng, họ vẫn

còn bỡ ngỡ. Nhưng rồi cảm giác ấy tan đi nhanh chóng, họ đón nhận

cách mạng với tình cảm chân thành, với lòng hăm hở nhiệt tình. Họ

háo hức hoà nhịp cùng phong trào kháng chiến, học hăng hái cầm

súng bảo vệ quê hương. Cách mạng đã trở thành một phần trong cuộc

đời của họ. Lòng trung thành, tình cảm gắn bó bền chặt của người

nông dân trong kháng chiến làm cho chúng ta xúc động. Nhà văn

Kim Lân đã tinh tế phát hiện những nét đẹp tâm hồn của người nông

dân để từ đó khắc hoạ nên một bức chân dung gần gũi và sống động.

Trong tác phẩm, nhà văn Kim Lân đã xây dựng những tình huống

đầy kịch tính đẩy nhân vật vào trong sự bế tắc đến tuyệt vọng,

qua đó làm nổi bật tâm hồn tính cách và tình yêu của ông Hai đối

với làng quê, đất nước. Ngôn ngữ diễn đạt mộc mạc chân quê

càng giúp người đọc hiểu và yêu mến ông Hai nhiều hơn.

Đề 9: So sánh hình ảnh người lính cách mạng qua hai bài thơ

Đồng chí của Chính Hữu và Bài thơ về tiểu đội xe không kính

62 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

của Phạm Tiến Duật..

BÀI LÀM

Trong hai cuộc kháng chiến chống pháp và chống Mỹ thì người lính

là điểm tựa của lịch sử vì vẫy văn học luôn phản ánh và ca ngợi

họ.Tuy ra đời trong hai hoàn cảnh khác nhau nhưng họ đều giống

nhau đó là tình yêu quê hương đất nước,lòng căm thù giặc đó là phẩm

chất anh bộ đội cụ Hồ. Hình ảnh rõ nét nhất của các anh được thể

hiện qua hai bài thơ “Đồng chí”của Chính Hữu trong kháng chiến

chống pháp và “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” Phạm tiến Duật

trong khang chiến chống Mỹ.

Dân tộc ta đứng lên tiến hành hai cuộc chiến tranh cách mạng

oanh liệt chống Pháp và chống Mỹ. Lẽ tất nhiên, ở đất nước hơn ba

mươi năm chưa dời tay súng. Hình ảnh anh Bộ đội cụ Hồ là hình ảnh

con người đẹp nhất đáng yêu nhất trong văn thơ và là niềm tự hào lớn

của dân tộc.

Cùng với nhiều bài thơ khác, bài thơ Đồng chí sáng tác vào đầu

năm 1948 khi tác giả Chính Hữu chiến đấu trong chiến dịch Việt Bắc,

bài thơ Tiểu đội xe không kính sáng tác năm 1969 khi tác giả Phạm

Tiến Duật tham gia họat động ở tuyến đường Trường Sơn đã khắc

họa thành công về đề tài người lính.

63 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

Hình tượng anh bộ đội được ghi lại trong hai bài thơ đã lưu giữ

trong văn chương Việt Nam hai gương mặt đẹp, đáng yêu của người

lính trong hai thời kỳ lịch sử.

Đây là người lính của nhân dân nên họ cùng mang những vẻ đẹp

chung đó là lòng Yêu nước, yêu quê hương yêu đồng chí.Nếu như

người lính trong thơ Chính hữu họ ra đi từ những mái tranh nghèo để

lại sau lưng tất cả (gốc đa, giếng nước) dể đi chiến đấu bảo vễ non

song thì những người lính trong chống Mỹ vì tình yêu quê hương đất

nước họ sẵn sàng gác lại viêc học hành để xông pha ra tuyến lửa, họ

ra đi với tinh thần :

Xẻ dọc trường sơn đi đánh Mỹ

Mà lòng phơi phới dậy tương lai.

Một nét chung của người lính trong chống pháp và chống Mĩ mà ta

không thể không nhắc tới đó là tình cảm đồng chí keo sơn.Nếu như

trong “đồng chí”những người nông dân xa lạ vì đi kháng chiến mà họ

trở thành tri kỉ rồi thành đồng chí của nhau thì những người lính lái

xe chỉ cần chung bát đũa là trở thành gia đình người lính.Vì sao vẫy

bởi vì ở họ có cùng lý tưởng chiến đấu vì đất nước quê hương.Chi tiết

nắm tay trong hai bài thơ chứa chất bao tình cảm không lời:

“Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”

“Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới

64 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

Bắt tay qua cửa kính vở rồi”

Đó là những cái bắt tay trao cho nhau biết bao tình camrvaf ý chí

quyết tâm vì sự nghiệp giải phóng non sông.

Một điểm tương đồng giữa hai người lính trong thơ Chính Hữu

và Phạm Tiến Duật nữa đó là sự chịu đựng gian khổ, vượt qua mọi

khó khăn gian khổ để quyết tâm tiêu diệt giặc hoàn thành nhiệm vụ.

Tất cả những khó khăn gian khổ, thử thách được tái hiện bằng những

chi tiết hết sức thật, không né tránh tô vẽ trong cả hai bài thơ.Anh vễ

quốc phải chịu cảnh áo rách quần vá chân không dày,ốm đau không

có thuốc.Thì người lính lái xe vì những chuyến hàng ra tiền tuyến họ

phải chịu cảnh “mưa xối”,”bụi phun”.Thế mà, các chiến sĩ đều có

một tư thế ngoan cường chờ giặc tới, ung dung nhìn thẳng.Điều gì đã

giúp họ chịu đựng được như vậy phải chăng đó là tinh thần lạc quan

tin tưởng. Cả hai bài thơ đều thể hiện tinh thần lạc quan của người

lính. Từ miệng cười buốt giá của anh bộ đội kháng chiến chống Pháp

đến nhìn nhau mặt lấm cười ha ha của anh lính lái xe thời chống Mỹ

đều thể hiện tinh thần lạc quan, khí phách anh hùng.

Tuy có nhiều nét tương đồng nhưng ở họ vẫn có những điểm khác

nhau. Bài thơ Đồng chí của Chính Hữu khắc hoạ hình ảnh người lính

nông dân thời kỳ đầu cuộc kháng chiến chống Pháp với vẻ đẹp giản

dị, mộc mạc mà sâu sắc. Tình đồng chí thiềng liêng hòa quyện với

65 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

tình yêu nước khi lý tưởng chiến đấu đã rực sáng trong tâm hồn.

Súng bên súng đầu sát bên đầu

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ

Đồng chí!

Còn “bài thơ Tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật thể

hiện người lính lái xe trong cuộc kháng chiến chống Mỹ với vẻ đẹp

trẻ trung, ngang tàng. Đây là thế hệ những người lính có học vấn, có

bản lĩnh chiến đấu, có tâm hồm nhạy cảm, có tính cách riêng mang

chất lính đáng yêu. Họ tất cả vì miền Nam ruột thịt với trái tim yêu

nước cháy bỏng.

Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước

Chỉ cần trong xe có một trái tim

Hình tượng người lính dù ở thời kỳ kháng chiến chống Pháp

hay kháng chiến chống Mỹ đều mang phẩm chất cao đẹp của anh bộ

đội cụ Hồ thời đại đã cung cấp cho các nhà thơ những nguyên mẫu

đẹp đẽ, họ tạo nên những hình tượng làm xúc động lòng người. Viết

về những người lính, các nhà thơ nói về chính mình và những người

đồng đội của mình. Vì thế, hình tượng người chân thật và sinh động.

PHÂN TÍCH KHỔ THƠ CUỐI BÀI THƠ VÈ TIỂU ĐỘI XE

66 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

KHÔNG KÍNH

Đọc “bài thơ về tiểu đội xe không kính” của PTD ấn tượng sâu sắc

nhất đối với chúng ta đó là tinh thần và ý chí quyết tâm giải giải

phóng Mền Nam ở khổ thơ cuối cùng.

Thắng lợi càng đến gần thì ác liệt càng gia tăng và mất mát do

chiến tranh gây ra càng lớn.Những chiếc xe bị bom đạn Mỹ làm cho

biến dạng trơ trụi, ”Không có kính rồi xe không đèn- không có mui

xe, thùng xe có xước” .Điệp từ” không có” được nhắc đi nhắc lại

nhằm nhấn mạnh sự mất mát của nhữngchiếc xe .Nhưng điều kì lạ là

những chiếc xe trụi trần ấy vẫn chạy, vẫn băng ra tiền tuyến. Không

có thì nhiều mà chỉ cần thì có một.Tác giả lại một làn nữa lí giải bất

ngờ và rất chí lí: “chỉ cần trong xe có một trái tim” Trái tim người lính

cách mạng- trái tim của lòng quả cảm đó là ý chí quyết tâm giải

phóng miền nam.Với lời thơ tự nhiên như lời nói bình thường, giọng

điệu thơ gần gủi, vui tươi, dí dỏm, bài thơ đã nêu bật hình ảnh người

lái xe trên tuyến đường Trường Sơn: dũng cảm hiên ngang, với niềm

vui sôi nổi, lạc quan yêu đời bất chấp mọi khó khăn, nguy hiểm để ra

trận vì Miền Nam ruột thịt . Họ luôn đối diện với khó khăn thử thách,

mà vẫn cười đùa, tếu táo, hồn nhiên, tự tin. Đó là nét đặc sắc của bài

67 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

thơ cũng như ngôn ngữ, giọng điệu riêng của thơ Phạm Tiến Duật.

Hôm nay đất nước dã hoà bình sau hơn 30 năm giải phóng Miền

Nam con đường Trường Sơn đã đi vào lịch sử, đọc lại bài thơ này,

chúng ta càng tự hào và khâm phục biết bao các chiến sĩ lái xe ở

Trường Sơn ngày trước cùng bộ đội Trường Sơn đã góp phần vào

chiến thắng huy hoàng của dân tộc.

CẢM NHẬN VỀ ÁNH TRĂNG

Vầng trăng dịu mát, sáng trong, vầng trăng huyền diệu tròn đầy tự

bao giờ đã trở nên thân thương gắn bó với con người. Nếu Bác

kính yêu coi trăng như bè bạn tri âm thì Nguyễn Duy_nhà thơ

trưởng thành thời kháng chiến chống Mỹ lại coi trăng là nguồn

sáng lung linh để thanh lọc tâm hồn, để ăn năn hối lỗi. Bài thơ

“Ánh trăng” (1978)của ông được khơi nguồn từ những cảm xúc

chân thành và cao đẹp như thế

Bài thơ mang dnág dấp như một câu chuyện với lời kể mở đầu

tự nhiên,trôi chảy về mối quan hệ gán bó giữa trăng và nhà thơ:

Hồi nhỏ sống với đồng

68 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

Với sông rồi với bể

Hồi chiến tranh ở rừng

Vầng trăng thành tri kỉ

Chỉ bằng 4 câu thơ ngắn Nguyễn Du đã dựng lại được cả thời

niên thiếu cho đến lúc trưởng thành,1 không gian thân thương:

đồng, sông, bể.Từ không gian đầy ắp kỉ niệm ấy ta nhận ra niềm

say mê,sảng khoái của con người trong cái mát lành dịu ngọt ân

tình của quê hương qua ánh trăng lai láng trên cánh đồng, dòng

sông, bãi biển.Không gian cứ mở rộng mãi ra, bao la bát ngát theo

nhịp trưởng thành của con người.Thời gian không ngừng vận

động và cậu bé lớn lên từ quê hương ấy đã trở thành chiến sĩ. Khi

xa quê, đi vào cuộc chiến, nỗi nhớ thương chợt hiện về quay quắt

tâm hồn,lúc này người và trăng lại càng gắn bó _ánh trăng là bạn

tri kỉ chia sẻ mọi gian nan thiếu thốn, mọi buồn vui sướng khổ

trong những năm tháng chiến tranh của tác giả.NHư vậy là tuổi

thơ chớp mắt đã trôi qua.Cái còn lại lúc này là vầng trăng thật

đơn sơ,chung thuỷ.

Hai chữ hồi ở câu thơ thứ nhất và thứ 3 làm cho khổ thơ

như có một chỗ dừng chân. Cái dừng chân giữa ranh giới của ấu

thơ và trưởng thành. Ánh trăng soi rọi về quá khứ khiến tiếng nói

69 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

tâm tình trở nên sâu lắng thiết tha.

Trần trụi giữa thiên nhiên

Hồn nhiên như cây cỏ

Ngỡ không bao giờ quên

Cái vầng trăng tình nghĩa

Trăng hồn nhiên như trẻ thơ, trăng chân thành như bè bạn,trăng

gắn bó sâu nặng với con người mà không trở lực nào có thể ngăn

cách. Những năm tháng con người sống thật nhất với mình, trần

trụi,hồn nhiên là khi con người ta trân trọng, đinh ninh một lời thề

son sắt “ngỡ không bao gìơ quên,cái vầng trăng tình nghĩa” Từ

ngỡ là chiếc cầu nối ngôn từ vừa khép lại thời qua khứ vừa mở ra

thời hiện tại tạo nên sự chuyển tiếp cho khổ thơ thứ 3.

Từ hồi về thnàh phố

Quen đèn điện cửa gương

Vầng trăng đi qua ngõ

Như người dưng qua đường

Cuộc sống hiện đại với ánh sáng chói loà của ánh điện cửa

gương,với những vật dụng ngày càng hiện đại dường như đã làm

lu mờ ánh sáng của vầng trăng.Tác giả đã tạo ra sự đối lập giữa

vầng trăng nghĩa tình trong quá khứ với vầng trăng xa lạ như

70 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

người dưng qua đường bây giờ.Là ánh trăng đã khác ánh trăng

của ngày xưa?Không! Ánh trăng vẫn thế vẫn gần gũi thân thương

dịu dàng,chỉ có hoàn cảnh sống của con người đã thay đổi khiến

họ không nhận ra vẻ đẹp của vầng trăng tri kỉ ngày xưa hay chính

họ đã thờ ơ,họ quên đi.Thật xót xa cho vầng trăng tuổi thơ vầng

trăng đi bên nhau một thời chinh chiến như tri kỉ,vậy mà khi

người ta sống giữa phồn hoa đô thị thị nó lại bị lãng quên .Ánh

trăng đã đựơc tác giả nhân hoá để gửi gắm suy tư về nhân tình thế

thái.Lời thơ so sánh của Nguyễn Duy “vầng trăng đi qua ngõ, như

người dưng qua đường” như xoáy vào lòng người một nỗi niềm

xót xa nhức nhối,bới sự phản bội ở đây không chỉ với lịch sử,với

thiên nhiên mà còn với chính bản thân mình nữa.Cuộc đời như

một dòng sông khi duị êm lặng lẽ, lúc cuộn sóng trào dâng,bởi thế

cuộc sống thời hiện đại sao có thể êm đềm mãi cho được.

Thình lình đèn điện tắt

Phòng buyn_đinh tối om

Vội bật tung cửa sổ

Đột ngột vầng trăng tròn

Đây là khổ thơ quan trọng trong cấu tứ của toàn bài,là sự

chuyển biến có ý nghĩa bước ngoặt của mạch cảm xúc, bộc lộ rõ

71 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

chủ đề tư tưởng của bài thơ. Ở đây không chỉ là sự thay thế ánh

trăng cho ánh điện mà còn là sự thức tỉnh trong tiềm thức của con

người. Các từ “bật tung”, “đột ngột” diễn tả cảm xúc mạnh mẽ bất

ngờ có cái gì như là thoảng thốt âu lo trong hình ảnh”Vội bật tung

cửa sổ” Vầng trăng ấy đâu phải chỉ khi đèn điện tắt mới xuất hiện

mà nó vẫn nguyên vẹn như thế, tròn đầy như thế, dịu lành như

thế, vẫn lặng lẽ đi bên cạnh cuộc đời con người,nó làm sáng lên

cái góc tối đánh thức sự quên lãng trong cái đời sống đủ đầy đến

thừa thãi của con người.

Trong khoảng khắc thình lình đối diện với vầng trăng,một thời

kỉ niệm ân tình ngày xưa ùa về “rưng rưng” sống dậy thổn

thức,lay động da diết lòng người Ngửa mặt lên nhìn mặt.

Có cái gì rưng rưng

Như là đồng là bể

Như là sông là rừng

Hai chữ “mặt” trong một câu thơ là hai tấm lòng đang đối

diện:mặt trăng và mặt người.Hay chính là con người đang đối

diện với chính lòng mình,với cái phần ân tình quá khứ mà mình

đã vô tình lãng quên.Có cái gì đó trào dâng lên trong lòng

người,rưng rưng,cay xè và giọt lệ như sắp tuôn trào bên hàng

72 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

mi.Nhà văn Nam Cao đã từng nói rất đúng rằng:“Nước mắt là tấm

kính biến hình của vũ trụ” Nước mắt có thể thanh lọc tâm hồn con

người, khi nào người ta còn biết khóc là khi họ còn có một trái

tim,một tấm lòng để rung động và để yêu thương.Cái tốt lành

trong sáng đã hé nở trong hai chữa “rưng rưng” nao lòng người

ấy.Nguyễn Duy gặp lại ánh trăng như gặp lại một không gian tình

nghĩa: đồng bể, sông, rừng. Ánh trăng soi rọi tâm hồn, khiến nhà

thơ bừng tỉnh”.

Trăng cứ tròn vành vạnh

Kể chi người vô tình

Vầng trăng im phăng phắc

Đủ cho ta giật mình.

Khổ thơ kết bài của bài thơ là hai vế đối lập mà song song.

Đối lập giữa cái tròn đầy vạnh vạnh của vầng trăng là hao khuyết

thiếu hụt của kẻ đã vô tâm quên đi quá khứ _cái qua khứ ân tình

thuỷ chung mà họ “ngỡ không bao giờ quên”. Đối lập giữa cái im

lặng độ lượng của trăng là sự thức tỉnh trong lương tri con người.

Đối lập giữa hiện tại và quá khứ.Suy nghĩ của tác giả ở khổ thơ

này đã được nâng lên tầm cao triết lí.Nếu ai đó có lúc quên đi

những điều thiêng liêng tốt đẹp của quá khứ thì phải có những lúc

73 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

giật mình tỉnh thức trong hiện tại mới mong đạt được những ân

nghĩa tốt lành ở tương lai.Bởi đó là chân lí đã trở thành đạo lí của

người Việt ta:”Uống nước nhớ nguồn”.

“Ánh trăng” nhẹ nhàng,trong sáng về câu chữ,tự nhiên, thuần

thục về kết cấu,bình dị, dễ hiểu về ý thơ,tha thiết trong giọng

điệu.Bài thơ đã đem đến cho người đọc một bài học sâu sắc:con

người cần sống có trước có sau,có tình có nghĩa để không bao giờ

phải giật mình day dứt về những năm tháng vô tình hờ hững đã

qua.Dù XH ngày càng văn minh, hiện đại nhưng ánh trăng trên

trời cao và cả ánh trăng của Nguyễn Duy vẫn thật sự cần thiết với

mỗi con người bởi nó là tấm gương sáng nhất giúp chúng ta soi

vào để nhận ra những gì trong lành tinh khôi nhất của cuộc

đời.Vầng trăng soi sáng những tâm hồn vô tình lãng quên.

Phân tích khổ thơ đầu bài "Mùa xuân nho nhỏ"

Đề:Suy nghĩ của em về khổ thơ đầu bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh

Hải.

74 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

Nếu ở dòng văn học trung đại ta bắt gặp cảm xúc dâng trào trước vẻ đẹp

của thiên nhiên đất trời mùa xuân của đại thi hào Nguyễn Du:

“Cỏ non xanh tận chân trời

Cành lê trắng điểm một vào bông hoa”

thì với dòng thơ hiện đại,nối tiếp mạch cảm xúc ấy đến với một hồn thơ sắp kề

cận cát bụi- Thanh Hải nhưng tình yêu thiên nhiên đất trời vẫn luôn mãnh

liệt,luôn dâng trào qua khổ thơ mở đầu bài thơ “Mùa xuần nho nhỏ” viết tháng

11 năm 1980:

“ Mọc giữa dòng sông xanh

Một bông hoa tím biếc

Ơi con chim chiền chiện

Hót chi mà vang trời ”

Khổ thơ đẹp như một bức tranh với âm thanh,màu sắc,với sức xuân hài

hòa,sống động:

Từ “mọc” được đặt ở đầu câu với lối đảo ngữ tạo nên sự khỏe khoắn,tạo nên

sức sống tiềm ẩn,tạo nên sự vươn lên trỗi dậy.Giữa dòng sông rộng lớn ,không

gian mênh mông,chỉ một bông hoa thôi,một bông hoa tím biếc cũng làm nên

sức xuân,cũng làm nên ánh xuân lung linh sắc màu.Bức tranh xuân được tô

điểm với gam màu thật hài hòa,dịu nhẹ,tươi tắn: màu xanh lam của nước sông

Hương hài hòa cùng màu tím biếc của hoa,một màu tím thật giản dị,thủy

chung mà cũng thật mộng mơ,quyến rũ. Đó cũng chính là màu đặc trưng của

xứ Huế. 75 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

Đâu đó tiếng chim chiền chiện hót vang trời.Với những thán từ

”gọi”,”ơi”,”chi” mang chất giọng ngọt ngào,đáng yêu và đậm chất xứ Huế

mang nhiều màu sắc thái cảm xúc như một lời trách yêu. Khung cảnh mùa

xuân có không gian cao rộng,màu sắc tươi thắm,âm thanh vang vọng.Âm

thanh vang vọng,hót vang trời,một không gian bay bổng,đằm thắm,dịu

dàng.Mùa xuân trong thơ Thanh Hải chẳng có mai vàng,đào thắm cũng chẳng

có muôn sắc màu rực rỡ nhưng sao mà tất cả rộ lên sắc màu những âm thanh

đều đang ở độ tràn đầy nhựa sống.

Cảm xúc trước mùa xuân tươi đẹp của thiên nhiên đất trời sao mà say sưa,

ngây ngất, xốn xang đến thế.

“Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng”

Giọt long lanh phải chăng là giọt sương,giọt mưa,giọt nắng,giọt mùa

xuân hay giọt của âm thanh, giọt của hạnh phúc. Tiếng chim chiền chiện hót

vang trời nhưng không tan biến vào không trung mà ngưng đọng lại thành

từng giọt âm thanh như những giọt lưu ly trong vắt long lanh, chói ngời .Với

bút pháp ẩn dụ chuyển đổi cảm giác từ thính giác đến thị giác và xúc

giác”hứng” đó là sự trân trọng vẻ đẹp của thi nhân đối với vẻ đẹp của sự sống

,của đất trời,của chim đó cũng là sự đồng cảm của thi nhân

trước thiên nhiên,cuộc đời.

76 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

SUY NGHĨ VỀ HAI KHỔ THƠ CUỐI CỦA BÀI THƠ " MÙA XUÂN

NHO NHỎ"

Đề : Suy nghĩ của em về hai khổ thơ trích trong bài “ Mùa xuân nho nhỏ”

của Thanh Hải :

Bài làm

Như chúng ta đã biết, mùa xuân là mùa hội tụ của các thi sĩ, là một mùa mang

đậm chất thơ, cũng giống như các nhà thơ khác, nhà thơ Thanh Hải cũng đã

cảm nhận được mùa xuân để sáng tác bài thơ “ Mùa xuân nho nhỏ” để thể

hiện ước nguyện nhỏ nhoi, cuối cùng trong đời của ông trước khi từ trần. ông

đã để lại cho kho tàng văn học Việt Nam một bài thơ rất đặc sắc, đơn giản mà

ấn đậm những dòng cảm xúc, ước nguyện của ông, điển hình qua hai khổ thơ

trong bài :

Ta làm con chim hót

Ta làm một cành hoa

Ta nhập vào hòa ca

Một nốt trầm xao xuyến.

Một mùa xuân nho nhỏ

Lặng lẽ dâng cho đời

Dù là tuổi hai mươi

77 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

Dù là khi tóc bạc.

Ôi, chỉ vẻn vẹn hai khổ thơ thôi mà ta thấm nhuần được biết bao nhiêu cảm

xúc. Tác giả muốn hóa thân vào những cảnh vật mà mình đang thấy, đang

nghe trước mắt. Từ “ta” của tác giả không chỉ là cảm xúc chung của mọi

người mà là chỉ riêng tác giả thôi, tác giả chỉ muốn một mình dâng hiến cho

cuộc đời, cho đất nước. “Ta làm con chim hót”, ôi…câu thơ nghe êm ái làm

sao, ước nguyện của tác giả thật khiêm tốn, chỉ muốn làm một con chim trong

muôn vàn loài chim trên đất nước, chỉ muốn cất một tiếng hót trong bao nhiêu

rung động của đất trời góp thêm một sắc xuân nhỏ nhoi cho đất nước. Kế nữa,

tác giả lại muốn làm một cành hoa, có lẽ chỉ là một cành hoa dại ven đường

thôi, cành hoa mang một màu sắc nhẹ nhàng và quyến rũ, một cành hoa của

“mùa xuân nho nhỏ” chen chút với bao cành hoa đẹp đẽ, quí hiếm khác để đi

vào cái “mùa xuân của đất nước” một niềm khao khát nhưng đáng quí biết

bao! Đẹp đẽ biết bao! Sau đó tác giả lại muốn nhập vào một bài ca chỉ bởi

“một nốt trầm xao xuyến”, chỉ một nốt trầm trong một bài ca thôi, một nốt

trầm mà khi nghe xong ta lại còn vương vấn. Tác giả muốn cất lên một âm

vọng bình thường mà lặng lẽ, muốn góp thêm cho cuộc đời một nốt nhạc

trong những âm vang hấp dẫm hơn khi đất nước đang bước vào một mùa xuân

rực rỡ.

Một mùa xuân nho nhỏ

Lặng lẽ dâng cho đời.

Đến đây, có lẽ giọng thơ đã trầm lại. Bây giờ, tác giả đã muốn dâng cả

cuộc đời mình cho đất nước, nhưng thực chất lại là dâng một cái rất nhỏ “một

mùa xuân nho nhỏ”, tuy mùa xuân cũa tác giả nhỏ nhưng nó là cả hàng triệu 78 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

trái tim của những con người Việt Nam dâng cho đất nước một mùa xuân, một

mùa xuân trong một mùa xuân rộng lớn của đất nước. Thanh Hải âm thầm,

“lặng lẽ dâng cho đời” một món quà rất đặc biệt, đó là “mùa xuân nho nhỏ”,

một mùa xuân mà chưa ai nghĩ đến. Thơ rất độc đáo, rất hay và rất tình cảm.

Tác giả luôn muốn cống hiến tất cả cuộc đời mình vào đất nước dù ở bất cứ

thời điểm nào của cuộc đời :

Dù là tuổi hai mươi

Dù là khi tóc bạc.

Điệp từ “dù” nó như là một lời hứa, một sự khẳng định là mãi mãi, là vĩnh

viễn sẽ không bao giờ phai theo thời gian. Dù khi còn trẻ hay khi đã già thì tác

giả vẫn cống hiến. tác giả thật là một người đáng khâm phục, một người rất

thơ, rất tình cảm!

Với những âm điệu rộn ràng, rồi lại trầm lặng, từ ngữ sâu sắc, luyến láy rất

vần tác giả đã đưa ta một “Mùa xuân nho nhỏ” của riêng mình để rồi ước

nguyện cùng tác giả. Chỉ những hình ảnh ước muốn: con chim, cành hoa, một

nốt trầm trong một bản hòa ca,… mà tác giả khiến ta thấu được biết bao nhiêu

là tình cảm. Những ước nguyện thật khiêm tốn giản đơn mà lại đầy ý nghĩa,

tác giả thật là một người đáng kính nể! Luôn muốn dâng hết tất cả cuộc đời

mình cho đất nước. Gấp trang sách lại, em lại cảm thấy một cái gì đó bồi hồi,

xao xuyến muốn đọc lại lần nữa. Những ước nguyện nhỏ nhoi, khiêm tốn của

tác giả lại khiến cho ngưới đọc động lòng. Thật độc đáo!

Cảm nhận về bài thơ mùa xuân nho nhỏ

79 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

 Trước lúc vĩnh viễn ra đi ông cũng để lại cho đời những vần thơ thật

nhân hậu, thiết tha và thanh thản, không hề gợn một nét u buồn nào của

một cuộc đời sắp tắt. Khi cuộc đời mình đã bước vào cuối đông, nhà thơ

vẫn nghĩ đến một mùa xuân bất diệt, muôn thuở và nguyện dâng hiến

cho đời.

Hình ảnh của một mùa xuân rất Huế đã được tác giả mở đầu cho bài

thơ:

“Mọc giữa dòng sông xanh

Một bông hoa tím biếc.

Ơi con chim chiền chiện

Hót cho mà vang trời,

Từng giọt long lanh rơi,

Tôi đưa tay tôi hứng”

Đây là bức tranh mùa xuân được vẽ lên bằng tâm hồn của người nghệ

sĩ với những nét chấm phá rất dễ thương rất tuyệt vời, một nét đặc trưng

rất Huế đó là hình ảnh màu "tím biếc " của "một bông hoa" hòa với màu

"xanh" của "dòng sông". Một màu tím thật gợn nhẹ như màu tím hoa

sim mọc giữa con sông xanh biếc hay như những tà áo dài với màu tím

thật nhẹ nhàng của những cô gái Huế. Cả hai màu sắc đều rất hài hòa

như vẫy gọi mùa xuân. Động từ "Mọc" xuất hiện một cách đột ngột

trong câu thơ như một lời báo hiệu của sự trỗi dậy của sức vươn lên

mạnh mẽ của một bông hoa giữa bốn bề sông nước mênh mông rộng

lớn. Cả hai hình ảnh "dòng sông xanh" và "hoa tím biết" ấy gợi lên trong

lòng người đọc một bức tranh mùa xuân tươi đẹp, tràn đầy sức sống

80 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

Bức tranh xứ Huế vào xuân lại càng sinh động hơn bởi tiếng hót líu lo

của chim chiền chiện:

“Ơi con chim chiền chiện

Hót cho mà vang trời,

Từng giọt long lanh rơi,

Tôi đưa tay tôi hứng”.

Tiếng hót của chim chiền chiện vút cao, lãnh lót như mở thêm không

gian, gợi cảm, trong trẻo, đáng yêu. Từ cảm thán “Ơi” đặt ở đầu câu,

một từ “chi” đứng sau động từ “hát” đã đưa cách nói ngọt ngào, thân

thương của Huế vào nhạc điệu của thơ tạo cho ta một cảm giác bình yên,

sự dịu dàng tha thiết của xứ Huế cố đô. Tác giả lắng nghe tiếng chim

hót, nghe bằng tai chưa đủ, nhà thơ còn nghe bằng của trái tim xao động,

bằng trí tưởng tượng, bằng sự liên tưởng độc đáo. Từ “giọt” được hiểu

theo rất nhiều nghĩa: có thể là “giọt nắng bên thềm”, giọt mưa xuân, giọt

sương sớm, tiếng hót của những chú chim chiền chiện hay là giột nước

mắt hạnh phúc của tác giả? Sự chuyển đổi cảm giác trong tác giả thật kì

lạ từ thị giác sang thính giác và giờ là xúc giác "tôi đưa tay tôi hứng" Sự

chuyển đổi cảm giác này thể hiện sự say sưa, ngây ngất, nâng niu của

nhà thơ trước vẻ đẹp của thiên nhiên, đất trời vào xuân. Niểm vui đó,

niềm hạnh phúc đó hoàn toàn khác với tâm trạng buồn chán trước cảnh

xuân đất nước đang đắm chìm trong đêm đen nô lệ:

Tôi có chờ đâu, có đợi đâu,

Đem chi xuân đến gợi thêm sầu?

Với tôi, tất cả như vô nghĩa,

81 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau!

Với những vầng thơ giản dị nhưng Thanh Hải vẫn miêu tả được mùa

xuân cách mạng quê hương của tác giả:

“Mùa xuân người cầm súng,

Lộc giắt đầy trên lưng.

Mùa xuân người ra đồng,

Lộc trãi dài nương mạ.

Tất cả như hối hả,

Tất cả như xôn xao…”

Hai câu thơ đầu tác giả muốn nhấn mạnh đến mùa xuân của người cầm

súng và của người ra đồng biểu thị cho hai nhiệm vụ chính lúc bấy giờ là

bảo vệ và xây dưng đất nước. Từ "Lộc" có hai tầng nghĩa: "Lộc" có

nghĩa đen là cành non, lá mới, là cành lá ngụy trang trên lưng người

chiến sĩ ra mặt trận. "Lộc" còn là mạ non theo chận người nông dân ra

đồng ruộng. Với biện pháp ẩn dụ "Lộc" còn mang ý nghĩa tượng trưng

hơ. "Lộc" biểu thị cho một niềm tin, một sức sống, là sự trẻ trung vươn

lên quyết giành chiến thắng, giành lấy những kết quả tốt đẹp, đem sự

bình yên đến với mọi nhà. Mà chính người chiến sĩ sẽ mang mùa xuân

yên vui đến cho mọi nơi trên đất nước. "Lộc" tượng trưng cho sự ấm no,

"trúng mùa" của công việc sản xuất. Người dân lao động muốn mình

cống hiến hết sức lực, tài năng vào công việc xây dựng quê hương ngày

một giàu mạnh bởi vậy tất cả mọi người đều tự nguyện:

"Tất cả như hối hả,

Tất cả như xôn xao…

82 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

Điệp từ "tất cả" xuất hiện liên tục nhấn mạnh đây là nhiệm vụ chung

của mỗi người. Từ láy "hối hả", "xôn xao" gợi hình gợi tả thể hiện nhịp

độ khẩn trương, tươi vui, thể hiện nhiệt tình và trách nhiệm của những

con người đang bắt tay xây dựng chủa nghĩa xã hội.

Sức sống của “mùa xuân đất nước” còn được cảm nhận qua nhịp

điệu hối hả, những âm thanh xôn xao của đất nước bốn ngàn năm, trải

qua biết bao vất vả và gian lao để vươn lên phía trước và mãi khi mùa

xuân về lại được tiếp thêm sức sống để bừng dậy, được hình dung qua

hình ảnh so sánh rất đẹp:

“Đất nước bốn ngàn năm

Vất và vào gian lao

Đất nước như vì sao

Cứ đi lên phía trước”

Một lời tổng kết về lịch sử đất nước “bốn ngàn năm” với bao “vất vả”,

“gian lao” bao nhiêu sóng gió thăng trầm. Để ca ngợi truyền thống đó,

Nguyễn Trãi đã từng viết:

"Như nước Đại Việt ta từ trước

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu"

Không tự hào sao được khi đất nước đi lên từ “vất và”, “gian lao”. Từ

ngữ giản dị nhưng cũng đã tái hiện cuộc hành trình lịch sử của dân tộc ta

khi chiến tranh cũng như thiên tai “sáng chống bão dông, chiều ngăn

nắng lửa”, đói nghèo không buông. Đúng là:

“Việt nam ơi việt nam

Riếng súng tiếng gươm không bao giờ dứt

83 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

Bởi Tổ quốc ta không bao giờ chịu nhục

Dân tộc ta không chịu cuối đầu”

Thế nhưng đất nước vẫn vươn mình về phía trước, vẫn rạng ngời “như vì

sao”

“Đất nước như vì sao

Cứ đi lên phía trước"

Cách so sánh đầy ấn tượng. Một vì sao lấp lánh không chói lọi nhưng

bền vững, trường tồn. Vì sao ấy còn là lá cờ Tổ quốc cứ tung bay, hãnh

hiện cùng bạn bè năm châu bốn bể. Từ “cứ” khẳng định mãnh mẽ qui

luật tất yếu “cứ đi lên phía trước” của dân tộc ta. Đó là niềm tin của tác

giả vào sức sống của dân tộc, vào sự phát triển khổng ngừng của đất

nước.

Từ cảm xúc của thiên nhiên, đất nước, mạch thơ đã chuyển một cách tự

nhiên sang bày tỏ suy ngẫm và tâm niệm của nhà thơ trước mùa xuân

của đất nước. Mùa xuân của thiên nhiên, đất nước thường gợi lên ở mỗi

con người niềm khát khao và hi vọng; với Thanh Hải cũng thế, đây

chính là thời điểm mà ông nhìn lại cuộc đời và bộc bạch tâm niệm thiết

tha của một nhà cách mạng, một nhà thơ đã gắn bó trọn đời với đất

nước, quê hương với một khát vọng cân thành và tha thiết:

“Ta làm con chim hót,

Ta làm một cành hoa.

Ta nhập vào hoà ca,

Một nốt trầm xao xuyến”

Lời thơ như ngân lên thành lời ca. Nếu như đoạn đầu Thanh Hải xưng

84 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

tôi kín đáo và lặng lẽ thì đến đoạn này ông chuyển giọng xưng ta. Vì sao

có sự thay đổi như vậy? Ta ở đây là nhà thơ và cũng chính là tất cả mọi

người. Khát vọng của ông là được làm con chim hót, một cành hoa để

hoà nhập vào “mùa xuân lớn” của đất nước, góp một nốt trầm vào bản

hoà ca bất tận của cuộc đời. Hiến dâng “mùa xuân nho nhỏ” nghĩa là tất

cả những gì tốt đẹp nhất, dù nhỏ bé của mỗi người cho cuộc đời chung

cho đất nước. Điều tâm niệm đó thật chân thành, giản dị và tha thiết –

xin được làm một nốt trầm trong bản hoà ca của cuộc đời nhưng là “một

nốt trầm xao xuyến”. Điều tâm niệm của tác giả: “lặng lẽ dâng cho đời”

chính là khát vọng chung của mọi người, ở mọi lứa tuổi, chứ đâu phải

của riêng ai. Thanh Hải đã thể hiện hết mình vì lòng tin yêu cuộc sống

và khiêm tốn hiến dâng cho đất nước, cho cuộc đời, bởi vậy, xuất phát từ

tiếng lòng thiết tha, nhỏ nhẹ, chân thành của tác giả nên lời thơ dễ dàng

được mọi người tiếp nhận và chia sẻ cho nhau. Quan niệm sống ấy của

Thanh Hải thật giống với quan niệm sống của Tố Hữu:

 “Nếu là con chim, chiếc lá,

Con chim phải hót, chiếc lá phải xanh

Lẽ nào vay mà không trả,

Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình.”

Đến khổ thơ tiếp theo, tác giả đã giúp ta hiểu rõ hơn nhan đề của bài thơ

– Mùa xuân nho nhỏ:

“Một mùa xuân nho nhỏ

Lặng lẽ dâng cho đời

Dù là tuổi hai mươi

85 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

Dù là khi tóc bạc”.

“Mùa xuân” là ý niệm chỉ thời gian nhưng “mùa xuân nho nhỏ ở đây

của tác giả đã trở thành lẽ sống đẹp, lý tưởng. “Lặng lẽ dâng” ước vông

tha thiết khiêm tốn cả cuộ đời cho đi mà không hề đòi hỏi. “Lặng lẽ”

một hành động âm thần, tự nguyện không ồn ào, khồng cần mọi người

biết đến. Đã gọi là cống hiến cho đời thì dù ở tuổi nào đi chăng nữa cũng

phải luôn biết cố gắng hết tâm trí để phục vụ và hiến dâng cho quê

hương, đất nước mến yêu của chính mình. Già - cống hiến tuổi già, trẻ -

cống hiến sức trẻ để không bao giờ thất vọng trước chính bản thân mình.

Thật cảm động và kính phục biết bao khi đọc những vần thơ như lời

tổng kết của cuộc đời. “Dù là tuổi hai mươi” khi mới tham gia kháng

chiến cho đến khi tóc bạc là thời điểm hiện thời vẫn lặng lẽ dâng hiến

cho đời và bài thơ này là một trong những bài thơ cuối cùng. “Một mùa

xuân nho nhỏ” cuối cùng của Thanh Hải dâng tặng cho đời trước lúc ông

bước vào thế giới cực lạc, chuẩn bị ra đi mãi mãi.

Kết thúc bài thơ bằng một âm điệu xứ Huế: điệu Nam ai, Nam Bình

mênh mang tha thiết, là lời ngợi ca đất nước, biểu hiện niềm tin yêu và

gắn bó sâu nặng của tác giả với quê hương, đất nước, một câu chân tình

thắm thiết:

“Mùa xuân ta xin hát

Câu Nam ai, Nam Bình

Nước non ngàn dặm tình

Nước non ngàn dặm mình

Nhịp phách tiền đất Huế”

86 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

Những lời tâm sự cuối cùng của người sắp mất luôn là những lời

thực sự, luôn chứa chan tình cảm, ước nguyện sâu lắng nhất… và bài thơ

này cũng chính là những điều đúc kết cả cuộc đời của ông. Ông đã giải

bày, tâm tình những điều sâu kín nhất trong lòng, và chính lúc đó Thanh

Hải đã thả hồn vào thơ, cùng chung một nhịp đập với thơ để ông và thơ

luôn được cùng nhau, hiểu nhau và giải bày cho nhau.

Tóm lại bài thơ đã sử dụng thể thơ năm chữ, mang âm

hưởng dân ca nhẹ nhàng tha thiết, giàu hình ảnh, nhạc điệu, cất trúc thơ

chặt chẽ, giọng điệu đã thể hiện đúng tâm trạng, cảm xúc của tác giả.

Nét đặc sắc của bài thơ là ở chỗ nó đề cập đến một vấn đề lớn và quan

trọng “nhân sinh”, vấn đề ý nghĩa cuộc sống của mỗi cá nhân được

Thanh Hải thể hiện một cách chân thành, thiết tha, bằng giọng văn nhỏ

nhẹ như một lời tâm sự, gửi gắm của mình với cuộc đời. Nhà thơ ước

nguyện làm một “mùa xuân” nghĩa là sống đẹp, sống với tất cả sức sống

tươi trẻ của mình nhưng rất khiêm nhường; là “một mùa xuân nho nhỏ”

góp vào “mùa xuân lớn” của đất nước của cuộc đời chung và bài thơ

cũng có ý nghĩa hơn khi Thanh Hải nói về “mùa xuân nho nhỏ” nhưng

nói được tình cảm lớn, những xúc động của chính tác giả và của cả

chúng ta.

Viếng lăng Bác

Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị cha già kính yêu của dân tộc Việt Nam – đã cống

hiến trọn đời mình vì sự nghiệp giải phóng đất nước. Người ra đi năm 1969,

87 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

để lại biết bao nỗi thương nhớ và xót xa cho Tổ quốc. Có nhiều nhà thơ đã

viết bài thơ tưởng nhớ về Bác, và "Viếng lăng Bác” của Viễn Phương là một

trong những bài thơ xuất sắc nhất. Chúng ta hãy cùng đến với bài thơ để cảm

nhận được cảm xúc ấy.

"Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”

Năm 1976, sau ngày đất nước ta được hoàn toàn giải phóng, lăng Bác được

khánh thành. Nhà thơ Viễn Phương từ miền Nam đã ra thăm lăng Bác. Cảm

xúc dâng trào, nhà thơ đã làm một bài thơ như một lời bộc bạch chân tình của

hàng triệu người con miền Nam với Bác. Đây là một bài thơ đặc sắc, giàu ý

nghĩa, làm cho người đọc xúc động.khổ thơ đầu là những dòng cảm xúc ban

đầu của nhà thơ khi được lần đầu đến thăm lăng Bác: một chút tự hào, xen lẫn

vui sướng, lẫn xúc động khi sắp đc kề cận bên Ng` cha thân yêu của dân

tộc.Bằng những hình ảnh ẩn dụ giàu sức gợi, nhôn ngữ bình dị mà hàm súc,

tinh tế, đoạn thơ đã để lại trong lòng người đọc những cảm xúc vô cùng sâu

sắc.khổ cuối bài thơ như những nốt nhạc du dương, trầm bổng, réo rắt như

tấm lòng tha thiết yêu mến của nhà thơ với Bác. Bằng những ngôn từ ẩn dụ

đặc sắc,từ ngữ bình dị mà giàu sức gợi, câu thơ đã khơi gợi trong lòng người

đọc những rung động sâu sắc và đáng quý.

Bài thơ được phân chia theo bố cục thời gian, và khổ thơ đầu tiên nói về

cảm xúc của tác giả khi nhìn thấy lăng Bác từ xa.

"Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”

Câu thơ đầu tiên thật ngắn gọn nhưng nó lại là một lời tâm sự chân tình của

nhà thơ cũng như hàng triệu người con miền Nam. Một tiếng "con” thật ấm 88 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

áp, gần gũi, thể hiện lòng kính yêu to lớn đối với Bác. Bác thật gần gũi với

người dân, như là một vị cha già của dân tộc. "Con ở miền Nam” - mấy tiếng

ấy bao hàm một nỗi đau và một niềm tự hào. Miền Nam gian khổ và anh

hùng, miền Nam đi trước về sau, miền Nam thành đồng Tổ quốc, miền Nam

vừa chiến thắng kẻ thù hung bạo trở về trong đại gia đình Việt Nam đây Bác

ơi! Nhà thơ mong nhìn thấy Bác một lần sau khi đất nước đã giải phóng

nhưng thật đau xót, Bác đã không còn. Vì vậy, từ "viếng” đã được nhà thơ

thay bằng từ "thăm” để giảm nhẹ nỗi đau cũng như bày tỏ niềm tin rằng Bác

vẫn sống mãi.

"Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát

Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam

Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”

Đập vào mắt nhà thơ là hình ảnh hàng tre xanh ngắt trước lăng Bác. Cây tre -

biểu tượng cho sự bất khuất, kiên cường nhưng giản dị, thanh cao của người

dân Việt Nam – đã để lại một dấu ấn đậm nét trong lòng tác giả trước khi

bước vào lăng Bác. Hàng tre bát ngát – Hàng tre xanh xanh – Hàng tre Việt

Nam: hàng tre bao đời như một dấu hịêu đặc biệt của dân tộc. Hàng tre trùm

bóng mát rượi lên bao thế hệ cuộc đời, hàng tre mang bao phẩm chất của con

người Tổ quốc ta: dẻo dai, đoàn kết, bất khuất, kiên cường. Ở Bác có tất cả

những gì mà những con người Việt Nam từng có, cũng cái dấu hiệu xanh tươi

sự sống ấy, cũng cái kiên cường "đứng thẳng hàng” trong "bão táp mưa sa”

ấy. Dân tộc ta thật sự có sức sống mãnh liệt, cho dù những thử thách của thiên

nhiên, của lịch sử có khắc nghiệt cách mấy thì vẫn kiên cường chống chọi, và

vẫn cố gắng đứng thẳng chứ nhất quyết không chịu bị bẻ cong. Hàng tre đứng 89 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

đó, bên lăng Bác như ru giấc ngủ ngàn thu của Bác, gắn bó mãi mãi với Bác

như dân tộc Việt Nam vẫn kính trọng Bác mãi mãi.

Đến gần lăng Bác, xếp hàng vào viếng thì tác giả có thêm nhiều cảm xúc mới.

"Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng

Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”

Hai câu thơ sinh động với nhiều hình ảnh gợi cảm được tạo nên từ những

hình ảnh thực và hình ảnh ẩn dụ sóng đôi với nhau. Một mặt trời thực đi qua

trên lăng, là mặt trời của tự nhiên, của muôn loài, soi sáng cho muôn loài, đem

lại sức sống cho thế giới. Từ mặt trời thật ấy, một mặt trời ẩn dụ khác hiện ra

trong lăng, rất đỏ. Bác nằm trong lăng với ánh sáng đỏ xung quanh như một

mặt trời. Bác tồn tại vĩnh cửu trong lòng mỗi người dân Việt Nam như sự tồn

tại của một mặt trời thật. Bác soi sáng đường cho dân tộc ta đi, cống hiến cả

cuộc đời cho sự nghiệp giành độc lập của Tổ quốc. Bác giúp nhân dân ta thoát

khỏi kiếp sống nô lệ, trở thành một con người tự do để bây giờ được hạnh

phúc. Công lao của Bác đối với dân tộc ta cũng như mặt trời, to lớn không kể

xiết. Bác là một mặt trời. Cái ẩn dụ mặt trời ở đây không biết đã đủ nói về Bác

chưa ?. Không, nếu nói Bác là mặt trời thì phải nhấn mạnh thêm cho rõ cái

đặc tính của vầng mặt trời ấy: rất đỏ. Cái mặt trời đang tỏa sáng trên cao kia,

cái mặt trời của thiên nhiên, tượng trưng của nguồn nóng, nguồn sáng, nguồn

sự sống ấy, không phải bao giờ cũng nguyên vẹn thế đâu, không phải lúc nào

cũng ấm nóng thế đâu! Vầng mặt trời ấy có thể bị bóng đêm lấn át. Nhưng

vầng mặt trời Bác Hồ của ta thì mãi mãi đỏ thắm, mãi mãi là nguồn sưởi ấm,

nguồn sáng soi đường cho con người Việt Nam. Hôm nay có hai mặt trời

chiếu rọi trên đường đời: một mặt trời tỏa sáng trước mặt, một mặt trời tỏa 90 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

sáng tâm hồn…Như mặt trời kia, Bác thuộc về vĩnh cửu. Bác sẽ sống mãi

trong lòng mỗi con người Việt Nam.

"Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ

Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân…”

Cùng với mặt trời đi qua trên lăng, ngày ngày dòng người vẫn đi qua

lăng trong thương nhớ. Điệp ngữ "ngày ngày” ý nói rằng nhân dân ta mãi luôn

ghi nhớ công lao to lớn của Bác, mãi mãi là như vậy. Nhịp thơ của đoạn

chậm, diễn tả đúng tâm trạng khi đứng xếp hàng trước lăng chờ đến lượt vào,

ngậm ngùi tưởng nhớ đến Bác đã khuất. Tuy vậy, nhịp thơ chầm chậm như

bước chân người đi trong cuộc tưởng niệm mà sao câu thơ vẫn không buồn ?

Phải rồi. Chúng ta không làm cái việc tưởng niệm bình thường với Bác như

một người đã khuất. Dòng người đang đi đây là đang đi trong cuộc hành trình

ngợi ca vinh quang của Bác. Và tràng hoa vinh quang này không phải được

kết bằng những bông hoa bình thường như mọi tràng hoa vinh hiển khác trên

đời đâu. Tràng hoa đây là một hình ảnh ẩn dụ của tác giả, đó chính là những

đoá hoa thật sự của đời, là đàn con mà Bác đã cố công tạo nên suốt bảy mươi

chín mùa xuân Bác sống trên đời. Những bông hoa trong vườn Bác nay đã lớn

lên, nở rộ ngát hương kính dâng lên Bác.

Vào bên trong lăng Bác, thấy Bác đang nằm đó, nhà thơ lại một lần nữa cố

giấu tiếng nấc nghẹn ngào:

"Bác nằm trong giấc ngủ bình yên

Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền”

Khung cảnh bên trong lăng thật êm dịu, thanh bình. Lúc này, trước mặt

mọi người chỉ có hình ảnh Bác. Bác nằm đó trong giấc ngủ vĩnh hằng. Bác 91 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

mất thật rồi sao? Không đâu. Bác chỉ nằm đó ngủ thôi, Bác chỉ ngủ thôi mà!

Suốt bảy mươi chín năm cống hiến cho đất nước, bây giờ đất nước đã bình

yên, Bác phải được nghỉ ngơi chứ. Bao quanh giấc ngủ của Bác là một "vầng

trăng sáng dịu hiền”. Đó là hình ảnh ẩn dụ cho những năm tháng làm việc của

Bác, lúc nào cũng có vầng trăng bên cạnh bầu bạn. Từ giữa chốn tù đày, đến

"cảnh khuya” núi rừng Việt Bắc, rồi "nguyên tiêu”…Tuy vậy, Bác chưa bao

giờ thảnh thơi để ngắm trăng đúng nghĩa. Khi thì "trong tù không rựơu cũng

không hoa”, khi thì "việc quân đang bận”. Chỉ có bây giờ, trong giấc ngủ yên,

vầng trăng ấy mới thật sự là vầng trăng yên bình, để Bác nghỉ ngơi và ngắm.

Trăng dịu hiền, soi sáng hình ảnh Bác. Nhìn Bác ngủ ở đấy thật bình yên,

nhưng có một sự thật dù đau lòng cách mấy ta vẫn phải chấp nhận: Bác đã thật

sự ra đi mãi mãi.

"Vẫn biết trời xanh là mãi mãi

Mà sao nghe nhói ở trong tim!”

Trời xanh bao la kia kéo dài đến vô tận, không bao giờ chấm dứt. Dù lí trí vẫn

luôn trấn an lòng mình rằng Bác vẫn sống đấy, vẫn còn dõi theo Tổ quốc mãi

mãi như màu xanh thanh bình trên nền trời Tổ quốc độc lập nhưng con tim ta

vẫn nhói đau vì một sự thật đau lòng. Một từ "nhói” của nhà thơ nói hộ ta nỗi

đau đớn, nỗi đau vượt lên mọi lí lẽ, mọi lập luận lí trí. Bác như trời xanh, Bác

là mãi mãi, Bác vẫn sống trong tâm tưởng mỗi chúng ta, Bác mãi hiện diện

trên mỗi phần đất, mỗi thành quả, mỗi phần tử tạo nên đất nước này. Nhưng

mà Bác mất thật rồi, ta không còn có Bác trong cuộc đời thường này. Mất

Bác, cái thiếu vắng ấy liệu có thể nào bù đắp được? Tổ quốc ta đã thật sự

không còn Bác dõi theo từng bước chân, không còn được Bác nâng đỡ mỗi 92 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

khi vấp ngã. Bác ra đi, nỗi đau ấy liệu có từ ngữ nào diễn tả hết? Cả đàn con

Việt Nam luôn tiếc thương Bác, luôn nhớ về Bác như một cái gì đó thật vĩ đại,

không thể xoá nhoà. Dù Bác ra đi thật sự rồi nhưng những điều Bác đã làm

vẫn sẽ đọng lại trong tâm hồn, hình ảnh Bác vẫn tồn tại trường kì trong trái

tim mỗi người dân Việt Nam.

Cuối cùng dẫu thương tiếc Bác đến mấy, cũng đến lúc phải rời lăng Bác để ra

về. Khổ thơ cuối như một lời từ biệt đầy xúc động:

"Mai về miền Nam thương trào nước mắt”

Ngày mai phải rời xa Bác rồi. Một tiếng "thương của miền Nam” lại vang

lên, gợi về miền đất xa xôi của Tổ quốc, một nơi từng có vị trí sâu sắc trong

trái tim người. Một tiếng "thương” ấy là yêu, là biết ơn, là kính trọng cuộc đời

cao thượng, vĩ đại của Người. Đó là tiếng thương của nỗi đau xót khi mất Bác.

Thương Bác lắm, nước mắt trào ra, thật đúng là tình thương của người Việt

Nam, vô bờ bến và rất thật.

"Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”

Cùng với nỗi niềm yêu thương vô hạn, tác giả nói lên muôn vàn lời tự

nguyện. Điệp ngữ "muốn làm” khẳng định mạnh mẽ những ước nguyện ấy.

Ước chi ta có thể biến hình thành những gì thân yêu quanh nơi Bác ngủ để

mãi mãi được chiêm ngưỡng Bác, cuộc đời và tâm hồn của Bác, để bày tỏ

lòng ta với Bác. Một con chim nhỏ góp tiếng hót làm vui những bình minh

của Bác, một đóa hoa góp mùi hương làm thơm không gian quanh Bác hay

một cây tre trong hàng tre xanh xanh VN tỏa bóng mát dịu dàng quê hương 93 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

của Bác, tất cả đều làm Bác vui và ngủ an giấc hơn. Đây cũng chính là nguyện

ước chân thành, sâu sắc của hàng triệu con tim người Việt sau một lần ra thăm

lăng Bác. Bác ơi! Bác hãy ngủ lại bình yên nhé, chúng cháu về miền Nam tiếp

tục xây dựng Tổ quốc từ nền móng Bác đã tạo ra đây! Câu thơ trầm xuống để

kết thùc, ngừng lặng hòan toàn.

Về nghệ thuật, bài thơ Viếng lăng Bác có nhiều điểm nghệ thuật rất đặc

sắc, giúp biểu hiện thành công thêm về những giá trị nội dung. Bài thơ viết

theo thể tám chữ, trong có có xen một vài câu bảy và chín chữ. Nhiều hình

ảnh trong bài thơ lấy từ ngoài đời thực đã được ẩn dụ, trở thành một cách thể

hiện cảm xúc thành kính của tác giả. Nhịp thơ của bài linh hoạt, lúc nhanh là

biểu hiện cho ước nguyện đền đáp công ơn Bác, lúc chậm là lúc thể hiện lòng

thành kính với Bác. Giọng điêu của bài trang trọng, tha thiết, ngôn ngữ thơ

bình dị mà cô đúc.

Bằng những từ ngữ, lời lẽ chân thành, giàu cảm xúc, nhà thơ Viễn

Phương đã bày tỏ được niềm xúc động cùng lòng biết ơn sâu sắc đến Bác

trong một dịp ra miền Bắc viếng lăng Bác. Bài thơ như một tiếng nói chung

của toàn thể nhân dân Việt Nam, biểu lộ niềm đau xót khi thấy Bác kính yêu

ra đi. Qua bài thơ, tôi cảm thấy rằng đất nước ta có hoà bình như ngày hôm

nay một phần lớn là nhờ công lao của Bác, như vậy chúng ta cần phải biết xây

dựng và bảo vệ Tổ quốc ta, để những công ơn to lớn của Bác không bị bỏ phí.

Phân tích khổ thơ thứ ba bài viếng lăng bác

94 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

Viễn Phương là nhà thơ có nhiều đóng góp cho nền văn học giải phóng . Sự

liên tưởng và sáng tạo nghệ thuật trong thơ của ông thường bắt đầu từ tình yêu

và cảm xúc . Điều đó càng đc thể hiện rõ trong tác phẩm Viếng Lăng Bác ông

viết vào 4-1976 . Bài thơ là đỉnh điểm của niềm xúc động vô biên khi nhà thơ

đc ra Hà Nội viếng lăng Bác . Khoẳnh khắc viếng lăng đã để lại những dư âm

trong sâu thẳm tâm trí nhà thơ để từ đó có một tiếng vọng tha thiết vào thơ .

Qua t/yêu thương , niềm tự hào và thái độ t/kính của t/giả . H/ả bác hiện lên

thật thiêng liêng , cao đẹp . Trong đó có đoạn :

Bác nằm trong giấc ngủ bình yên

Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền

Vẫn biết trời xanh là mãi mãi

Mà sao nghe nhói ở trong tim

Khổ thơ miêu tả cảnh trong lăng vs rất nhiều h/ảnh có giá trị nghệ thuật cao

và đc chia làm 2 phần rất rõ ràng . Hai cầu đầu miêu tả cảm nhận của nhà thơ

về cái chết của Bác.Với hai câu sau tâm trạng của nhà thơ đã thay đổi hẳn thể

nỗi đau đớn của tác giả trước sự thật Bác đã ra đi mãi mãi . Giọng điệu bài thơ

lắng lại , nghẹn ngào . Được tận mắt chiêm ngưỡng Bác kính yêu nhà thơ như

quên đi sự thật – Bác đã qua đời – mà ông tưởng như người đang ngon giấc

trog giấc ngủ bình yên sau những bộn bề bận rộn của công việc . Ánh sang

xanh nhạt của những ngọn đèn neon tỏa dịu dàng trong trẻo khiến nhà thơ ngỡ

như Bác đang yên giấc dưới ánh sang của vầng trăng . Dùng hình ảnh này và

kết hợp vs phép tu từ ẩn dụ , phép nói giảm đã làm cho những cảm xúc của

câu thơ càng trân trọng thiêng liêng . Sự liên tưởng sang tạo nghệ thuật trong

thơ thường xuất hiện bắt đầu từ tình yêu và cảm xúc . Đọc những câu thơ này 95 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

ta có lien tưởng như mình đc vào lăng viếng Bác để được chiêm ngưỡng giấc

ngủ thanh thản của Bác như một thánh nhân sau khi đã làm cho đời biết bao

việc ý nghĩa .

Hai câu sau là cảm xúc mãnh liệt , dâng tràn trong trái tim của nhà thơ ngay

khi đc tận mắt ngắm nhìn thấy Bác

Vẫn biết trời xanh là mãi mãi

Mà sao nghe nhói ở trong tim

Hai câu thơ dung cấu trúc khá độc đáo : “ vẫn biết “ – “ mà sao “ diễn

tả một nghịch lý đau đớn - giữa khát vọng và thực tế , giữa ước mơ và hiện

thực . Nhà thơ tự an ủi mình bằng những luận thuyết - trời xanh là mãi mãi –

Bác vĩ đại thiên liêng nên người trường tồn , bất diệt như trời xanh . Nhưng đó

là sự bất diệt của một vĩ nhân đã khuất - sự thật này kg thể kg nhìn thấy , kg

thừa nhận : Bác đã vĩnh viễn ra đi . Vì thế nên ông mới nhận ra nỗi đau đớn

đột ngột đang nhói lên trong trái tim của mình . Chữ “ nhói “ diễn ta sắc thái

đau đớn tột đỉnh của tâm trạng diễn ra quặng thắt khó tả . Điều đó cho ta thấy

t/yêu thương của nhà thơ dành cho Bác sâu nặng đến mức nào .

Chỉ qua một đoạn thơ ngắn ngủi , ta đã thấy đc tình cảm chân thành ,

mãnh liệt của tác giả đối với Bác kính yêu , thể hiện niềm yêu kính , biết ơn

thương tiếc , đối vs con người đẹp nhất Việt Nam...Qua cảm xúc ấy hình ảnh

Bác hiện lên thật đẹp , thật thiêng liêng . Người là biểu tượng của ánh sáng ,

của sự sống , của sự bất tử . Nhờ những cảm xúc , những hình ảnh ấy ta mới

thấy được hình ảnh Hồ Chí Minh khắc sâu trong lòng những con người Nam

Bộ , những con người Việt Nam như thế nào .

96 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

Cảm nhận về khổ thơ cuối

Qua Khổ thơ cuối cũa bài Viếng lăng Bác của tác giả Viễn Phương đã bộc lộ

cảm xúc đến tận cùng của khi Giã từ " Bác" để trở về miền Nam :

" Mai về miền nam thương trào nước mắt

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này "

“ Mai về miền Nam thương trào nước mắt ".Cho thấy tác giả đã lặn lội từ

miền Nam xa xôi ra thăm Lăng Bác , Nhửng hình ảnh về " hàng tre bát nhát

.Cây tre 1 hình ảnh đẹp biểu tượng cho 1 dân tộc Việt Nam kiên cường bất

Khuất Vẫn đứnng thẳng hàng cho Dù " bão táp mưa xa " . " Dòng người đi

trong thương nhớ " luôn ở cùng tác giả . Trước Khung cảnh về" một mặt

trời trong lăng rất đỏ , Giất ngủ bình yên , vầng trăng sáng trong diệu hiền

.." một khung cảnh nhẹ nhàng nhưng tác giả lại " mà sao nghe nhói ở trong

tim " Niềm sót thương vô bờ bến của tác giả đã đc bộc lộ rõ nét nhất qua

đoạn thơ nhe nhàng nhưng mang 1 bầu tâm trạng buồn của tác giã , Nỗi

buốn của tác giả là nỗi buồn không của riêng ai để rồi ngày trở về miền

Nam những hình ảnh đó , một khung trời vừa nhẹ nhàng ,vừa trử tình luôn

ở bên tác giả khiếng cho ngày trở về miền nam lại càng thêm cảm động .

97 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

" Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này "

Qua việc vận dụng điệp từ " muốn làm " thể hiện nỗi luyến tiết muốn

ở lại bên lăng không muốn xa rời Bác , Tác Giả đã cảm nhận ra đc 1 vẻ đẹp

tuyệt vời bên ngoài lăng , những hình ảnh tuyệt đẹp đó đả khiếng tác giả

muốn gửi hồn minh vào để ở mãi bên Lăng: " Con chim hót , Đóa hoa tỏa

hương " , Nhưng trên hết tác muốn gửi hồn mình vào Cây tre một biểu

tượng để tôn vinh thêm nỗi hùng vĩ cũa lăng bÁc , tác giả muốn làm Cây tra

để tăng thêm sự bất khuất của dân tộc việt nam , Sự hùnh vỉ tráng lệ của

Lăng bÁc . Lăng Chủ Tịch Hồ Chi Minh , Ngoài những ý nghĩa việc " Muốn

làm cây tre " để tác giả có thể đc thấy mặt trời đi qua trên lăng cũng Như

mặt trời đỏ của Bác để vơi bớt đi phần lưu luyến khi về miền Nam của tác

giả.

Khóc thương cho một vị cha Già của dân tộc , khóc thương cho 1 sự mất

mát lớn của người dân VN , khóc thương cho sự lưu luyến ko muốn rời

lăng cũa những người con dân Việt Nam , Qua tác phẩm " Viếng Lăng Bác "

tác giả Viễn Phương như muốn Nhắn nhủ với chúng ta rằng : Tuy Bác đã

mất, nhưng hình ảnh về Bác sẻ không theo dòng lệ của những người con

dân Việt Nam mà nhạt nhòa đi sẻ vẩn sống mãi mãi trong những vần thơ

bất tận và Bác sẻ là 1 ngôi sao lớn tõa kháp trên cả bầu trời non nước Việt

Nam "

98 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

*** Sang thu ***

Cũng như mùa xuân, mùa thu luôn là đề tài gợi nhiều cảm xúc cho các

thi nhân. Mỗi người lại có cách nhìn cách miêu tả rất riêng, mang đậm

dấu ấn cá nhân của mình. Có nhà thơ, mùa thu là dáng liễu buồn, là

màu áo mờ phai, là tiếng đạp lá vàng cuả con nai ngơ ngác. Hữu

Thỉnh cũng góp vào tuyển tập thơ mủa thu của dân tộc một cái nhìn

mới mẻ. Ông là nhà thơ viết nhiều, viết hay về những con người, cuôc

sống ở nông thôn, về mùa thu. Những vẩn thơ thu của ông mang cảm

xúc bâng khuâng vương vấn trước đất trời trong trẻo đang chuyển

biến nhẹ nhàng. Điều này thể hiện rõ qua bài "Sang thu" được ông

sáng tác cuối năm 1977.Bài thơ diễn tả tâm trạng ngỡ ngàng trườc

cảnh đất trời đang chuyển biến giao mùa từ hạ sang thu.

Không như những nhà thơ khác, cảm nhận mùa thu qua sắc

vàng của hoa cúc, của lá ngô đồng hay qua tiếng lá vàng rơi xào xạc.

Hữu Thỉnh đón nhận mùa thu với một hương vị khác: hương ổi.

" Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se"

99 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

"Bỗng nhận ra" là một trạng thái chưa được chuẩn bị trứơc,

như là vô tình, sững sốt để cảm nhận, giữa những âm thanh, hương vị

và màu sắc đặc trưng của đất trời lúc sang thu. Nhà thơ nhận ra tín

hiệu của sự chuyển mùa từ ngọn gió nhè nhẹ, lành lạnh se khô mang

theo hương ổi. "Phả" là một động từ mang ý tác động được dùng như

một cách khẳng định sự xuất hiện của hơi thu trong không gian:

"hương ổi", một mùi hương không dễ nhận ra, bởi hương ổi không

phải là một mùi hương thơm ngào ngạt, nồng nàn mà chỉ là một mùi

hương thoảng đưa êm dịu trong gió đầu thu, nhưng cũng đủ để đánh

thức những cảm xúc trong lòng người.

Không chỉ cảm nhận mùa thu bằng khứu giác, xúc giác mà nhà thơ

còn cảm nhận màn sương thu trong phút giao mùa. Màn sương hình

như cũng muốn tận hưởng trọn vẹn khoảnh khắc vào thu nên chùng

chình chưa muốn dời chân:

"Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về"

Từ láy tương hình "chùng chình" gợi cảm giác về sự lưu luyến ngập

ngừng, làm ta như thấy một sự dùng dằng, gợi cảnh thu sống động

trong tĩnh lặng, thong thả, yên bình. "Chùng chình" là sự quãng ngắt

nhịp nhàng, chuyển động chầm chậm hay cũng chinh là sự rung động

trong tâm hồn nhà thơ? Một chút ngỡ ngàng, một chút bâng khuâng,

nhà thơ phát hiện ra vẻ đẹp rất riêng của không gian mùa thu. "Hình

như" là một từ tình thái diễn tả tâm trạng của tác giả khi phát hiện sự 100 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

hiện hữu của mùa thu. Sự góp mặt của màn sương buổi sáng cùng với

hương ổi đã khiến cho nhà thơ giật mình thản thốt. Không phải là

những hình ảnh đã trở nên ước lệ nữa mà là một chi tiết thật mới mẻ,

bất ngờ. Có lẽ với Hữu Thỉnh, làn hương ổi rất quen với người Việt

Nam, mà rất lạ với thơ được tác giả đưa vào một cách hết sức tự

nhiên.

Rồi mùa thu được quan sát ở những không gian rộng hơn, nhiều tầng

bậc hơn.

"Sông được lúc dềnh dàng

Chim bắt đầu vội vã

Có đám mây mùa hạ

Vắt nửa mình sang thu"

Nếu ở khổ một, mùa thu mới chỉ là sự đoán định với ít nhiều bỡ ngỡ,

thì ở khổ thơ này, tác giả đã có thể khẳng định: thu đến thật rồi. Thu

có mặt ở khắp nơi, rất hiện hình, cụ thể Dòng sông không còn cuôn

cuộn dữ dội như những ngày mưa lũ mùa hạ mà trôi một cách dềnh

dàng, thanh thản. Mọi chuyển động dường như có phần chậm lại, chỉ

riêng loài chim là bắt đầu vội vã. Trời thu lạnh làm cho chúng phải

chuẩn bị những chuyến bay chống rét khi đông về. Phải tinh tế lắm

mới có thể nhận ra sự bắt đầu vội vã trong những cánh chim bay bởi

mùa thu chỉ vửa mới chớm, rất nhẹ nhàng, rất dịu dàng. Điểm nhìn

của nhà thơ đuợc nâng dần lên từ dòng sông, rồi tới bầu trời cao rộng.

101 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

"Có đám mây mùa hạ

Vắt nửa mình sang thu"

Cảm giác giao mùa được Hữu Thỉnh diễn tả thật thú vị. Đây là một

phát hiện rất mới và độc đáo của ông. Mùa thu mới bắt đầu vì thế mây

mùa hạ mới thảnh thơi, duyên dáng "vắt nửa mình sang thu". Đám

mây như một dải lụa mềm trên bầu trời đang còn là mùa hạ, nửa đang

nghiêng về mùa thu. Bức tranh chuyển mùa vì thế càng trở nên sinh

động và giàu sức biểu cảm.

Ở khổ cuối, khoảnh khắc giao mùa không còn được nhà thơ diễn tả

bằng cảm nhận trực tiếp mà bằng sự suy ngẫm, chiêm nghiệm.

"Vẫn còn bao nhiêu nắng

Đã vơi dần cơn mưa

Sấm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi."

Nắng cuối hạ vẫn còn nồng, còn sáng nhưng đang nhạt dần.

Những ngày giao mùa này đã vơi đi những cơn mưa rào ào ạt. Vẫn là

nắng, vẫn là mưa, sấm như mùa hạ nhưng mức độ đã khác rồi. Lúc

này, những tiếng sấm bất ngờ cùng những cơn mưa rào không còn

nhìêu nữa. Hai câu thơ cuối gợi cho ta nhìu suy nghĩ, liên tưởng thú vị.

"Sấm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng cây đứng đứng tuổi"

102 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

Giọng thơ trầm hẳn xuống, câu thơ không đơn thuần chỉ là

gượng kể, là sự cảm nhận mà còn là sự suy ngẫm, chiêm nghiệm.

Cụm từ "hàng cây đứng tuổi" gợi cho người đọc nhiều liên tưởng. Đời

người như một loài cây, cũng non tơ, trưởng thành rồi già cỗi. Phải

chăng, cái đứng tuổi của cây chính là cái đứng tuổi của đời người.

Hình ảnh vừa có ý nghĩa tả thực, vừa có ý nghĩa biểu tượng. Vẻ chính

chắn, điềm tĩnh của hàng cây trước sấm sét, bão giông vào lúc sang

thu cũng chính là sự từng trải, chính chắn của con người khi đã đứng

tuổi. Phải chăng mùa thu của đời người là sự khép lại những ngày

tháng sôi nổi bồng bột của tuổi trẻ, để mở ra một mùa mới, một

không gian mới thâm trầm, điềm đạm, vững vàng hơn.Ở tuổi "sang

thu", con người không còn bất ngờ trước những tác động bất thường

của ngoại cảnh, của cuộc đời.

Xưa nay, màu thu thường gắn liền với hình ảnh lá vàng rơi ngoài ngõ,

lá khô kêu xào xạc... Và ta ngỡ như chỉ những sự vật ấy nới chính là

đặ điểm của mùa thu. Nhưng đến với "Sang thu" của Hữu Thĩnh,

người đọc chợt nhận ra một làn hương ổi, một màn sương, một dòng

sông, một đám mây, một tia nắng. Những sự vật gần gũi thế cũng làm

nên những đường nét riêng của mùa thu Việt Nam và chính điều này

đã làm nên sức hấp dẫn của "Sang thu".

Bài thơ kết câu theo một trình tự tự nhiên. Đó cũng là diễn biến

mạch cảm xúc của tác giả vào lúc sang thu. Bài thơ gợi cho ta hình

dung một bức tranh thiên nhiên tươi đẹp vào thời điểm giao mùa hạ- 103 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

thu ở vùng nông thôn Bắc Bộ. Câu thơ của Hữu Thỉnh như có một chút

gì đó thăng trầm, kín đáo, rất hợp với cách nghĩ, cách nói của nguời

thôn quê. Bài thơ giúp ta cảm nhận được tình cảm thiết tha, tâm hồn

tinh tế của nhà thơ giàu lòng yêu thiên nhiên của nhà thơ.

Bài thơ ngắn với thể thơ năm chữ mộc mạc, ngôn ngữ giản dị mà ý

nghĩa sâu sắc, hình ảnh đơn sơ mà gợi cảm. Hữu Thĩnh đã phát họa

một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp bằng nhiều cảm xúc tinh nhạy.

Đọc thơ Hữu Thĩnh ta càng cảm thấy yêu quê hương đất nước hơn,

càng cảm thấy mình cần phải ra sức góp phần xây dựng quê hương

ngày càng giàu đẹp.

Cảm nhận khổ thơ cuối bài "Sang Thu" - Hữu Thỉnh

Cuối hạ, thu đến mang theo những cảm xúc bất chợt để lại trong lòng ai

những bồi hồi, xao xuyến về một mùa thu nồng nàn, êm ái. Ngày hạ đi để

nhường chỗ cho nàng thu dịu dàng bước tới, sự chuyển mình giữa hai mùa

thật nhẹ nhàng và ngập ngừng như lưu luyến, vấn vương một cái gì đó của

thời đã qua. Khoảnh khắc ấy thật đẹp, nhưng không phải ai cũng dễ dàng nhận

thấy. Riêng nhà thơ Hữu Thỉnh thì khác, ông đã có một cái nhìn thật tinh

tường, một cảm nhận thật sắc nét và một cách sống hòa hợp với thiên nhiên

nên mới có thể vẽ lại bức tranh in dấu sự chuyển mình của đất trời qua bài thơ

104 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

“Sang Thu” – linh hồn của cả bài thơ chỉ vẻn vẹn trong hai từ thế thôi, song ý

nghĩa sâu sắc chất chứa trong hai từ ngắn ngủi ấy lại không hề ít. Và có lẽ

những ý nghĩa đó, lại tập trung nhiều hơn vào khổ thơ cuối bài:

“Vẫn còn bao nhiêu nắng

Đã vơi dần cơn mưa

Sấm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng cây đừng tuổi”

Mở đầu khổ thơ vẫn là nắng và mưa của mùa hạ đấy thôi, nhưng chỉ là

“vẫn còn” và “vơi dần” – tất cả ngày một nhạt đi, chứ không như cái nắng gay

gắt, chói chan cùng cơn mưa ào, xối xả của một mùa hạ sôi động nữa. Dường

như vẫn còn luyến tiếc lắm, nhưng cuối cùng hạ vẫn phải chấp nhận rằng:

“thu sang” và hạ phải đến một chân trời khác. Bằng nghệ thuật ẩn dụ sâu sắc,

Hữu Thỉnh đã kết thúc khổ thơ qua hai câu văn thấm đẫm triết lý đáng để ta

phải suy ngẫm:

“Sấm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng câu đừng tuổi.”

“Sấm” – đơn thuần là một hiện tượng đặc trưng của mùa hạ khi trước và sau

cơn mưa lớn, “cây đứng tuổi” – theo nghĩa dễ hiểu nhất thì đó chỉ là những cái

cây đã nhiều tuổi vì sống lâu năm. Nhưng điều mà Hữu Thỉnh muốn gửi đến

chúng ta đâu chỉ là những điều giản đơn đến thế, mà “sấm” ở đây cũng được

xem là những thăng trầm, sóng gió của vòng đời luôn thay đổi và qua những

gian nan, thử thách ấy, con người cũng sẽ đổi thay một cách mạnh mẽ hơn và

vững vàng hơn. Hình ảnh “hàng cây đứng tuổi” - tức chỉ người từng trải, 105 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

những con người đã nếm được hết mùi vị ngọt ngào, cay đắng, mặn mà hay

chua chát của cuộc sống, và tất nhiên khi họ đã trải nghiệm qua những khó

khăn đó, thì giờ đây sẽ không phải rơi vào tình thế xao động hay lung lay

trước những biến cố của vòng xoáy cuộc đời nữa. Nhìn sâu hơn qua hai câu

thơ trên, Hữu Thỉnh cũng muốn nói lên sức mạnh của dân tộc Việt Nam thật

kiên cường và bất khuất, thật dũng cảm và mạnh mẽ chống lại bọn giặc ngoài

xâm để gửi trọn niềm tin yêu đến Tổ quốc, quê hương và bảo vệ bờ cỏi nước

nhà.

Từ bao nỗi suy tư của mình, Hữu Thỉnh đã góp phần làm cho cả bài thơ và

khổ thơ cuối thêm nhiều ý nghĩa sâu sắc, in dấu trong lòng người đọc một ấn

tượng khó phai mờ về một mùa thu tha thiết, nồng hậu và cả mùa hạ sôi động

của dĩ vãng nữa. Cũng chính vì lẽ đó, mà ta cảm thấy yêu thiên nhiên hơn, yếu

cái giao mùa và sự chuyển biến của đất trời trên quên hương mình, cũng như

yêu vòng tuần hoàn máu chạy khắp cơ thể qua chính con tim này !

Cảm nhận về khổ thơ đầu của bài nói với con

Trong thành tựu của văn học hiện đại Việt Nam từ sau cách mạng tháng tám

có những đóng góp không nhỏ của thơ ca các dân tộc anh em trong đó có Y

Phương - nhà thơ dân tộc Tày . Thơ Y Phương có những đặc điểm rất dễ nhận

ra . Đó là cách nói , nghĩ bằng hình ảnh mộc mạc , khái quát và giàu chất thơ

về gia đình , quê hương đất nước .

Từ những đề tài rất quen thuộc về tình phụ tử , tác giả Y Phương đã

106 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

cho ra đời bài thơ "Nói với con". Suốt chiều dọc của bài thơ , tác giả nhắn nhủ

với đứa con về tình yêu quê hương , đất nước và phát huy truyền thống quý

báu của dân tộc .

Mở đầu bài thơ là mười một câu thơ đầy tình yêu thương , ấm áp của gia

đình .

"Chân phải bước tới cha

Chân trái bước tới mẹ

Một bước chạm tiếng nói

Hai bước tới tiếng cười

Người đồng mình yêu lắm con ơi

Đan lờ caì nan hoa

Vách nhà ken câu hát

Rừng cho hoa

Con đường cho những tấm lòng

Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới

Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời ."

Đứa con sinh ra và suốt một thời thơ ấu của nó được sống trong vòng tay

đùm bọc của bố và mẹ . Bước đi chập chững đầu tiên của một con người thật

trang trọng , bởi lần đầu đứa trẻ đi bằng chính đôi chân của mình , còn cảm

động vì nó có thể yên tâm , tin cậy trong vòng tay của bố và mẹ . Đứa trẻ ấy

sinh ra trong hạnh phúc và lớn lên bằng sự đùm bọc dắt dìu .

"Chân phải bước tới cha

Chân trái bước tới mẹ"

Câu thơ tưởng như chỉ là kể , tả mà xiết bao trìu mến , thân thương . Tấm 107 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

lòng của mẹ , của cha là để con hướng tới . Sự lớn lên của đứa trẻ rất đỗi hồn

nhiên . Tiếng nói , tiếng cười là cái phía đông rạng rỡ . Hình ảnh cụ thể mà

giàu chất thơ là ở cách đo đếm chiều dài

"Một bước chạm tiếng nói

Hai bước tới tiếng cười"

Hai thao tác tư duy không cùng một hệ thống thật ngộ nghĩnh , đáng yêu

. Câu thơ có cái ríu rít , ngọt ngào , một thứ âm vang mà những người làm bố ,

làm mẹ ai không bồi hồi , xao xuyến . Tuy vậy , dù tấm lòng cha mẹ có bao

dung rộng lớn đến đâu , đứa con rất cần nhưng vẫn chưa là đủ . Phải có cả quê

hương nuôi lớn con từng ngày.

Người đồng mình yêu lắm con ơi

Đan lờ cài nan hoa

Vách nhà ken câu hát

Rừng cho hoa

Con đường cho những tấm lòng

Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới

Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời ."

Những hoạt động thật bình dị , thường nhật của dân tộc Tày "đan lờ ,

ken" mà sao lại thiêng liêng vô cùng . "Người đồng mình yêu lắm con ơi" . Từ

"người đồng mình" nghe sao thật gần gũi , thương yêu . Những người dân

làng mình yêu lắm con ơi . Ta dù có nghèo khó nhưng chỉ cần tình cảm vẫn có

thể gắn kết yêu thương . Dù vậy người dân làng mình vẫn sống hoà quyện

cùng với thiên nhiên , núi rừng bạt ngàn Tây Bắc . Vì vậy nên "rừng cho hoa ,

con đường cho những tấm lòng" . Rừng nuôi sống con người ta , từng con 108 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

đường cho ta tấm lòng bao dung , rộng mở .

Cha mẹ luôn là người cho con trưởng thành trên những quãng đường đời

thật dài , đầy chông gai , khúc khuỷu nhưng hãy luôn phát huy những truyền

thống tốt đẹp của miền quê nghèo ta.

Viết đoạn văn

Bài thơ ''Nói với con''của Y Phương bằng những cách nói ,cách

nghĩ,những hình ảnh mộc mạc,cụ thể của người dân tộc Tày,tác giả cho người

đọc hiểu được sự nuôi dưỡng,che chở của cha mẹ đối với con và mong con

sống xứng đáng với quê hương.Đứa con sinh ra suốt một thời ấu thơ của

nó.Bước đi chập chưỡng đầu tiên của một con người thật trang trọng và cảm

động.Vì nó có thể yên tâm ,tin cậy trong vòng tay của cha,của mẹ..Con lớn lên

từng ngày trong tình thương yêu của cha và mẹ.Bằng những hình ảnh thật cụ

thể,Y Phương đã tạo được không khí gia đình đầm ấm,quấn quýt.Đứa trẻ sinh

ra trong gia đình hạnh phúc và lớn lên bằng sự đùm bọc,dìu dắt:''Chân trái

bước tới cha-Chân phải bước tới mẹ''.Tấm lòng của mẹ,của cha là cái đích để

con hướng tới.Sự lớn lên của đứa trẻ rất đỗi hồn nhiên.Hình ảnh cụ thể mà

giàu chất thơ: ''Một bước chạm tiếng nói-Hai bước tới tiếng cười''.Hai thao tác

tư duy không cùng hệ thống,vừa ngọ nghĩnh vừa sáng tạo biết bao!Không biết

đó là sáng tạo của nhà thơ hay của dân tộc Tày ở Cao Bằng,một cách nói mộc

mạc vốn dĩ đã có hồn thơ.Câu thơ có được cái ấm áp,rối rít,ngọt ngào,một thứ

âm vang của những người làm mẹ,làm cha ai mà không bồi hồi,xao

xuyến.Tuy vậy,dù tấm lòng của cha mẹ có độ bao dung sâu lớn đến đâu,đứa

con rất cần nhưng chưa đủ.Ở đây có bầu sữa tinh thần thứ hai là quê 109 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

hương.Như vậy,khổ thơ đầu của bài thơ là bức tranh gia đình đầm ấm,hạnh

phúc trong sự chăm chút đứa con,đồng thời người cha nói với con lời đầu

tiên,nhắc nhở con về tình cảm gia đình rột thịt,về cội nguồn của mỗi người.

Cảm nghĩ bài thơ nói với con

Tình mẫu tử là đề tài phong phú cho thơ ca. Nhưng những bài thơ về tình

cha con thì có lẽ khá ít. Bài thơ "Nói với con" cuả Y Phương là 1 trong những

tác phẩm hiếm hoi đó. Bài thơ thể hiện tình cảm gia đình êm ấm, tình quê

hương tha thiết, ngọt ngào và ngợi ca truyền thống nghĩa tình, sức sống mạnh

mẽ của người dân tộc miền núi.

Cảm nhận đầu tiêntrong lời cha nói là hình ảnh con lớn lên trong tình

yêu thương của cha mẹ, sự đùm bọc, che chở của người đồng mình, của quê

hương. Bài thơ mở ra với khung cảnh gia đình ấm cúng, đầy ấp giọng nói

tiếng cười:

Chân phải....

....tiếng cười.

Khung cảnh ấy đẹp như 1 bức tranh: hình ảnh em bé ngây thơ lẫm chẫm tập

đi, bi bô tập nói trong vòng tay, trong tình yêu thương, chăm sóc, nâng niu của

cha mẹ; hình ảnh cha mẹ giang rộng vòng tay, chăm chút từng bước đi, từng

bước đi, từng nụ cười, tiếng nói của con. Gia đình chính là cái nôi êm ái, tổ

ấm để con sống, lớn khôn và trường thành trong niềm yêu thương con cái. Đó

là không khí thường thấy trong các gia đình hạnh phúc. Nhưng cách diễn đạt ở

đay có nét độc đáo riêng cảu người miền núi: nói bằng hình ảnh cụ thể. Điệp

110 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

ngữ "bước tới", trong tình cảm người cha, ko khỏi niềm sung sướng, tự hào.

Không chỉ có gia đình, con còn lớn lên, trưởng thành trong cuộc sống

lao động, trong quê hường sâu nặng nghĩa tình:

Người đồng mình yêu lắm con ơi

...........tấm lòng

Một cách nói rất riêng, rất ngộ : "người đồng mình", là người miền mình,

người vùng mình, là những người cùng sống trên 1 miền đất, cùng quê hương,

cùng 1 dân tộc. Đó là cách nói mộc mạc, mang túnh địa phương của dân tộc

Tày nhưng giàu sức biểu cảm, Tác giả vận dụng lối diễn đạt của người dân tộc

miền núi để xây dựng hình ảnh thơ. Những suy nghĩ, tình cảm, cảm xúc đều

được diễn tả trực tiếp bằng hình ảnh. Đan lờ để bắt cá, dưói bàn tay của người

Tày, những nan trúc, nan tre đã trở thành "nan hoa". Vách nhà ko chỉ ken

bằng gỗ mà còn đc ken bằng "câu hát". Rừng đâu chỉ cho nhìu gỗ quý, lâm

sản mà còn cho hoa. Ba đông từ "đan", "cài", "ken" còn thể hiện sự đoàn kết,

gắn bó cảu quê hương. Lao động đã đem đến cho con bao điều tốt đẹp, "người

đồng mình" và quê hương ấp ủ, nuôi sống con trong tình thương yuê, trong

tình đoàn kết buôn làng. Và con đường đâu chỉ để đi mà nó còn cho "những

tấm lòng" nhân hậu, bao dung, nghĩa tình. Con đường đó là hình bóng thân

thuôc của quê hương, còn in dấu những bước chân đi xuôi ngược, làm ăn sinh

sống của buôn làng, nên nó mang 1 ý nghĩa thật to lớn trong quá trình khôn

lớn của con. Sung sứong nhìn con khôn lớn, nha thơ suy ngẫm về tình làng

bản quê nhà, về cội nguồn hạnh phúc:

Cha mẹ ...

....trên đời 111 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

Không chỉ gọi cho con về nguồn sinh dưỡng, cha còn nói với con về những

đức tính cao đẹp của "người đồng mình" và ước mơ của cha về con. Đó là

lòng yêu lao động, hăng say lao động với cả tấm lòng. Đó là sức sống bền bỉ

mạnh mẽ vượt wa mọi khó khăn, gian khổ.

Người đồng mình thương lắm con ơi

...........Không lo cực nhọc

Trước hết đó là tình thương yêu, đùm bọc nhau. Cách nói mộc mạc mà chứa

đựng bao ân tình rất cảm động đó được lặp đi lặp lai như một điệp khúc trong

bài ca. Chính tình thưong đó là sức mạnh để "người đồng mình" vượt wa bao

gian khổ cuộc đời. Những câu thơ ngắn, đối xứng nhau "cao đo nỗi buồn xa

nuôi chí lớn" diễn tả thật mạnh mẽ chí khí của "người đồng mình": sống vất

vả, nghèo đói, cực nhọc, lam lũ nhưng có chí lớn, luôn yêu quý tự hào, gắn bó

với quê hương. Đó là phẩm chất thứ hai. Thứ ba, về cách sống, người cha

muốn giáo dục con sống phải có nghĩa tình, chung thủy với quê hương, bit

chấp nhận vượt wa gian nan, thử thách bằng ý chí và niềm tin của mình.

Không chê bai, phản bội quê hưong : "không chê...không chê....không lo" dù

quê hương còn nghèo, còn vất vả. "Người đòng mình sống khoáng đạt, hồn

nhiên, mạnh mẽ "như sông như suối-lên thác xuống ghềnh-ko lo cực nhọc".

Lời cha nói với con mà cũng là lời dạy con về bài học đạo lý làm người. Đoạn

thơ rất dồi dào nhạc điệu, tạo nên bởi điệp từ, điệp ngữ, điệp cấu trúc câu và

nhịp thơ rất linh họat , lúc vươn dài, khi rút ngắn, lời thơ giản dị, chắc nịch mà

lay độg, thấm thía, có tác dụng truyền cảm manh mẽ.

Để nhắc nhở giáo dục con, người cha nhấn mạnh truyền thống của người đồng

mình: 112 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

Người đồng mình thô sơ da thịt

.......Nghe con

Truyền thống ấy thật đáng tự hào, tuy "thô sơ da thịt", ăn mặc giản dị, áo

chàm, khăn piêu, cuộc sống mộc mạc thiếu thốn... nhưng ko hề nhỏ bé về tâm

hồn, ý chí nghị lực và đặc biệt là khát vọng xây dựng quê hương. Họ xây dựng

quê hương bằng chính sức lực và sự bền bỉ của mình: "tự đục đá kê cao quê

hương". Họ sáng tạo, lưu truyền và bảo vệ phong tục tốt đẹp của mình biết tự

hào với truyền thống quê hương, dặn dò con cần tự tin, vững bước trên đường

đời, ko bao giờ được sống tầm thường, nhỏ bé, ích kỷ. Hai tiếng "nghe con"

kết thúc bài thơ với tấm lòng thương yêu, kỳ vọng, vừa là lời dặn dò nhắc nhở

ý chí tình của nhười cha đối với đứa con thân yêu. Hai tiếng ấy nghe sao mà

thân thương trìu mến .

Bài thơ có giọng điệu nhò nhẹ, chân tình và rất mới lạ trong phong cách,

một phong cách miền núi với ngôn ngữ "thổ cẩm" rất độc đáo, với cảm xúc, tư

duy rất riêng. Qua đó, Y Phương đã thể hiện tình cảm gia đình ấm cúng, ca

ngợi truyền thống cần cù, sức sống mạnh mẽ của quê hưong và dân tộc mình.

Bài thơ giúp ta hiểu thêm sức sống và vẻ đẹp tâm hồn của 1 dân tộc miền núi,

gợi nhắc tình cảm gắn bó với truyền thống, với quê hương và ý chí vươn lên

trong cuộc sống

Phân tích về nhân vật ba cô thanh niên xung phong

Là cây bút chuyên về truyện ngắn ,trong chiến tranh Lê Minh Khuê viết

về cuộc sống chiến đấu của tuổi trẻ ở tuyến đường Trường Sơn . “Những

113 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

ngôi sao xa xôi” là tác phẩm đầu tay của bà ,được viết năm 1971 giữa lúc

cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc đang diễn ra rất ác liệt.Truyện

giúp ta hiểu hơn về cuộc sống của những cô gái thanh niên xung phong

trên một cao điểm ở tuyến đường Trường Sơn .

Truyện xoay quanh ba nhân vật nữ thanh niên xung phong trong tổ

trinh sát mặt đường . Họ là ba người nhưng công việc gắn bó họ thành

một khối thống nhất. Họ cùng sống và chiến đấu tronh hoàn cảnh vô cùng

gian khổ , ác liệt : ở trên một cao điểm trọng yếu của tuyến đường

Trường Sơn, làm công việc đặc biệt nguy hiểm: “khi có bom nổ thì đo

khối lượng đất lấp vào hố bom ,đếm bom chưa nổ và nếu cần thì phá

bom” . Nghĩa là họ ở nơi tập trung nhiều bom đạn , làm công việc luôn

đối mặt với cái chết . Họ cảm nhận rõ ràng : “Đất bốc khói , không khí

bàng hoàng , máy bay đang ầm ì xa dần .Thần kinh căng như chão , tim

đập bất chấp cả nhịp điệu ,chân chạy mà vẫn biết rằng khắp chung quanh

có nhiều quả bom chưa nổ .” Công việc thường ngày mạo hiểm ấy đòi hỏi

họ phải là những người dũng cảm ,gan góc có tinh thần trách nhiệm cao

trong công việc ,không sợ gian khổ hy sinh .

Mặc dù phải sống cách biệt , ở xa đồng đội , làm công việc nguy hiểm

song cả ba cô gái ấy sống gắn bó cùng nhau và không hề mất đi những

nét tính cách đáng yêu của những cô gái trẻ .Họ luôn yêu thương, lo lắng

,chăm sóc cho nhau , tâm hồn họ trong sáng , giàu mơ ước , dễ vui , dễ

buồn và đặc biệt , họ rất thích làm đẹp cho cuộc sống của mình .Chị Thao

114 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

nhiều tuổi nhất , chăm chép bài hát , sợ máu và vắt. Nho thích thêu thùa ,

thích ăn kẹo , cô rất đáng yêu “trắng và tròn như một que kem mát lạnh”,

có vẻ dịu dàng và gan góc . Người thứ 3 nổi bật nhất ,tiêu biểu cho tổ

trinh sát mặt đường là Phương Định . Là một cô gái Hà Nội xinh xắn “hai

bím tóc dày tương đối mềm ,một cái cổ cao , kiêu hãnh như đài hoa loa

kèn”và đôi mắt đẹp:“có cái nhìn sao mà xa xăm”.Vừa qua thời học

sinh,cuộc sống chiến trường tôi luyện Định thành một chiến sỹ kiên

cường , dũng cảm .Ngày nào Định cũng phá bom nhiều lần ,cô có nghĩ

tới cái chết nhưng điều quan trọng hơn là “liệu mìn có nổ , bom có nổ

không ?không thì làm cách nào để châm mìn lần thứ hai ?”.Tâm trạng

Phương Định khi phá bom được miêu tả cụ thể ,tinh tế đến từng cảm giác

.Từ sự cảm nhận không khí đầy căng thẳng đến cảm giác “các anh cao xạ

đang dõi theo từng cử chỉ ,động tác của mình” và lòng dũng cảm như

được tăng lên bởi sự tự trọng :“Tôi đến gần quả bom …tôi sẽ không đi

khom, các anh ấy không thích cái kiểu đi khom khi có thể cứ đàng hoàng

mà bước tới ”.Cảm giác căng thẳng của Định khi ở bên quả bom , kề sát

cái chết im lìm và bất ngờ được miêu tả tỉ mỉ đến từng chi tiết :“thỉnh

thoảng lưỡi xẻng chạm vào quả bom .Một tiếng động sắc đến gai người

,cứa vào da thịt tôi …Vỏ quả bom nóng .Một dấu hiệu chẳng lành .”Đó là

công việc hàng ngày đã quen của Định . Công việc hiểm nguy ấy khiến

ba cô gái thanh niên xung phong trở nên thật phi thường ,thật đáng khâm

phục .

115 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

Tuy vậy sự ác liệt của chiến trường không làm vơi đi đời sống tâm hồn

trong sáng, giàu cảm xúc của Định .Cô hay mơ mộng, thích hát ,thậm chí

“bịa lời ra mà hát ”thích dân ca quan họ ,thích hành khúc , thích Cachiusa

, thích dân ca Ý…Định còn hay ngồi bó gối mơ màng, sống với những

hồi tưởng về gia đình,quê hương…Cô ý thức về mình ,tự hào vì được

nhiều người để ý nhưng lại tỏ ra hờ hững như là kiêu kỳ .Tuy vậy trong

suy nghĩ và tình cảm của cô thì “những người đẹp nhất ,thông minh ,can

đảm và cao thượng nhất là những người mặc quân phục,có sao trên mũ”.

Định thực sự là cô thiếu nữ mộng mơ ,hồn nhiên ,trong sáng và dũng

cảm.

Ngôi kể thứ nhất ,cách kể chuyện tự nhiên ,ngôn ngữ sinh động ,trẻ trung

cùng nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật đặc sắc của tác giả đã góp phần

không nhỏ trong việc khắc hoạ thành công thế giới tinh thần phong phú

và trong sáng của những cô gái trẻ .

Những trang cuối cùng của truyện khép lại nhưng dư âm của câu

chuyện vẫn còn đọng mãi trong em .Vẻ đẹp tâm hồn của họ ,những chiến

công lặng thầm của họ mãi toả sáng ,lung linh , lấp lánh và bí ẩn như

những ngôi sao xa xôi..

Cảm nhận về nhân vật Phương Định

Đến với “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê ta lại không khỏi

thán phục trước tinh thần dũng cảm, tình đồng đội nồng ấm, tâm hồn lạc

116 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

quan trong sáng của ba nữ thanh niên xung phong mà đề lại ân tượng sâu

sắc nhất trong em là Phương Định.

Phương Định cùng Nho và Thao – những cô gái thanh niên xung

phong sống trên cao điểm mênh mông khói bụi Trường Sơn và bom đạn

hủy diệt của kẻ thù.Công việc của chị và đồng đội trong tổ chinh sát mặt

đường là “đo khối lượng đất đá lấp hố bom,đếm bom chưa nổ và nếu cần

thì phá bom” để bảo vệ con đường cho những đoàn xe băng về phía

trước,góp phần vào sự nghiệp giải phóng miền Nam thống nhất đất

nước.Công việc của chị thật vinh quang nhưng cũng đầy hi sinh gian

khổ.Song chính hoàn cảnh gian khó hiểm nguy ấy đã làm cho chúng ta

cảm nhận được những phẩm chất đáng quý của chị.

Cảm nhận đầu tiên về nhân vật Phương Định là vẻ đẹp của tinh thần

dũng cảm,thía độ bình tĩnh vượt lên mọi hiểm nguy.Hằng ngày,chị

thường xuyên phải chạy trên cao điểm bị bom đạn cày nát mà còn ẩn dấu

những quả bom chưa nổ.Điều đó cũng có nghĩa chị luôn phải đối mặt với

thần chết.Mỗi ngày, chị phải phá từ 3-5 lần bom, nguy hiểm là vậy nhưng

chị vẫn bình thản thậm chí còn thấy thú vị dù trên mình còn có vết

thương chưa lành miệng.Cứ mỗi lần phá bom,đất rắn,tiếng xẻng va chạm

vào cỏ quả bom nghe sắc lạnh đến ghê người.Ngay cả lúc ấy,chị vừa

trách vừa nhắc nhở mình “phải nhanh hơn chút nữa”,nếu không vỏ quả

bom nóng lên hoặc nóng từ bên trong quả bom hay nóng do mặt trời khi

đó sẽ rất nguy hiểm”.Xác đinh được tính chất nguy hiểm ,song với tinh

117 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

thần dũng cảm cùng tình yêu Tổ quốc,chị đã vượt qua tất cả.Thao tác,tư

thế,thái độ bình tĩnh khi phá bom là vẻ đẹp đáng quý ở Phương Đinh nói

riêng và những cô gái trẻ nói chung.Có những lúc,chị cũng nghĩ đến cái

chết nhưng cái chết này mờ nhạt.Còn ý nghĩa cháy bỏng là “ Liệu mìn có

nổ.bom có nổ không? LÀm thế nào để châm mìn lần thứ hai?”Mục đích

hoàn thành nhiệm vụ luôn được chị đặt lên trên hết.

Trong chị luôn thường trực tình đồng đội,đồng chí nồng ấm.Tấm

long vị tha của chị luôn quan tâm tới đồng đội.Khi chị Nho và Thao ở

trên cao điểm,phải ở nhà trực máy nhưng trong lòng Phương Đinh luôn lo

lắng,sốt ruột,đứng ngồi không yên.Chị lo lắng đến mức chạy ra chạy vào

lắng nghe cả tiếng súng hỗ trợ của các anh bộ đội pháo binh.sự lo lắng ấy

khiến chị cáu với cả đội trưởng “Chinh sát chưa về”.Điều đó thể hiện

lòng quan tâm,lo lắng của chị với đồng đội thật sâu sắc.Chị luôn trìu

mến,yêu thương bạn bè,chẳng thế mà chị đã nhận xét về người đồng đội

trẻ tuổi-Nho,chị phát hiện ra vẻ dễ thương của Nho “nhẹ,mát mẻ như một

que kem trắng”,chị còn hiểu rất rõ sở thích của bạn,của đồng đội.Chị

Thao thích ghi bài hát mặc dù chị hát toàn sai nhạc,chị ghi tới ba cuốn sổ

dày bài hát,chị Thao còn thích tỉa đôi long mày nhỏ như que tăm,chị hiểu

được sự cương quyết,tạo báo nhưng rất đáng gờm trong công việc của chị

Thao.Tuy vậy chị Thao rất sợ máu và vắt.Chị hiểu được ở Nho thích thuê

thùa,trên ngực áo của Nho luôn có một bông hoa.Chị còn hiểu được tâm

trạng của đồng đội như khi Nho bị thương,chị Thao thì cuống quýt lên

118 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

còn Nho lại bình tĩnh,gan dạ.Phương ĐỊnh băng bó,tiêm thuốc và pha sữa

cho Nho.Tình cảm đồng đội,đồng chí là ngọn lửa sưởi ấm lòng,là niềm

tin,là động lực,là nguồn động viên khích lệ các chị thêm vững lòng trên

mặt trận đầy gian nguy này.Ngược lại,chị Phượng Đinhk cũng rất cần sự

cổ vũ,động viên của đồng đội.Chị cảm thấy ấm lòng và tự tin hơn khi

cảm thấy ánh mắt dõi theo,khích kệ của các anh chiến sĩ pháo binh.Chị

được rất nhiều chiến sĩ cảm mến.Điều đó càng làm tình đồng đội,đồng chí

trong chị thêm sâu đậm biết bao!

Nét nổi bật và cũng là điểm hấp dẫn nhất của Phương ĐInh với người

đọc chúng ta là tâm hồn trong sáng,giàu mơ mộng,là sự hồn nhiên như trẻ

thơ của chị.Chị là cô gái Hà Nội vào chiến trường khói lửa,chị vẫn hay

nhớ nhà,nhớ những kỉ niệm tuổi thơ.Chị hay hát,hay cười một mình,ngắm

mình trong gương.Chị tự đánh giá mình là “một cô gái khá”.Chị có cái

điệu đà của người Hà Nội nhưng là cái điệu thật đáng yêu vì nó hồn nhiên

và vô cùng chân thực.

Qua nhân vât Phương Định,ta càng hiểu thêm về những vẻ đẹp đáng

quý của những cô giá thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường

Sơn nói riêng và thế hệ trẻ Việt Nam trong những năm tháng hào hùng

ấy.Âm vang của những câu hát sau sẽ luôn vang vọng trong con người

Việt Nam với lòng tự hào đầy trân trọng:

119 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

Cảm nghĩ của em về 'Những ngôi sao xa xôi' của

Lê Minh Khuê.

Là cây bút chuyên về truyện ngắn ,trong chiến tranh Lê Minh Khuê

viết về cuộc sống chiến đấu của tuổi trẻ ở tuyến đường Trường Sơn .

“Những ngôi sao xa xôi” là tác phẩm đầu tay của bà ,được viết năm

1971 giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc đang diễn ra

rất ác liệt.Truyện giúp ta hiểu hơn về cuộc sống của những cô gái

thanh niên xung phong trên một cao điểm ở tuyến đường Trường

Sơn.

Truyện xoay quanh ba nhân vật nữ thanh niên xung phong trong tổ

trinh sát mặt đường . Họ là ba người nhưng công việc gắn bó họ

thành một khối thống nhất. Họ cùng sống và chiến đấu tronh hoàn

cảnh vô cùng gian khổ , ác liệt : ở trên một cao điểm trọng yếu của

tuyến đường Trường Sơn, làm công việc đặc biệt nguy hiểm: “khi có

bom nổ thì đo khối lượng đất lấp vào hố bom ,đếm bom chưa nổ và

nếu cần thì phá bom” .

Nghĩa là họ ở nơi tập trung nhiều bom đạn , làm công việc luôn đối

120 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

mặt với cái chết . Họ cảm nhận rõ ràng : “Đất bốc khói , không khí

bàng hoàng , máy bay đang ầm ì xa dần .Thần kinh căng như chão ,

tim đập bất chấp cả nhịp điệu ,chân chạy mà vẫn biết rằng khắp

chung quanh có nhiều quả bom chưa nổ .” Công việc thường ngày

mạo hiểm ấy đòi hỏi họ phải là những người dũng cảm ,gan góc có

tinh thần trách nhiệm cao trong công việc ,không sợ gian khổ hy sinh

.

Mặc dù phải sống cách biệt , ở xa đồng đội , làm công việc nguy hiểm

song cả ba cô gái ấy sống gắn bó cùng nhau và không hề mất đi

những nét tính cách đáng yêu của những cô gái trẻ .Họ luôn yêu

thương, lo lắng ,chăm sóc cho nhau , tâm hồn họ trong sáng , giàu

mơ ước , dễ vui , dễ buồn và đặc biệt , họ rất thích làm đẹp cho cuộc

sống của mình.

Chị Thao nhiều tuổi nhất , chăm chép bài hát , sợ máu và vắt. Nho

thích thêu thùa , thích ăn kẹo , cô rất đáng yêu “trắng và tròn như

một que kem mát lạnh”, có vẻ dịu dàng và gan góc . Người thứ 3

nổi bật nhất ,tiêu biểu cho tổ trinh sát mặt đường là Phương Định

. Là một cô gái Hà Nội xinh xắn “hai bím tóc dày tương đối mềm

,một cái cổ cao , kiêu hãnh như đài hoa loa kèn”và đôi mắt

đẹp:“có cái nhìn sao mà xa xăm”.Vừa qua thời học sinh,cuộc

121 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

sống chiến trường tôi luyện Định thành một chiến sỹ kiên cường ,

dũng cảm .Ngày nào Định cũng phá bom nhiều lần ,cô có nghĩ tới

cái chết nhưng điều quan trọng hơn là “liệu mìn có nổ , bom có

nổ không ?không thì làm cách nào để châm mìn lần thứ hai ?”.

Tâm trạng Phương Định khi phá bom được miêu tả cụ thể ,tinh tế

đến từng cảm giác .Từ sự cảm nhận không khí đầy căng thẳng

đến cảm giác “các anh cao xạ đang dõi theo từng cử chỉ ,động tác

của mình” và lòng dũng cảm như được tăng lên bởi sự tự trọng

:“Tôi đến gần quả bom …tôi sẽ không đi khom, các anh ấy không

thích cái kiểu đi khom khi có thể cứ đàng hoàng mà bước tới

”.Cảm giác căng thẳng của Định khi ở bên quả bom , kề sát cái

chết im lìm và bất ngờ được miêu tả tỉ mỉ đến từng chi tiết :“thỉnh

thoảng lưỡi xẻng chạm vào quả bom .Một tiếng động sắc đến gai

người ,cứa vào da thịt tôi …Vỏ quả bom nóng .Một dấu hiệu

chẳng lành .”Đó là công việc hàng ngày đã quen của Định . Công

việc hiểm nguy ấy khiến ba cô gái thanh niên xung phong trở nên

thật phi thường ,thật đáng khâm phục .

Tuy vậy sự ác liệt của chiến trường không làm vơi đi đời sống

tâm hồn trong sáng, giàu cảm xúc của Định .Cô hay mơ mộng,

122 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

thích hát ,thậm chí “bịa lời ra mà hát ”thích dân ca quan họ ,thích

hành khúc , thích Cachiusa , thích dân ca Ý…Định còn hay ngồi

bó gối mơ màng, sống với những hồi tưởng về gia đình,quê

hương…Cô ý thức về mình ,tự hào vì được nhiều người để ý

nhưng lại tỏ ra hờ hững như là kiêu kỳ .Tuy vậy trong suy nghĩ và

tình cảm của cô thì “những người đẹp nhất ,thông minh ,can đảm

và cao thượng nhất là những người mặc quân phục,có sao trên

mũ”. Định thực sự là cô thiếu nữ mộng mơ ,hồn nhiên ,trong sáng

và dũng cảm.

Ngôi kể thứ nhất ,cách kể chuyện tự nhiên ,ngôn ngữ sinh động

,trẻ trung cùng nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật đặc sắc của tác

giả đã góp phần không nhỏ trong việc khắc hoạ thành công thế

giới tinh thần phong phú và trong sáng của những cô gái trẻ

.Những trang cuối cùng của truyện khép lại nhưng dư âm của câu

chuyện vẫn còn đọng mãi trong em .Vẻ đẹp tâm hồn của họ

,những chiến công lặng thầm của họ mãi toả sáng ,lung linh , lấp

lánh và bí ẩn như những ngôi sao xa xôi.

Cảm nhận về chi tiết Ông Hai tâm sự với con

123 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

Kim Lân nhà vănchuyên viết chuyện ngắn về đề tài nông thôn việt

nam. Ông sinh ra và lớn lên ở một vùng quê có truyền thống văn hóa

lâu đời nên am hiểu rất nhiều về nông thôn Việt Nam và cảnh ngộ

của người nông dân. Vì thế, khi viết về đề tài này, Kim Lân thành

công hơn cả. Đặc biệt ở truyện ngắn “ Làng”, tác giả đã xây dựng

được hình tượng ông Hai,một người nông dân cần cù chất phác, giàu

tình yêu đối với quê hương đất nước, gắn bó bền chặt với cuộc

kháng chiến trường kỳ của dân tộc.nhưng ấn tượng sâu sắc hơn cả là

chi tiết ông hai tâm sự với đứa con trai út của mình.

Bi kịch dâng lên đến đỉnh cao. Ông Hai bị đẩy vào trong tình cảnh bế

tắc tuyệt vọng khi bà chủ nhà muốn đuổi gia đình ông đi. “ Thế là

tuyệt đường sinh sống!” Ông đi đâu bây giờ? Khắp nơi, “không chỉ

cái đất Thắng này mà cả ở Đài, Nhã Nam, Bố Hạ, Cao Thượng… ở đâu

nghe đến người làng chợ Dầu là người ta đuổi như đuổi hủi”. Còn ai

muốn chứa chấp người dân của cái làng Việt gian này nữa

chứ?Trước mắt ông Hai chỉ có hai con đường. Ở lại thì không được

rồi. Còn về làng… Vừa chớm nghĩ đến thôi, ta đã thấy ông Hai gạt

phắt đi ngay. “Về làm gì cái làng ấy nữa. Chúng nó làm Việt gian theo

124 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

Tây cả rồi”.Và ông cũng khẳng định: “ về làng là phản bội kháng

chiến, phản bội cụ Hồ”. Dù ông Hai luôn ước mong được trở về làng,

nhưng lúc này ông lại khẳng định: “ Làng thì yêu thật, nhưng làng

theo Tây mất rồi thì phải thù”.

Mâu thuẫn trong nội tâm và tình thế trước mắt làm cho ông Hai

bế tắc. Trong tâm trạng bị dồn nén và bế tắc ấy, ông Hai chỉ còn biết

trút nỗi lòng của mình vào nhưng lời thủ thỉ tâm sự với đứa con nhỏ

ngây thơ trong sang chưa hiểu biết chuyện đời. Nói với con mà thực

ra là đang trút nỗi lòng mình.Ông hỏi con những điều đã biết trước

câu trả lời:“Thế nhà con ở đâu?”,“thế con ủng hộ ai ?”…Lời đứa con

vang lên trong ông thiêng liêng mà giản dị:“Nhà ta ở làng Chợ

Dầu”,“ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm !”…Những điều ấy ông đã

biết,vẫn muốn cùng con khắc cốt ghi tâm.Ông mong “anh em đồng

chí biết cho bố con ông, tấm lòng bố con ông là như thế đấy,có bao

giờ dám đơn sai,chết thì chết có bao giờ dám đơn sai ”.Những suy

nghĩ của ông như những lời nguyện thề son sắt.Ông xúc động,nước

mắt “chảy ròng ròng trên hai má”.Tấm lòng của ông với làng,với

nước thật sâu nặng,thiêng liêng.Dẫu cả làng Chợ dầu làm Việt gian

thì ông vẫn một lòng trung thành với kháng chiến,với Cụ Hồ .Cuộc

Trò chuyện ở đây thực ra là cách để ông Hai tự thổ lộgiãi bày nỗi

125 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

lòng chung thuỷ của mình với làng quê với cuộc kháng chiến. Ở đây

ngôn ngữ đối thoại đã mang giọng điệu độc thoại. Nhữn lời văn diễn

tả thật cảm động làm sao, tình cảm ông Hai dành cho quê hương,

đất nước và với cách mạng với cuộc kháng chiến thật chân thành.

Lòng trung thành của cha con ông,cũng là của hàng triệu nông dân

Việt Nam đối với lãnh tụ là vô cùng sâu sắc. Vẻ đẹp ấy rất đáng tự

hào và ca ngợi.Đến giây phút này, từ trong bi kịch của ông Hai, ta lại

thấy sáng ngời lên một tình cảm cao đẹp khác. Đó là tinh thần yêu

nước, gắn bó với kháng chiến, với cụ Hồ.Tình cảm thiêng liêng ấy đã

bao trùm lên tình cảm đối với làng quê.

Qua cuộc trò chuyện người đọc thấy được trong lòng ông Hai đang

diễn ra một cuộc xung đột nội tâm lớn. Xung đột nội tâm của nhân

vật ông Hai là xung đột giữa tình yêu làng với tình yêu nước. Bởi lẽ

xung đột này xảy ra là do ông Hai có một tình yêu làng, yêu nước

thật đặc biệt đó là 1 tình cảm thống nhất trong lòng ông, ông Hai đã

quyết định đứng về đất nước, cách mạng,….. Kim Lân đã tạo ra một

tình huống thật gay cấn để cho ông Hai phải lựa chọn, qua tình

huống này ta thấy rõ tình cảm của ông Hai là một tình cảm rất đặc

biệt đó là tình cảm của chính tác giả và cũng là những người nông

126 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

dân làng quê Việt Nam lúc bấy giờ.Qua đó ta cũng thấy được nghệ

thuật phân tích nhân vật tinh tế,sinh động của Kim Lân.

Với Cách miêu tả chân thực,sinh động,ngôn ngữ đối thoại,độc

thoại và độc thoại nội tâm đa dạng,tự nhiên như cuộc sống đời

thường cùng với những mâu thuẫn căng thẳng,dồn nén, bức bối đã

góp phần không nhỏ tạo nên thành công của câu chuyện, đồng thời

còn thể hiện sự am hiểu và gắn bó sâu sắc của nhà văn với người

nông dân và công cuộc kháng chiến của đất nước.

Qua đoan trích nhân vật ông Hai tâm sự với con ta hiểu thêm về vẻ

đẹp tâm hồn của người nông dân Việt Nam thời kỳ kháng chiến

chống thực dân Pháp xâm lược :Yêu làng,yêu nước và gắn bó với

kháng chiến.Có lẽ vì thế mà tác phẩm “Làng ” xứng đáng là một

trong những truyện ngắn xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại.

Viết đoạn văn ngắn bàn về nhân vật bác Phi-líp?

Trong cuộc sống, đôi khi những trò đùa độc ác, vô ý có thể dẫn đến

hậu quả nghiêm trọng cho người khác. Nhất là khi trò đùa ấy lại

nhắm vào một đứa trẻ không có bố. Chúng ta tự hỏi điều gì sẽ đến

với Xi-Mông nếu không gặp được bác thợ rèn Phi-líp, trong đoạn

trích;" Bố của Xi - mông", truyện ngắn đặc sắc của nhà văn hiện thực

127 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

Pháp nổi tiếng thế kỉ XIX G.Mô-pa-xăng ? Cuộc gặp tình cờ ấy đã thay

đổi số phận của cậu bé, đem đến cho em một người bố thực thụ.

Nhưng chính Phi-líp đã bị chinh phục bởi chú bé đáng yêu và người

mẹ của em. Diến biến tâm trạng nhân vật Phi-líp trong đoạn trích sẽ

giúp mọi người cảm nhận rõ ý nghĩa nhân văn của tác phầm này.

Xi-mông là con trai của chị Blang-sốt, người phụ nữ xinh đẹp trót

bị lừa dối nên phải đơn độc nuôi con. Xi-mông đi học, bị bạn bè giễu

cợt , đánh đập vì không có bố. Chú bé dại dột định tìm đến cái chết.

Bác thợ rèn đã dẫn em về nhà và gặp mẹ em. Thông cảm với hoàn

cảnh của Xi-mông và chị Blang-sốt, bác đã đồng ý làm bố của Xi-

mông. Cuộc gặp gỡ giữa hai người thợ rèn tốt bụng và chú bé diễn

ra thật tình cờ bên bờ sông. Lúc ấy em đã tuyệt vọng vì bị đối xử một

cách tàn tệ. Đâu phải lỗi của nó! em cô đơn biết bao, khi những lời

chế nhạo ấy như cao dao đâm thẳng vào trái tim của em. Bởi vậy.

em đã nghĩ đến cái chết một cách dại dột. May thay, hôm ấy khôg

phải là một ngày u ám để những ý nghĩ đen tối thành hình. Thiên

nhiên đã nhân hậu biết bao trước chú bé đáng thương. Trời ấm áp,

ánh mặt trời êm đềm, nước lấp lành như gương, đã xóa đi phần nào

nỗi buồn trong lòng em, để em được trở lại với bản tính hồn nhiên

trẻ con của mình. Dẫu bất hạnh vì thiếu bàn tay chăm sóc của người

128 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

cha, nhưng em vẫn là một đứa trẻ ngoan hiểu động. Hình ảnh em

chơi đùa trên bãi cỏ, đuổi theo chú nhái con màu xanh lục và vồ hụt

ba lần. Nhưng ngay lập tức, những cảm giác tủi nhục lại ùa đến ngay

chính vào lúc em bắt đk con nhái và chứng kiến cảnh con vật cố giãy

giụa thoát thân.Hình ảnh ấy khiến Xi-mông liên tưởng ngay đến bản

thân mình, em có khác gì con nhái đáng thương kia đâu, hẫng hụt

chới với bởi sự vô tâm trong trò đùa độc ác của đám bạn. Em vô

cùng nhạy cảm nên ngay lúc ấy "em nghĩ đến nhà, rồi nghĩ đến mẹ,

và cảm thấy buồn bà vô cùng em lại khóc". Tiếng khóc ấy khiến bất

cứ ai biết quan tâm đến những đứa trẻ cũng dễ mủi lòng. Trong lúc

ấy, Xi-mông đã gặp được bác thợ rèn Phi-líp, một con người tốt

bụng. Bác được giới thiệu là "một người thợ cao lớn, râu tóc đen,

quăn, đang nhìn em với vẻ nhân hậu". Dáng vể ấy có lẽ đã tạo được

niềm tin và chỗ dựa tin cậy để em thổ lộ lòng mình. Em đã không

ngần ngại trước người đàn ông lạ này, để tiếp tục những dòng lệ tủi

cực cùng giọng nói đầy nước mắt. Câu trả lời thật thà của Xi-mông

"cháu không có bố" được khẳng định hai lần khiến bác đã đoán định

được nguyên nhân sau tiềng nấc buồn tủi của em. Bởi thế, cái mỉm

cười ban đầu đã được thay thế bằng thái độ nghiêm trang vì bác

hiểu đây kô phải chuyện trẻ con mà là vấn đề hệ trọng gây thương

129 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

tổn cho tâm hồn của chú bé ngây thơ đáng yêu này. Bản thẩn bác đã

biết mong manh về mẹ em, vì vậy bác đã quyết định đưa em về. Khi

giáp mặt với mẹ Xi-mông , chính thái độ của mẹ em đã phải khiến

bác thay đổi hẳn thái độ: bác hiểu ra ngay là không bỡn cợt được

nữa với cô gái cao lớn, xanh xao, đứng nghiêm nghị trước cửa nhà

mình, như muốn cấm đàn ông bước qua ngưỡng cửa ngôi nhà nơi

chị đã bị kẻ khác lừa dôi. Điều đó chứng tỏ bác là một con người

đứng đắn và từng trải để có thể nhận ra bản chất người khác chỉ sau

một cái nhìn. Được chứng kiến nỗi đau khổ của người mẹ trước đứa

con không có bố, bác đã thể hiên sự trân trọng trước nhân cách một

người mẹ và một đứa con đang được bao bọc. Chính vì vậy em đã

nhận ra phẩm chất của một người bố tuyệt vời - một chỗ dựa đáng

tin cậy cho cậu bé thiếu tình thương này. Chú bé đã không ngần ngại

đề nghị bất ngờ nhận bác làm bố. Trước khao khát ấy đã khiến bác

không thể từ chối. Không những thế, bác còn bộc lộ sự xúc động

trước tâm hồn trong trắng của em: "Người thợ nhấc bổng em lên,

đột ngột hôn vào hai má em, rồi sải từng bước dài, bỏ đi rất nhanh."

Niềm vui có bố đã giúp em khẳng định đầy kiều hãnh trước đám

bạn. Bản chất tốt đẹp của một người lao động chân chính đã giúp

bác có niềm thông cảm sâu sắc trước những số phận bất hạnh.

130 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

Đoạn trích còn nhắc nhở chúng ta về thái độ ứng sử với người

xung quanh, cần có một tấm lòng nhân hậu, không nên dửng dưng

trước những đau khổ bất hạnh của người khác.

Cảm nghĩ về nhân vật Xi-Mông

Trong cuộc sống, đôi khi những trò đùa độc ác, vô ý có thể dẫn đến

hậu quả nghiêm trọng cho người khác. Nhất là khi trò đùa ấy lại

nhắm vào một đứa trẻ không có bố. Chúng ta tự hỏi điều gì sẽ đến

với Xi-Mông nếu không gặp được bác thợ rèn Phi-líp, trong đoạn

trích;" Bố của Xi - mông", truyện ngắn đặc sắc của nhà văn hiện thực

Pháp nổi tiếng thế kỉ XIX G.Mô-pa-xăng ? Cuộc gặp tình cờ ấy đã thay

đổi số phận của cậu bé, đem đến cho em một người bố thực thụ.

Nhưng chính Phi-líp đã bị chinh phục bởi chú bé đáng yêu và người

mẹ của em. Diến biến tâm trạng nhân vật Phi-líp trong đoạn trích sẽ

giúp mọi người cảm nhận rõ ý nghĩa nhân văn của tác phầm này.

Xi-mông là con trai của chị Blang-sốt, người phụ nữ xinh đẹp trót

bị lừa dối nên phải đơn độc nuôi con. Xi-mông đi học, bị bạn bè giễu

cợt , đánh đập vì không có bố. Chú bé dại dột định tìm đến cái chết.

Bác thợ rèn đã dẫn em về nhà và gặp mẹ em. Thông cảm với hoàn

131 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

cảnh của Xi-mông và chị Blang-sốt, bác đã đồng ý làm bố của Xi-

mông. Cuộc gặp gỡ giữa hai người thợ rèn tốt bụng và chú bé diễn

ra thật tình cờ bên bờ sông. Lúc ấy em đã tuyệt vọng vì bị đối xử một

cách tàn tệ. Đâu phải lỗi của nó! em cô đơn biết bao, khi những lời

chế nhạo ấy như cao dao đâm thẳng vào trái tim của em. Bởi vậy.

em đã nghĩ đến cái chết một cách dại dột. May thay, hôm ấy khôg

phải là một ngày u ám để những ý nghĩ đen tối thành hình. Thiên

nhiên đã nhân hậu biết bao trước chú bé đáng thương. Trời ấm áp,

ánh mặt trời êm đềm, nước lấp lành như gương, đã xóa đi phần nào

nỗi buồn trong lòng em, để em được trở lại với bản tính hồn nhiên

trẻ con của mình. Dẫu bất hạnh vì thiếu bàn tay chăm sóc của người

cha, nhưng em vẫn là một đứa trẻ ngoan hiểu động. Hình ảnh em

chơi đùa trên bãi cỏ, đuổi theo chú nhái con màu xanh lục và vồ hụt

ba lần. Nhưng ngay lập tức, những cảm giác tủi nhục lại ùa đến ngay

chính vào lúc em bắt đk con nhái và chứng kiến cảnh con vật cố giãy

giụa thoát thân.Hình ảnh ấy khiến Xi-mông liên tưởng ngay đến bản

thân mình, em có khác gì con nhái đáng thương kia đâu, hẫng hụt

chới với bởi sự vô tâm trong trò đùa độc ác của đám bạn. Em vô

cùng nhạy cảm nên ngay lúc ấy "em nghĩ đến nhà, rồi nghĩ đến mẹ,

132 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

và cảm thấy buồn bà vô cùng em lại khóc". Tiếng khóc ấy khiến bất

cứ ai biết quan tâm đến những đứa trẻ cũng dễ mủi lòng. Trong lúc

ấy, Xi-mông đã gặp được bác thợ rèn Phi-líp, một con người tốt

bụng. Bác được giới thiệu là "một người thợ cao lớn, râu tóc đen,

quăn, đang nhìn em với vẻ nhân hậu". Dáng vể ấy có lẽ đã tạo được

niềm tin và chỗ dựa tin cậy để em thổ lộ lòng mình. Em đã không

ngần ngại trước người đàn ông lạ này, để tiếp tục những dòng lệ tủi

cực cùng giọng nói đầy nước mắt. Câu trả lời thật thà của Xi-mông

"cháu không có bố" được khẳng định hai lần khiến bác đã đoán định

được nguyên nhân sau tiềng nấc buồn tủi của em. Bởi thế, cái mỉm

cười ban đầu đã được thay thế bằng thái độ nghiêm trang vì bác

hiểu đây kô phải chuyện trẻ con mà là vấn đề hệ trọng gây thương

tổn cho tâm hồn của chú bé ngây thơ đáng yêu này. Bản thẩn bác đã

biết mong manh về mẹ em, vì vậy bác đã quyết định đưa em về. Khi

giáp mặt với mẹ Xi-mông , chính thái độ của mẹ em đã phải khiến

bác thay đổi hẳn thái độ: bác hiểu ra ngay là không bỡn cợt được

nữa với cô gái cao lớn, xanh xao, đứng nghiêm nghị trước cửa nhà

mình, như muốn cấm đàn ông bước qua ngưỡng cửa ngôi nhà nơi

chị đã bị kẻ khác lừa dôi. Điều đó chứng tỏ bác là một con người

133 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

đứng đắn và từng trải để có thể nhận ra bản chất người khác chỉ sau

một cái nhìn. Được chứng kiến nỗi đau khổ của người mẹ trước đứa

con không có bố, bác đã thể hiên sự trân trọng trước nhân cách một

người mẹ và một đứa con đang được bao bọc. Chính vì vậy em đã

nhận ra phẩm chất của một người bố tuyệt vời - một chỗ dựa đáng

tin cậy cho cậu bé thiếu tình thương này. Chú bé đã không ngần ngại

đề nghị bất ngờ nhận bác làm bố. Trước khao khát ấy đã khiến bác

không thể từ chối. Không những thế, bác còn bộc lộ sự xúc động

trước tâm hồn trong trắng của em: "Người thợ nhấc bổng em lên,

đột ngột hôn vào hai má em, rồi sải từng bước dài, bỏ đi rất nhanh."

Niềm vui có bố đã giúp em khẳng định đầy kiều hãnh trước đám

bạn. Bản chất tốt đẹp của một người lao động chân chính đã giúp

bác có niềm thông cảm sâu sắc trước những số phận bất hạnh.

Đoạn trích còn nhắc nhở chúng ta về thái độ ứng sử với người

xung quanh, cần có một tấm lòng nhân hậu, không nên dửng dưng

trước những đau khổ bất hạnh của người khác.

Viết đoạn văn về nhân vật Rô-Bin-xơn

Rô-bin-xơn Cru-xô trong đoạn trích "robinxon ngoài đảo hoang"là 1

nhân vật đáng yêu,đáng mến và đáng khâm phục.Sinh ra và lớn lên ở

134 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

miền quê Y-oóc-sai của nước Anh,một ngày kia khi cả đoàn tàu bị đắm

chìm một mình robinxon sống sót trôi dạt vào đảo hoang không môt

bóng người.Ở đây,robinxon đã sống nhũng tháng ngày không bằng

chết.Ấy vậy mà,con ngươi đó vẫn không chịu khuất phục trước hoàn

cảnh,trước sfận anh vẫn đi lên bằng chính đôi tay,đôi chân,con người

mình.Sống giữa nơi hoang vắng ko 1 bóng người,robinxon đã tự tạo

trang phục và trang bị cho mình.Đó la mũ,là áo quần,là thăt lưng,dây

đeo,gùi và súng.Tất ca mọi thứ đều đc làm từ da dê trông rất lôi

thôi,cồng kềnh nhưng lại rất tiện dụng trong hoàn cảnh ở ngoài đảo

hoang.Mọi thứ dường như rất kì kạ,ngộ nghĩnh,và khong thể tưởng

tượng nổi nhưng đó thực sự la csống của"robinxon ngoài đảo

hoang".Trang phục và trang bị của robinxon đấng yêu nhu thế

đấy,nhưng chúng ta còn phải khâm phục anh hơn bởi anh là 1 con ng`

có tinh thần dũng cảm,có nghị lực phi thg`.Là 1 con ng` có đầu óc

thông minh,biết sáng tạo,cải biến hoàn cảnh. Đặc biệt anh còn là 1 con

ng`có smạnh và khả năng lđộng chiến thắng thiên nhiên.Cuộc đời có

những con ng` như robinxon sẽ làm ta yêu đời hơn,sống vững tin hơn.

Cảm nhận về nhân vật Rô-Bin-Xơn

135 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

Rô-bin-xơn Cru-sô là cuốn tiểu thuyết từng làm say mê bao thế hệ trẻ em

Việt Nam. Dựa trên một câu chuyện có thật, Đ. Đi-phô đã sáng tạo hình

tượng chàng thủy thủ Rô-bin-xơn lạc giữa đảo hoang hơn hai mươi tám

năm đã cho thấy con người có thể vượt qua những hoàn cảnh khắc nghiệt

nhất, chiến thắng thiên nhiên và tự chiến thắng nỗi cô đơn của chính mình

để trở về với đồng loại. Cuộc sống ấy hiện lên qua lời kể của chính nhân

vật, khiến chúng ta thích thú và bị cuốn hút theo giọng kể hài hước, ngôn

ngữ đặc tả chi tiết sống động hóm hỉnh, toát lên vẻ đẹp tinh thần lạc quan

của con người. Đoạn trích Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang sẽ cho thấy rõ vẻ

đẹp ấy.

Nhân vật tự hình dung diện mạo chính mình để thuật lại cho người đọc

bằng giọng điệu hài hước cố hữu nổi tiếng của người Anh. Tính chất của

lời tự thuật khiến cho trình tự miêu tả cũng hết sức độc đáo, khác với lối tả

chân dung thông thường. Đằng sau giọng kể ấy là cả một quãng thời gian

đằng đẵng tách biệt với đồng loại, chàng phải một mình đối mặt với bao

hiểm nguy rình rập, với thời tiết mưa nắng thất thường của vùng xích đạo.

Cần phải nói ngay rằng, dù phải một mình sống giữa đảo hoang, Rô-bin-

xơn không khi nào nguôi những tình cảm hướng về nước Anh, vùng Y-óoc-

sai quê hương của chàng. Bởi thế, lời kể của một người đã gần ba mươi

năm sống tách biệt đồng loại vẫn in đậm dấu ấn suy tưởng hướng về xứ

sở. Nếu không có tình cảm mãnh liệt ấy, có lẽ chàng đã chết trong mòn mỏi

và tuyệt vọng rồi ! Sống để trở về, đó là cơ sở hành động để chàng phải

chuẩn bị chu đáo, chống chọi với mọi mối đe doạ từ nhiều phía, tổ chức

cuộc sống cho mình. Bản thân câu chuyện được kể lại đã có thể xem như

khúc khải hoàn sau gần ba mươi năm của một con người dũng cảm đã tự 136 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

tạo được niềm tin ở chính mình. Trước hết, hãy nghe chàng tả về trang

phục: “Tôi đội một chiếc mũ to tướng cao lêu đêu chẳng ra hình thù gì làm

bằng da một con dê, với mảnh da rủ xuống phía sau gáy, vừa để che nắng,

vừa để chắn không cho mưa hắt vào cổ”. Bộ dạng ấy quả thật đã tạo nên

được nụ cười mỉm từ phía bạn đọc và có lẽ chính người tạo ra nó cũng

phải thú vị trước hiệu quả, công dụng của chiếc mũ này. Không chỉ có

chiếc mũ, mà cả áo, quần, “giày” cũng được làm bằng da dê – trang phục

ấy không còn bất cứ dấu vết nào của đời sống văn minh. Rô-bin-xơn tự

ngắm nghía mình, phô ra tất cả những nét vụng về thô kệch trong bộ dạng

từ đầu đến chân là … dê của mình, hài lòng với sự hào phóng của đảo

hoang đã hào phóng cho chàng những tấm da dê quý giá. Nhưng có lẽ sự

hài lòng hiện ra sau lời kể chính là ở chỗ tất cả đều được tạo nên từ bàn

tay lao động, là công sức và sự khéo léo của chính chàng để chế tác ra

những sản phẩm độc nhất vô nhị này. Cuộc sống gần ba mươi năm buồn

tẻ không lấy mất được của chàng tính hài hước khi tự thuật : “tôi không có

bít tất mà cũng chẳng có giày, nhưng đã làm cho mình được một đôi, chẳng

biết gọi là gì, giống như đôi ủng, bao quanh bắp chân và buộc dây hai

bên…”. Có lẽ đến tận bây giờ, các nhà thiết kế thời trang giàu óc tưởng

tượng nhất cũng không thể chế tác được một bộ đồng phục … dê độc đáo

đến thế ! Nhưng với Rô-bin-xơn, giá trị sử dụng của món thời trang này

mới là mục đích của chàng, bởi nhờ thế, chàng tồn tại với tư cách một con

người đàng hoàng, không phải một con người bị lôi kéo trở về với bản

năng nguyên thủy ăn lông ở lỗ.

Vị lãnh chúa và cũng là thần dân duy nhất của đảo hoang này trong suốt

mười lăm năm còn trang bị cho mình những vật dụng cần thiết để bảo đảm 137 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

cuộc sống nơi hoang dã. Vẫn bằng giọng điệu hóm hỉnh, Rô-bin-xơn thuật

lại cho chúng ta hình ảnh một anh chàng nai nịt chỉnh tề như một chiến

binh nhưng “không đeo kiếm và dao găm mà lủng lẳng bên này một chiếc

cưa nhỏ, bên kia một chiếc rìu con”. Thêm vào đó là hai cái túi cũng bằng

da dê, “một túi đựng thuốc súng, túi kia đựng đạn ghém”. Với những vật

dụng lỉnh kỉnh như vậy, ta hình dung ra một con người suốt ngày bận rộn

với công việc chặt cây, cưa gỗ dựng lều, rào giậu, dựng lên “cơ ngơi” cho

riêng mình. Qua hình ảnh Rô-bin-xơn “đeo gùi sau lưng, khoác súng bên

vai, và giương trên đầu một chiếc dù lớn bằng da dê”, ta như nhìn thấy

bóng dáng con người thời tiền sử sống bằng nghề hái lượm, săn bắt.

Nhưng điểm khác biệt duy nhất là khẩu súng - vật bất li thân của chàng. Vũ

khí của xã hội văn minh phần nào cũng giúp chàng tăng thêm sức mạnh và

lòng can đảm để đối chọi với thiên nhiên, chủ động đối phó với mọi bất trắc

một cách tự tin hơn. Rô-bin-xơn không hề ỷ lại vào đó để sống sót mà điều

quan trọng là sống một cách vững vàng trong điều kiện thiếu thốn. Đàng

sau nụ cười thấp thoáng qua lời kể, ta có thể hình dung ra quyết tâm và ý

chí của một con người đầy nghị lực vươn lên. Biết bao lo toan, tính toán từ

“sáng tạo” để thích nghi với hoàn cảnh, khẳng định bản năng sinh tồn mạnh

mẽ của con người hiện lên qua câu chuyện của Rô-bin-xơn. Chiếc mũ da

dê kì quái che đến tận cổ vì “chẳng có gì tai hại bằng nước mưa luồn trong

áo thấm vào da thịt”. Một trận cảm lạnh bất ngờ có thể làm chàng gục ngã,

ý thức được điều đó nên chàng phòng ngừa tối đa cho sức khoẻ chính

mình. Những công việc bận rộn với vật dụng bất li thân đáp ứng những nhu

cầu tối thiểu cũng là cách để chàng vượt qua cảm giác buồn chán thường

dễ xảy đến với con người cô đơn. Nếu như chỉ ngồi khắc từng vạch lên

138 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

thân cây đếm thời gian, hẳn chàng đã không đủ sức mạnh để tồn tại suốt

một thời gian dài đằng đẵng như vậy. Ý chí của Rô-bin-xơn mới mạnh mẽ

làm sao! Chàng không chỉ đối chọi với thiên nhiên mà đã thể hiện rõ tư thế

người làm chủ, bắt thiên nhiên phải khuất phục. Không những thế, qua

những chi tiết chàng tự mô tả bản thân, ta hiểu Rô-bin-xơn đã tự chiến

thắng chính mình. Đây mới quả thực là chiến thắng vinh quang đáng tự

hào nhất, vì là thử thách khó vượt nhất !

Khép lại bức chân dung tự hoạ bản thân, Rô-bin-xơn mới tự hoạ diện mạo

của mình bằng mấy dòng ngắn ngủi nhưng khiến ta phải nở nụ cười sảng

khoái. Không hề có một tấm gương soi, nên việc chăm chút dung nhan chỉ

giới hạn ở trong tầm mắt của Rô-bin-xơn : bộ ria mép kiểu cách được chăm

sóc cẩn thận. Hoá ra trong hoàn cảnh ấy, một chàng thợ may tồi vẫn có thể

thành một anh thợ cạo cầu kì tạo dáng cho bộ ria : “tôi xén tỉa thành một

cặp ria mép to tướng kiểu Hồi giáo như ria vài gã Thổ Nhĩ Kì tôi gặp ở Xa-

lê”. Nhu cầu làm đẹp ấy hiệu quả ra sao ? Hãy nghe Rô-bin-xơn tự thưởng

thức : “tôi chẳng dám nói cặp ria mép ấy dài đến mức có thể dùng treo mũ

của tôi ; nhưng chiều dài và hình dáng kì quái của chúng cũng khiến cho

mọi người phải khiếp sợ nếu như là ở nước Anh”. Bộ ria ấy chẳng biết có

gợi lên vẻ oai vệ trịnh trọng như một Xun-tan (lãnh chúa) người Thổ hay

không, nhưng gợi cho ta tiếng cười đầy chất u-mua (humour) của người

Anh chính hiệu. Tính hài hước là liều thuốc vô giá, xua đi những muộn

phiền. Tiếng cười ấy không tách rời niềm hi vọng khao khát trở về với nước

Anh thân yêu của Rô-bin-xơn, thấm đượm tinh thần lạc quan của con

người đầy bản lĩnh.

139 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

Khép lại trang sách, chân dung Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang vẫn sống

động từng chi tiết, với nụ cười thường trực có sức hấp dẫn lạ kì. Rô-bin-

xơn là hiện thân của con người lí tưởng không biết lùi bước trước bất kì

thử thách khắc nghiệt nào. Bản lĩnh phi thường và tình yêu sự sống của

chàng là bài học cho bất cứ ai muốn hoàn thiện giá trị tốt đẹp của con

người. Ta chợt hiểu, vì sao Rô-bin-xơn Cru-sô của Đ. Đê-phô lại cuốn hút

sự say mê của biết bao nhiêu thế hệ trên khắp hành tinh này !

Cảm nghĩ về bài nói với con

Xưa nay tình mẫu tử là đề tài phong phú cho thơ ca. Nhưng

những bài thơ về tình cha con thì có lẽ khá ít. Bài thơ "Nói với

con" cuả Y Phương là 1 trong những tác phẩm hiếm hoi đó. Bài

thơ thể hiện tình cảm gia đình êm ấm, tình quê hương tha thiết,

ngọt ngào và ngợi ca truyền thống nghĩa tình, sức sống mạnh mẽ

của người dân tộc miền núi.

Cảm nhận đầu tiêntrong lời cha nói là hình ảnh con lớn lên

trong tình yêu thương của cha mẹ, sự đùm bọc, che chở của người

đồng mình, của quê hương. Bài thơ mở ra với khung cảnh gia đình

ấm cúng, đầy ấp giọng nói tiếng cười:

Chân phải....

....tiếng cười.

140 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

Khung cảnh ấy đẹp như 1 bức tranh: hình ảnh em bé ngây thơ

lẫm chẫm tập đi, bi bô tập nói trong vòng tay, trong tình yêu

thương, chăm sóc, nâng niu của cha mẹ; hình ảnh cha mẹ giang

rộng vòng tay, chăm chút từng bước đi, từng bước đi, từng nụ

cười, tiếng nói của con. Gia đình chính là cái nôi êm ái, tổ ấm để

con sống, lớn khôn và trường thành trong niềm yêu thương con

cái. Đó là không khí thường thấy trong các gia đình hạnh phúc.

Nhưng cách diễn đạt ở đay có nét độc đáo riêng cảu người miền

núi: nói bằng hình ảnh cụ thể. Điệp ngữ "bước tới", trong tình

cảm người cha, ko khỏi niềm sung sướng, tự hào.

Không chỉ có gia đình, con còn lớn lên, trưởng thành trong cuộc

sống lao động, trong quê hường sâu nặng nghĩa tình:

Người đồng mình yêu lắm con ơi

...........tấm lòng

Một cách nói rất riêng, rất ngộ : "người đồng mình", là người miền

mình, người vùng mình, là những người cùng sống trên 1 miền

đất, cùng quê hương, cùng 1 dân tộc. Đó là cách nói mộc mạc,

mang túnh địa phương của dân tộc Tày nhưng giàu sức biểu cảm,

Tác giả vận dụng lối diễn đạt của người dân tộc miền núi để xây

141 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

dựng hình ảnh thơ. Những suy nghĩ, tình cảm, cảm xúc đều được

diễn tả trực tiếp bằng hình ảnh. Đan lờ để bắt cá, dưói bàn tay

của người Tày, những nan trúc, nan tre đã trở thành "nan hoa".

Vách nhà ko chỉ ken bằng gỗ mà còn đc ken bằng "câu hát". Rừng

đâu chỉ cho nhìu gỗ quý, lâm sản mà còn cho hoa. Ba đông từ

"đan", "cài", "ken" còn thể hiện sự đoàn kết, gắn bó cảu quê

hương. Lao động đã đem đến cho con bao điều tốt đẹp, "người

đồng mình" và quê hương ấp ủ, nuôi sống con trong tình thương

yuê, trong tình đoàn kết buôn làng. Và con đường đâu chỉ để đi

mà nó còn cho "những tấm lòng" nhân hậu, bao dung, nghĩa tình.

Con đường đó là hình bóng thân thuôc của quê hương, còn in dấu

những bước chân đi xuôi ngược, làm ăn sinh sống của buôn làng,

nên nó mang 1 ý nghĩa thật to lớn trong quá trình khôn lớn của

con. Sung sứong nhìn con khôn lớn, nha thơ suy ngẫm về tình

làng bản quê nhà, về cội nguồn hạnh phúc:

Cha mẹ ...

....trên đời

Không chỉ gọi cho con về nguồn sinh dưỡng, cha còn nói với con

về những đức tính cao đẹp của "người đồng mình" và ước mơ của

cha về con. Đó là lòng yêu lao động, hăng say lao động với cả

tấm lòng. Đó là sức sống bền bỉ mạnh mẽ vượt wa mọi khó khăn,

gian khổ.

Người đồng mình thương lắm con ơi

...........Không lo cực nhọc

142 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

Trước hết đó là tình thương yêu, đùm bọc nhau. Cách nói mộc

mạc mà chứa đựng bao ân tình rất cảm động đó được lặp đi lặp lai

như một điệp khúc trong bài ca. Chính tình thưong đó là sức

mạnh để "người đồng mình" vượt wa bao gian khổ cuộc đời.

Những câu thơ ngắn, đối xứng nhau "cao đo nỗi buồn xa nuôi chí

lớn" diễn tả thật mạnh mẽ chí khí của "người đồng mình": sống

vất vả, nghèo đói, cực nhọc, lam lũ nhưng có chí lớn, luôn yêu

quý tự hào, gắn bó với quê hương. Đó là phẩm chất thứ hai. Thứ

ba, về cách sống, người cha muốn giáo dục con sống phải có

nghĩa tình, chung thủy với quê hương, bit chấp nhận vượt wa gian

nan, thử thách bằng ý chí và niềm tin của mình. Không chê bai,

phản bội quê hưong : "không chê...không chê....không lo" dù quê

hương còn nghèo, còn vất vả. "Người đòng mình sống khoáng đạt,

hồn nhiên, mạnh mẽ "như sông như suối-lên thác xuống ghềnh-

ko lo cực nhọc". Lời cha nói với con mà cũng là lời dạy con về bài

học đạo lý làm người. Đoạn thơ rất dồi dào nhạc điệu, tạo nên bởi

điệp từ, điệp ngữ, điệp cấu trúc câu và nhịp thơ rất linh họat , lúc

vươn dài, khi rút ngắn, lời thơ giản dị, chắc nịch mà lay độg, thấm

thía, có tác dụng truyền cảm manh mẽ.Để nhắc nhở giáo dục con,

người cha nhấn mạnh truyền thống của người đồng mình:

Người đồng mình thô sơ da thịt

.......Nghe con

Truyền thống ấy thật đáng tự hào, tuy "thô sơ da thịt", ăn mặc

143 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

giản dị, áo chàm, khăn piêu, cuộc sống mộc mạc thiếu thốn...

nhưng ko hề nhỏ bé về tâm hồn, ý chí nghị lực và đặc biệt là khát

vọng xây dựng quê hương. Họ xây dựng quê hương bằng chính

sức lực và sự bền bỉ của mình: "tự đục đá kê cao quê hương". Họ

sáng tạo, lưu truyền và bảo vệ phong tục tốt đẹp của mình biết tự

hào với truyền thống quê hương, dặn dò con cần tự tin, vững

bước trên đường đời, ko bao giờ được sống tầm thường, nhỏ bé,

ích kỷ. Hai tiếng "nghe con" kết thúc bài thơ với tấm lòng thương

yêu, kỳ vọng, vừa là lời dặn dò nhắc nhở ý chí tình của nhười cha

đối với đứa con thân yêu. Hai tiếng ấy nghe sao mà thân thương

trìu mến .

Bài thơ có giọng điệu nhò nhẹ, chân tình và rất mới lạ

trong phong cách, một phong cách miền núi với ngôn ngữ "thổ

cẩm" rất độc đáo, với cảm xúc, tư duy rất riêng. Qua đó, Y

Phương đã thể hiện tình cảm gia đình ấm cúng, ca ngợi truyền

thống cần cù, sức sống mạnh mẽ của quê hưong và dân tộc mình.

Bài thơ giúp ta hiểu thêm sức sống và vẻ đẹp tâm hồn của 1 dân

tộc miền núi, gợi nhắc tình cảm gắn bó với truyền thống, với quê

hương và ý chí vươn lên trong cuộc sống

Cảm nhận về chi tiết Ông Hai tâm sự với con

Kim Lân nhà vănchuyên viết chuyện ngắn về đề tài nông thôn việt

144 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

nam. Ông sinh ra và lớn lên ở một vùng quê có truyền thống văn hóa

lâu đời nên am hiểu rất nhiều về nông thôn Việt Nam và cảnh ngộ

của người nông dân. Vì thế, khi viết về đề tài này, Kim Lân thành

công hơn cả. Đặc biệt ở truyện ngắn “ Làng”, tác giả đã xây dựng

được hình tượng ông Hai,một người nông dân cần cù chất phác, giàu

tình yêu đối với quê hương đất nước, gắn bó bền chặt với cuộc

kháng chiến trường kỳ của dân tộc.nhưng ấn tượng sâu sắc hơn cả là

chi tiết ông hai tâm sự với đứa con trai út của mình.

Bi kịch dâng lên đến đỉnh cao. Ông Hai bị đẩy vào trong tình cảnh bế

tắc tuyệt vọng khi bà chủ nhà muốn đuổi gia đình ông đi. “ Thế là

tuyệt đường sinh sống!” Ông đi đâu bây giờ? Khắp nơi, “không chỉ

cái đất Thắng này mà cả ở Đài, Nhã Nam, Bố Hạ, Cao Thượng… ở đâu

nghe đến người làng chợ Dầu là người ta đuổi như đuổi hủi”. Còn ai

muốn chứa chấp người dân của cái làng Việt gian này nữa

chứ?Trước mắt ông Hai chỉ có hai con đường. Ở lại thì không được

rồi. Còn về làng… Vừa chớm nghĩ đến thôi, ta đã thấy ông Hai gạt

phắt đi ngay. “Về làm gì cái làng ấy nữa. Chúng nó làm Việt gian theo

Tây cả rồi”.Và ông cũng khẳng định: “ về làng là phản bội kháng

chiến, phản bội cụ Hồ”. Dù ông Hai luôn ước mong được trở về làng,

145 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

nhưng lúc này ông lại khẳng định: “ Làng thì yêu thật, nhưng làng

theo Tây mất rồi thì phải thù”.

Mâu thuẫn trong nội tâm và tình thế trước mắt làm cho ông Hai

bế tắc. Trong tâm trạng bị dồn nén và bế tắc ấy, ông Hai chỉ còn biết

trút nỗi lòng của mình vào nhưng lời thủ thỉ tâm sự với đứa con nhỏ

ngây thơ trong sang chưa hiểu biết chuyện đời. Nói với con mà thực

ra là đang trút nỗi lòng mình.Ông hỏi con những điều đã biết trước

câu trả lời:“Thế nhà con ở đâu?”,“thế con ủng hộ ai ?”…Lời đứa con

vang lên trong ông thiêng liêng mà giản dị:“Nhà ta ở làng Chợ

Dầu”,“ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm !”…Những điều ấy ông đã

biết,vẫn muốn cùng con khắc cốt ghi tâm.Ông mong “anh em đồng

chí biết cho bố con ông, tấm lòng bố con ông là như thế đấy,có bao

giờ dám đơn sai,chết thì chết có bao giờ dám đơn sai ”.Những suy

nghĩ của ông như những lời nguyện thề son sắt.Ông xúc động,nước

mắt “chảy ròng ròng trên hai má”.Tấm lòng của ông với làng,với

nước thật sâu nặng,thiêng liêng.Dẫu cả làng Chợ dầu làm Việt gian

thì ông vẫn một lòng trung thành với kháng chiến,với Cụ Hồ .Cuộc

Trò chuyện ở đây thực ra là cách để ông Hai tự thổ lộgiãi bày nỗi

lòng chung thuỷ của mình với làng quê với cuộc kháng chiến. Ở đây

ngôn ngữ đối thoại đã mang giọng điệu độc thoại. Nhữn lời văn diễn

146 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

tả thật cảm động làm sao, tình cảm ông Hai dành cho quê hương,

đất nước và với cách mạng với cuộc kháng chiến thật chân thành.

Lòng trung thành của cha con ông,cũng là của hàng triệu nông dân

Việt Nam đối với lãnh tụ là vô cùng sâu sắc. Vẻ đẹp ấy rất đáng tự

hào và ca ngợi.Đến giây phút này, từ trong bi kịch của ông Hai, ta lại

thấy sáng ngời lên một tình cảm cao đẹp khác. Đó là tinh thần yêu

nước, gắn bó với kháng chiến, với cụ Hồ.Tình cảm thiêng liêng ấy đã

bao trùm lên tình cảm đối với làng quê.

Qua cuộc trò chuyện người đọc thấy được trong lòng ông Hai đang

diễn ra một cuộc xung đột nội tâm lớn. Xung đột nội tâm của nhân

vật ông Hai là xung đột giữa tình yêu làng với tình yêu nước. Bởi lẽ

xung đột này xảy ra là do ông Hai có một tình yêu làng, yêu nước

thật đặc biệt đó là 1 tình cảm thống nhất trong lòng ông, ông Hai đã

quyết định đứng về đất nước, cách mạng,….. Kim Lân đã tạo ra một

tình huống thật gay cấn để cho ông Hai phải lựa chọn, qua tình

huống này ta thấy rõ tình cảm của ông Hai là một tình cảm rất đặc

biệt đó là tình cảm của chính tác giả và cũng là những người nông

dân làng quê Việt Nam lúc bấy giờ.Qua đó ta cũng thấy được nghệ

thuật phân tích nhân vật tinh tế,sinh động của Kim Lân.

147 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

Với Cách miêu tả chân thực,sinh động,ngôn ngữ đối thoại,độc

thoại và độc thoại nội tâm đa dạng,tự nhiên như cuộc sống đời

thường cùng với những mâu thuẫn căng thẳng,dồn nén, bức bối đã

góp phần không nhỏ tạo nên thành công của câu chuyện, đồng thời

còn thể hiện sự am hiểu và gắn bó sâu sắc của nhà văn với người

nông dân và công cuộc kháng chiến của đất nước.

Qua đoan trích nhân vật ông Hai tâm sự với con ta hiểu thêm về vẻ

đẹp tâm hồn của người nông dân Việt Nam thời kỳ kháng chiến

chống thực dân Pháp xâm lược :Yêu làng,yêu nước và gắn bó với

kháng chiến.Có lẽ vì thế mà tác phẩm “Làng ” xứng đáng là một

trong những truyện ngắn xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại.

Phân tích bài thơ Qua đèo ngang của Bà huyện Thanh quan:

Bà huyện Thanh Quan là một nhà thơ nổi tiếng đầu thế kỷ

19.Bà đã để lại cho nền văn học nước nhà sáu bài thơ nôm

xuất sắc.Nhưng ấn tượng hơn cả là bài thơ “Qua đèo ngang” .

Thơ của bà hay nói đến hoàng hôn, man mác buồn, giọng

điệu du dương, ngôn ngữ trang nhã, hồn thơ đẹp, điêu

luyện.Trên đường vào Phú Xuân, bước tới Đèo Ngang lúc

chiều tà, cảm xúc dâng trào lòng người, Bà huyện Thanh

Quan sáng tác bài “Qua Đèo Ngang”. Bài thơ tả cảnh Đèo 148 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

Ngang lúc xế tà và nói lên nỗi buồn cô đơn, nỗi nhớ nhà của

người lữ khách .Lần đầu nữ sĩ “bước tới Đèo Ngang”, đứng

dưới chân con đèo “đệ nhất hùng quan” này, địa giới tự nhiên

giữa hai tỉnh Hà Tĩnh - Quảng bình, vào thời điểm “bóng xế

tà”, lúc mặt trời đã nằm bên kia sườn sườn núi, phía tây chỉ

còn lại những ánh tà dương. Trời sắp tối. Âm “tà” cũng gợi

buồn thấm thía. Câu thứ hai, tả cảnh sắc cỏ cây, lá, hoa… đá.

Hai vế tiểu đối, điệp ngữ “chen”, vần lưng: “đá” – “lá”, vần

chân: “tà” – “hoa”, thơ giàu âm điệu, réo rắt như một tiếng

lòng, biểu lộ sự ngạc nhiên và xúc động về cảnh sắc hoang

vắng nơi Đèo Ngang vào lúc hoàng hôn.“Cỏ cây chen đá, lá

chen hoa”.

Chỉ có hoa rừng, cây dại, mà Cỏ cây, hoa lá phải “chen” với

đá mới tồn tại được. Cảnh vật hoang sơ, đã khiến thi sĩ buồn

đến nao lòng.Nữ sĩ sử dụng phép đối và đảo ngữ trong miêu

tả đầy ấn tượng. Âm điệu thơ trầm bổng du dương, đọc lên

nghe sao mà thú vị:

“Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác bên sông chợ mấy nhà”.

Điểm nhìn đã thay đổi: đứng cao nhìn xuống dưới và nhìn

149 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

xa. Thế giới con người là tiểu phu, nhưng chỉ có “tiều vài

chú”. Hoạt động là “lom khom” vất vả đang gánh củi xuống

núi. Một nét vẽ ước lệ rong thơ cổ , nhưng rất thần tình, tinh

tế trong cảm nhận. Mấy nhà chợ bên sông thưa thớt, lác đác.

chỉ mấy cái lều chợ nơi miền hoang vắng, sở dĩ nữ sĩ gọi “chợ

mấy nhà” để gieo vần mà thôi.Đó cũng là cảnh hoang vắng,

heo hút, buồn hoang sơ nơi con đèo xa xôi lúc bóng xế tà.

Tiếp theo nữ sĩ tả âm thanh tiếng chim rừng, chim gia gia,

chim cuốc gọi bầy lúc hoàng hôn. Điệp âm “con cuốc cuốc” và

“cái gia gia” tạo nên âm hưởng du dương của khúc nhạc

rừng, của khúc nhạc lòng người lữ khách. Lấy cái động (tiếng

chim rừng) để làm nổi bật cái tĩnh, cái vắng lặng im lìm đìu

hiu nơi chốn đỉnh đèo Ngang trong khoảnh khắc hoàng hôn,

đó là nghệ thuật lấy động tả tĩnh trong thi pháp cổ. Phép đối

và đảo ngữ vận dụng rất tài tình:

“Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc,

Thương nhà mỏi miệng cái gia gai”.

Nghe tiếng chim rừng mà “nhớ nước đau lòng”, mà

“thương nhà mỏi miệng’ nỗi buồn thấm thía vào 9 tầng sâu

của cõi lòng, toả rộng trong không gian từ con đèo tới miền

150 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

quê thân thương. Sắc điẹu trữ tình dào dạt, thiết tha, trầm

lắng. Lữ khách là một nữ sĩ nên nỗi “nhớ nước”, nhớ kinh kỳ

Thăng Long, nhớ nhà, nhớ chồng con, nhớ làng Nghi Tàm

thân thuộc không thể nào kể xiết!

Ở hai câu kết bốn chữ “dừng chân đứng lại” thể hiện một

nỗi niềm xúc động đến bồn chồn. Một cái nhìn mênh mang:

“Trời non nước”; nhìn xa, nhìn gần, nhìn cao, nhìn sâu, nhìn

4 phíamà nữ sĩ thấytrống vắng vô buồn thương, như tan nát

cả tâm hồn, chỉ còn lại “một mảnh tình riêng”. Lấy cái bao la,

mênh mông, vô hạn của vũ trụ, của “trời non nước” tương

phản với cái nhỏ bé của “mảnh tình riêng”, của “ta” với “ta”

đã cực tả nỗi buồn cô đơn xa vắng của người lữ khác khi

đứng trên cảnh Đèo Ngang đang lúc ngày tàn. Phải chăng đó

là tâm trang nhớ quê, nhớ nhà của tác giả.

“Dừng chân đứng lại trời non nước,

Một mảnh tình riêng ta với ta”.

“Qua Đèo Ngang” là bài thơ thất ngôn bát cú Đường

luật tuyệt bút. Thế giới thiên nhiên kỳ thú của Đèo Ngang như

hiển hiện qua dòng thơ. Cảnh sắc hữu tình thấm một nỗi

buồn man mác. Giọng thơ du dương, réo rắt. Phép đối và đảo

151 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

ngữ có giá trị thẩm mỹ trong nét vẽ tạo hình đầy khám phá.

Cảm hứng thiên nhiên trữ tình chan hoà với tình yêu quê

hương đất nước đậm đà qua một hồn thơ trang nhã. Bài thơ

“Qua Đèo Ngang” là tiếng nói của một người mà trở thành

khúc tâm tình của muôn triệu con người, nó là bài thơ một

thời mà mãi mãi, bài thơ của Nước non.

Cảm nhận của em về người anh hung Nguyễn Huệ

Trong lịch sử và văn học nước nhà đã có bao nhiêu tác giả đã giành

thời gian và công sức viết về người anh hung Nguyễn Huệ .Nhưng ấn

tượng sâu sắc nhất đối với chúng ta đó là hình ảnh của ông tấn công ra

bắc đại phá quân Thanh.

Đến với đoạn trích hồi 14 trong " Hoàng Lê nhất thống chí"

của Ngô gia văn phái thuộc dòng họ Ngô Thì. Đoạn trích làm lộ rõ

bản mặt của bọn xâm lược và bọn bán nước cầu vinh. Sự thất bại

thảm hại của chúng đặc biệt làm nổi rõ tính cách của người anh

hùng dân tộc Nguyễn Huệ khí thế quật khởi thần tốc đại phá quân

Thanh của nghĩa quân Tây Sơn là hình tương người anh hùng tiếp

nối lịch sử, tin vào lich sử chống giặc ngoại xâm cua dân tộc nhưng

152 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

ngoài ra lai có tính cách riêng là người anh hùng có tấm lòng yêu

nước nồng nàn có tinh thần nhân ái, thông minh tài chí tuyệt vời.

Trước hết Nguyễn Huệ là người có tấm lòng nồng nàn yêu nước.

Trước khi tiến quân ra Bắc ông đã truyền đi một lời dụ có khí thế

như một bài hịch. Trong lời lệnh dụ này Nguyễn Huệ thể hiện rõ ý

thức tự chủ dân tộc:" Trong khoảng vũ trụ đất nào sao ấy đều đã

phân biệt rõ ràng, phương Nam, phương Bắc chia nhau mà cai trị."

Lời lệnh dụ chính là sự tiếp nối tinh thần " Nam quốc sơn hà nam

đế cư" từ thơ Lý Thường Kiệt tinh thần quyết chiên quyết thắng kẻ

thù xâm lược và mang hòa khí " Hịch tướng sĩ" của Trần Quốc

Tuấn:" Các ngươi là những kẻ có lương tri nương năng hãy cùng ta

đồng tâm hiệp lực để dựng lên công lớn". Niềm tự hào dân tộc của

vua Quang Trung lại âm vang lời tuyên bố hào hùng chủ quyền dân

tộc của " Bình Ngô đại cáo".Rõ ràng lời dụ của Nguyễn Huệ mang

tiếng nói của hồn thiêng sông núi.

Nguyễn Huệ là người có tinh thần quả quyết chí thông minh sáng

suốt, có tài cầm quyền . Ngay cả những người trong triều đình Lê,

những người đối lập với phong trào Tây Sơn cũng phải thừa nhận

Nguyễn Huệ là người anh hùng dũng mãnh có tài cầm quân. Thể

hiện ở khả năng biết địch biết ra. Nguyễn Huệ đã hiểu được chiến

153 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

lược của quân Thanh vì chiếm được thành Thăng Long nhanh

chóng nên ắt sẽ chủ quan khinh địch đặc biệt la trong nhưng ngày

Tết vì thế vua Quang Trung đã tiến hành cuộc hành quân thần tốc

đánh một trận tiêu diệt 20 vạn quân Thanh. Ông không chỉ có tài

phán đoán mà còn có tài điều binh khiển tướng. Ông biết tập

chung vào các điểm then chốt trực tiếp chỉ huy các trận đánh chiến

thuật. Vua Quang Trung rất linh hoạt, xuất quỷ nhập thần, lúc thì

nghi binh thanh thế. Nguyễn Huệ là người có tầm nhìn chiến lược

lúc xuất quân ông đã định trước ngày chiến thắng trở về:" Lần này

ta ra thân hành cầm quân, phương lược tiến đánh đã có tính sẵn.

Chẳng qua mươi ngày có thể đuổi được người Thanh." Đang đi

đánh giặc mà lòng đã nghĩ tới mối quan hệ hai nước và đời sống

nhân dân 2 dân tộc:" Nhưnng nghĩ chúng là nước lớn gấp 10 lần

nước mình, sau khi thua trận ắt lấy làm thẹn mà lo báo thù. Như

thế việc binh đao không bao giờ dứt, không phải phúc cho dân, nỡ

nào làm như vậy.Quả thực hình ảnh vua Quang Trung oai phong

lẫm liệt vào thành Thăng Long sớm trước 2 ngày và chiếc áo bào

đỏ sạm đen khói súng. Vị vua đó đã trở thành niềm tự hào của con

dân đất Việt.

Mấy trăm năm đã trôi qua nhưng mỗi lần đọc” lại Hoàng Lê

154 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

nhất thống chí” ta như thấy cuộc hành quân thần tốc vừa mới đâu

đây.Tự hào với truyền thống của dan tộc ta nguyễn sống làm sao

cho không hổ thẹn với cha ông.

Ý NGHĨA NHAN ĐỀ MỘT SỐ TÁC PHẨM TRONG CHƯƠNG TRÌNH

NGỮ VĂN 9

1.Bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu

- Đồng chí là tên gọi của một tình cảm mới,đặc biệt xuất hiện và phổ

biến trong những năm cách mạng và kháng chiến.

- Tên bài thơ gợi chủ đề tác phẩm: viết về tình đồng chí ở những

người lính trong chống Pháp- những con người nông dân ra lính. Với

họ tình đồng chí là một tình cảm mới mẻ.

- Tình đồng chí là cốt lõi,là bản chất sâu xa của sự gắn bó giữa những

người lính cách mạng, trong bài thơ tác giả đã tập trung làm nổi bật

nội dung này.

- Là nốt nhấn và là lời khẳng định về tình đồng chí.

2.Bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật:

- Nhan đề làm nổi bật một hình ảnh rất độc đáo của toàn bài và đó là

hình ảnh hiếm gặp trong thơ- hình ảnh những chiếc xe không kính.

155 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

- Vẻ khác lạ còn ở hai chữ “Bài thơ” tưởng như rất thừa những là sự

khẳng định chất thơ của hiện thực,của tuổi trẻ hiên ngang, dũng

cảm,vượt lên nhiều thiếu thốn, hiểm nguy của chiến tranh.

3.Truyện ngắn “Làng”của Kim Lân:

Chủ đề của tác phẩm là viết về lòng yêu nước của người nông dân-

làng nơi gần gũi, gắn bó với người nông dân, người ta không thêt

yêu nước nếu không yêu làng.

Đặt tên “Làng” mà không phải là “Làng Chợ Dầu” vì nếu thế thì vấn

đề tác giả đề cập tới chỉ nằm trong phạm vi nhỏ hẹp của một làng cụ

thể.

Đặt tên “Làng” vì đã khai thác một tình cảm bao trùm, phổ biến

trong con người thời kì kháng chiến chống Pháp: Tình cảm với quê

hương, với đất nước.

Làng ở đây cũng chính là cái Chợ Dầu mà ông Hai yêu như máu thịt

của mình,nơi ấy với ông là niềm tin, là tình yêu và niềm tự hào vô bờ

bến là quê hương đất nước thu nhỏ.

Nhan đề Làng gọi hình ảnh người nông dân và nông thôn, đây là

mảng sáng tác thành công nhất của Kim Lân.

156 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

Vì vậy, nhan đề tác phẩm rất hya và giàu ý nghĩa.

4. “LẶNG LẼ SA PA” của Nguyễn Thành Long:

Khi nhắc đến Sapa người ta thường nghĩ ngay đến vẻ yên tĩnh của

một nơi nghỉ ngơi lý tưởng.

Sa pa lạng lẽ, đó chỉ là cái vẻ lặng lẽ bên ngoài, nhưng thực ra nó lại

không lặng lẽ, bởi đằng sau cái vẻ lặng lẽ của Sa pa là cuộc sống sôi

nổi của những con người đầy trách nhiệm đối với công việc, đối với

đất nước, với mọi người mà tiêu biểu là anh thanh niên làm công tác

khí tượng một mình trên đỉnh núi cao.

Tạo ra sự đối lập nhan đề tác phẩm tác giả muốn làm nổi bật nội

dung, ý nghĩa ma tác giả muốn gửi gắm.

Qua nhan đề tác phẩm, tác giả muốn gửi đến mọi người thong điệp:

“Trong cái không khí lặng im của Sa pa. Sa pa mà ta nhắc tới người ta

chỉ nghĩ đến chuyện nghỉ ngời lại có những con người ngày đêm lao

động hăng say, miệt mài lặng lẽ, âm thầm, cống hiến cho đất nước.”

5.TRUYỆN NGẮN “NHỮNG NGÔI SAO XA XÔI”CỦA LÊ MINH KHUÊ:

- Hình ảnh ngôi sao xa xôi thường biểu tượng cho acis đẹp, sự trong

sáng, biểu tượng cho tương lai rực rỡ.

157 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

- Những ngôi sao xa xôi trong truyện chính là những cô gái, biểu

tượng cho vẻ đẹp anh hung của những cô thanh niên.

- ở họ luôn có những phẩm chất tốt đẹp, có sức tỏa sáng kì diệu

nhưng không rực rỡ, chói chang.

- Ánh sáng ấy không phô trương mà phải chịu khó tìm hiểu chúng ta

mới cảm nhận được vẻ đẹp diệu kì. Các chị xứng đáng là “Những

ngôi sao xa sôi” trên đỉnh Trường Sơn, những ngôi sao dẫn đường

cho dân tộc Việt nam đi tới thắng lợi.

Cảm nhân về đoạn thơ cuối bài nói với con

Xưa nay tình mẫu tử là đề tài phong phú cho thơ ca. Nhưng

những bài thơ về tình cha con thì có lẽ khá ít. Bài thơ "Nói với

con" cuả Y Phương là 1 trong những tác phẩm hiếm hoi đó. Bài

thơ thể hiện tình cảm gia đình êm ấm, tình quê hương tha thiết,

ngọt ngào và ngợi ca truyền thống nghĩa tình, sức sống mạnh mẽ

của người dân tộc miền núi. 158 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

Không chỉ gọi cho con về nguồn sinh dưỡng, cha còn nói với

con về những đức tính cao đẹp của "người đồng mình" và ước mơ

của cha về con. Đó là lòng yêu lao động, hăng say lao động với

cả tấm lòng. Đó là sức sống bền bỉ mạnh mẽ vượt wa mọi khó

khăn, gian khổ.

Người đồng mình thương lắm con ơi

...........Không lo cực nhọc

Trước hết đó là tình thương yêu, đùm bọc nhau. Cách nói

mộc mạc mà chứa đựng bao ân tình rất cảm động đó được lặp đi

lặp lai như một điệp khúc trong bài ca. Chính tình thưong đó là

sức mạnh để "người đồng mình" vượt wa bao gian khổ cuộc đời.

Những câu thơ ngắn, đối xứng nhau "cao đo nỗi buồn xa nuôi chí

lớn" diễn tả thật mạnh mẽ chí khí của "người đồng mình": sống

vất vả, nghèo đói, cực nhọc, lam lũ nhưng có chí lớn, luôn yêu

quý tự hào, gắn bó với quê hương. Đó là phẩm chất thứ hai. Thứ

ba, về cách sống, người cha muốn giáo dục con sống phải có

nghĩa tình, chung thủy với quê hương, bit chấp nhận vượt wa gian

nan, thử thách bằng ý chí và niềm tin của mình. Không chê bai,

phản bội quê hưong : "không chê...không chê....không lo" dù quê

hương còn nghèo, còn vất vả. "Người đòng mình sống khoáng

159 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

đạt, hồn nhiên, mạnh mẽ "như sông như suối-lên thác xuống

ghềnh-ko lo cực nhọc". Lời cha nói với con mà cũng là lời dạy

con về bài học đạo lý làm người. Đoạn thơ rất dồi dào nhạc điệu,

tạo nên bởi điệp từ, điệp ngữ, điệp cấu trúc câu và nhịp thơ rất

linh họat , lúc vươn dài, khi rút ngắn, lời thơ giản dị, chắc nịch

mà lay độg, thấm thía, có tác dụng truyền cảm manh mẽ.

Để nhắc nhở giáo dục con, người cha nhấn mạnh truyền thống

của người đồng mình:

Người đồng mình thô sơ da thịt

.......Nghe con

Truyền thống ấy thật đáng tự hào, tuy "thô sơ da

thịt", ăn mặc giản dị, áo chàm, khăn piêu, cuộc sống mộc mạc

thiếu thốn... nhưng ko hề nhỏ bé về tâm hồn, ý chí nghị lực và đặc

biệt là khát vọng xây dựng quê hương. Họ xây dựng quê hương

bằng chính sức lực và sự bền bỉ của mình: "tự đục đá kê cao quê

hương". Họ sáng tạo, lưu truyền và bảo vệ phong tục tốt đẹp của

mình biết tự hào với truyền thống quê hương, dặn dò con cần tự

tin, vững bước trên đường đời, ko bao giờ được sống tầm thường,

nhỏ bé, ích kỷ. Hai tiếng "nghe con" kết thúc bài thơ với tấm lòng

thương yêu, kỳ vọng, vừa là lời dặn dò nhắc nhở ý chí tình của

160 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng

nhười cha đối với đứa con thân yêu. Hai tiếng ấy nghe sao mà

thân thương trìu mến.

Bài thơ có giọng điệu nhò nhẹ, chân tình và rất mới lạ

trong phong cách, một phong cách miền núi với ngôn ngữ "thổ

cẩm" rất độc đáo, với cảm xúc, tư duy rất riêng. Qua đó, Y

Phương đã thể hiện tình cảm gia đình ấm cúng, ca ngợi truyền

thống cần cù, sức sống mạnh mẽ của quê hưong và dân tộc mình.

Bài thơ giúp ta hiểu thêm sức sống và vẻ đẹp tâm hồn của 1 dân

tộc miền núi, gợi nhắc tình cảm gắn bó với truyền thống, với quê

hương và ý chí vươn lên trong cuộc sống .

__________________

161 Hoàng văn Dân Trường THCS Quỳnh Thắng