ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

DƢƠNG THỊ THÙY LINH

CĂN CỨ LY HÔN THEO LUẬT HÔN NHÂN

VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2014 VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG

TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP LY HÔN

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2019

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

DƢƠNG THỊ THÙY LINH

CĂN CỨ LY HÔN THEO LUẬT HÔN NHÂN

VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2014 VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG

TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP LY HÔN

Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự

Mã số: 8380101.04

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Văn Cừ

Hà Nội - 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, với sự hƣớng

dẫn của PGS.TS Nguyễn Văn Cừ, Giảng viên Trƣờng Đại học Luật Hà Nội. Các

kết quả nêu trong Luận văn chƣa đƣợc công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và

trung thực.

Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ

tài chính theo quy định của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.

Tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội

xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn của mình.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƢỜI CAM ĐOAN

Dƣơng Thị Thùy Linh

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1 CHƢƠNG 1 ............................................................................................................ 7 LÝ LUẬN CHUNG VỀ CĂN CỨ LY HÔN ........................................................ 7 1.1. Khái niệm ly hôn và căn cứ ly hôn ................................................................. 7 1.1.1. Khái niệm ly hôn .......................................................................................... 7 1.1.2. Khái niệm căn cứ ly hôn ............................................................................. 11 1.1.3. Cơ sở và ý nghĩacủa việc quy định căn cứ ly hôn ...................................... 13 1.2. Khái lƣợc pháp luật Việt Nam về căn cứ ly hôn qua các giai đoạn lịch sử .. 14 1.2.1. Căn cứ ly hôn theo pháp luật thời kỳ phong kiến ...................................... 14 1.2.2. Căn cứ ly hôn thời kỳ Pháp thuộc .............................................................. 18 1.2.3. Căn cứ ly hôn thời kỳ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến nay ........... 21 1.3. Căn cứ ly hôn theo quy định của một số nƣớc trên thế giới ......................... 25 1.3.1. Căn cứ ly hôn theo quy định của Thái Lan ................................................ 25 1.3.2. Căn cứ ly hôn theo quy định của Cộng hòa Pháp ..................................... 27 CHƢƠNG 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CĂN CỨ LY HÔN THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2014 ..................................................................... 31 2.1. Căn cứ ly hôn trong trường hợp vợ, chồng thuận tình ly hôn ...................... 32 2.2. Căn cứ ly hôn trong trường hợp ly hôn theo yêu cầu của của một bên ........ 42 2.2.3. Trường hợp cha, mẹ, người thân thích khác yêu cầu ly hôn ..................... 60 CHƢƠNG 3 .......................................................................................................... 66 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CĂN CỨ LY HÔN .. 66 3.1. Một số vƣớng mắc, bất cập ........................................................................... 66 3.2. Kiến nghị hoàn thiện ..................................................................................... 72 KẾT LUẬN .......................................................................................................... 81 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 83

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLDS: Bộ luật Dân sự

BLHS: Bộ luật Hình sự

BLTTDS: Bộ luật Tố tụng dân sự

HN&GĐ: Hôn nhân và gia đình

TAND: Tòa án nhân dân

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Từ ngàn xƣa, gia đình Việt Nam đã mang truyền thống tốt đẹp với những

giá trị tinh hoa văn hóa dân tộc Lạc Hồng. Gia đình là tổ ấm mang lại hạnh phúc,

là sự hài hòa cho đời sống của mỗi thành viên trong gia đình, mỗi cá nhân trong

xã hội. Gia đình êm ấm, hạnh phúc sẽ là hành trang, là nền tảng để mỗi cá nhân

phát huy hết năng lực của mình, góp phần xây dựng đất nƣớc ổn định, phồn vinh

và phát triển. Ngày nay, trong bối cảnh đất nƣớc bƣớc sang giai đoạn phát triển

mới, cùng với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc và hội nhập quốc

tế, đất nƣớc ta đang chịu những tác động tích cực và tiêu cực, không chỉ về mặt

kinh tế mà còn cả về mặt văn hóa, xã hội. Gia đình với tƣ cách là tế bào của xã

hội cũng không tránh khỏi sự tác động đa chiều đó: gia đình hạt nhân (hai thế hệ)

đang dần thay thế cấu trúc gia đình truyền thống (nhiều thế hệ); việc đề cao tự do

của cá nhân trong gia đình đã làm cho sự gắn kết giữa cha, mẹ, con và giữa các

thành viên khác có xu hƣớng giảm sút; quan hệ sở hữu, giao dịch đƣợc thực hiện

không chỉ nhằm đáp ứng các nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình mà còn

nhằm mục đích kinh doanh, thƣơng mại ngày càng phổ biến... Quan trọng hơn cả

đó là sự thiếu bền vững về hôn nhân, tình trạng ly thân, ly hôn gần đây có xu

hƣớng năm sau cao hơn năm trƣớc, đặc biệt trong các gia đình trẻ... Hôn nhân

tan vỡ không chỉ làm ảnh hƣởng đến gia đình, các thành viên trong gia đình mà

còn ảnh hƣởng đến xã hội. Bởi gia đình là tế bào của xã hội, khi tế bào không

“khỏe” thì xã hội bị ảnh hƣởng nhiều mặt. Trƣớc kia xã hội Việt Nam coi ly hôn

nhƣ một hành vi phi đạo đức, phi chuẩn mực ảnh hƣởng đến danh dự, sự thăng

1

tiến của cá nhân. Hiện nay và trong tƣơng lai, dƣới ảnh hƣởng của những nhân tố

kinh tế xã hội mới, hiện tƣợng ly hôn sẽ đƣợc bình thƣờng hóa. Tuy nhiên, hệ

lụy để lại sau khi ly hôn là vô cùng lớn. Tiềm ẩn đằng sau những vụ ly hôn là

những yếu tố bất ổn, sự lỏng lẻo trong kết cấu của gia đình khi mà mỗi thành

viên đều có thể dễ dàng tự quyết định số phận của cuộc sống gia đình, vai trò,

trách nhiệm của ngƣời vợ, ngƣời chồng cũng dần bị xem nhẹ, sợi dây liên kết

tình cảm giữa vợ - chồng, bố mẹ - con cái ngày càng xa cách, dẫn đến sự bất ổn,

khủng hoảng trong cuộc sống xã hội. Chính vì lẽ đó, Đảng và Nhà nƣớc ta dành

sự quan tâm đặc biệt cho lĩnh vực HN&GĐ. Luật HN&GĐ năm 2014 đã có

nhiều quy định tiến bộ, bảo vệ quyền lợi của mọi thành viên trong gia đình,

hƣớng tới xây dựng gia đình hạnh phúc theo mô hình xã hội chủ nghĩa, là căn cứ

để Tòa án giải quyết các vụ việc HN&GĐ một cách thấu tình đạt lý, tuy nhiên

thực tế hiệu lực của Luật HN&GĐ năm 2014 phát huy còn chƣa cao, một số quy

định còn bất cập, nhiều vấn đề còn thiếu sự điều chỉnh của luật...

Bên cạnh các quy định về điều kiện kết hôn, Luật HN&GĐ năm 2014 đã

quy định về căn cứ ly hôn trên nguyên tắc vừa đảm bảo quyền tự do ly hôn của

vợ chồng, vừa là cơ sở pháp lý chính đáng để Tòa án giải quyết ly hôn chính xác

theo bản chất của hôn nhân đã tan vỡ. Tuy nhiên, căn cứ ly hôn hiện nay rất

chung chung, khó xác định, ảnh hƣởng đến công tác xét xử ly hôn. Bởi vậy, với

mong muốn tìm hiểu rõ hơn về các căn cứ ly hôn, và nghiên cứu việc áp dụng

căn cứ ly hôn trong thực tiễn giải quyết các vụ án ly hôn của Tòa án, tôi đã lựa

chọn đề tài "Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và thực

tiễn áp dụng trong việc giải quyết tranh chấp ly hôn". Việc nghiên cứu đề tài này

nhằm làm rõ nội dung căn cứ ly hôn và việc áp dụng nội dung căn cứ ly hôn

2

trong việc giải quyết các tranh chấp ly hôn theo luật định. Trên cơ sở đó phát

hiện những vƣớng mắc, bất cập khi áp dụng giải quyết các vụ án ly hôn; từ đó

kiến nghị hoàn thiện các quy định về căn cứ ly hôn theo pháp luật hiện hành.

2. Tình hình nghiên cứu

Một số công trình nghiên cứu khoa học, các bài báo đƣợc đăng trên các tạp

chí về HN&GĐ đề cập đến vấn đề ly hôn và căn cứ ly hôn: Bài viết "Những điều

cần biết về ly hôn" của tác giả Nguyễn Ngọc Điệp, Trần Đông Phong, Hồ Thị

Nệ, NXB Phụ nữ, 2001; Bài viết "Ly hôn nghiên cứu trƣờng hợp Hà Nội" của

tác giả Nguyễn Thanh Tâm, Trung tâm nghiên cứu khoa học về gia đình và phụ

nữ, Hà Nội, 2002; Bài viết “Căn cứ ly hôn trong cổ luật Việt Nam”, thạc sỹ

Nguyễn Thị Thu Vân, tạp chí Nhà nƣớc và pháp luật.- 8/2005.- Số 208.- Tr.55-

61;…

Một số luận văn thạc sỹ luật học đã nghiên cứu về căn cứ ly hôn: "Căn cứ ly

hôn và các trƣờng hợp ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000", của

tác giả Hà Thị Mai Hoa, năm 2000; "Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia

đình năm 2000 và thực tiễn áp dụng pháp luật tại Tòa án nhân dân trên địa bàn

thành phố Đà Nẵng", của tác giả Nguyễn Thị Thúy Kiều, năm 2013; "Căn cứ ly

hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014" của tác giả Nguyễn Thị Thơm,

năm 2015.

Nhƣ vậy, đã có không ít bài viết, công trình khoa học, luận văn thạc sỹ

nghiên cứu pháp luật về ly hôn, căn cứ ly hôn. Tuy nhiên, thông qua việc nghiên

cứu đề tài “Căn cứ ly hôn theo Luật HN&GĐ năm 2014 và thực tiễn áp dụng

trong việc giải quyết tranh chấp ly hôn”, tôi muốn chỉ ra những bất cập và kiến

nghị những giải pháp cụ thể hoàn thiện pháp luật về căn cứ ly hôn.

3

3. Phạm vi và mục đích nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Nội dung căn cứ ly hôn theo Luật HN&GĐ

Việt Nam năm 2014; Thực tiễn áp dụng căn cứ ly hôn trong việc giải quyết các

tranh chấp ly hôn qua một số vụ án cụ thể. Đề tài không nghiên cứu áp dụng căn

cứ ly hôn có yếu tố nƣớc ngoài.

Mục đích nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu cơ sở lý luận về ly hôn và căn

cứ ly hôn, áp dụng căn cứ ly hôn trong thực tiễn giải quyết các vụ án ly hôn theo

pháp luật HN&GĐ Việt Nam năm 2014; phát hiện vƣớng mắc, bất cập quy định

nội dung căn cứ ly hôn về lý luận và thực tiễn áp dụng; từ đó nêu các kiến nghị,

đề xuất giải pháp để hoàn thiện căn cứ ly hôn theo pháp luật về HN&GĐ Việt

Nam.

4. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài

Để đạt đƣợc mục đích nghiên cứu của đề tài, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài

gồm:

Thứ nhất, nghiên cứu những vấn đề khái quát chung về ly hôn, căn cứ ly

hôn gồm: khái niệm ly hôn, căn cứ ly hôn; cơ sở và ý nghĩa của việc quy định

căn cứ ly hôn; nghiên cứu căn cứ ly hôn qua các giai đoạn phát triển của lịch sử:

từ thời kỳ phong kiến, đến thời kỳ Pháp thuộc, từ năm 1945 đến nay; đồng thời

nghiên cứu căn cứ ly hôn theo quy định của pháp luật một số quốc gia nhƣ Pháp,

Thái Lan… để thấy những điểm giống nhau và khác nhau.

Thứ hai, nghiên cứu những quy định pháp luật hiện hành về căn cứ ly hôn;

phân tích một số vụ án Tòa án áp dụng căn cứ ly hôn để giải quyết tranh chấp ly

hôn, từ đó đƣa ra nhận định của cá nhân, chỉ ra những vƣớng mắc, bất cập trong

4

việc áp dụng căn cứ ly hôn.

Thứ ba, đƣa ra các kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của

pháp luật về căn cứ ly hôn.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Để đạt đƣợc các mục tiêu nghiên cứu mà đề tài đặt ra, những phƣơng pháp

đƣợc sử dụng để nghiên cứu luận văn gồm:

Phƣơng pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về chủ nghĩa duy vật biện

chứng và duy vật lịch sử; quan điểm, đƣờng lối, chính sách của Đảng, pháp luật

của nhà nƣớc về HN&GĐ.

Phƣơng pháp phân tích, phƣơng pháp diễn giải: Những phƣơng pháp này

đƣợc sử dụng để làm rõ các quy định của pháp luật về ly hôn và căn cứ ly hôn.

Phƣơng pháp đánh giá, phƣơng pháp so sánh: Những phƣơng pháp này

đƣợc sử dụng để đƣa ra ý kiến nhận xét quy định của pháp luật hiện hành có hợp

lý hay không, đồng thời nhìn nhận trong mối tƣơng quan của pháp luật các thời

kỳ hay các quy định pháp luật có liên quan và pháp luật của một số nƣớc khác

trên thế giới…

Phƣơng pháp quy nạp, phƣơng pháp diễn dịch: Những phƣơng pháp này

đƣợc sử dụng để triển khai các vấn đề liên quan đến căn cứ ly hôn, đặc biệt là

các vƣớng mắc, bất cập và các kiến nghị hoàn thiện. Ví dụ: phƣơng pháp quy

nạp đƣợc sử dụng để đúc kết lại những bất cập từ các vấn đề thực tiễn áp dụng

căn cứ ly hôn để giải quyết các vụ án ly hôn; đƣa ra những kiến nghị mang tính

khái quát, súc tích, sau đó sử dụng phƣơng pháp diễn dịch để làm rõ nội dung

của kiến nghị đó…

5

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Kết quả đạt đƣợc của luận văn góp phần làm sáng tỏ phƣơng diện lý luận

của vấn đề ly hôn và căn cứ ly hôn, đồng thời làm sáng tỏ vấn đề căn cứ ly hôn

đƣợc áp dụng trong thực tiễn. Cụ thể: Xây dựng đƣợc khái niệm và đƣa ra những

tiêu chí cơ bản nhất để Tòa án xác định căn cứ ly hôn, phân tích thực tiễn áp

dụng các căn cứ ly hôn theo quy định của pháp luật hiện hành để giải quyết các

vụ án ly hôn, chỉ ra những bất cập của pháp luật và đƣa ra phƣơng hƣớng hoàn

thiện pháp luật về căn cứ ly hôn.

Ngoài ra, những giải pháp hoàn thiện pháp luật là một kênh thông tin để các

cơ quan chức năng trong phạm vi, thẩm quyền của mình có thể tham khảo để sửa

đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực tƣơng ứng. Bên cạnh đó, luận

văn sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích với đội ngũ giảng viên, sinh viên và có giá

trị đối với các cán bộ đang làm công tác xây dựng pháp luật về HN&GĐ ở Việt

Nam.

7. Cơ cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn đƣợc

chia thành 3 chƣơng:

Chƣơng 1: Lý luận chung về căn cứ ly hôn

Chƣơng 2: Căn cứ ly hôn theo pháp luật hiện hành và thực tiễn áp dụng giải

quyết tranh chấp ly hôn

6

Chƣơng 3: Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về căn cứ ly hôn.

CHƢƠNG 1

LÝ LUẬN CHUNG VỀ CĂN CỨ LY HÔN

1.1. Khái niệm ly hôn và căn cứ ly hôn

1.1.1. Khái niệm ly hôn

Quan hệ hôn nhân với đặc điểm tồn tại lâu dài, bền vững cho đến suốt

cuộc đời con ngƣời vì nó đƣợc xác lập trên cơ sở tình yêu thƣơng, gắn bó giữa

vợ chồng. Tuy nhiên, trong cuộc sống vợ chồng, vì những lý do nào đó dẫn tới

giữa vợ chồng có mâu thuẫn sâu sắc đến mức họ không thể chung sống với nhau

nữa, vấn đề ly hôn đƣợc đặt ra để giải phóng cho vợ chồng và các thành viên

khác thoát khỏi mâu thuẫn gia đình. Ly hôn là mặt trái của hôn nhân nhƣng là

mặt không thể thiếu đƣợc khi quan hệ hôn nhân tồn tại chỉ là hình thức, tình cảm

vợ chồng đã thực sự tan vỡ.

Chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tƣ tƣởng của Nhà nƣớc xã hội chủ

nghĩa, dƣới chế độ xã hội này, hôn nhân đƣợc xây dựng hoàn toàn theo chế độ

một vợ, một chồng, tự do, tiến bộ và bình đẳng. Pháp luật xã hội chủ nghĩa chỉ

thừa nhận quan hệ hôn nhân xây dựng trên cơ sở tình yêu chân chính giữa nam

và nữ, tự do và tự nguyện. Quyền tự do ấy biểu hiện trong việc tự do kết hôn và

tự do ly hôn. Theo Lênin: “Tự do ly hôn tuyệt không có nghĩa là làm “tan rã”

những mối liên hệ gia đình mà ngược lại, nó củng cố những mối liên hệ đó trên

những cơ sở dân chủ, những cơ sở duy nhất có thể có và vững chắc trong một xã

hội văn minh”[23, tr. 335]. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, hôn

nhân nói chung, ly hôn nói riêng là hiện tƣợng xã hội mang tính giai cấp. Nghĩa

7

là nhà nƣớc thông qua pháp luật quy định chế độ hôn nhân phù hợp với ý chí của

nhà nƣớc. Các-Mác phê phán quan điểm vợ chồng chỉ chú ý đến hạnh phúc cá

nhân, ly hôn một cách tùy tiện:“Họ đứng trên quan điểm coi hạnh phúc cá nhân

của mình là mục đích của cuộc sống, họ chỉ nghĩ đến hai cá nhân mà quên mất

gia đình. Họ quên rằng, hầu như mọi sự tan vỡ của hôn nhân đều là sự tan vỡ

của gia đình và quên rằng, ngay cả khi đứng trên quan điểm thuần túy pháp lý,

hoàn cảnh của con cái và tài sản của chúng cũng không thể bị lệ thuộc vào sự xử

lý tùy tiện của bố mẹ, vào việc bố mẹ muốn sao làm vậy. Nếu như hôn nhân

không phải là cơ sở của gia đình thì nó cũng không phải là đối tượng của công

việc lập pháp, ví dụ như tình bạn chẳng hạn. Như vậy, chỉ có ý chí cá nhân, hay

nói đúng hơn là ý muốn tùy tiện của vợ chồng, là được chú ý; còn ý chí của hôn

nhân, thực chất đạo đức của mối quan hệ này thì chưa được chú ý tới”[19, tr.

281].

Ở mỗi nƣớc khác nhau, dƣới mỗi thời kỳ khác nhau có những quan niệm

khác nhau về vấn đề ly hôn, cụ thể: Một số nƣớc cấm ly hôn: Quan niệm này

đƣợc chấp nhận trong rất nhiều hệ thống luật nguyên sơ và đƣợc coi là một trong

những quan niệm nền tảng của luật giáo hội về gia đình, không ít nƣớc Châu Âu

chỉ mới từ bỏ quan niệm này cách đây không lâu nhƣ: ở Ý từ năm 1975, ở Tây

Ban Nha từ năm 1982,...nghĩa là hôn nhân đƣợc xác lập và đƣợc duy trì chỉ nhờ

vào sự ƣng thuận lúc ban đầu, một khi đã ƣng thuận kết hôn, ngƣời kết hôn

không thể thay đổi ý chí, phải chấp nhận cuộc sống chung cho đến cuối đời. Nói

rõ hơn, kết hôn thì đƣợc, nhƣng ly hôn thì không đƣợc. Việc duy trì quan niệm

này trong luật cận đại và đƣơng đại của các nƣớc chủ yếu vì lý do tôn giáo. Trái

ngƣợc lại quan niệm trên, một số nƣớc cho phép tự do ly hôn: hệ thống tự do ly

hôn chủ trƣơng rằng hôn nhân không thể đƣợc duy trì, một khi vợ hoặc chồng

8

hoặc cả hai không còn cảm thấy đƣợc thôi thúc bởi ý muốn chung sống với nhau.

Mỗi ngƣời phải có quyền tự do chấm dứt quan hệ hôn nhân, nhƣ đã có quyền tự

do xác lập quan hệ đó. Nếu cả vợ và chồng đều đồng ý ly hôn, thì càng tốt; nếu

không, mỗi ngƣời có quyền ly hôn chỉ bằng quyết định đơn phƣơng của mình.

Quyền tự do ly hôn đƣơc thiết lập trong luật La Mã thời kỳ cuối. Trong luật

đƣơng đại của nhiều nƣớc theo hệ thống Common law hoặc của các nƣớc Bắc

Âu, ly hôn theo ý chí đơn phƣơng đƣợc thừa nhận dƣới hình thức “ly hôn do

không hợp tính tình”, chỉ cần chứng minh rằng giữa vợ và chồng có sự khác biệt

về tính tình và sự khác biệt đó là nguyên nhân của những xung đột gay gắt giữa

hai ngƣời khiến cho cuộc sống chung không thể chịu đựng đƣợc, vợ hoặc chồng

có thể xin ly hôn và thẩm phán phải đáp ứng thuận lợi đối với yêu cầu ly hôn đó.

Mô hình thứ ba nhƣ là sự dung hoà giữa hai mô hình cấm ly hôn và tự do ly hôn

đó là ly hôn tự do dƣới sự kiểm soát của Nhà nƣớc. Có thể coi ly hôn vẫn nằm

trong nội dung quyền dân sự của cá nhân; nhƣng yêu cầu ly hôn chỉ đƣợc Toà án

tiếp nhận trong những trƣờng hợp đƣợc luật dự kiến. Yêu cầu ly hôn có thể do

vợ hoặc chồng hoặc cả vợ và chồng đƣa ra. Thẩm phán, về phần mình, có quyền

quyết định cho phép hay không cho phép ly hôn trên cơ sở đánh giá mức độ

chính đáng, hợp lý, hợp tình của yêu cầu ly hôn; ngay nếu nhƣ yêu cầu ly hôn rơi

đúng vào trƣờng hợp đƣợc luật dự kiến, thẩm phán có thể bác đơn xin ly hôn,

một khi xét thấy lý do ly hôn không vững chắc hoặc việc ly hôn có thể ảnh

hƣởng bất lợi nghiêm trọng đối với cuộc sống sau ly hôn của một trong hai

đƣơng sự (hoặc cả hai) hoặc đối với tƣơng lai của con cái, so với việc tiếp tục

quan hệ hôn nhân. Hệ thống ly hôn tự do dƣới sự kiểm soát của Nhà nƣớc cho

phép cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền can thiệp vào sự hình thành suy nghĩ của

9

vợ, chồng về vấn đề ly hôn đồng thời vẫn tôn trọng ý chí thực, nghiêm túc và

chắc chắn của vợ, chồng hoặc của cả hai về việc duy trì hay không duy trì cuộc

sống chung.

Việt Nam theo mô hình thứ ba, ly hôn đƣợc thực hiện dƣới sự kiểm soát

của nhà nƣớc. Ly hôn là một biện pháp chấm dứt hôn nhân đƣợc thừa nhận từ rất

sớm trong pháp luật Việt Nam, từ thời kỳ phong kiến, thời kỳ Pháp thuộc cho

đến nay. Theo từ điển luật học của Viện khoa học pháp lý - Bộ Tƣ pháp, ly hôn

đƣợc hiểu là: "chấm dứt quan hệ vợ chồng do TAND công nhận hoặc quyết định

theo yêu cầu của vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng" [41, tr. 460]. Khoản 8

Điều 8 Luật HN&GĐ năm 2000 quy định: “Ly hôn là chấm dứt quan hệ hôn

nhân do Tòa án công nhận hoặc quyết định theo yêu cầu của vợ hoặc của chồng

hoặc cả hai vợ chồng”. Khoản 14 Điều 3 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định: "Ly

hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp

luật của Tòa án". Đây là điểm mới trong quy định về ly hôn tại Luật HN&GĐ

năm 2014, không cần phải có thêm cụm từ “theo yêu cầu của vợ hoặc của chồng

hoặc cả hai vợ chồng”, bởi vì theo Khoản 3 Điều 51 Luật HN&GĐ năm 2014

quy định: ngoài vợ, chồng có quyền yêu cầu ly hôn thì còn có một số chủ thể

khác không phải là vợ, chồng nhƣng cũng có quyền yêu cầu ly hôn trong một số

trƣờng hợp đặc biệt, đó là cha, mẹ, ngƣời thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa

án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh

khác mà không thể nhận thức, làm chủ đƣợc hành vi của mình, đồng thời là nạn

nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hƣởng nghiêm

trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.

Nhƣ vậy, về mặt pháp lý, ly hôn là việc chấm dứt quan hệ hôn nhân trong

10

lúc cả vợ và chồng đều còn sống. Đây là biện pháp cuối cùng mà pháp luật cho

phép thực hiện trong trƣờng hợp cuộc sống vợ chồng lâm vào tình trạng khủng

hoảng mà không thể đƣợc khắc phục bằng bất kỳ biện pháp nào khác.

1.1.2. Khái niệm căn cứ ly hôn

Nếu nhƣ kết hôn là khởi đầu để xác lập nên quan hệ vợ chồng thì ly hôn

có thể coi là điểm cuối của hôn nhân khi quan hệ này thực sự tan rã. Khi đời

sống hôn nhân không thể duy trì đƣợc nữa thì ly hôn là một giải pháp cần thiết

cho cả đôi bên vợ chồng. Ly hôn giải phóng cho các cặp vợ chồng và những

thành viên trong gia đình thoát khỏi xung đột, mâu thuẫn, bế tắc trong cuộc sống.

Bằng các quy định về ly hôn, Nhà nƣớc cũng hƣớng tới bảo vệ lợi ích của gia

đình, của xã hội khi xác định những điều kiện cho phép chấm dứt quan hệ hôn

nhân trƣớc pháp luật, gọi chung là căn cứ ly hôn.

Trong từng giai đoạn phát triển của lịch sử, ở mỗi chế độ xã hội khác

nhau, giai cấp thống trị đều thông qua Nhà nƣớc, bằng pháp luật quy định chế độ

hôn nhân phù hợp với ý chí của Nhà nƣớc. Tức là Nhà nƣớc bằng pháp luật quy

định những điều kiện nào xác lập quan hệ vợ chồng, và những điều kiện nào

đƣợc phép xóa bỏ quan hệ hôn nhân. Do có quan điểm khác nhau về quy định ly

hôn và giải quyết ly hôn, cho nên căn cứ ly hôn đƣợc quy định trong pháp luật

của Nhà nƣớc xã hội chủ nghĩa có nội dung khác về bản chất so với căn cứ ly

hôn do Nhà nƣớc phong kiến, tƣ bản đặt ra. Pháp luật của nhà nƣớc phong kiến,

tƣ sản quy định có thể cấm ly hôn, không quy định căn cứ ly hôn mà chỉ công

nhận quyền vợ chồng đƣợc sống tách biệt nhau (biệt cƣ) bằng chế định ly thân;

bằng hạn chế quyền ly hôn theo thời gian xác lập quan hệ hôn nhân; theo độ tuổi

của vợ chồng; và thƣờng quy định xét xử ly hôn dựa trên cơ sở lỗi của vợ, chồng

11

hay của cả hai vợ chồng,đó là các điều kiện có tính chất hình thức, phản ánh

nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng, chứ không phải bản chất ly hôn đã tan vỡ.

Ngƣợc lại, pháp luật của Nhà nƣớc xã hội chủ nghĩa công nhận quyền tự do ly

hôn chính đáng của vợ chồng, không thể cấm hoặc đặt ra những điều kiện nhằm

hạn chế quyền tự do ly hôn. Ly hôn dựa trên sự tự nguyện của vợ chồng, nó là

kết quả của hành vi có ý chí của vợ chồng khi thực hiện quyền ly hôn của

mình.Việc giải quyết ly hôn là tất yếu đối với quan hệ hôn nhân đã thực sự tan

vỡ, điều đó là hoàn toàn có lợi cho vợ, chồng, con cái và các thành viên trong gia

đình. Các-Mác đã viết: "Sự ly hôn chỉ là việc xác nhận một sự kiện: cuộc hôn

nhân này là cuộc hôn nhân đã chết, sự tồn tại của nó chỉ là cái vỏ bề ngoài và là

sự giả dối. Đương nhiên, không phải sự tùy tiện của nhà lập pháp, cũng không

phải sự tùy tiện của những cá nhân, mà chỉ bản chất của sự kiện mới quyết định

được là cuộc hôn nhân này đã chết hoặc chưa chết. Bởi vì… việc xác nhận sự

kiện chết là tùy thuộc vào thực chất của vấn đề chứ không phải vào nguyện vọng

của những bên hữu quan… Nhà lập pháp chỉ có thể xác định những điều kiện

trong đó hôn nhân được phép tan vỡ, nghĩa là trong đó, về thực chất hôn nhân tự

nó đã bị phá vỡ rồi, việc Tòa án cho phép phá bỏ hôn nhân chỉ có thể là việc ghi

biên bản sự tan vỡ bên trong của nó" [18, tr. 119-121].

Pháp luật Việt Nam là pháp luật xã hội chủ nghĩa nênkhái niệm căn cứ ly

hôn có thể hiểu là: những tình tiết hay các điều kiện pháp lý do pháp luật quy

định, chỉ khi có những tình tiết, hay điều kiện đó, thì Tòa án mới quyết định cho

vợ chồng ly hôn. Hoặc căn cứ ly hôn là những yếu tố để xác định đúng tình trạng

tan vỡ thực sự về tình cảm, đời sống vợ chồng, mục đích của hôn nhân từ đó Tòa

12

án cho phép vợ chồng ly hôn.

Theo tác giả có thể định nghĩa: “Căn cứ ly hôn là cơ sở pháp lý đƣợc luật

định dựa trên cơ sở hôn nhân tan vỡ, dựa vào đó để Tòa án giải quyết các vụ việc

ly hôn”.

1.1.3. Cơ sở và ý nghĩacủa việc quy định căn cứ ly hôn

Dựa trên nguyên tắc bảo đảm quyền tự do hôn nhân bao gồm quyền tự do

kết hôn và tự do ly hôn, sự điều chỉnh các quy định của pháp luật HN&GĐ về

căn cứ để ly hôn là hết sức cần thiết.

Hệ thống pháp luật HN&GĐ của nhà nƣớc ta qua các giai đoạn phát triển

của lịch sử đã quy định căn cứ ly hôn ngày càng hoàn thiện, phù hợp, là cơ sở

pháp lí để tòa án giải quyết các án kiện ly hôn. Sắc lệnh số 159/SL quy định căn

cứ ly hôn vẫn dựa trên cơ sở “lỗi” của vợ chồng. Sau đó, Luật HN&GĐ năm

1959 (Điều 26), Luật HN&GĐ năm 1986 (Điều 40), Luật HN&GĐ năm 2000

(Điều 89) và hiện nay là Luật HN&GĐ năm 2014 (Điều 55 và Điều 56) đã quy

định căn cứ ly hôn theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, dựa vào bản chất

của quan hệ hôn nhân đã tan vỡ.

Nhƣ vậy, căn cứ ly hôn theo Luật HN&GĐ năm 2014 của Nhà nƣớc ta

đƣợc quy định dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, có cơ sở khoa

học và thực tiễn kiểm nghiệm trong nhiều năm, từ khi Nhà nƣớc ta ban hành

Luật HN&GĐ năm 1959. Khi giải quyết ly hôn, cần hiểu điều đó nói lên một

thực trạng hôn nhân đã tan vỡ, quan hệ vợ chồng không thể tồn tại đƣợc nữa, vì

“sự tồn tại của nó chỉ là bề ngoài và giả dối” và ly hôn là một giải pháp tích cực

để giải phóng cho vợ chồng cũng nhƣ các thành viên khác trong gia đình khỏi

cảnh “bất bình thƣờng” đó, đảm bảo lợi ích của vợ chồng, của gia đình và xã hội.

13

Quan điểm của nhà nƣớc ta là tôn trọng quyền tự do ly hôn và giải quyết ly hôn

dựa vào thực chất của quan hệ hôn nhân có còn tồn tại hay không, hay sự tồn tại

chỉ là hình thức bề ngoài. Do vậy, việc quy định căn cứ ly hôn là rất cần thiết và

quan trọng. Nó thể hiện quan điểm của nhà nƣớc ta về vấn đề này. Việc quy định

căn cứ ly hôn rõ ràng là cơ sở quan trọng để Tòa án, Thẩm phán giải quyết việc

ly hôn đúng đắn, thấu tình đạt lý, có ý nghĩa quan trọng giúp vợ chồng nhận

thức, điều chỉnh hành vi của mình để có thể dàn xếp, thỏa thuận trƣớc khi đƣa ra

quyết định ly hôn, góp phần bình ổn quan hệ hôn nhân, bảo vệ và thúc đẩy sự

phát triển của xã hội, củng cố chế độ một vợ, một chồng, tự nguyện, tiến bộ.

1.2. Khái lƣợc pháp luật Việt Nam về căn cứ ly hôn qua các giai đoạn

lịch sử

1.2.1. Căn cứ ly hôn theo pháp luật thời kỳ phong kiến

Trong lịch sử tồn tại và phát triển hàng nghìn năm, các nhà nƣớc quân chủ

và phong kiến ở nƣớc ta đã nhận thức đƣợc vai trò của luật pháp và quan tâm,

đầu tƣ cho việc ban hành pháp luật. Hệ thống pháp luật Việt Nam thời kỳ này

gồm các bộ luật tổng hợp và các văn bản pháp luật khác nhƣ: Chiếu, Chỉ, Lệ,

Lệnh, Dụ, Sắc…Trong đó, các bộ luật: Hình thƣ (thời Lý), Quốc triều Hình luật

(thời Trần), Quốc triều Hình luật (gòn gọi là Bộ luật Hồng Đức - thời Lê), và

Hoàng Việt Luật lệ (gòn gọi là Bộ luật Gia Long - Thời Nguyễn) là những Bộ

luật cổ tiêu biểu nhất đƣợc xây dựng và ban hành trong lịch sử Việt Nam từ thế

kỷ XI đến thế kỷ XIX. Trong đó Bộ luật Hồng Đức và Bộ luật Gia Long là 02 bộ

luật điển hình của thời kỳ phong kiến: Bộ luật Hồng Đức là Bộ luật có những

thành tựu to lớn, có những nét riêng biệt, thể hiện độc đáo bản sắc dân tộc và

tính độc lập của một quốc gia có chủ quyền. Đây là Bộ luật đã khẳng định đƣợc

14

giá trị và vị thế của mình trong lịch sử hệ thống pháp luật của dân tộc và trên thế

giới bởi những giá trị tiến bộ của nó vƣợt trƣớc thời đại bấy giờ, và mang tính

nhân đạo, nhân văn sâu sắc của ngƣời Việt. Bộ luật Gia Long đƣợc thiết lập vào

đầu thế kỷ XIX, là triều đại cuối cùng trong lịch sử chế độ phong kiến nƣớc ta.

Do đó, triều Nguyễn có điều kiện tiếp thu nền lập pháp của các triều đại trƣớc.

Pháp luật dƣới triều Nguyễn vì thế là nền luật pháp hoàn bị dƣới thời phong kiến

ở Việt Nam. Những quy định về HN&GĐ của 02 bộ luật này có sự phát triển đi

trƣớc thời đại.

Ngƣời Việt Nam xƣa và nay, về đạo lý luôn luôn mong muốn cuộc hôn

nhân lâu dài, bền vững. Tuy nhiên, vì một số lý do mà hôn nhân không thể tiếp

tục. Để bảo vệ lợi ích quốc gia, lợi ích gia đình, lợi ích của ngƣời đàn ông, bảo

vệ phong tục tập quán cổ xƣa… Pháp luật phong kiến cũng thừa nhận việc chấm

dứt hôn nhân do những nguyên nhân khác nhau: do vi phạm điều kiện thủ tục kết

hôn, do một ngƣời chết và do ly hôn. Những quy định về ly hôn đã tính đến sự

bảo vệ lợi ích của ngƣời phụ nữ. Cũng nhƣ pháp luật hiện nay, để vợ chồng đƣợc

Tòa án chấp nhận ly hôn phải đảm bảo các điều kiện ly hôn hay còn gọi là các

căn cứ ly hôn. Trong pháp luật Việt Nam thời kỳ phong kiến, các căn cứ ly hôn

thƣờng đƣợc biết đến với tên gọi “duyên cớ ly hôn”. Nhìn chung, các căn cứ ly

hôn trong thời kỳ phong kiến thấm nhuần sâu sắc tƣ tƣởng Nho giáo, chúng đƣợc

quy định dựa trên sự bất bình đẳng giữa vợ chồng và nhằm mục đích bảo vệ

quyền lợi gia đình, gia tộc hơn là quyền lợi cá nhân nên chúng đƣợc chia làm các

loại: rẫy vợ, ly hôn bắt buộc và ly hôn thuận tình.

Thứ nhất, rẫy vợ: là việc ngƣời chồng đƣợc đơn phƣơng bỏ vợ ngoài tầm

kiểm soát của tất cả các thiết chế xã hội. Điều 310 Bộ luật Hồng Đức quy định,

nếu ngƣời vợ phạm phải một trong các điều "thất xuất" thì chồng phải bỏ vợ,

15

không bỏ sẽ bị tội biếm. Tuy Bộ luật Hồng Đức không thống kê rõ các trƣờng

hợp nào đƣợc coi là "thất xuất" nhƣng Điều 108 Bộ Luật Gia Long đã nêu rõ, đó

là bảy trƣờng hợp sau: Thứ nhất, lỗi không có con, nhất là con trai. Thứ hai do

ngƣời vợ “dâm dật”, đƣợc hiểu bao gồm những hành vi lẳng lơ, dâm đãng của

phụ nữ có chồng. Thứ ba, con dâu bất kính với cha mẹ chồng. Thứ tƣ, ngƣời đàn

bà nhiều lời. Thứ năm là ngƣời phụ nữ có tính đố kỵ ghen tuông. Nguyên nhân

bởi luật pháp thời này cho phép ngƣời đàn ông đƣợc chung sống nhƣ vợ chồng

với nhiều phụ nữ để duy trì dòng giống. Vì vậy, sự đố kỵ của ngƣời vợ bị cho là

sẽ làm hại trật tự trong đại gia đình. Hai trƣờng hợp còn lại là “đạo thiết” - trộm

cắp tài sản trong gia đình và “ác tật” cũng khiến ngƣời vợ bị chồng có quyền ly

hôn. Tuy nhiên cổ luật cũng quy định ba trƣờng hợp là “tam bất khứ” mà ngƣời

chồng không đƣợc bỏ vợ, dù rằng ngƣời vợ đã phạm lỗi "thất xuất" gồm: khi vợ

đã để tang cha mẹ chồng đủ 3 năm; khi lấy nhau thì nghèo về sau cùng chung tay

làm ăn trở nên giàu có hoặc khi lấy nhau còn có cha mẹ, anh em, họ hàng nhƣng

khi bỏ nhau ngƣời vợ không còn ai thân thích. Qua đây ta thấy tính nhân đạo,

bác ái của ngƣời Việt Nam phần nào đƣợc thể hiện đối với ngƣời phụ nữ, xuất

phát từ phong tục tập quán tốt đẹp của ngƣời Việt Nam mà quyền, lợi ích cơ bản

của ngƣời phụ nữ đƣợc bảo vệ.

Nhƣ vậy, cổ luật quy định rẫy vợ là căn cứ để ngƣời chồng đƣợc ly hôn,

quyền bỏ vợ của ngƣời chồng và những trƣờng hợp chồng không đƣợc bỏ vợ.

Thứ hai, ly hôn bắt buộc: Ngoài các trƣờng hợp "thất xuất", “tam bất

khứ”, cổ luật Việt Nam còn quy định khi việc kết hôn vi phạm các điều kiện thiết

yếu của hôn nhân thì vợ chồng bị buộc phải ly hôn. Luật không quy định bằng

cách thống kê các điều kiện thiết yếu của hôn nhân cũng nhƣ quyền và nghĩa vụ

cụ thể của vợ chồng, mà luật chỉ can thiệp khi có sự vi phạm các điều kiện hay

16

nghĩa vụ này. Bộ luật Hồng Đức quy định buộc phải ly hôn do hôn nhân đã vi

phạm các quy định cấm kết hôn (Các Điều 317, 318, 323, 324, 334), cấm kết hôn

khi đang có tang cha, mẹ hay chồng (Điều 317), cấm kết hôn khi ông, bà, cha

hay mẹ đang bị giam cầm, tù tội (Điều 318), cấm anh (em) lấy vợ góa của em

(anh), trò lấy vợ góa của thầy (Điều 324)... Điều 308 quy định ngƣời vợ có

quyền trình quan xin ly hôn khi: chồng đã bỏ lửng vợ 5 tháng không đi lại (có

quan xã làm chứng), trừ khi chồng có việc phải đi xa hay Điều 333 nếu con rể

lấy điều thị phi mắng nhiếc cha mẹ vợ. Bộ luật Gia Long quy định tại Điều 108

khi vợ chồng phạm phải điều "nghĩa tuyệt" thì buộc phải ly hôn. Ở lỗi "nghĩa

tuyệt", cổ luật cho phép đoạn tuyệt ân nghĩa vợ chồng nếu vợ mƣu sát chồng,

hoặc chồng bán vợ làm nô lệ, cho thuê vợ, hay cầm cố vợ; hoặc ngƣời chồng

đem ngƣời vợ ngoại tình gả bán cho tình nhân của vợ. Nếu ngƣời vợ phạm vào

lỗi "nghĩa tuyệt" thì nhất định phải chia tay, nếu không ngƣời chồng sẽ bị đánh

80 trƣợng.

Thứ ba, thuận tình ly hôn: Điều 167 Bộ luật Hồng Đức quy định rõ hình

thức thuận tình ly hôn: Theo đó, hai vợ chồng bất hòa thuận nguyện xin ly dị, thì

tờ ly hôn phải tay viết tay ký, mà niên hiệu cùng là giáp lai khép lại thành một

tờ. Giấy ly hôn đƣợc làm dƣới hình thức hợp đồng, ngƣời vợ và ngƣời chồng

mỗi bên giữ một bản. Dƣới chữ niên hiệu và ngày, chồng ký họ tên, vợ điểm chỉ;

hoặc muốn mƣợn ngƣời viết thay cũng đƣợc.Điều 284 Bộ luật Gia Long quy

định thuận tình ly hôn nhƣ sau: "Nếu vợ hoặc chồng trẹo ý không vui nhau, cả

hai đều muốn ly dị, tình thì không hợp, ân đã lìa thì không thể nào hòa lại được,

cho phép họ ly dị, không bị tội". Nhƣ vậy, pháp luật thời Nguyễn cho phép vợ

chồng đƣợc thuận tình ly hôn khi: ăn ở không hòa hợp, tính tình xung

khắc… Con cái mang họ cha và sẽ ở lại với ngƣời cha trừ khi hai vợ chồng thỏa

17

thuận để ngƣời con nào theo mẹ. Trƣờng hợp không có con, nếu ngƣời đàn bà

không phạm lỗi gì thì đƣợc lấy lại tài sản của riêng mình. Nếu có con, dù bị

chồng bỏ hay thuận tình ly hôn, tất cả tài sản trong nhà do ngƣời chồng quản lý.

Ngƣời vợ chỉ lấy lại quần áo và đồ vật riêng. Ngƣời chồng có thể "tùy tâm" giao

thêm cho vợ một ít tiền.

Trải qua 1000 năm Bắc thuộc có lẽ dấu ấn lớn nhất mà chính quyền đô hộ

để lại cho nƣớc Đại Việt đó là mô hình tổ chức bộ máy nhà nƣớc theo kiểu quân

chủ chuyên chế, kéo theo đó là sự biến đổi của pháp luật để phù hợp với hoàn

cảnh lịch sử. Pháp luật phong kiến Việt Nam đã có những thành tựu to lớn nổi

bật trong đó có lĩnh vực HN&GĐ. Quan hệ HN&GĐ có những nét độc đáo tiến

bộ và có tính chất vƣợt thời đại còn ảnh hƣởng đến ngày nay. Bên cạnh đó còn

có những điểm hạn chế do tồn tại xã hội quyết định, đó là quan điểm trọng nam

khinh nữ. Căn cứ ly hôn dƣới thời kỳ phong kiến đƣợc quy định rất đa dạng,

hoặc ngƣời chồng có thể đơn phƣơng ly hôn bắt nguồn ở lễ giáo phong kiến,

hoặc 2 vợ chồng thuận tình ly hôn trên cơ sở thiếu tình thƣơng yêu giữa hai vợ

chồng, hoặc bắt buộc phải ly hôn đó là sự tuyệt nghĩa phu phụ [25, tr. 91].

1.2.2. Căn cứ ly hôn thời kỳ Pháp thuộc

Trong thời kì Pháp thuộc, với chính sách “chia để trị” thực dân Pháp chia

nƣớc ta thành ba miền và ở từng miền cho ban hành và áp dụng các bộ luật riêng

để điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình, trong đó có các quy định về ly

hôn, căn cứ ly hôn. Ở Bắc Kỳ áp dụng Bộ luật Dân sự năm 1931 còn đƣợc gọi là

Dân luật Bắc Kỳ. Ở Trung Kỳ áp dụng Bộ luật Dân sự năm 1936 còn đƣợc gọi là

Dân luật Trung Kỳ. Ở Nam Kỳ cho ban hành tập Dân luật giản yếu Nam kỳ năm

1883 còn đƣợc gọi là Dân luật giản yếu Nam Kỳ. Hôn ƣớc đƣợc ghi nhận trong

18

Dân luật Bắc kỳ, Dân luật Trung kỳ, riêng tập Dân luật giản yếu Nam kỳ không

có ghi nhận về hôn ƣớc cũng nhƣ vấn đề tài sản vợ chồng tuy nhiên án lệ ở Nam

kỳ trong thời kì này lại “luôn luôn nhắc lại nguyên tắc tự do lập hôn ƣớc mà các

Tòa án Pháp coi là lẽ đƣơng nhiên đƣợc áp dụng trong khi không có luật viết”.

Về kỹ thuật lập pháp có thể thấy cả ba bộ luật này đều ảnh hƣởng của pháp luật

Pháp. Các quy định điều chỉnh quan hệ hôn nhân đều là chế định của luật dân sự.

Về mặt nội dung, xét một cách tổng quát, bộ Dân luật Bắc kỳ và bộ Dân luật

Trung kỳ đều phản ánh phong tục, tập quán truyền thống của Việt Nam về

HN&GĐ. Riêng bộ Dân luật giản yếu Nam kỳ chịu nhiều ảnh hƣởng của Bộ luật

dân sự Pháp năm 1804 nên có nhiều điểm cách tân theo quan niệm của các nhà

làm luật phƣơng Tây.

Tại Điều 118 Bộ dân luật Bắc kỳ, Điều 155 Bộ dân luật Trung kỳ quy

định: Ly hôn phải do tòa án xét xử, phải có những lý do đã đƣợc quy định trong

luật, hai vợ chồng hoặc một trong hai vợ chồng có thể xin ly hôn (Điều 116, 117

Dân luật Bắc kỳ và Điều 115, 116 Dân luật Trung kỳ). Cả bộ dân luật Bắc kỳ và

Bộ Dân luật Trung kỳ đã chia căn cứ ly hôn ra làm 3 loại:

Thứ nhất, chồng xin ly hôn vợ vì các duyên cớ sau: vợ ngoại tình, ngƣời

vợ thứ đánh chửi, hành hạ vợ chính; vợ tự ý bỏ về nhà mẹ đẻ mặc dù đã đƣợc

chồng đến gọi về nhà chồng. Tuy nhiên hai bộ luật này cũng quy định cụ thể

trƣờng hợp việc bỏ nhà ra đi của vợ là do chồng có thái độ, cách xử xự khiến

cuộc sống chung trở nên bức bối hoặc không thể chấp nhận đƣợc nữa thì không

đƣợc coi là căn cứ ly hôn.

Thứ hai, vợ xin ly hôn chồng vì các duyên cớ sau: Ngƣời chồng không

thực hiện nghĩa vụ cấp dƣỡng cho con; chồng bỏ nhà hơn hai năm (Bộ Dân luật

19

Bắc kỳ), và hơn một năm (Bộ Dân luật Trung kỳ) mà không có lý do chính đáng;

chồng đuổi vợ ra khỏi nhà mà không có lý do chính đáng; chồng làm rối loạn trật

tự thê thiếp vợ chính, vợ thứ (Điều 119 Dân luật Bắc kỳ và Điều 118 Dân luật

Trung kỳ).

Thứ ba, những duyên cớ cả vợ và chồng cùng xin ly hôn, đó là: Bên nọ

quá khắc hành hạ, chửi rủa thậm tệ đối với bên kia, hoặc với tổ phụ bên kia; vì

một bên can án trọng tội; vì một bên vô hạnh làm nhơ nhuốc đến nỗi bên kia

không thể ở chung đƣợc; vì một bên bị tâm thần mà ai cũng biết hoặc phải ở suốt

đời trong bệnh viện (Điều 120 Dân luật Bắc kỳ và Điều 119 dân luật Trung kỳ).

Vợ có thể xin ly hôn mà không cần chồng cho phép. Việc tự rẫy vợ bị cấm (Điều

116 Dân luật Bắc kỳ, Điều 115 Dân luật Trung kỳ).

Dân luật giản yếu Nam kỳ năm 1883 cũng quy định những duyên cớ ly

hôn của ngƣời chồng, ngƣời vợ và của cả hai vợ chồng, nhƣng đối với việc tự

rẫy vợ thì quy định không rõ ràng. Thiên thứ IV quy định: "Tất cả các cuộc hôn

nhân chỉ chấm dứt do vợ hay chồng chết hoặc do ly hôn" và tiếp theo là các

duyên cớ ly hôn. Nhƣng ở cuối thiên thứ V, khi nói về hiệu lực của giá thú lại có

quy định: "Ngƣời chồng chỉ có thể rẫy vợ trong các trƣờng hợp đƣợc luật dự

liệu".

Cả ba bộ luật đều quy định "ngoại tình của ngƣời vợ" là duyên cớ để

ngƣời chồng xin ly hôn. Dân luật giản yếu Nam kỳ năm 1883 vẫn giữ quy định

"tam bất khứ" của Bộ luật Gia Long, nhƣng lại trừ trƣờng hợp "vợ ngoại tình, bị

phạt về trọng tội hay tự ý bỏ nhà chồng".

Về thuận tình ly hôn, Điều 121 Dân luật Bắc kỳ quy định phải có điều

kiện là đã chung sống với nhau 2 năm. Riêng Điều 120 Dân luật Trung kỳ quy

20

định điều kiện trên là 5 năm và nếu cha mẹ là ngƣời ƣng thuận việc kết hôn mà

còn sống vào lúc vợ chồng xin thuận tình ly hôn, thì chỉ khi cha mẹ đồng ý thì vợ

chồng mới đƣợc xin thuận tình ly hôn. Theo Dân luật giản yếu Nam kỳ năm

1883 thì không đƣợc xin thuận tình ly hôn, nếu chƣa sống đủ 2 năm hoặc đã qua

20 năm; Ngƣời chồng dƣới 25 tuổi hay ngƣời vợ dƣới 21 tuổi hoặc đã quá 45

tuổi; không có sự thuận tình của bố mẹ.

Nhƣ vậy, mặc dù ba Bộ luật đã có nhiều điểm tiến bộ đáng ghi nhận,

nhƣng do hoàn cảnh chính trị - xã hội lúc bấy giờ nên chúng cũng có những hạn

chế nhất định đó là: quy định hạn chế quyền ly hôn theo thời gian xác lập quan

hệ hôn nhân, theo độ tuổi của vợ chồng hoặc trên cơ sở sự ƣng thuận của cha

mẹ; quy định xét xử ly hôn dựa trên cơ sở lỗi của vợ, chồng hay của cả hai vợ

chồng, các điều kiện có tính chất hình thức, phản ánh nguyên nhân mâu thuẫn vợ

chồng, chứ không phải bản chất hôn nhân đã tan vỡ. Việc xét xử của Tòa án rất

thụ động hoàn toàn do ý chí của đƣơng sự quyết định.

1.2.3. Căn cứ ly hôn thời kỳ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến nay

Cách mạng tháng Tám thành công đã mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch

sử, trong đó có hệ thống pháp luật HN&GĐ ở nƣớc ta. Nhiều văn bản pháp luật

về HN&GĐ đã đƣợc ban hành nhằm củng cố và hoàn thiện các quan hệ gia đình

tiến bộ.

Văn bản pháp lý đầu tiên chứa đựng những quy tắc mới về ly hôn là Sắc

lệnh 159-SL ngày 17.11.1950 do Chủ tịch nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa ban

hành. Tại Điều 2 của Sắc lệnh quy định những duyên cớ ly hôn nhƣ sau: Ngoại

tình; Một bên can án phát giam;Một bên mắc bệnh điên hoặc một bệnh khó chữa

khỏi; Một bên bỏ nhà đi quá hai năm không có duyên cớ chính đáng; Vợ chồng

21

tính tình không đƣợc hoặc đối xử với nhau đến nổi không thể sống chung đƣợc.

Sắc lệnh số 159/SL đã xóa bỏ những duyên cớ ly hôn đƣợc quy định trong

các bộ dân luật cũ thể hiện quan điểm bất bình đẳng của vợ chồng khi ly hôn.

Điểm tiến bộ của căn cứ ly hôn thời kỳ này là việc quy định một bên có thể yêu

cầu ly hôn nếu bên kia mắc bệnh điên hoặc bệnh khó chữa. Khi vợ hoặc chồng

mắc bệnh điên hoặc bệnh khó chữa sẽ không đảm bảo hạnh phúc gia đình, không

có khả năng thực hiện tất cả quyền và nghĩa vụ của vợ chồng trong việc xây

dựng đời sống chung. Vì vậy, ngƣời vợ hoặc ngƣời chồng có quyền yêu cầu ly

hôn. Tuy nhiên, do điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội lúc bấy giờ, Sắc lệnh

159/SL quy định vấn đề ly hôn cũng mới chỉ nhằm đấu tranh đòi quyền bình

đẳng giữa vợ và chồng, xóa bỏ quyền gia trƣởng... nên Sắc lệnh còn những hạn

chế nhất định. Đó là Sắc lệnh dựa vào lỗi của vợ chồng để làm căn cứ cho việc

giải quyết ly hôn mà chƣa xét đến bản chất là sự tan rã thực sự của hôn nhân. Xét

về bản chất thì những duyên cớ ly hôn đó chỉ là lý do dẫn đến ly hôn.

Sau hòa bình lập lại, miền Bắc nƣớc ta bƣớc vào thời kỳ Cách mạng

XHCN. Quan hệ sản xuất mới XHCN đƣợc xác lập và là cơ sở vững chắc của

chế độ HN&GĐ mới. Luật HN&GĐ năm 1959 đƣợc Quốc hội khóa I thông qua

ngày 29.12.1959 có hiệu lực ngày 13.01.1960. Lần đầu tiên quy định căn cứ ly

hôn hoàn toàn mới. Theo đó, việc giải quyết ly hôn không dựa trên yếu tố lỗi của

các bên nhƣ trƣớc đây mà căn cứ vào thực trạng của quan hệ hôn nhân. Điều 26

Luật HN&GĐ năm 1959 quy định: "Khi một bên vợ hoặc chồng xin ly hôn, cơ

quan có thẩm quyền sẽ điều tra và hoà giải. Hoà giải không được, TAND sẽ xét

xử. Nếu tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của

hôn nhân không đạt được, thì TAND sẽ cho ly hôn". Luật HN&GĐ năm 1959 đã

công nhận quyền tự do kết hôn và tự do ly hôn, xóa bỏ sự bất bình đẳng về

22

duyên cớ ly hôn chung cho cả hai vợ chồng, Luật HN&GĐ năm 1959 không quy

định những căn cứ ly hôn riêng biệt, mà quy định căn cứ ly hôn duy nhất cho

mọi trƣờng hợp là tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục

đích của hôn nhân không đạt đƣợc.

Ở miền Nam, năm 1959 Luật Gia đình của Ngô Đình Diệm ra đời, tại

Điều 55 quy định cấm vợ chồng không đƣợc ly hôn trừ trƣờng hợp đặc biệt,

Tổng thống có thể quyết định. Đến Sắc luật 15/64 và Bộ Dân luật năm 1972 có

quy định chế định ly hôn, việc giải quyết ly hôn trên cơ sở lỗi của vợ chồng.

Điều 63 Sắc luật 15/64 và Điều 170 Bộ dân luật năm 1972 quy định duyên cơ ly

hôn gồm: Ngoại tình của ngƣời phối ngẫu; ngƣời phối ngẫu bị kết án trọng hình

về thƣờng tội; ngƣợc đãi, bạo hành hay nhục mạ, có tính cách thậm từ và thƣờng

xuyên làm cho vợ chồng không thể sống chung với nhau đƣợc nữa; có án văn

xác định sự biệt tích của ngƣời phối ngẫu đã thất tung; ngƣời phối ngẫu bỏ phế

gia đình sau khi có án văn nhất định xử phạt ngƣời phạm tội.

Sau khi đất nƣớc thống nhất, pháp luật nói chung, pháp luật về HN&GĐ

nói riêng, trong đó pháp luật về ly hôn tiếp tục đƣợc hoàn thiện, phù hợp với tình

hình mới. Tại kỳ họp thứ 12 Quốc hội khóa VII ngày 29.11.1986 đã thông qua

Luật HN&GĐ năm 1986 với 10 chƣơng, 57 điều. Tại Điều 40 quy định về căn

cứ ly hôn: Khi vợ hoặc chồng, hoặc cả hai vợ chồng có đơn xin ly hôn thì TAND

tiến hành điều tra và hoà giải. Trong trƣờng hợp cả hai vợ chồng xin ly hôn, nếu

hoà giải không thành và nếu xét đúng là hai bên thật sự tự nguyện ly hôn, thì

TAND công nhận cho thuận tình ly hôn. Trong trƣờng hợp một bên vợ hoặc

chồng xin ly hôn, nếu hoà giải không thành thì TAND xét xử. Nếu xét thấy tình

trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân

không đạt đƣợc thì TAND xử cho ly hôn. Về cơ bản Luật HN&GĐ năm 1986

23

quy định căn cứ ly hôn giống Luật HN&GĐ năm 1959. Tuy nhiên, theo Luật

HN&GĐ năm 1986, thủ tục hòa giải đƣợc đƣa ra và coi là thủ tục pháp lý bắt

buộc phải có trong việc giải quyết án kiện ly hôn dù hai bên vợ chồng thuận tình

ly hôn hay chỉ có một bên vợ, chồng yêu cầu.

Căn cứ ly hôn theo Luật HN&GĐ năm 2000: Điều 89 quy định: Tòa án

xem xét yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy tình trạng trầm trọng, đời sống chung

không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt đƣợc thì Tòa án quyết định

cho ly hôn. Trong trƣờng hợp vợ hoặc chồng của ngƣời bị Tòa án tuyên bố mất

tích xin ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn. Ngoài việc kế thừa các quy định

về căn cứ ly hôn theo Luật HN&GĐ năm 1986, Luật HN&GĐ năm 2000 đã bổ

sung thêm quy định về ly hôn trong trƣờng hợp một bên vợ hoặc chồng bị Tòa

án tuyên bố mất tích. Đây là điểm tiến bộ trong quy định của luật về các căn cứ

ly hôn, phù hợp với yêu cầu của thực tiễn.

Xuất phát từ thực tiễn của đời sống xã hội trong lĩnh vực HN&GĐ, thực

hiện quyền tự do ly hôn chính đáng của vợ chồng, đồng thời nhằm bảo vệ quyền

và lợi ích hợp pháp của vợ chồng, các con và các thành viên trong gia đình, trên

cơ sở kế thừa quy định về nội dung căn cứ ly hôn trong hệ thống pháp luật

HN&GĐ của nhà nƣớc ta, Luật HN&GĐ năm 2014 không quy định những căn

cứ ly hôn riêng biệt mà quy định căn cứ ly hôn chung nhất, dựa vào bản chất của

quan hệ hôn nhân đã tan vỡ. Luật HN&GĐ năm 2014 đã quy định tƣơng đối cụ

thể về căn cứ ly hôn tại Điều 55, 56. Điều 55 quy định về thuận tình ly hôn: Vợ

chồng cùng yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy hai bên thật sự tự nguyện ly hôn và đã

thỏa thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dƣỡng, chăm sóc, giáo dục

con trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án công nhận

thuận tình ly hôn; nếu không thỏa thuận đƣợc hoặc có thỏa thuận nhƣng không

24

bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án giải quyết việc ly hôn.

Điều 56 quy định về ly hôn theo yêu cầu của một bên: Khi vợ hoặc chồng yêu

cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành và nếu có căn cứ về việc vợ,

chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ

của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung

không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt đƣợc; hoặc trong trƣờng

hợp vợ hoặc chồng của ngƣời bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa

án giải quyết cho ly hôn. Hoặc trƣờng hợp cha, mẹ, ngƣời thân thích khác yêu

cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc

mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ đƣợc hành vi của mình, đồng

thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hƣởng

nghiêm trọng đến tính mạng, tinh thần, sức khỏe của họ thì Tòa án giải quyết cho

ly hôn.

Nhƣ vậy, dù đã sửa đổi bổ sung nhiều lần nhƣng Luật HN&GĐ của nhà

nƣớc ta từ năm 1959 đến nay quy định về căn cứ ly hôn vẫn giữ nguyên quan

điểm là dựa vào thực trạng của cuộc hôn nhân để công nhận tính không thể tồn

tại, tự hôn nhân đã đổ vỡ. Tóm lại, các quy định về HN&GĐ, trong đó có các

quy định về ly hôn, căn cứ ly hôn đã tồn tại trong suốt chiều dài lịch sử và phát

triển của nhà nƣớc ta. Điều này cho thấy tầm quan trọng và ảnh hƣởng rất lớn

của pháp luật về HN&GĐ đối với đời sống xã hội của nhân dân ta.

1.3. Căn cứ ly hôn theo quy định của một số nƣớc trên thế giới

1.3.1. Căn cứ ly hôn theo quy định của Thái Lan

Là một nƣớc trong khu vực ASEAN, Thái Lan có nhiều nét tƣơng đồng về

văn hóa so với Việt Nam. Tuy nhiên, điều kiện kinh tế, xã hội cũng nhƣ phong

25

tục, tập quán và những yếu tố khác có ảnh hƣởng lớn tới pháp luật điều chỉnh

vấn đề HN&GĐ. Theo quy định của pháp luật Thái Lan, quyền tự do ly hôn là

quyền gắn với nhân thân của bên vợ, bên chồng. Bộ luật Dân sự và thƣơng mại

Thái Lan quy định: Việc ly hôn chỉ có thể đƣợc tiến hành có sự đồng ý của hai

bên phải đƣợc làm văn bản và có ít nhất hai chữ kí xác nhận của hai ngƣời làm

chứng. Trong trƣờng hợp này, khi việc ly hôn đƣợc đăng ký thì tài sản của vợ

chồng sẽ đƣợc thanh lý, các tài sản này áp dụng đối với những tài sản có tính đến

ngày họ đăng ký ly hôn. Khi các bên vợ chồng không cùng đồng ý ly hôn thì

quyền yêu cầu ly hôn đƣợc pháp luật ghi nhận bình đẳng cho các bên vợ, chồng

[36, tr 60]. Điều 1516 Bộ luật dân sự và thƣơng mại Thái Lan quy định khá cụ

thể các căn cứ để một bên có thể kiện đòi ly hôn với bên chồng hay vợ của mình.

Cụ thể là: Ngƣời chồng đã nuôi dƣỡng hoặc thờ phụng một ngƣời đàn bà khác

nhƣ vợ mình hoặc ngƣời vợ ngoại tình; Vợ hoặc chồng phạm lỗi có hành vi đạo

đức xấu, bất kể hành vi đó có phải là tội hình sự hay không nhƣng dẫn đến hậu

quả làm cho ngƣời kia: Bị làm nhục nghiêm trọng; bị lăng mạ hoặc bị thù hằn

nếu tiếp tục chung sống với ngƣời vợ hoặc chồng đã có hành vi đạo đức xấu;

phải chịu đựng thiệt thòi hoặc quấy rầy đau đớn khi xét đến điều kiện, tình trạng

và việc chung sống nhƣ vợ chồng; Vợ hoặc chồng gây thiệt hại hoặc hành hạ

nghiêm trọng thể xác hoặc tinh thần của ngƣời kia, lăng mạ thậm tệ ngƣời kia

hoặc con cái của ngƣời đó; Vợ hoặc chồng đã rời bỏ ngƣời kia hơn một năm: Vợ

hoặc chồng đã bị tòa án kết án có phán quyết cuối cùng và bị tù hơn một năm vì

phạm tội mà không có bất cứ sự tham gia, đồng tình hoặc hay biết của ngƣời kia

và sự chung sống nhƣ vợ chồng gây cho ngƣời kia phải chịu đựng thiệt hại hoặc

quấy nhiễu quá đáng; vợ hoặc chồng đã tình nguyện sống ly thân vì không thể

chung sống hạnh phúc trong hơn ba năm, hoặc sống ly thân hơn ba năm theo

26

quyết định của tòa án; Vợ hoặc chồng bị tuyên là bị mất tích, hoặc đã bỏ nơi cƣ

trú của mình hơn ba năm và không biết chắc chắn là ngƣời đó còn sống hay đã

chết; Vợ hoặc chồng không có sự chăm sóc thích đáng và giúp đỡ ngƣời kia hoặc

có những hành động bất lợi cho quan hệ vợ chồng đến mức độ mà ngƣời kia bị

quấy nhiễu quá đáng khi tính đến điều kiện, tình trạng và sự chung sống nhƣ vợ,

chồng; Vợ hoặc chồng là ngƣời mất trí liên tục trong hơn ba năm và việc mất trí

này khó có thể chữa khỏi làm cho việc tiếp tục hôn nhân là không thể; Vợ hoặc

chồng đã phá vỡ cam kết của mình về giữ đạo đức tốt; Vợ hoặc chồng mắc bệnh

truyền nhiễm và hiểm nghèo không thể chữa khỏi và có thể gây thiệt hại cho

ngƣời kia; Vợ hoặc chồng có khiếm khuyết về thể chất do đó không thể chung

sống thƣờng xuyên nhƣ vợ chồng.

Nhƣ vậy, giống nhƣ pháp luật Việt Nam, pháp luật Thái Lan cũng ghi

nhận và bảo vệ quyền tự do ly hôn cho ngƣời phụ nữ. Pháp luật Thái Lan quy

định căn cứ ly hôn dựa trên cơ sở lỗi của các bên vợ, chồng, căn cứ ly hôn này

có thể dễ dàng áp dụng trong thực tiễn thi hành luật. Trong khi đó, việc áp dụng

căn cứ ly hôn theo pháp luật Việt Nam không dễ dàng song thƣờng phản ánh

đúng bản chất của hôn nhân. Pháp luật Thái Lan với các quy định duyên cớ lỗi

một cách bình đẳng cho cả hai bên vợ chồng vì thế khi vợ hoặc chồng có lỗi,

ngƣời kia có quyền kiện đòi ly hôn nhƣng về bản chất, một trong hai bên có lỗi

chƣa chắc đã dẫn đến tình trạng hôn nhân thực sự tan vỡ. Về khía cạnh này, việc

ghi nhận căn cứ ly hôn dựa vào lỗi có những thiệt thòi nhất định cho các bên vợ,

chồng nhất là đối với ngƣời phụ nữ.

1.3.2. Căn cứ ly hôn theo quy định của Cộng hòa Pháp

Theo Điều 229 BLDS Pháp có thể giải quyết ly hôn trong các trƣờng hợp

27

sau: “Vợ, chồng thuận tình ly hôn; Vợ chồng chấp nhận nguyên tắc chấm dứt

hôn nhân; Cuộc sống chung hoàn toàn chấm dứt; Ly hôn do lỗi”. Trong trƣờng

hợp thuận tình ly hôn, pháp luật của Pháp quy định nhƣ sau: Nếu vợ chồng đã

thỏa thuận với nhau về việc chấm dứt hôn nhân và hệ quả của việc chấm dứt hôn

nhân, thì có thể yêu cầu Tòa án giải quyết việc ly hôn và phê chuẩn thỏa thuận

giải quyết các hệ quả của việc ly hôn. Thẩm phán phê chuẩn thỏa thuận của các

bên và tuyên bố cho ly hôn nếu có cơ sở xác định rằng vợ và chồng thực sự

muốn ly hôn và quyết định thuận tình ly hôn của họ là hoàn toàn tự nguyện.

Thẩm phán chỉ có thể từ chối phê chuẩn thỏa thuận và không giải quyết ly hôn

nếu thỏa thuận này không đảm bảo lợi ích của con hoặc của một trong hai bên.

Điều 243 Bộ Luật Dân sự Cộng hòa Pháp quy định về căn cứ ly hôn nhƣ

sau: “Vợ hoặc chồng có thể xin ly hôn khi nêu ra toàn bộ những sự việc bắt

nguồn từ bên vợ hoặc chồng làm cho cuộc sống chung không thể tiếp tục”. Theo

quy định này, một bên vợ hoặc chồng làm đơn đến Toà án xin ly hôn trong đó có

nêu lỗi của bên kia và nếu bên kia thừa nhận lỗi trƣớc Toà thì Toà sẽ tuyên ly

hôn. Theo Điều 245 BLDS Cộng hòa Pháp quy định lỗi của các bên đều có thể

đƣợc Tòa án thụ lý trong đơn yêu cầu ly hôn của họ: “Dù người vợ hoặc người

chồng yêu cầu ly hôn là người có lỗi thì yêu cầu ly hôn của người đó vẫn được

xem xét; tuy nhiên lỗi này có thể làm giảm bớt tính chất nghiêm trọng của các sự

việc mà người đó viện dẫn để quy kết cho người kia làm căn cứ cho yêu cầu ly

hôn. Lỗi này cũng có thể do bên kia nêu ra trong yêu cầu phản tố. Nếu cả hai

yêu cầu cùng được thụ lý thì Tòa án sẽ xử cho ly hôn do lỗi của cả hai bên”.

Điều 230 BLDS Cộng hòa Pháp quy định:“Nếu hai vợ chồng cùng xin ly

hôn thì không phải nói rõ lý do”, hoặc nhƣ tại Điều 233 BLDS Cộng hòa Pháp

quy định: “Vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng có quyền yêu cầu Tòa án giải

28

quyết việc ly hôn nếu họ chấp nhận nguyên tắc chấm dứt hôn nhân mà không

cần tính đến các sự việc dẫn đến ly hôn. Nếu có cơ sở xác định rằng vợ và chồng

đều tự nguyện chấp nhận nguyên tắc chấm dứt hôn nhân thì Thẩm phán cho ly

hôn và quyết định các hệ quả của việc ly hôn”, trong trƣờng hợp này, căn cứ cho

ly hôn đƣợc xác định nếu việc ly hôn do một bên xin với lý do bên kia làm cho

cuộc sống chung không thể tiếp tục và bên kia chấp nhận thì thẩm phán tuyên bố

cho ly hôn mà không cần xem xét với yếu tố lỗi. Nhƣ vậy, trong trƣờng hợp này

ly hôn đƣợc giải quyết theo sự thoả thuận của đƣơng sự. Điều đó cũng phù hợp

với bản chất của hôn nhân khi pháp luật của Pháp coi hôn nhân là một hợp đồng

nhƣ những hợp đồng dân sự khác. Tuy nhiên, BLDS Cộng hòa Pháp cũng có xét

đến tình trạng hôn nhân trên thực tế của vợ chồng, Toà án sẽ xử cho ly hôn, nếu

tính tình của một ngƣời đã thay đổi đến mức không thể sống chung đƣợc nữa và

theo những dự đoán có lý nhất, không thể đƣợc khôi phục trong tƣơng lai. Bên

cạnh việc xác định về tình trạng đời sống chung tan vỡ, còn phải xét đến thời

gian sống riêng biệt của hai vợ chồng, Điều 237 BLDS Cộng hòa Pháp quy định

khoảng thời gian đó là 2 năm.

Nhƣ vậy, pháp luật của Pháp không quan tâm đến thực trạng của cuộc hôn

nhân mà chỉ dựa vào ý chí của các bên trong quan hệ, cái chính là thể hiện việc

đề cao cái tôi cá nhân. Quy định này khác với quy định về căn cứ ly hôn ở nƣớc

ta. Quan điểm của Nhà nƣớc ta cho phép vợ chồng có quyền đƣợc tự do ly hôn

khi có căn cứ xác định rằng cuộc hôn của họ là đã chết, sự tồn tại chỉ là bề ngoài,

hình thức. Căn cứ ly hôn theo pháp luật của nƣớc ta xuất phát từ bản chất của

quan hệ hôn nhân khi "tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài,

mục đích của hôn nhân không đạt đƣợc" thì cho ly hôn.

Nhƣ vậy, theo quy định của pháp luật một số nƣớc trên thế giới, ly hôn và

29

những căn cứ ly hôn mà nhà làm luật quy định phụ thuộc vào điều kiện kinh tế,

văn hóa tâm lý của mỗi nƣớc đặc biệt là sự phụ thuộc vào những thay đổi trong

đời sống xã hội. Do đó khi điều chỉnh vấn đề ly hôn nói riêng và vấn đề

HN&GĐ nói chung chúng ta phải để ý đến mặt xã hội của nó.

Kết luận chƣơng 1:

Nghiên cứu lý luận về căn cứ ly hôn nhận thấy căn cứ ly hôn là quy định

pháp luật quan trọng để Tòa án căn cứ vào đógiải quyết vụ án ly hôn. Pháp luật

nhà nƣớc ta từ thời kỳ phong kiến đã quy định về căn cứ ly hôn, qua mỗi thời kỳ

quy định về căn cứ ly hôn ngày càng hoàn thiện hơn. Từ năm 1959 đến nay, nhà

nƣớc ta quy định căn cứ ly hôn dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin:

phản ánh bản chất của cuộc hôn nhân đã tan vỡ, nghĩa là hôn nhân đã “chết”,

việc Tòa án xử cho ly hôn chỉ là việc công nhận một thực tế khách quan: Hôn

nhân không thể tồn tại đƣợc nữa. Trong khi đó, một số nƣớc trên thế giới quy

định căn cứ ly hôn dựa trên yếu tố lỗi. Tiếp thu quy định này, Luật HN&GĐ năm

2014 đã bổ sung yếu tố lỗi vào một trong những nguyên tắc giải quyết tài sản của

vợ chồng khi ly hôn, tạo cơ sở pháp lý cho Tòa án khi giải quyết việc ly hôn theo

30

yêu cầu của một bên.

CHƢƠNG 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CĂN CỨ LY HÔN THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2014

Trong quá trình hội nhập kinh tế thị trƣờng, xã hội có những biến đổi,

những biến đổi này tác động đến nhiều mặt của đời sống gia đình. Chuẩn mực

đạo đức của ngƣời vợ, ngƣời chồng trong gia đình có thể bị vi phạm bởi các tệ

nạn xã hội nhƣ nghiện rƣợu, ma túy, cờ bạc, bạo lực gia đình, ngoại tình…

Ngoài ra, vấn đề ứng xử giữa vợ và chồng, nuôi dạy con cái, kinh tế… là những

vấn đề tiềm ẩn nhất dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng. Từ đó dẫn đến tình trạng ly

hôn. Ly hôn xảy ra ở những cặp vợ chồng mà hôn nhân không còn thiết thực

nữa, cuộc sống hôn nhân bế tắc và mục đích của hôn nhân không đạt đƣợc nữa.

Ngăn cấm ly hôn là làm trái với pháp luật xã hội chủ nghĩa, là kéo dài tình trạng

đau khổ của cả ngƣời chồng và ngƣời vợ khi tình yêu thực sự không còn nữa.

Mặt khác, ly hôn là việc hệ trọng, ảnh hƣởng rất lớn tới lợi ích của con cái, xã

hội, và làm tan vỡ gia đình, cho nên pháp luật xã hội chủ nghĩa chỉ cho phép

quyền tự do ly hôn phù hợp với yêu cầu tiến bộ của xã hội, hợp với đạo đức xã

hội, chống mọi hiện tƣợng xin ly hôn tùy tiện, bừa bãi vì tƣ tƣởng tự do phóng

đãng, ích kỷ và lãng mạn, vì tiền tài, địa vị. Nhƣ đã phân tích ở Chƣơng 1, quan

điểm giải quyết ly hôn của Nhà nƣớc ta theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác-

Lênin: ly hôn chỉ là việc xác nhận một sự kiện: cuộc hôn nhân này là cuộc hôn

nhân đã chết, sự tồn tại của nó chỉ là bề ngoài và lừa dối. Đƣơng nhiên, không

phải sự tùy tiện của nhà lập pháp, cũng không phải là sự tùy tiện của những cá

nhân, mà chỉ bản chất của sự kiện mới quyết định đƣợc là cuộc hôn nhân đã chết

hoặc chƣa chết, bởi vì, nó chấm dứt phụ thuộc vào thực chất của vấn đề, chứ

31

không phải là nguyện vọng của các bên hữu quan.

Kế thừa các quy định về căn cứ ly hôn trong hệ thống pháp luật HN&GĐ

của Nhà nƣớc ta, Luật HN&GĐ năm 2014 không quy định căn cứ ly hôn riêng

biệt mà quy định tại Điều 55, Điều 56, về mặt câu chữ có thể hiểu có 04 căn cứ

ly hôn, 01 căn cứ áp dụng khi hai vợ, chồng thuận tình ly hôn và 03 căn cứ áp

dụng khi một bên yêu cầu ly hôn. Tuy nhiên, theo tác giả cần hiểu và áp dụng

căn cứ ly hôn là dù vợ chồng thuận tình ly hôn hay ly hôn do một bên yêu cầu,

với bất cứ lý do, nguyên nhân nào, nếu hòa giải không thành thì Tòa án cũng chỉ

đƣợc giải quyết cho vợ, chồng ly hôn khi có căn cứ hôn nhân đã lâm vào tình

trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân

không đạt đƣợc.

2.1. Căn cứ ly hôn trong trường hợp vợ, chồng thuận tình ly hôn

Điều 55 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định: "Trong trường hợp vợ chồng

cùng yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy hai bên thật sự tự nguyện ly hôn và đã thỏa

thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con

trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án công nhận

thuận tình ly hôn; nếu không thỏa thuận được hoặc có thỏa thuận nhưng không

bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án giải quyết việc ly hôn".

Theo quy định của điều luật này, vợ chồng thuận tình ly hôn thì cả vợ và

chồng phải cùng yêu cầu ly hôn. Vợ chồng đƣợc coi là thuận tình ly hôn đƣợc

thể hiện qua hai khía cạnh sau: Vợ chồng cùng thể hiện ý chí là mong muốn

đƣợc ly hôn và sự thể hiện ý chí phải thống nhất giữa hai bên vợ chồng. Thứ

nhất, vợ chồng cùng thể hiện ý chí là mong muốn ly hôn: đó là hai bên vợ chồng

cùng thể hiện ý chí muốn ly hôn vào cùng một thời điểm và đƣợc thể hiện bằng

32

đơn yêu cầu Tòa án giải quyết việc ly hôn, đây là quyền gắn liền với nhân thân

của vợ chồng, là đặc trƣng để phân biệt với trƣờng hợp ly hôn theo yêu cầu một

bên và ý chí là yếu tố quan trọng nhất trong trƣờng hợp thuận tình ly hôn.

Nguyên nhân có thể do cuộc sống vợ, chồng có nhiều mâu thuẫn, nhiều khúc

mắc, không có điểm tƣơng đồng, không giải quyết đƣợc dẫn đến mục đích của

hôn nhân không đạt đƣợc nên cùng mong muốn đƣợc ly hôn để có cuộc sống

mới thực sự hạnh phúc. Thứ hai, sự thể hiện ý chí phải thống nhất với ý chí của

hai bên vợ chồng: Đó phải là sự tự do lý trí, không bên nào bị cƣỡng ép, lừa dối.

Khoản 9 Điều 3 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định cƣỡng ép ly hôn là việc đe

dọa, uy hiếp tinh thần, hành hạ, ngƣợc đãi, yêu sách của cải hoặc hành vi khác để

buộc ngƣời khác phải ly hôn trái với ý muốn của họ. Vợ chồng chỉ đƣợc coi là tự

nguyện ly hôn nếu mỗi bên vợ, chồng đều không bị tác động bởi bên kia hay bất

kì bên nào khác khiến họ phải ly hôn trái với nguyện vọng của mình. Khoản e

Điều 5 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định về cấm các hành vi ảnh hƣởng đến chế

độ hôn nhân trong đó có “cƣỡng ép ly hôn, lừa dối ly hôn, cản trở ly hôn”.

Ngoài ra luật còn quy định ngƣời có hành vi vi phạm về cƣỡng ép ly hôn có thể

bị xử phạt hành chính theo quy định tại Điều 55 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP

ngày 12/11/2013 của Chính phủ quy định về hành vi cƣỡng ép ly hôn bị phạt

cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000đ đến 300.000đ. Thậm chí nặng hơn có thể bị

xử lý hình sự theo quy định tại Điều 181 BLHS năm 2015 quy định về tội cƣỡng

ép ly hôn đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt

cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 3

năm. Ví dụ nhƣ nhiều trƣờng hợp có thể do mâu thuẫn, xích mích mẹ chồng, em

chồng với nàng dâu hoặc do mẹ chồng không thích nàng dâu hoặc nàng dâu

chậm sinh con hoặc không sinh đƣợc con mà nhiều mẹ chồng thƣờng ép con trai

33

mình phải ly hôn với vợ…

Nhƣ vậy, theo quy định của Luật HN&GĐ năm 2014 trong trƣờng hợp hai

vợ chồng yêu cầu thuận tình ly hôn, thì ý chí tự nguyện của hai vợ chồng phải

bảo đảm thật sự nghiêm túc, chắc chắn, hiểu biết đƣợc hậu quả sau khi ly hôn,

không bị cƣỡng ép, không bị lừa dối, khi đó là căn cứ để Tòa án quyết định cho

vợ, chồng ly hôn. Việc cho ly hôn trong trƣờng hợp thuận tình này đối với Tòa

án không phải là dễ, bởi vì khó có thể định lƣợng khi chỉ dựa trên yếu tố tự

nguyện thật sự của hai vợ chồng nếu không xem xét đến tình trạng mâu thuẫn vợ

chồng đến đâu, mức độ ảnh hƣởng đến cuộc sống hôn nhân đến cấp độ nào và

gắn với việc thỏa thuận của họ đến đâu về việc chăm sóc, nuôi dƣỡng, giáo dục

con cái, phân chia tài sản sau khi ly hôn. Thực tế, có nhiều đôi vợ chồng yêu cầu

Tòa án giải quyết cho họ đƣợc ly hôn là do tình cảm hai vợ chồng bị rạn nứt do

một trong hai bên đã không làm tròn nghĩa vụ của mình với gia đình hay vì tự ái

cá nhân hoặc hiểu lầm trong quan hệ của vợ hoặc chồng…, chƣa đến mức độ

mâu thuẫn lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục

đích của hôn nhân không đạt đƣợc. Do vậy, thẩm phán cần phải sử dụng các biện

pháp nghiệp vụ, tiến hành điều tra, xác minh để làm rõ nguyên nhân, động cơ xin

ly hôn, tình trạng trầm trọng của hôn nhân để tiến hành hòa giải. Thông qua công

tác hòa giải, nhiều cặp vợ chồng đã rút đơn yêu cầu ly hôn, thông cảm, chia sẻ

cho nhau và đoàn tụ với nhau, khi đó Tòa án không phải giải quyết ly hôn và các

vấn đề về con cái, tài sản kéo theo.

Thêm vào đó, tại Điều 55 Luật HN&GĐ năm 2014, trong việc thuận tình

ly hôn, ngoài ý chí thật sự tự nguyện xin thuận tình ly hôn của vợ chồng, đòi hỏi

hai vợ chồng còn phải có sự thoả thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi

dƣỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở đảm bảo quyền lợi chính đáng của vợ

34

và con, xảy ra 02 trƣờng hợp sau:

+ Trƣờng hợp thứ nhất: hai bên đã thỏa thuận đƣợc việc chia tài sản, việc

trông nom, nuôi dƣỡng, chăm sóc, giáo dục con và sự thỏa thuận này đảm bảo

quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án ra Quyết định công nhận thuận

tình ly hôn. Qua thực tiễn nghiên cứu các trƣờng hợp thuận tình ly hôn cho thấy,

thông thƣờng các cặp vợ chồng thuận tình ly hôn thì tự thỏa thuận về việc chia

tài sản và nuôi con. Tuy nhiên, trên thực tế, có nhiều trƣờng hợp sự thỏa thuận

của vợ chồng về việc xác định khối tài sản chung và chia tài sản chung đó không

phù hợp với các quy định của pháp luật. Chẳng hạn, có trƣờng hợp vợ chồng có

tài sản chung, cũng đã tự thỏa thuận để chia cho một bên, nhƣng trƣớc tòa họ lại

khai rằng không có tài sản chung và Tòa án trong bản án cũng nhận định rằng

không có tài sản chung, nhƣ vậy việc Tòa án nhận định là không phù hợp với

thực tế, do đó không bảo vệ đƣợc quyền và lợi ích hợp pháp của các bên. Do

vậy, Tòa án cần hết sức cẩn trọng trong việc đánh giá thực chất các quan hệ nhân

thân giữa vợ chồng và xác định khối tài sản chung của vợ chồng trong việc giải

quyết các trƣờng hợp thuận tình ly hôn. Đối với việc chia tài sản chung của vợ

chồng, khi họ không tự thỏa thuận đƣợc mà yêu cầu Tòa án giải quyết thì Tòa

án cần quán triệt các nguyên tắc của việc chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn để

các quyết định của Tòa án về việc chia tài sản chung phù hợp với pháp luật, bảo

vệ đƣợc quyền, lợi ích hợp pháp của đƣơng sự.

Ví dụ số 1: Quyết định sơ thẩm số 26/2018/QĐST-HNGĐ ngày 20/3/2018

của Tòa án nhân dân huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội quyết định công nhận

thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đƣơng sự: Anh Vũ H1Q và chị Dƣơng

Thị H. Sự thỏa thuận của các đƣơng sự cụ thể nhƣ sau: Về con chung: có hai con

chung là cháu Vũ Đức G1 sinh ngày 27/4/2011 và cháu Vũ Kim Ngân sinh ngày

35

27/01/2014. Anh Q và chị H thỏa thuận giao hai cháu G1 và cháu Ngân cho chị

H nuôi cho đến khi hai cháu đủ 18 tuổi hoặc khi có quyết định khác của cơ quan

nhà nƣớc có thẩm quyền. Anh Q không phải cấp dƣỡng nuôi con cho đến khi có

yêu cầu mới. Anh Q có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai đƣợc cản

trở. Về tài sản chung, công sức, nợ: Anh chị đều không yêu cầu Tòa án giải

quyết. Căn cứ vào Điều 55, 57, 81, 82, 83 của Luật HN&GĐ năm 2014, căn cứ

vào biên bản ghi nhận sự tự nguyện ly hôn và hòa giải không thành về việc các

đƣơng sự đã thực sự tự nguyện ly hôn và thỏa thuận với nhau về việc giải quyết

toàn bộ vụ án về HN&GĐ, không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức

xã hội thì TAND huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội quyết định công nhận

thuận tình ly hôn của các đƣơng sự.

Nhƣ vậy, hai bên là anh Q và chị H đã tự nguyện thỏa thuận với nhau về

vấn đề tài sản, con cái. Liệu quyền và lợi ích giữa các bên đã thực sự đảm bảo

chƣa hay quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đƣơng

sự chỉ là hình thức, điều kiện hợp pháp để các bên ly hôn. Đây là băn khoăn

chung đối với rất nhiều trƣờng hợp khác, khi mà các đƣơng sự yêu cầu Tòa án

công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đƣơng sự, nhƣng bản chất

của vấn đề lại không đảm bảo đƣợc quyền và lợi ích của các bên. Đối với trƣờng

hợp tại phiên tòa các đƣơng sự đã thuận tình ly hôn, đa phần các bản án phân

tích nguyên nhân để chấp nhận cho ly hôn “ngắn”, “khái quát”, thậm chí không

cần phân tích mà xác định ngay rằng: “Hội đồng xét xử xét thấy hôn nhân của

ông A và bà B không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt đợc nên công

36

nhận sự thuận tình ly hôn của đương sự…”.

+ Trƣờng hợp thứ hai: hai bên không thỏa thuận đƣợc việc chia tài sản,

việc trông nom, nuôi dƣỡng, chăm sóc, giáo dục con hoặc có thỏa thuận nhƣng

việc thỏa thuận không đảm bảo đƣợc quyền lợi chính đáng của vợ và con. Trong

trƣờng hợp này, quan hệ vợ chồng bản chất đã tan vỡ, là trƣờng hợp chuyển hóa

từ thủ tục giải quyết việc dân sự sang vụ án dân sự do trong quá trình xuất hiện

tranh chấp cần giải quyết. Ngoài ra, trên thực tế còn xảy ra trƣờng hợp các bên

đã đồng thuận ly hôn và tự thỏa thuận về tài sản, con cái, tuy nhiên sau đó một

trong các bên đƣơng sự đã thay đổi thỏa thuậnvề việc phân chia tài sản hay việc

nuôi dƣỡng con cái và có đơn yêu cầu tòa án giải quyết thì Tòa án đình chỉ việc

công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn, Tòa án

thụ lý vụ án theo thủ tục dân sự chung quy định tại BLTTDS.

Về mặt thủ tục, Điều 396, 397 BLTTDS năm 2015 quy định thủ tục giải

quyết yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con và chia tài sản

khi ly hôn cụ thể nhƣ sau: vợ, chồng yêu cầu Tòa án công nhận thuận tình ly

hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn phải có đơn yêu cầu. Vợ, chồng

cùng yêu cầu Tòa án công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài

sản khi ly hôn phải ký tên hoặc điểm chỉ vào đơn yêu cầu. Kèm theo đơn yêu

cầu, ngƣời yêu cầu phải gửi tài liệu, chứng cứ chứng minh thỏa thuận về thuận

tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn là có căn cứ và hợp pháp.

Trong thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu, trƣớc khi tiến hành hòa giải để vợ

chồng đoàn tụ, khi xét thấy cần thiết, Thẩm phán có thể tham khảo ý kiến của cơ

quan quản lý nhà nƣớc về gia đình, cơ quan quản lý nhà nƣớc về trẻ em về hoàn

cảnh gia đình, nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn và nguyện vọng của vợ, chồng,

con có liên quan đến vụ án. Thẩm phán phải tiến hành hòa giải để vợ chồng đoàn

37

tụ, giải thích về quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng, giữa cha, mẹ và con, giữa

các thành viên khác trong gia đình, về trách nhiệm cấp dƣỡng và các vấn đề khác

liên quan đến HN&GĐ. Trƣờng hợp sau khi hòa giải, vợ chồng đoàn tụ thì Thẩm

phán ra quyết định đình chỉ giải quyết yêu cầu của họ. Nếu hòa giải đoàn tụ

không thành, Tòa án lập biên bản về việc đồng thuận ly hôn và hòa giải không

thành. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày lập biên bản, nếu vợ hoặc chồng hoặc

cả hai vợ chồng không thay đổi ý kiến và Viện kiểm sát không phản đối thì Tòa

án ra quyết định công nhận ly hôn mà không phải mở phiên tòa khi có đầy đủ

các điều kiện sau: Hai bên đã tự thỏa thuận đƣợc với nhau về việc phân chia

hoặc không chia tài sản; Hai bên đã tự thỏa thuận đƣợc với nhau về việc trông

nom, nuôi dƣỡng, giáo dục, chăm sóc con; Sự thỏa thuận của hai bên về tài sản

và con trong từng trƣờng hợp cụ thể này là bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ

và con. Quyết định công nhận thuận tình ly hôn có hiệu lực pháp luật ngay, các

bên không có quyền kháng cáo, Viện kiểm sát không có quyền kháng nghị theo

trình tự phúc thẩm. Ngƣợc lại, trong trƣờng hợp hòa giải tại Tòa án thiếu một

trong các điều kiện sau thì tòa án lập biên bản về việc hòa giải đoàn tụ không

thành: Hai bên không thỏa thuận đƣợc với nhau về việc phân chia hoặc không

chia tài sản; hoặc hai bên không thỏa thuận đƣợc với nhau về việc trông nom,

nuôi dƣỡng, giáo dục, chăm sóc con; Hoặc sự thỏa thuận của hai bên về tài sản

và con trong từng trƣờng hợp cụ thể này không bảo đảm quyền lợi chính đáng

của vợ và con. Trong đó nêu rõ những vấn đề hai bên không thỏa thuận đƣợc

hoặc có thỏa thuận đƣợc nhƣng không bảo đảm đƣợc quyền lợi chính đáng của

vợ và con, đồng thời tiến hành mở phiên tòa xét xử vụ án ly hôn theo thủ tục

chung.

Ngoài ra, trên thực tế, có nhiều trƣờng hợp các bên “giả tự nguyện ly hôn”

38

và “giả thỏa thuận ly hôn” nhằm lừa dối cơ quan có thẩm quyền vì một mục đích

nào đó. Việc ly hôn “để đạt mục đích khác mà không nhằm mục đích chấm dứt

hôn nhân” xem là hành vi ly hôn giả tạo và bị xử phạt hành chính. Khoản 15

Điều 3 Luật HN&GĐ 2014 có quy định về khái niệm ly hôn giả tạo: “Ly hôn giả

tạo là việc lợi dụng ly hôn để trốn tránh nghĩa vụ tài sản, vi phạm chính sách,

pháp luật về dân số hoặc để đạt được mục đích khác mà không nhằm mục đích

chấm dứt hôn nhân”. Hiện tƣợng ly hôn giả tạo nhằm mƣu cầu lợi ích riêng. Họ

tự nghĩ ra mâu thuẫn và lý do chính đáng nhƣng thực tế họ lại không mong muốn

chấm dứt quan hệ vợ chồng và giữa họ không hề có mâu thuẫn. Ví dụ, hiện nay,

rất nhiều đôi vợ chồng, khi vay tiền, chỉ có một trong hai ngƣời đứng ra ký giấy

vay nợ. Sau một thời gian do làm ăn thua lỗ, không có khả năng thanh toán nợ,

họ đã dùng kế hoạch ly hôn giả để nhằm mục đích trốn tránh nghĩa vụ trả nợ với

bên thứ ba. Khi ly hôn, họ thỏa thuận chia tài sản hết cho ngƣời không đứng ra

vay tiền, để ngƣời vay tiền không có điều kiện trả nợ, từ đó họ không phải trả nợ

và vẫn bảo toàn đƣợc số tài sản hiện có. Đây đƣợc coi là ly hôn giả tạo và là một

trong những hành vi bị cấm đƣợc quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 5 Luật

HN&GĐ năm 2014. Hành vi ly hôn giả tạo này sẽ bị xử phạt hành chính theo

khoản 35 Điều 1 Nghị định 67/2015/NĐ-CP sửa đổi Điều 48 Nghị định

110/2013/NĐ-CP nhƣ sau:“2. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000

đồng đối với một trong các hành vi sau:a) Lợi dụng việc ly hôn để trốn tránh

nghĩa vụ tài sản, vi phạm chính sách, pháp luật về dân số hoặc để đạt được mục

đích khác mà không nhằm mục đích chấm dứt hôn nhân”. Phạt hành chính chỉ là

một trong những hậu quả pháp lý đối với hành vi ly hôn giả tạo khi bị phát hiện.

Ly hôn giả nhƣng hậu quả để lại là thật, không phải ai cũng có thể đạt đƣợc kết

quả mong muốn nhƣ dự tính ban đầu bởi thủ thuật này là “con dao hai lƣỡi”. Rất

39

nhiều cặp vợ chồng đã phải gánh chịu những hậu quả không thể ngờ đến đƣợc

khi ly hôn giả tạo. Thậm chí nó khiến cho việc ly hôn giả tạo thành ly hôn thật.

Tuy nhiên vì cái lợi trƣớc mắt mà rất nhiều cặp vợ chồng vẫn tiếp tục hành vi vi

phạm này. Vì vậy, ngoài việc giáo dục, nâng cao nhận thức của mọi ngƣời, pháp

luật cũng cần sớm ban hành những quy định chặt chẽ hơn nữa để ngăn chặn hành

vi ly hôn giả tạo này. Do đó, nếu không điều tra kỹ thì Tòa án có thể kết luận

những trƣờng hợp “ly hôn giả tạo” đã đủ căn cứ để công nhận thuận tình ly hôn.

Trong những trƣờng hợp này Tòa án cần xử bác đơn xin thuận tình ly hôn của

đƣơng sự đồng thời phê phán, giáo dục đƣơng sự về những hành vi sai trái đó,

răn đe đƣơng sự.

Sau đây là một vụ án cụ thể vợ chồng ly hôn giả nhằm trốn tránh thi hành

án phạt tù, ví dụ số 2: Anh Luyện kết hôn với chị Sáng năm 1993, trên cơ sở tự

nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã M, huyện B. Vợ chồng có

02 con chung là cháu Lê Thị Huệ, sinh 1996 và cháu Lê Trung Tuyến 1998.

Ngày 24/4/2011 anh Luyện phạm tội đánh bạc và bị Tòa án nhân dân tỉnh A xử

phạt 24 tháng tù giam. Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, do anh Luyện muốn

đƣợc Tòa án cho hoãn thi hành án nên đã bàn bạc với chị Sáng xin ly hôn giả. Về

con chung, mỗi ngƣời nhận nuôi 01 con để tạo ra lý do anh là lao động chính duy

nhất trong gia đình. Ngày 07/5/2013, anh Luyện và chị Sáng làm đơn xin thuận

tình ly hôn và đã đƣợc Tòa án nhân dân huyện B giải quyết cho ly hôn tại Quyết

định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đƣơng sự số

73/2012/QĐST- HNGĐ ngày 16/5/2012. Từ lý do đó, anh Luyện đã đƣợc Tòa án

nhân dân huyện B cho hoãn thi hành án 03 lần, trong đó có 02 lần đƣợc hoãn với

lý do ngƣời bị kết án là lao động chính trong gia đình hiện đang nuôi con nhỏ và

chăm sóc mẹ già. Thông qua công tác kiểm tra liên ngành của cơ quan Công an-

40

Viện kiểm sát- Tòa án- Mặt trận tổ quốc tỉnh A trong công tác hoãn thi hành án

phạt tù tại Trại tạm giam Công an tỉnh A phát hiện trƣờng hợp hoãn thi hành án

phạt tù đối với trƣờng hợp anh Luyện là không có căn cứ. Tại kết luận kiểm tra

liên ngành số 999/KLKT- LN ngày 18/6/2013, đoàn kiểm tra yêu cầu Tòa án

huyện B ra quyết định thi hành án đối với anh Luyện theo quy định của pháp

luật. Trên cơ sở yêu cầu nêu trên, Tòa án nhân dân huyện B đã ra Quyết định thi

hành án phạt tù số 19/QĐ- CA ngày 01/3/2013, buộc anh Luyện phải thi hành án

phạt tù. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh A đã tiến hành kiểm tra, xác minh việc ly

hôn của vợ chồng anh Luyện, chị Sáng. Kết quả điều tra, xác minh: Trƣớc và sau

khi ly hôn anh Luyện, chị Sáng không có mâu thuẫn, vợ chồng vẫn yêu thƣơng

nhau, cùng ăn ở, sinh hoạt một nhà, chung sống hòa thuận, cùng nhau nuôi

dƣỡng và chăm sóc con cái, mẹ già. Song, vợ chồng đã tạo ra việc xin ly hôn giả

với mục đích là để cho anh Luyện đƣợc hoãn thi hành án. Việc xin ly hôn của vợ

chồng anh Luyện, chị Sáng và việc giải quyết cho vợ chồng thuận tình ly hôn

của Tòa án nhân dân huyện B nêu trên đã vi phạm quy định tại khoản 2 Điều 4

và khoản 1 Điều 89 Luật HN&GĐ năm 2000 (nay là khoản 2 Điều 5 và khoản 1

Điều 56 Luật HN&GĐ năm 2014). Sau khi phát hiện đƣợc vi phạm nêu trên,

ngày 17 tháng 9 năm 2013 Viện kiểm sát nhân dân tỉnh A đã ra quyết định kháng

nghị giám đốc thẩm. Tại Quyết định giám đốc thẩm số 01/2014/QĐ- UBTP ngày

24/02/2014, Ủy ban thẩm phán Tòa án nhân dân tỉnh A đã hủy toàn bộ Quyết

định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đƣơng sự nêu trên,

giao hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại theo quy định của pháp

luật [43, tr.59].

Thông qua vụ án trên cho thấy, khi thực hiện công tác kiểm sát việc giải

quyết các vụ án HN&GĐ, cán bộ, Kiểm sát viên cần lƣu ý phát hiện các sai

41

phạm của Tòa án trong việc giải quyết cho đƣơng sự ly hôn trái pháp luật, để

thực hiện việc kiến nghị, kháng nghị. Ly hôn vốn là biện pháp cuối cùng cho

những cuộc hôn nhân không thể hàn gắn, nhƣng hiện nay ly hôn giả tạo đang trở

thành cứu tinh cho nhiều cặp vợ chồng để mƣu cầu lợi ích vật chất cho gia đình

mình nhƣ tẩu tán tài sản khi thanh toán nợ, xuất ngoại, xuất khẩu lao động, thậm

chí có cả trƣờng hợp để đƣợc sinh con thứ ba, hoãn thi hành án phạt tù…

Tóm lại, căn cứ ly hôn trong trƣờng hợp thuận tình ly hôn theo quy định

của Luật HN&GĐ năm 2014 là sự tự nguyện ly hôn thực sự của vợ chồng, Tòa

án cần tôn trọng sự thuận tình của vợ chồng, vợ hoặc chồng không có nghĩa vụ

phải chứng minh hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không

thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt đƣợc. Mà trên cơ sở tự nguyện ly

hôn thực sự của vợ, chồng, Tòa án công nhận thuận tình ly hôn. Theo quan điểm

của tác giả, vấn đề xác định căn cứ ly hôn là sự tự nguyện ly hôn của các bên rất

khó để xác định sự tự nguyện ly hôn thực sự. Nhƣ đã phân tích ở phần trên,

nhiều trƣờng hợp có thể chỉ là mâu thuẫn nhỏ nhặt, tự ái, sĩ diện hoặc có thể là ly

hôn giả tạo của các cặp vợ, chồng. Bởi vậy, Tòa án cần đƣa ra các quyết định

chính xác, vẫn cần dựa trên nguyên tắc xác định tình trạng trầm trọng của hôn

nhân, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt đƣợc

để quyết định cho ly hôn hay không, qua đó bảo vệ hạnh phúc, quyền và lợi ích

hợp pháp của các bên, của gia đình và xã hội.

2.2. Căn cứ ly hôn trong trường hợp ly hôn theo yêu cầu của của một

bên

2.2.1. Trường hợp có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình

42

hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng

Đây là trƣờng hợp ly hôn theo yêu cầu của một bên vợ hoặc chồng. Khoản

1 Điều 56 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định: “Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly

hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu

có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm

trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm

trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt

đƣợc”. Quyền yêu cầu giải quyết ly hôn chỉ bị hạn chế đối với ngƣời chồng trong

trƣờng hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dƣới 12 tháng tuổi

đƣợc quy định tại Khoản 3 Điều 51 Luật HN&GĐ năm 2014.

Trƣớc tiên, khi có yêu cầu ly hôn của vợ hoặc chồng, Toà án phải tiến

hành điều tra và hoà giải, nếu hoà giải không thành thì Toà án cần xác định tình

trạng của quan hệ hôn nhân, xem có căn cứ ly hôn không để giải quyết. Việc giải

quyết ly hôn cần phải chính xác. Nếu xét xử đúng, kết quả đó sẽ phù hợp với

nguyện vọng của các bên, bảo vệ quyền và lợi ích của các thành viên trong gia

đình. Ngƣợc lại, nếu việc giải quyết không chính xác sẽ dẫn tới tan vỡ hạnh phúc

gia đình, phá huỷ một cuộc hôn nhân còn có thể cứu vãn đƣợc và gây ra hậu quả

không đáng có.

Thứ nhất, đối với trường hợp có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo

lực gia đình.

Luật HN&GĐ năm 2014 đã quy định hành vi bạo lực gia đình là căn cứ để

Tòa án giải quyết cho ly hôn. Tình trạng bạo lực trong gia đình ngày càng gia

tăng và thể hiện tính chất nghiêm trọng của nó. Bạo lực giữa ngƣời chồng đối

với ngƣời vợ trong gia đình có thể thấy là dạng bạo lực phổ biến nhất trong gia

43

đình hiện nay. Hành vi ngƣời chồng gây ra chủ yếu và lớn nhất là bạo lực về thể

chất, đây là dạng dễ nhận thấy và bị lên án mạnh mẽ nhất. Sở dĩ đa phần ngƣời

đàn ông sử dụng nắm đấm để dạy vợ là do họ không nhận thức đƣợc hành vi của

mình là vi phạm pháp luật. Tuy nhiên không phải tất cả hành vi bạo lực của

ngƣời chồng đều là bạo lực về thể chất mà có những lúc, họ dùng nhiều cách

khác để gây ra những tổn thƣơng về tâm lý cho ngƣời vợ nhƣ mắng mỏ, chửi

bới, xúc phạm danh dự… Bên cạnh đó, trong xã hội ngày nay, hiện tƣợng ngƣời

vợ sử dụng bạo lực đối với ngƣời chồng cũng không phải là hiếm. Không chỉ

dừng lại ở lời lẽ chửi bới, những cách ứng xử thô bạo mà họ còn trực tiếp gây ra

những tổn thƣơng về thể chất hoặc tính mạng của ngƣời chồng. Tình trạng bạo

lực trong gia đình xảy ra do nhiều nguyên nhân khác nhau: có thể nguyên nhân

thuộc về nhận thức, do xã hội chúng ta vẫn tồn tại những quan niệm về định kiến

giới, tƣ tƣởng trọng nam khinh nữ, cho rằng nam giới có quyền lực và có quyền

“dạy” vợ; hoặc là cộng đồng và xã hội vẫn coi bạo lực gia đình là chuyện riêng

của gia đình mà không can thiệp kịp thời, chƣa tạo ra dƣ luận rộng rãi; hoặc là

những nguyên nhân về kinh tế và các tệ nạn xã hội nhƣ nghiện rƣợu, cờ bạc, ma

túy, mại dâm đƣợc coi là những nguyên nhân cơ bản… Hậu quả của bạo lực gia

đình là một nỗi đau đặc biệt nghiêm trọng, nó không chỉ gây tổn thƣơng đến

cuộc sống, sức khỏe, tinh thần, danh dự của ngƣời vợ hoặc ngƣời chồng mà còn

ảnh hƣởng đến con cái trong gia đình, vi phạm tới các chuẩn mực đạo đức xã

hội, tiếp tay cho sự gia tăng các tệ nạn xã hội nhƣ mại dâm, ma túy, ngƣời lang

thang, tội phạm vị thành niên, nạn buôn bán trẻ em và phụ nữ, bạo lực gia đình

còn ảnh hƣởng xâu xa đến toàn xã hội… Đa phần bạo lực trong gia đình dẫn đến

tình trạng vợ chồng ly hôn, có trƣờng hợp dẫn đến án mạng.

Khoản 2 Điều 1 Luật phòng, chống bạo lực gia đình số 02/2007/QH12 quy

44

định về khái niệm bạo lực gia đình: "2. Bạo lực gia đình là hành vi cố ý của

thành viên gia đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh

thần, kinh tế đối với thành viên khác trong gia đình". Tại khoản 1 Điều 2 Luật

phòng chống bạo lực gia đình năm 2007 liệt kê cụ thể những hành vi đƣợc coi là

hành vi bạo lực gia đình: Hành hạ, ngƣợc đãi, đánh đập hoặc hành vi cố ý khác

xâm hại đến sức khoẻ, tính mạng; Lăng mạ hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm

danh dự, nhân phẩm; Cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thƣờng xuyên về tâm lý

gây hậu quả nghiêm trọng; Ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan

hệ gia đình giữa ông, bà và cháu, giữa cha, mẹ và con, giữa vợ và chồng, giữa

anh, chị, em với nhau; Cƣỡng ép quan hệ tình dục; Cƣỡng ép tảo hôn; Cƣỡng ép

kết hôn, ly hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ; Chiếm đoạt, huỷ hoại,

đập phá hoặc có hành vi khác cố ý làm hƣ hỏng tài sản riêng của thành viên khác

trong gia đình hoặc tài sản chung của các thành viên gia đình; Cƣỡng ép thành

viên gia đình lao động quá sức, đóng góp tài chính quá khả năng của họ; Kiểm

soát thu nhập của thành viên gia đình nhằm tạo ra tình trạng phụ thuộc về tài

chính; Có hành vi trái pháp luật buộc thành viên gia đình ra khỏi chỗ ở.

Nhƣ vậy, gia đình là nơi trú ngụ của hạnh phúc, cái nôi nuôi dƣỡng và

giáo dục trẻ thơ, nơi trở về sau mỗi lần vấp ngã đối với mỗi con ngƣời. Nhƣng

trong nhiều trƣờng hợp, bạo lực đang trở thành một trong những nguy cơ biến

gia đình thành “địa ngục trần gian”. Dù ở bất cứ nơi đâu, trong bất cứ hoàn cảnh

nào, bạo lực gia đình không chỉ để lại hậu quả về thể chất, tinh thần mà còn về

mặt kinh tế - xã hội. Bạo lực gia đình có đối tƣợng tác động trực tiếp là vợ hoặc

chồng hậu quả thƣờng dẫn đến ly hôn, trong một số trƣờng hợp, hành vi bạo lực

gia đình tác động đến thành viên khác trong gia đình cũng là nguyên nhân dẫn

đến mâu thuẫn vợ chồng, và là nguyên nhân dẫn đến ly hôn giữa vợ, chồng, ví

45

dụ nhƣ bố mẹ chồng bạo lực với con dâu hoặc bố hoặc mẹ bạo lực với con cái…

Thứ hai, đối với trường hợp có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi vi

phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.

Để xác định có việc vi phạm quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng dẫn đến

việc một bên yêu cầu ly hôn hay không, cần căn cứ vào quy định của pháp luật

về HN&GĐ và pháp luật khác có quy định về quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng.

Khái quát chung, vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ chồng bao gồm

hai dạng chính là vi phạm quyền, nghĩa vụ về nhân thân và vi phạm quyền, nghĩa

vụ về tài sản và quy định về đại diện giữa vợ, chồng.

Một là, vi phạm quyền và nghĩa vụ về nhân thân giữa vợ, chồng: Quyền

nhân thân là một trong những quyền dân sự cơ bản. Từ sự kiện kết hôn, quyền và

nghĩa vụ về nhân thân của vợ, chồng phát sinh. Quyền, nghĩa vụ về nhân thân

giữa vợ, chồng không chỉ đƣợc quy định tại Luật HN&GĐ mà còn đề cập trong

Hiến pháp, BLDS và các văn bản pháp luật khác nên có phạm vi rất rộng. Thông

thƣờng, những vi phạm sau đây là vi phạm nghiêm trọng về nhân thân giữa vợ

chồng:

+ Vợ hoặc chồng có hành vi phân biệt đối xử, gây bất bình đẳng nghiêm

trọng về quyền và nghĩa vụ trong gia đình nhƣ việc ăn ở, chăm sóc, nuôi dƣỡng

con cái, quan hệ với gia đình, họ hàng hai bên; phân biệt đối xử, cản trở vợ hoặc

chồng thực hiện quyền, nghĩa vụ của công dân nhƣ chọn nghề nghiệp, việc làm,

học tập, nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn nghiệp vụ, tham gia hoạt động

chính trị, kinh tế, văn hóa, tôn giáo, tín ngƣỡng, tham gia công tác xã hội…;

+ Vợ hoặc chồng ngoại tình, không chung thủy, chung sống nhƣ vợ, chồng

với ngƣời khác, bỏ mặc không quan tâm chăm sóc lẫn nhau, không cùng nhau

46

chia sẻ và thực hiện công việc gia đình; Vợ hoặc chồng không chung sống với

nhau mà không có lý do chính đáng hoặc không có thỏa thuận gì khác. Mục đích

kết hôn nhằm xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc. Để đạt mục đích kết

hôn, vợ chồng phải thực sự chung sống với nhau, cũng không buộc phải thƣờng

xuyên, liên tục suốt thời kỳ hôn nhân nhƣng nếu không chung sống một thời gian

dài mà không có lý do chính đáng và không có thỏa thuận với nhau sẽ ảnh hƣởng

đến việc thực hiện quyền, nghĩa vụ giữa vợ chồng và những vấn đề pháp lý

khác..;

+ Vợ hoặc chồng ràng buộc việc lựa chọn nơi cƣ trú mà không có thỏa

thuận với nhau. Bên cạnh nghĩa vụ chung sống thì vợ chồng có quyền thỏa thuận

lựa chọn nơi cƣ trú phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh chung sống và thuận lợi

cho việc duy trì mối quan hệ vợ chồng; trƣờng hợp bên vợ hoặc bên chồng ràng

buộc về nơi cƣ trú của bên kia mà không có sự bàn bạc, đồng ý hoặc hai bên thỏa

thuận với nhau là đã vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ hoặc chồng;

+ Vợ hoặc chồng có hành vi làm ảnh hƣởng nghiêm trọng danh dự, nhân

phẩm, uy tín của nhau. Danh dự, nhân phẩm, uy tín là quyền và nghĩa vụ nhân

thân, đƣợc pháp luật bảo vệ;

+ Vợ hoặc chồng có hành vi xâm phạm quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo

của nhau.

Hai là, vi phạm quy định về đại diện giữa vợ, chồng và chế độ tài sản của

vợ, chồng bao gồm:

+ Vợ hoặc chồng có hành vi vi phạm quy định về đại diện giữa vợ, chồng

nhƣ tự ý đứng ra xác lập, thực hiện, chấm dứt giao dịch liên quan quyền lợi,

47

nghĩa vụ của cả vợ chồng, gia đình mà không đƣợc sự đồng ý của bên kia làm

ảnh hƣởng đến quyền lợi, nghĩa vụ, lợi ích hợp pháp của bên không đứng ra giao

dịch hoặc của cả gia đình;

+ Vợ hoặc chồng từ chối làm ngƣời đại diện cho bên kia mà không có lý

do chính đáng trong những trƣờng hợp pháp luật quy định để bảo đảm quyền và

lợi ích hợp pháp của bên kia;

+ Vợ hoặc chồng vi phạm quy định về bình đẳng quyền, nghĩa vụ trong

việc tạo lập, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung, phân biệt giữa lao

động có thu nhập với lao động trong gia đình, đƣa tài sản chung vào kinh doanh

mà không có thỏa thuận bằng văn bản, không đóng góp tài sản, thu nhập để đáp

ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình, không thực hiện giao dịch nhằm

đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình;

+ Vợ hoặc chồng vi phạm quy định về đăng ký quyền sở hữu, quyền sử

dụng tài sản chung, không ghi tên của cả hai vợ chồng đối với tài sản chung pháp

luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng mà không có thỏa

thuận khác;

+ Vợ hoặc chồng vi phạm nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng, về

trách nhiệm liên đới của vợ, chồng.

Luật HN&GĐ năm 2014 quy định vợ hoặc chồng có hành vi bạo lực gia

đình hoặc có hành vi vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng chỉ

đủ điều kiện cho ly hôn khi mức độ, hệ quả là làm cho hôn nhân lâm vào tình

trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân

không đạt đƣợc. Hiện nay, chƣa có văn bản hƣớng dẫn cụ thể để đánh giá hành

vi bạo lực gia đình hay vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ chồng đến

48

mức độ nào thì đủ cơ sở xác định là làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm

trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt đƣợc.

Tại Nghị quyết số: 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng Thẩm

phán Tòa án nhân dân tối cao, căn cứ vào những dấu hiệu của điều kiện cần, mức

độ tình trạng mâu thuẫn đƣợc coi là làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm

trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt đƣợc, cụ

thể nhƣ sau:

“a.1. Đƣợc coi là tình trạng của vợ chồng trầm trọng khi:

- Vợ, chồng không thƣơng yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau nhƣ

ngƣời nào chỉ biết bổn phận ngƣời đó, bỏ mặc ngƣời vợ hoặc ngƣời chồng muốn

sống ra sao thì sống, đã đƣợc bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức,

nhắc nhở, hoà giải nhiều lần.

- Vợ hoặc chồng luôn có hành vi ngƣợc đãi, hành hạ nhau, nhƣ thƣờng

xuyên đánh đập, hoặc có hành vi khác xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm và uy

tín của nhau, đã đƣợc bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, đoàn thể

nhắc nhở, hoà giải nhiều lần.

- Vợ chồng không chung thuỷ với nhau nhƣ có quan hệ ngoại tình, đã

đƣợc ngƣời vợ hoặc ngƣời chồng hoặc bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ

chức, nhắc nhở, khuyên bảo nhƣng vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại tình;

a.2. Để có cơ sở nhận định đời sống chung của vợ chồng không thể kéo

dài đƣợc, thì phải căn cứ vào tình trạng hiện tại của vợ chồng đã đến mức trầm

trọng nhƣ hƣớng dẫn tại điểm a.1 mục 8 này. Nếu thực tế cho thấy đã đƣợc nhắc

nhở, hoà giải nhiều lần, nhƣng vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại tình hoặc vẫn tiếp

tục sống ly thân, bỏ mặc nhau hoặc vẫn tiếp tục có hành vi ngƣợc đãi hành hạ,

xúc phạm nhau, thì có căn cứ để nhận định rằng đời sống chung của vợ chồng

49

không thể kéo dài đƣợc.

a.3. Mục đích của hôn nhân không đạt đƣợc là không có tình nghĩa vợ

chồng; không bình đẳng về nghĩa vụ và quyền giữa vợ, chồng; không tôn trọng

danh dự, nhân phẩm, uy tín của vợ, chồng; không tôn trọng quyền tự do tín

ngƣỡng, tôn giáo của vợ, chồng; không giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau phát

triển mọi mặt”.

Khi thực tế quan hệ vợ chồng ở trong “tình trạng trầm trọng, đời sống

chung không thể kéo dài” thì thƣờng dẫn tới hậu quả làm cho “mục đích của hôn

nhân không đạt được”. Mục đích của hôn nhân là tình yêu giữa nam và nữ muốn

chung sống với nhau suốt đời, cùng nhau xây dựng gia đình hạnh phúc, bền vững

trên cơ sở giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Mục đích của hôn nhân nói chung xuất

phát từ bản chất của hôn nhân. Toà án không thể dựa vào mục đích của hai ngƣời

kết hôn mà xem xét có đạt đƣợc hay không để giải quyết ly hôn. Phần lớn mục

đích của nam và nữ trƣớc khi kết hôn là hƣớng tới xây dựng gia đình hạnh phúc,

bền vững nhƣng cũng có nhiều cuộc hôn nhân đƣợc xác lập bắt đầu từ những

mục đích khác nhau. Dù cho họ từng kết hôn với mục đích nào đi chăng nữa thì

mục đích của hôn nhân bền vững, hạnh phúc vẫn là tiêu chuẩn cao nhất mà bất

kỳ ai kết hôn cũng hƣớng tới. Tuy nhiên, mục đích của vợ hay chồng đôi khi

cũng ảnh hƣởng tới cuộc sống gia đình nếu nhƣ nó không đạt đƣợc sau khi kết

hôn. Mục đích của hai ngƣời không phải bao giờ cũng giống nhau. Hôn nhân có

thể đem đến cho ngƣời này nhƣng lại không làm thoả mãn mục đích của ngƣời

kia hoặc cả hai ngƣời. Vì vậy, điều cần thiết là phải hiểu đƣợc mục đích của hôn

nhân. Nhà làm luật ở đây muốn nói đến mục đích cốt lõi của hôn nhân là xây

dựng gia đình hạnh phúc, bền vững. Mục đích của hôn nhân dƣới chế độ xã hội

chủ nghĩa là nhằm xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền

50

vững. Tờ trình về dự luật HN&GĐ năm 1959 của Chính phủ trƣớc Quốc hội đã

chỉ rõ: “Mục đích của hôn nhân trong chế độ ta là xây dựng những gia đình

hạnh phúc, dân chủ và hòa thuận, trong đó mọi người thương yêu, tương trợ,

giúp đỡ nhau cùng tiến bộ và bảo đảm cho nòi giống được lành mạnh, tương lai

con cái được tốt đẹp, cho xã hội được phát triển thịnh vượng, và làm cho mọi

người trong gia đình đều phấn khởi lao động sản xuất, cùng nhau cải thiện đời

sống và kiến thiết Tổ quốc” [21, tr. 260]. Do vậy, khi mục đích hôn nhân “không

đạt được” thì quan hệ hôn nhân thƣờng có tác động ngƣợc lại. Khi đó chấm dứt

hôn nhân đƣợc giải quyết bằng việc ly hôn.

Ví dụ số 3: Bản án số 09/2018/HNGĐ-ST ngày 30/3/2018 của TAND

huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội: Chị Cấn Thị M và anh Dƣơng Văn N kết

hôn hợp pháp, anh chị có làm thủ tục đăng ký kết hôn tại xã P-T, huyện P, thành

phố Hà Nội vào ngày 17/02/2000. Trong quá trình chung sống, vợ chồng anh chị

chung sống hạnh phúc đƣợc một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân

mâu thuẫn là do anh N thƣờng xuyên uống rƣợu và về bạo hành mẹ con chị M.

Việc mâu thuẫn giữa chị M và anh N là có thật, anh chị đã sống ly thân từ nhiều

năm nay. Tuy anh N không đồng ý ly hôn nhƣng không chấp hành giấy triệu tập

của Tòa án, không đến Tòa án để tham gia tố tụng cũng nhƣ không có biện pháp

gì để khắc phục mâu thuẫn. Các con của chị M và anh N cũng trình bày về việc

ba mẹ con chị M thƣờng xuyên bị anh N uống rƣợu say rồi đánh đập. Điều này

cho thấy mâu thuẫn vợ chồng đã lâm vào trầm trọng, đời sống chung của vợ

chồng không thể kéo dài vì mục đích của hôn nhân không đạt đƣợc nên căn cứ

Điều 51, 56 Luật HN&GĐ Tòa án chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị N.

Nhận định của Tòa án trong bản án trên là hoàn toàn chính xác, khi mà

mâu thuẫn, bạo lực gia đình xảy ra chỉ sau một thời gian ngắn kể từ khi hai

51

ngƣời kết hôn, bạo lực có xu hƣớng ngày càng gia tăng và nếu tiếp tục duy trì

quan hệ hôn nhân này sẽ ảnh hƣởng xấu và nguy hiểm cho chị N và các con của

chị.

Ví dụ số 4: Bản án số 20/2017/HNGĐ-ST ngày 23/8/2017 của TAND

huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội: Chị Phùng Thị N và anh Nguyễn Đăng T

kết hôn hợp pháp vào ngày 14/7/2014. Ngay từ những ngày đầu chung sống

cùng nhau giữa anh T và chị N đã có những bất đồng về quan điểm sống nên vợ

chồng xảy ra mâu thuẫn cãi nói nhau, trong những lúc bực tức nhƣ vậy thì anh T

đã đánh chị N nên nhiều lần chị N phải về nhà bố mẹ đẻ ở, lần cuối cùng chị bỏ

đi vào tháng 4/2017, từ đó đến nay chị N và anh T không ai quan tâm đến ai nữa.

Quá trình giải quyết vụ án cũng nhƣ tại phiên tòa, chị N xác định tình cảm vợ,

chồng không còn, không thể hàn gắn để sống chung cùng nhau đƣợc nên đề nghị

Tòa án giải quyết cho ly hôn. Phía anh T cũng xác định không còn tình cảm với

chị N nên không thể tồn tại cuộc sống chung cùng chị N. Điều này cho thấy mâu

thuẫn vợ chồng đã lâm vào trầm trọng, đời sống chung của vợ chồng không thể

kéo dài vì mục đích của hôn nhân không đạt đƣợc nên căn cứ Điều 51, 56 Luật

HN&GĐ Tòa án chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị N.

Nhận định của Tòa án trong bản án trên là hoàn toàn chính xác, khi mà

mâu thuẫn giữa hai bên xảy ra ngay từ những ngày đầu hai ngƣời kết hôn, dần dà

để lâu mâu thuẫn gia tăng, hai bên bất đồng quan điểm, ban đầu cãi nhau, mắng

mỏ, có lời lẽ xúc phạm sau sẽ dẫn đến bạo lực gia đình, vì cuộc hôn nhân này cả

hai bên không có tình yêu thƣơng, không có sự thông cảm, thấu hiểu và nhƣờng

nhịn nhau, nếu tiếp tục quan hệ hôn nhân thì sẽ chỉ gây đau khổ kéo dài cho cả

hai bên, và làm tổn thƣơng con cái, về lâu dài còn ảnh hƣởng đến nhận thức và

52

đạo đức của con cái.

Ví dụ số 5: Bản án số 08/2018/HNGĐ-ST ngày 28/5/2018 của TAND

huyện Đan Phƣợng, thành phố Hà Nội: Chị Nguyễn Thị B và anh Đào Văn V

sống chung với nhau từ năm 2012, tuy nhiên đến ngày 6/5/2017 hai bên đã đăng

ký kết hôn tại ủy ban nhân dân xã Th, huyện Đ, thành phố Hà Nội nên xác định

quan hệ hôn nhân giữa chị B và anh V là hợp pháp. Xét thời gian chị B và anh V

có khoảng thời gian sống chung cùng nhau khoảng 5 năm, tuy thời gian chung

sống không dài, nhƣng giữa anh chị thƣờng xuyên có mâu thuẫn, chị B thƣờng

xuyên bỏ về nhà bố mẹ đẻ để ở. Từ tháng 6/2017 đến nay, chị B đã không về

sống cùng anh V nữa, vợ chồng sống ly thân và không quan tâm gì đến nhau

nữa. Điều này cho thấy mâu thuẫn vợ chồng đã lâm vào trầm trọng, đời sống

chung của vợ chồng không thể kéo dài vì mục đích của hôn nhân không đạt đƣợc

nên căn cứ Điều 51, 56 Luật HN&GĐ Tòa án chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của

chị B.

Qua bản án trên, nhận thấy nhận định của tòa án cho chị B đƣợc ly hôn với

anh V chƣa đảm bảo, bởi lẽ, tuy hai bên có mâu thuẫn, nhƣng chƣa lớn, cần có

thời gian để hai bên suy nghĩ lại và hàn gắn lại mối quan hệ. Cuộc hôn nhân này

hoàn toàn có thể còn cứu vãn, gia đình có thể đoàn tụ, không bị chia ly cha mẹ,

con cái và tòa án không phải giải quyết vấn đề tài sản và con cái kéo theo.

Ví dụ số 6: Bản án số 19/2017/HNGĐ-ST ngày 26/9/2017 của TAND

huyện Đan Phƣợng, thành phố Hà Nội: Chị Nguyễn Thị H và anh Đỗ Mạnh H

sống chung với nhau từ năm 2003, sau đó hai bên kết hôn tự nguyện và đăng ký

tại thị trấn P, huyện Đ, thành phố Hà Nội nên xác định là hôn nhân hợp pháp.

Sau khi kết hôn vợ chồng anh H và chị H chung sống cùng gia đình. Tình cảm

vợ chồng trong cuộc sống chung không có hạnh phúc. Chị H cho rằng ngay sau

53

khi tổ chức cƣới thì vợ, chồng đã phát sinh mâu thuẫn, do anh H sử dụng ma túy

và phải đi chấp hành án phạt tù nhiều năm. Khi chị đến trại thăm anh thì anh

không một lời động viên, an ủi, không biết chị phải làm lụng vất vả nuôi con mà

còn đòi hỏi chị chu cấp tiền và quà. Nay chị H xét thấy tình cảm không còn và

xin đƣợc ly hôn với anh H. Phía anh H thừa nhận do phải đi chấp hành án phạt tù

nhiều năm nên anh không thể quan tâm, chăm lo cho hạnh phúc của chị H và các

con đƣợc. Anh cũng xác định tình cảm vợ chồng không còn nên đồng ý ly hôn.

Xét thấy cả hai bên đều thừa nhận cuộc sống chung không có hạnh phúc, tình

cảm không còn, mục đích của hôn nhân không đạt đƣợc nên cần áp dụng Điều

51, 56 Luật HN&GĐ chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh H và chị H là phù hợp.

Qua bản án trên, nhận thấy nhận định của Tòa án là hoàn toàn đúng đắn.

Khi mà một bên vi phạm pháp luật, không thực hiện đƣợc nghĩa vụ của vợ hoặc

chồng thì mục đích của hôn nhân không đạt đƣợc. Cần thiết cho ly hôn để đảm

bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bên còn lại.

Trong thực tiễn có những trƣờng hợp cùng là hành vi ngoại tình nhƣng

khi hội đồng xét xử các cấp áp dụng pháp luật thì không giống nhau.

Ví dụ số 7: Tại bản án số 07/2017/HNGĐ-ST ngày 28/4/2017 của TAND

quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội: Anh Nguyễn Danh C và chị Nguyễn Thị

Mai T kết hôn ngày 14/5/1998 tại Ủy ban nhân dân phƣờng Ngọc Hà, quận Ba

Đình, thành phố Hà Nội trên cơ sở tự nguyện. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống

hạnh phúc cho đến năm 2007 thì bắt đầu nảy sinh mâu thuẫn. Theo anh C

nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng quan điểm sống bất đồng, không tìm

đƣợc tiếng nói chung trong cuộc sống và công việc. Hai vợ chồng sống ly thân từ

năm 2008 đến nay. Trong quá trình mâu thuẫn, gia đình hai bên đã tiến hành hòa

54

giải nhiều lần nhƣng không có kết quả. Năm 2013, anh đã từng nộp đơn xin ly

hôn nhƣng sau đó đã rút đơn để hòa giải mâu thuẫn. Nay anh xác định tình cảm

vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn. Chị T không đồng ý

xin ly hôn vì lý do ly hôn của anh C không chính đáng, anh C có quan hệ bất

chính với ngƣời phụ nữ khác, chị vẫn còn tình cảm với anh C nên không đồng ý

ly hôn, chị mong hòa giải đoàn tụ để chăm lo cho con cái và sự nghiệp của vợ

chồng. Xét thấy mục đích của hôn nhân không đạt đƣợc nên căn cứ Điều 51, 56

Luật HN&GĐ, TAND quận Bắc Từ Liêm chấp nhận đơn xin ly hôn của anh C.

Tại Bản án phúc thẩm số 70/2018/HNGĐ-PT ngày 10/5/2018 của TAND thành

phố Hà Nội nhận định: Tuy mâu thuẫn vợ chồng anh chị trên thực tế là có,

nhƣng tại phiên tòa chị T vẫn thể hiện rằng còn tình cảm với anh C, bày tỏ

nguyện vọng tha thiết xin đoàn tụ để hàn gắn, nên Tòa án cũng tạo điều kiện để

hai bên đƣơng sự có thời gian cải thiện quan hệ vợ chồng, do đó sửa bản án dân

sự sơ thẩm theo hƣớng không chấp nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn.

Ngoại tình là một trong những hành vi vi phạm nghĩa vụ chung thủy giữa

vợ chồng, là hành vi trái với đạo đức xã hội. Luật HN&GĐ năm 2014 quy định:

Cấm ngƣời đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống nhƣ vợ chồng với

ngƣời khác hoặc ngƣời chƣa có vợ, chƣa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống

nhƣ vợ chồng với ngƣời đang có chồng, có vợ. Trƣớc đây, theo Sắc lệnh số

159/SL ngày 17/11/1950 của Chủ tịch nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa quy

định trƣờng hợp ngoại tình và một bên bỏ nhà đi quá hai năm không có duyên cớ

chính đáng là một trong những căn cứ để Tòa án cho ly hôn. Hiện nay, tình trạng

yêu cầu ly hôn do một bên ngoại tình tăng lên, tuy nhiên không có hƣớng dẫn cụ

thể nên mỗi thẩm phán với tƣ duy khác nhau đƣa ra những nhận định khác nhau,

dẫn đến xét xử không thống nhất, không đồng bộ. Theo tác giả, trong ví dụ trên,

55

Bản án phúc thẩm của TAND thành phố Hà Nội bác đơn xin ly hôn của anh C và

chị T là đúng đắn, bởi vì trong trƣờng hợp này nguyên đơn là anh C đã có hành

vi ngoại tình, làm đơn gửi Tòa án xin ly hôn với chị T, mục đích anh T xin ly

hôn là muốn sống chung với ngƣời thứ ba, tuy nhiên chị T không muốn ly hôn

và có thể tha thứ cho anh C, do đó hôn nhân hoàn toàn chƣa lâm vào tình trạng

trầm trọng, nên Tòa án cần xử bác đơn xin ly hôn.

Tóm lại, hiện nay chƣa có văn bản của cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền

hƣớng dẫn cụ thể về căn cứ ly hôn trong trƣờng hợp vợ hoặc chồng có hành vi

bạo lực gia đình hoặc hành vi vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ,

chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không

thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt đƣợc, nên thực tiễn xét xử phụ

thuộc hoàn toàn vào thẩm phán, có thể cùng một hiện tƣợng nhƣng có nhiều cách

lý giải khác nhau, từ đó hƣớng giải quyết vụ việc cũng khác nhau.

2.2.2. Trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích

yêu cầu ly hôn

Khoản 2 Điều 55 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định: “Trong trường hợp

vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án

giải quyết cho ly hôn”.

Theo Từ điển Tiếng việt: Tuyên bố một ngƣời mất tích là một sự kiện

pháp lý nhằm xác định một ngƣời cụ thể “hoàn toàn không rõ tung tích, cũng

không rõ còn sống hay đã chết”. Theo quy định tại Điều 68 BLDS năm

2015: “Khi một người biệt tích 2 năm liền trở lên, mặc dù đã áp dụng đầy đủ các

biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự nhưng

vẫn không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay đã chết thì theo yêu

56

cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án có thể tuyên bố người đó mất

tích…”. Thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một ngƣời mất tích đƣợc quy định

từ Điều 387 đến Điều 390 BLTTDS năm 2015: Ngƣời có quyền, lợi ích liên

quan có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố một ngƣời mất tích theo quy định của

BLDS. Kèm theo đơn yêu cầu phải gửi tài liệu, chứng cứ để chứng minh ngƣời

bị yêu cầu tuyên bố mất tích đã biệt tích 02 năm liền trở lên mà không có tin tức

xác thực về việc ngƣời đó còn sống hoặc đã chết và chứng minh cho việc ngƣời

yêu cầu đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo, tìm kiếm; trƣờng hợp trƣớc

đó đã có quyết định của Tòa án thông báo tìm kiếm ngƣời vắng mặt tại nơi cƣ trú

thì phải có bản sao quyết định đó. Trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày thụ lý đơn

yêu cầu tuyên bố một ngƣời mất tích, Tòa án ra quyết định thông báo tìm kiếm

ngƣời bị yêu cầu tuyên bố mất tích. Thời hạn thông báo tìm kiếm ngƣời bị yêu

cầu tuyên bố mất tích là 04 tháng kể từ ngày đăng, phát thông báo lần đầu tiên.

Trong thời hạn thông báo, nếu ngƣời bị yêu cầu tuyên bố mất tích trở về và yêu

cầu Tòa án đình chỉ việc xét đơn yêu cầu thì Tòa án ra quyết định đình chỉ việc

xét đơn yêu cầu tuyên bố một ngƣời mất tích. Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày

kết thúc thời hạn thông báo thì Tòa án phải mở phiên họp xét đơn yêu cầu.

Trƣờng hợp chấp nhận đơn yêu cầu thì Tòa án ra quyết định tuyên bố một ngƣời

mất tích.

Nhƣ vậy, Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ án ly hôn sau khi quyết định của

Tòa án tuyên bố ngƣời vợ hoặc chồng mất tích có hiệu lực pháp luật. Căn cứ vào

quy định pháp luật và đơn yêu cầu xin ly hôn của ngƣời có chồng hoặc vợ bị mất

tích, Tòa án xem xét, giải quyết cho ly hôn. Trƣờng hợp đồng thời yêu cầu Tòa

án tuyên bố mất tích và yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn, Tòa án chỉ giải quyết

cho ly hôn khi có bằng chứng chứng minh đƣợc chồng hoặc vợ đã biệt tích từ hai

57

năm trở lên kể từ ngày có tin tức cuối cùng về chồng (vợ), mặc dù đã áp dụng

đầy đủ các biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật tố tụng

dân sự nhƣng vẫn không có tin tức xác thực về việc ngƣời đó còn sống hay đã

chết. Việc tuyên bố cá nhân mất tích có ý nghĩa hết sức quan trọng. Nó góp phần

bảo vệ lợi ích của cá nhân cũng nhƣ các chủ thể có liên quan. Việc xác định

đúng điều kiện và hậu quả pháp lí của tuyên bố này là cơ sở đảm bảo quyền lợi

cho các chủ thể, đồng thời góp phần thực hiện có hiệu quả những quy định của

pháp luật trong tuyên bố các cá nhân mất tích.

Trong quan hệ HN&GĐ, việc chồng hoặc vợ bị mất tích đã ảnh hƣởng sâu

sắc tới quan hệ vợ chồng và các thành viên trong gia đình. Ngƣời bị Tòa án

tuyên bố mất tích, ít nhất trong hai năm liền không có mặt ở nhà mà không có lý

do, không cùng gánh vác công việc gia đình, không thực hiện quyền và nghĩa vụ

của mình, không cùng chia sẻ niềm vui, nỗi buồn với ngƣời vợ hoặc chồng còn

lại… chính sự vắng mặt đó đã làm cho quan hệ vợ, chồng lâm vào tình trạng

trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt

đƣợc. Khi đó, cần phải giải phóng vợ hoặc chồng thoát khỏi “hoàn cảnh đặc

biệt” này, khi họ có yêu cầu đƣợc ly hôn với ngƣời chồng hoặc vợ đã bị Tòa án

tuyên bố mất tích. Việc giải quyết ly hôn trong trƣờng hợp này đƣợc đặt ra nhằm

bảo vệ quyền, lợi ích cho ngƣời vợ hoặc chồng của ngƣời bị tuyên bố mất tích,

bảo đảm những lợi ích về nhân thân và tài sản cho họ.

Ví dụ số 7: Bản án 05/2018/HNGĐ-ST ngày 26/6/2018 của TAND huyện

Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn về ly hôn với ngƣời mất tích: Tại đơn xin ly hôn ngày

14/5/2018, bản tự khai ngày 18/5/2018 và tại phiên tòa ông Hoàng Văn H trình

bày: Vào năm 1982 ông và bà Hoàng Thị T đƣợc tự tìm hiểu, tự nguyện kết hôn

và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã B, huyện C, tỉnh Lạng Sơn quê

58

của bà Hoàng Thị T. Sau khi cƣới, vợ chồng sống hạnh phúc tại thôn N, xã H,

huyện B và có 4 ngƣời con chung. Nhƣng đến năm 2007 bà Hoàng Thị T tự

nhiên bỏ gia đình đi đâu, không rõ địa chỉ, ông đã tìm kiếm mọi nơi, kể cả bên

nhà chị Hoàng Thị T tại thôn M, xã B, huyện C, tỉnh Lạng Sơn cũng không có

tin tức gì. Để bảo đảm quyền và lợi ích của ông, nên ngày 22/9/2017 ông Hoàng

Văn H đã yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Bình Gia tuyên bố bà Hoàng Thị T bị

mất tích. Tại Quyết định số 01/2018/QĐDS-ST ngày 16/3/2018 của Tòa án nhân

dân huyện Bình Gia đã tuyên bố bà Hoàng Thị T mất tích. Nay ông Hoàng Văn

H đề nghị Tòa án giải quyết cho đƣợc ly hôn với ngƣời mất tích là bà Hoàng Thị

T theo quy định của pháp luật. Nhận định của Tòa án: Ông Hoàng Văn H và bà

Hoàng Thị T có thời gian chung sống vợ chồng, có đăng ký kết hôn năm 1982 tại

Ủy ban nhân dân xã B, huyện C, tỉnh Lạng Sơn, nên quan hệ vợ chồng đƣợc

pháp luật thừa nhận. Lý do ông Hoàng Văn H xin ly hôn là do bà Hoàng Thị T

đã bị Tòa án tuyên bố là mất tích. Căn cứ Quyết định số 01/2018/QĐDS-ST

ngày 16/3/2018 của Tòa án nhân dân huyện Bình Gia đã tuyên bố bà Hoàng Thị

T mất tích, quyết định này đã có hiệu lực pháp luật và đến ngày Tòa án mở phiên

tòa bà Hoàng Thị T vẫn vắng mặt. Do vậy, căn cứ khoản 2 Điều 56 Luật hôn

nhân và gia đình cho ông Hoàng Văn H đƣợc ly hôn với bà Hoàng Thị T là có

căn cứ pháp luật.

Nhƣ vậy, trong trƣờng hợp này, chính quyết định tuyên bố mất tích là căn

cứ để Tòa án giải quyết cho ly hôn, Thẩm phán không cần phải xác minh tình

trạng trầm trọng của hôn nhân bởi sự kiện mất tích của vợ hoặc chồng chính là

nguyên nhân dẫn đến hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung

59

không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt đƣợc.

2.2.3. Trường hợp cha, mẹ, người thân thích khác yêu cầu ly hôn

Khoản 3 Điều 56 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định: “Trong trường hợp

có yêu cầu ly hôn theo quy định tại Khoản 2 Điều 51 của Luật này thì Tòa án

giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc chồng, vợ có hành vi bạo lực gia

đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của người

kia”.

Điều luật này dẫn chiếu đến Khoản 2, Điều 51 Luật HN&GĐ năm 2014

nhƣ sau: "2. Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu tòa án giải quyết

ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không

thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo

lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính

mạng, sức khỏe, tinh thần của họ".

Theo quy định của pháp luật, cha, mẹ, ngƣời thân thích khác là ngƣời có

quyền yêu cầu ly hôn trong trƣờng hợp này. Vậy, ngƣời thân thích gồm những

ai? Theo Khoản 17, 18, 19 Điều 3 Luật HN&GĐ năm 2014, ngƣời thân thích là

ngƣời có quan hệ hôn nhân, nuôi dƣỡng, ngƣời có cùng dòng máu về trực hệ và

ngƣời có họ trong phạm vi ba đời; những ngƣời cùng dòng máu về trực hệ là

những ngƣời có quan hệ huyết thống, trong đó, ngƣời này sinh ra ngƣời kia tiếp

nhau; những ngƣời có họ trong phạm vi ba đời là những ngƣời cùng một gốc

sinh ra gồm cha mẹ là đời thứ nhất; anh, chị, em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ,

cùng mẹ khác cha là đời thứ hai; anh, chị, em con chú, con bác, con cô, con cậu,

con dì là đời thứ ba.

Bệnh tâm thần là bệnh do rối loạn hoạt động não bộ gây nên những biến

60

đổi bất thƣờng về lời nói, ý tƣởng, hành vi, tác phong, tình cảm… Bệnh tâm thần

điển hình bao gồm trầm cảm, rối loạn lo âu, tâm thần phân liệt, rối loạn ăn uống

và hành vi gây nghiện. Trƣờng hợp mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm

chủ đƣợc hành vi là trƣờng hợp vợ hoặc chồng không thể nhận thức, làm chủ

hành vi, làm chủ bản thân.

Ngƣời bị tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức và làm

chủ đƣợc hành vi của mình không thể là đƣơng sự trong vụ án ly hôn, vì vậy, để

đảm bảo quyền và lợi ích cho ngƣời bị tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không

thể nhận thức và làm chủ hành vi là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ

của họ gây ra làm ảnh hƣởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần

của họ, pháp luật thừa nhận quyền yêu cầu ly hôn của cha, mẹ hoặc ngƣời thân

thích khác. Nhƣ đã phân tích ở trên, ngƣời thân thích gồm: cha, mẹ; anh, chị, em

cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha; anh, chị, em con chú, con

bác, con cô, con cậu, con dì. Còn cha, mẹ theo ý hiểu ở đây gồm cả cha, mẹ của

hai bên, bên bị tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không nhận thức, làm chủ hành

vi và cả bên còn lại là cha, mẹ của bên có hành vi bạo lực gia đình.

Đối với ngƣời bị tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức,

làm chủ đƣợc hành vi của mình, Khoản 1 Điều 22 BLDS năm 2015 quy định:

“Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận

thức, làm chủ được hành vi thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên

quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố người

này là người mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám định pháp y

tâm thần”. Trong vụ án ly hôn, ngƣời bị tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không

thể nhận thức, làm chủ đƣợc hành vi của mình phải đƣợc Tòa án ra quyết định

tuyên bố là ngƣời mất năng lực hành vi dân sự để đảm bảo họ có ngƣời giám hộ

61

tham gia tố tụng tại Tòa án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Theo

quy định tại khoản 1 Điều 53 BLTTDS năm 2015 và khoản 3 Điều 24 Luật

HN&GĐ năm 2014, vợ hoặc chồng bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân

sự thì ngƣời còn lại sẽ đƣợc xác định là ngƣời giám hộ đƣơng nhiên. Khi thực

hiện các giao dịch dân sự hoặc tham gia tố tụng tại Tòa án với một chủ thể thứ

ba thì ngƣời giám hộ đại diện và thay mặt họ để thực hiện. Tuy nhiên, ngƣời vợ

hoặc chồng của ngƣời bị tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự trong vụ án ly

hôn xung đột về lợi ích, xung đột về quyền và nghĩa vụ nên không đủ điều kiện

là ngƣời giám hộ, khi đó Tòa án sẽ chỉ định ngƣời khác giám hộ để đại diện cho

ngƣời bị tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự tham gia tố tụng thực hiện bảo vệ

quyền và lợi ích của họ. Thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một ngƣời mất năng

lực hành vi dân sự đƣợc thực hiện theo quy định từ Điều 376 đến Điều 378

BLTTDS năm 2015 nhƣ sau: Ngƣời có quyền, lợi ích liên quan, cơ quan, tổ chức

hữu quan có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố một ngƣời mất năng lực hành vi dân

sự theo quy định của BLDS năm 2015. Trong thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu,

theo đề nghị của ngƣời yêu cầu, Tòa án có thể trƣng cầu giám định pháp y tâm

thần đối với ngƣời bị yêu cầu tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự. Khi nhận

đƣợc kết luận, Tòa án phải ra quyết định mở phiên họp để xét đơn yêu cầu.

Trƣờng hợp chấp nhận đơn yêu cầu thì Tòa án phải ra quyết định tuyên bố một

ngƣời mất năng lực hành vi dân sự. Sau đó, cần phải xác định ngƣời đại diện cho

ngƣời vợ hoặc chồng bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự tham gia

vào vụ án ly hôn.

Nhƣ vậy, thay vì chỉ vợ, chồng hoặc cả hai ngƣời mới có quyền yêu cầu

Tòa án giải quyết ly hôn nhƣ trƣớc đây thì kể từ khi Luật HN&GĐ năm 2014 có

hiệu lực pháp luật, cha, mẹ, ngƣời thân thích khác cũng có quyền yêu cầu Tòa án

62

giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh

khác mà không thể nhận thức, làm chủ đƣợc hành vi của mình, đồng thời là nạn

nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hƣởng nghiêm

trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ. Quy định này đã tháo gỡ cho

nhiều trƣờng hợp mong muốn xin ly hôn thay cho ngƣời thân bị mất năng lực

hành vi mà không đƣợc do trƣớc đây chỉ quy định việc ly hôn phải do chính

đƣơng sự là vợ hoặc chồng yêu cầu, trong khi họ lại bị mất năng lực hành vi dân

sự dẫn đến không có năng lực hành vi tố tụng dân sự để xin ly hôn. Chính điều

này đã dẫn tới thực trạng có rất nhiều trƣờng hợp cha, mẹ, ngƣời thân thích của

ngƣời bị mất năng lực hành vi dân sự muốn ngƣời đó đƣợc ly hôn nhƣng Tòa án

không thể tiến hành giải quyết đƣợc, có nhiều vụ việc kéo dài trong rất nhiều

năm với nguyên nhân duy nhất là do ngƣời vợ hoặc chồng bị mất năng lực hành

vi dân sự. Bên cạnh đó, đối với trƣờng hợp này các nhà làm luật yêu cầu cha,

mẹ, ngƣời thân thích khác của vợ hoặc chồng cần phải chứng minh đƣợc việc

ngƣời chồng hoặc vợ bị mất năng lực hành vi dân sự phải là nạn nhân của bạo

lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hƣởng nghiêm trọng đến tính

mạng, sức khỏe, tinh thần của họ. Quy định nhƣ vậy là hoàn toàn đúng đắn, để

phân biệt ly hôn với ngƣời vợ hoặc chồng mắc bệnh tâm thần mà làm cho tình

trạng hôn nhân trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài và mục đích của

hôn nhân không đạt đƣợc theo nhƣ Khoản 1 Điều 56 Luật HN&GĐ năm 2014,

tránh trƣờng hợp ngƣời vợ hoặc chồng của ngƣời bị tâm thần không có hành vi

bạo lực và không mong muốn ly hôn, muốn tiếp tục chung sống và chăm sóc cho

ngƣời chồng hoặc vợ bị tâm thần nhƣng cha mẹ hoặc ngƣời thân thích khác có

đơn yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án ly hôn, nên nhà làm luật đã quy định ngƣời

tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ đƣợc hành vi của

63

mình phải là nạn nhân của bạo lực gia đình bị ảnh hƣởng nghiêm trọng đến sức

khỏe, tinh thần của họ. Theo tác giả, lần đầu tiên trong hệ thống pháp luật

HN&GĐ của Nhà nƣớc ta từ năm 1959 đến nay, đã dự liệu giải quyết ly hôn dựa

trên cơ sở “lỗi” của vợ, chồng. Đó là việc cha, mẹ, ngƣời thân thích khác có

quyền yêu cầu ly hôn chứng minh đƣợc ngƣời vợ hoặc chồng có hành vi bạo lực

gia đình đối với ngƣời chồng hoặc vợ còn lại mà bị bệnh tâm thần hoặc mắc

bệnh khác không thể nhận thức, làm chủ đƣợc hành vi của mình khiến cho họ bị

ảnh hƣởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần thì Tòa án giải quyết

cho ly hôn, ngƣời yêu cầu ly hôn không phải chứng minh hôn nhân lâm vào tình

trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân

không đạt đƣợc.

Ví dụ số 8: Nguyên đơn là bà Trần Thị M, sinh năm 1966 (có quyết định

tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự của Tòa án), địa chỉ tại huyện P, thành phố

H; bị đơn là ông Nguyễn Đức H, sinh năm 1963 địa chỉ tại huyện P, thành phố

H; Ngƣời giám hộ đƣợc Tòa án chỉ định cho bà Trần Thị M có ông Nguyễn

Quang T, sinh năm 1987, địa chỉ huyện P, thành phố H (là con trai của bà M và

ông H). Bà Trần Thị M và ông Nguyễn Đức H kết hôn năm 1984. Năm 1993, bà

Trần Thị M bị bệnh tâm thần phân liệt đƣợc điều trị tại Trung tâm điều dƣỡng

ngƣời tâm thần thành phố H, cho đến ngày 30/9/2013 bà Trần Thị M đƣợc

TAND huyện P, thành phố H tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự. Ông H

thƣờng xuyên uống rƣợu và khi không tỉnh táo thƣờng có hành vi đánh đập bà

M, ảnh hƣởng nghiêm trọng đến sức khỏe, tâm lý bà M. Nay ông Nguyễn Quang

T là con trai bà M làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn cho bà M và ông H.

Vì vậy, căn cứ Khoản 3 Điều 56 Luật HN&GĐ năm 2014, TAND huyện H giải

64

quyết ly hôn cho bà M và ông H.

Qua bản án trên, nhận thấy phán quyết của Tòa án hoàn toàn đúng đắn,

phù hợp với quy định của pháp luật, và bản chất của hôn nhân là hạnh phúc bền

vững không còn thì ly hôn là giải pháp tốt nhất cho cả hai bên.

Kết luận chƣơng 2:

Nghiên cứu căn cứ ly hôn theo Luật HN&GĐ năm 2014 và thực tiễn áp

dụng trong việc giải quyết tranh chấp ly hôn nhận thấy: Luật HN&GĐ năm 2014

đã quy định tƣơng đối cụ thể về căn cứ ly hôn. Các căn cứ ly hôn này đã góp

phần giúp Tòa án giải quyết tốt nhiều án ly hôn, giải phóng cho nhiều cuộc hôn

nhân thoát khỏi những bế tắc. Tuy nhiên một số quy định về căn cứ ly hôn còn

chung chung, chƣa có văn bản hƣớng dẫn cụ thể của cơ quan Nhà nƣớc có thẩm

quyền, dẫn đến thực tiễn áp dụng giải quyết tranh chấp ly hôn của các cấp Tòa

án không thống nhất nên rất dễ tùy tiện. Ngoài ra, việc áp dụng căn cứ ly hôn

trong trƣờng hợp thuận tình ly hôn (Điều 55) và Khoản 3 Điều 56 Luật HN&GĐ

năm 2014 không dựa vào bản chất hôn nhân tan vỡ nên trong một số trƣờng hợp

sẽ dẫn đến việc Tòa án có phán quyết sai, không phù hợp với bản chất của sự

65

việc.

CHƢƠNG 3

MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CĂN CỨ LY HÔN

3.1. Một số vƣớng mắc, bất cập

Việc nghiên cứu, tìm hiểu căn cứ ly hôn hiện nay có ý nghĩa rất quan

trọng, căn cứ ly hôn là cơ sở pháp lý và chỉ khi có các điều kiện đó thì Tòa án

mới có thể giải quyết ly hôn, là điều kiện để giải quyết vụ án ly hôn đúng pháp

luật, phán quyết thấu tính đạt lý, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân,

góp phần bảo đảm ổn định, an toàn đời sống gia đình, lợi ích xã hội. Bên cạnh

những kết quả đạt đƣợc trong việc giải quyết các vụ án HN&GĐ nói chung và vụ

án ly hôn nói riêng, thì việc áp dụng các căn cứ ly hôn còn một số bất cập, vƣớng

mắc.

Thứ nhất, hiện nay, vẫn chƣa có văn bản nào của cơ quan Nhà nƣớc có

thẩm quyền xác định có mấy căn cứ ly hôn và hƣớng dẫn áp dụng về căn cứ ly

hôn. Tại Thông tƣ liên tịch số 01/TTLT/TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày

06/01/2016 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ

tƣ pháp hƣớng dẫn thi hành một số quy định của Luật HN&GĐ năm 2014 cũng

chỉ có một số quy định hƣớng dẫn về hủy việc kết hôn trái pháp luật, nguyên tắc

chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn mà không có nội dung nào hƣớng dẫn về

việc áp dụng căn cứ ly hôn. Do đó, các cấp Tòa án áp dụng căn cứ ly hôn giải

quyết các trƣờng hợp ly hôn vẫn chƣa có quan điểm thống nhất nên rất dễ tùy

tiện, đặc biệt trong việc đánh giá tình trạng trầm trọng của hôn nhân theo quy

định tại Khoản 1 Điều 56 Luật HN&GĐ năm 2014: “Khi vợ hoặc chồng yêu cầu

ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu

66

có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm

trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm

trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được”.

Đây là một quy định mới, mang tính khái quát cao. Cụ thể hành vi bạo lực gia

đình ở mức độ nào và hành vi vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng nhƣ thế

nào thì làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không

thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt đƣợc. Việc quy định về căn cứ ly

hôn thể hiện yếu tố tình cảm vẫn còn chung chung, khi giải quyết các trƣờng hợp

cụ thể, với sự đa dạng của cuộc sống, thì mỗi cặp vợ chồng, mỗi vụ án ly hôn

thƣờng có mâu thuẫn cũng nhƣ hoàn cảnh không giống nhau. Trong khi đó,

không có căn cứ rõ ràng để xác định thế nào là “làm cho hôn nhân lâm vào tình

trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không

đạt đƣợc”, thế nào là hành vi “vi phạm nghiêm trọng” nên việc xem xét, đánh giá

căn cứ trên là rất khó khăn, vƣớng mắc. Xuất phát từ bản chất và đặc thù của

quan hệ hôn nhân, không phải khi nào hội đồng xét xử hay những ngƣời bên

ngoài nào cũng đánh giá thấu đáo đƣợc thực trạng hôn nhân của đƣơng sự. Hơn

nữa, có những nguyên cớ, hành vi, cách ứng xử giữa vợ, chồng mang nặng tính

riêng tƣ, không phải trƣờng hợp nào đƣơng sự cũng khai cụ thể và cung cấp

chứng cứ để chứng minh. Trong khi đó, tính gắn kết trong đời sống cộng đồng,

nhất là sự quan tâm giữa gia đình này với gia đình khác trong cùng một khu vực

sống ngày một khoảng cách hơn, hoạt động của các đoàn thể, tổ chức xã hội

trong công tác bảo vệ quyền lợi của thanh niên, phụ nữ, trẻ em vị thành niên…

chƣa thật sự mang lại hiệu quả. Các điều kiện này làm cho công tác thu thập

chứng cứ, tìm hiểu, đánh giá thực trạng hôn nhân của đƣơng sự từ phía cơ quan

tiến hành tố tụng không thuận lợi, thậm chí rất khó khăn. Nhiều trƣờng hợp Hội

67

đồng xét xử chỉ căn cứ vào lời khai của vợ, chồng để đánh giá thực trạng hôn

nhân của đƣơng sự có thỏa mãn hay chƣa thỏa mãn căn cứ ly hôn theo Khoản 1

Điều 56 Luật HN&GĐ năm 2014; thậm chí có trƣờng hợp lời khai của các bên

có mâu thuẫn nhau về chứng minh thực trạng hôn nhân nhƣng Hội đồng xét xử

vẫn quyết theo “suy đoán nội tâm” mà không có chứng cứ khác. Nhƣ vậy, cần có

văn bản của cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền hƣớng dẫn chi tiết về khoản này

để quá trình áp dụng pháp luật của Tòa án đƣợc chính xác và đồng bộ.

Thứ hai, bất cập trong việc áp dụng căn cứ ly hôn trong trƣờng hợp thuận

tình ly hôn đƣợc quy định tại Điều 55 Luật HN&GĐ năm 2014. Nhƣ đã phân

tích ở Chƣơng 2, nếu Tòa án quyết định cho ly hôn dựa trên sự tự nguyện thực

sự và sự thỏa thuận thực sự của đƣơng sự mà không trên cơ sở xem xét tình trạng

quan hệ hôn nhân thì không phản ánh đúng đƣợc bản chất hôn nhân tan vỡ, ví dụ

nhƣ đối với những đôi vợ, chồng có học thức đôi khi chỉ vì cái tôi cá nhân quá

cao không bên nào chịu bên nào, mặc dù vẫn còn yêu thƣơng nhau, nhƣng vẫn

yêu cầu Tòa án công nhận thuận tình ly hôn hoặc nhƣ những trƣờng hợp ly hôn

giả tạo để trốn tránh thực hiện nghĩa vụ với ngƣời thứ ba, để sinh con thứ ba, hay

để trốn thi hành án phạt tù hoặc thỏa thuận của đƣơng sự về phân chia tài sản,

con cái không đảm bảo lợi ích của các bên... Nhƣ vậy, vấn đề xác định căn cứ ly

hôn là sự tự nguyện ly hôn của các bên rất khó để xác định sự tự nguyện ly hôn

thực sự.

Thứ ba, bất cập trong việc áp dụng căn cứ ly hôn tại Khoản 3 Điều 56

Luật HN&GĐ năm 2014. Đây là quy định mới khi quyền yêu cầu ly hôn không

chỉ thuộc về vợ, chồng mà cha, mẹ, ngƣời thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa

án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh

khác mà không thể nhận thức, làm chủ đƣợc hành vi của mình, đồng thời là nạn

68

nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hƣởng nghiêm

trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ. Trong trƣờng hợp này thì Tòa

án giải quyết cho ly hôn, nếu cha, mẹ, ngƣời thân thích khác chứng minh đƣợc

chồng, vợ có hành vi bạo lực gia đình làm ảnh hƣởng nghiêm trọng đến tính

mạng, sức khỏe, tinh thần của ngƣời vợ hoặc chồng bị tâm thần, hoặc mắc bệnh

khác mà không thể nhận thức, làm chủ đƣợc hành vi của mình. Đây là quy định

tiến bộ, có giá trị nhân văn cao, giải phóng nhiều cuộc hôn nhân không lối thoát,

tuy nhiên quy định này dựa trên yếu tố “lỗi” để Tòa án giải quyết cho ly hôn mà

không dựa vào bản chất hôn nhân đã tan vỡ. Nên xảy ra trƣờng hợp sau: anh A

và chị B kết hôn năm 2014, cuộc sống của hai ngƣời rất hạnh phúc, anh chị có 2

con chung, tuy nhiên, năm 2018, do bị tai nạn lao động nên chị B bị mất năng

lực hành vi dân sự, nhƣng anh A vẫn rất yêu thƣơng vợ và chăm sóc chị B và các

con rất chu đáo. Tuy nhiên, do một hôm anh A đi uống rƣợu với bạn bè và uống

quá nhiều, khi về nhà đã có hành vi bạo lực với chị B khiến chị bị ảnh hƣởng

nghiêm trọng đến sức khỏe và tinh thần, do đó bố mẹ đẻ của chị B đã yêu cầu

Tòa án giải quyết ly hôn. Anh A vẫn còn yêu thƣơng vợ và muốn chăm sóc cho

vợ, không muốn ly hôn và giải thích rằng do anh uống rƣợu say, không làm chủ

đƣợc hành vi nên đã gây ra thƣơng tích cho chị B. Tòa án căn cứ vào quy định

tại Khoản 3 Điều 56 Luật HN&GĐ năm 2014 đã phán quyết cho chị B đƣợc ly

hôn với anh A. Đây là trƣờng hợp Tòa án giải quyết cho ly hôn dựa trên yếu tố

“lỗi” mà không dựa trên bản chất hôn nhân đã tan vỡ hay chƣa? Rõ ràng anh A

vẫn còn rất yêu thƣơng vợ và không muốn ly hôn với vợ, tuy chị B bị mất năng

lực hành vi dân sự nhƣng nếu tình cảm yêu thƣơng thực sự của anh A vẫn còn thì

phán quyết cho ly hôn của Tòa án là không chính xác.

Ngoài ra, khi giải quyết án ly hôn, cần phải chú trọng đến ngƣời làm công

69

tác hòa giải, bởi hòa giải là biện pháp quan trọng, hàn gắn lại tình cảm vợ chồng,

tránh làm tan vỡ cuộc hôn nhân còn có thể cứu vãn, việc hòa giải đoàn tụ là vấn

đề cốt lõi, mục đích chủ yếu mà Luật HN&GĐ hƣớng tới. Do đó, cần lựa chọn

Thẩm phán có đủ năng lực, uy tín, có tinh thần trách nhiệm và có tác phong thận

trọng, khách quan, vô tƣ để chủ trì phiên hòa giải. Trình độ hiểu biết về tâm lý xã

hội, về kinh nghiệm của Thẩm phán cũng có ý nghĩa hết sức quan trọng trong

quyết định kết quả hòa giải. Khi chọn Thẩm phán để giải quyết án HN&GĐ phải

chọn ngƣời không những chỉ có kiến thức chuyên môn mà cần phải có kiến thức

xã hội sâu rộng, có kinh nghiệm trong cuộc sống gia đình. Nếu giao thẩm phán

trẻ, chƣa có kinh nghiệm về HN&GĐ thì kết quả hòa giải mang lại không cao.

Vì mục đích của việc giải quyết án ly hôn không chỉ đạt đƣợc yêu cầu của

nguyên đơn, quan trọng hơn là tránh sự tan vỡ gia đình và chính bản thân các

thành viên trong gia đình phải gánh chịu hậu quả. Vì thế nghệ thuật của ngƣời

Thẩm phán có tính chất quyết định đến hiệu quả công tác hòa giải. Hơn nữa, vai

trò của ngƣời thẩm phán đặc biệt quan trọng trong việc xác minh, thu thập chứng

cứ, đánh giá chứng cứ, nắm bắt nội dung vụ án, tìm hiểu thái độ, tâm lý, nhân

thân của đƣơng sự, tiếp xúc, tác động tích cực và phân tích, giải thích với đƣơng

sự về tình tiết vụ án…thông qua đó để giải quyết vụ án, bởi không phải lúc nào

đƣơng sự cũng trung thực và trình bày rõ ràng nội dung vụ việc trƣớc tòa, nhƣ

vậy, rất cần thiết phải có một đội ngũ Thẩm phán dày dặn kinh nghiệm, trình độ

chuyên môn cao để giải quyết vụ án HN&GĐ một cách chính xác, công tâm,

khách quan. Tuy nhiên, hiện nay, vẫn còn tồn tại một bộ phận cán bộ xét xử

năng lực còn yếu, không đảm bảo đƣợc việc đánh giá thấu tình đạt lý nội dung

vụ án. Trong khi đó, một bộ phận cán bộ xét xử khác còn thiếu trách nhiệm trong

việc giải quyết án ly hôn, ví dụ nhƣ công tác hòa giải còn qua loa, hình thức,

70

không đƣợc coi trọng, việc xác minh còn chậm, không chặt chẽ, chỉ dựa vào lời

khai của đƣơng sự để phán quyết... Đặc biệt nghiêm trọng là một bộ phận cán bộ

xét xử không có lƣơng tâm với nghề nghiệp, bị mua chuộc, hoặc bị tác động bởi

đƣơng sự hoặc bên thứ ba mà giải quyết vụ án không trong sáng… dẫn đến có

những phán quyết sai, ảnh hƣởng đến chất lƣợng của bản án, làm tan vỡ những

cuộc hôn nhân còn có thể cứu vãn, từ đó ảnh hƣởng không nhỏ đến gia đình và

xã hội.

Hơn nữa, đối với ly hôn ở giới trẻ, do trình độ hiểu biết còn hạn chế, kinh

nghiệm sống còn ít, đôi khi chỉ là những mâu thuẫn nhỏ nhặt trong cuộc sống,

nhƣng không bên nào chịu bên nào, nhất quyết đòi ly hôn mà không nghĩ đến

hậu quả nặng nề để lại cho con cái, gia đình và cho xã hội. Trƣớc Tòa án nhiều

trƣờng hợp thƣờng trình bày nội dung vụ việc còn chung chung, đôi khi vòng vo,

giấu giếm nội dung vụ việc, chỉ trình bày là không thể chung sống với nhau và

một mực đòi ly hôn đã gây khó dễ cho cán bộ xét xử trong quá trình thực hiện

công tác hòa giải cũng nhƣ công tác xét xử. Ví dụ nhƣ hai bên đƣơng sự trƣớc

tòa trình bày tự nguyện ly hôn và thỏa thuận về việc phân chia tài sản và nuôi

con, tuy nhiên sau đó một thời gian, các bên không thống nhất đƣợc với nhau và

lại có đơn gửi Tòa án giải quyết… Nhƣ đã phân tích ở phần trên, bạo lực gia

đình là căn cứ để Tòa án cho ly hôn, tuy nhiên nhiều trƣờng hợp ngƣời dân hiểu

biết pháp luật còn ít, nên tình trạng bạo lực gia đình vẫn diễn ra trong rất nhiều

gia đình, ngƣời bị bạo lực thì cam chịu, không dám lên tiếng, lo sợ bị tai tiếng,

ảnh hƣởng đến công việc, đến vị trí trong xã hội… trong khi đó ngƣời gây ra bạo

lực thì không hiểu đó là hành vi vi phạm pháp luật, có thể bị xử phạt vi phạm

hành chính thậm chí là phạt tù, điều này gây ảnh hƣởng xấu đến gia đình có bạo

lực nói riêng và đến toàn xã hội nói chung. Một số trƣờng hợp khác, ngƣời dân

71

lợi dụng các quy định của pháp luật về ly hôn để ly hôn giả tạo nhằm mục đích

chuộc lợi cho bản thân, trốn tránh thực hiện nghĩa vụ với ngƣời thứ ba, hoặc là vi

phạm pháp luật…điều này ảnh hƣởng không nhỏ đến tính nghiêm minh, thƣợng

tôn của pháp luật. Qua đó, nhận thấy nhận thức của ngƣời dân về pháp luật nói

chung, pháp luật HN&GĐ nói riêng, trong đó là các quy định về ly hôn và căn

cứ ly hôn còn hạn chế, gây khó khăn trong công tác hòa giải, xét xử của Tòa án,

có trƣờng hợp lừa dối cơ quan pháp luật mà không lƣờng trƣớc đƣợc hậu quả

xảy ra sau đó.

3.2. Kiến nghị hoàn thiện

3.2.1. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần có văn bản hướng dẫn chi tiết

về căn cứ ly hôn

Thứ nhất, cần hƣớng dẫn cụ thể hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng,

đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt đƣợc quy

định tại Khoản 1 Điều 56 Luật HN&GĐ năm 2014 nhƣ sau:

+ Vợ, chồng không thƣơng yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau nhƣ

ngƣời nào chỉ biết bổn phận ngƣời đó, bỏ mặc ngƣời vợ hoặc ngƣời chồng muốn

sống ra sao thi sống, đã đƣợc bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức

nhắc nhở, hòa giải nhiều lần;

+ Hoặc vợ chồng có hành vi ngƣợc đãi, hành hạ nhau hoặc các hành vi

khác xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm và uy tín của nhau đã đƣợc bà con thân

thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức nhắc nhở, hòa giải nhiều lần; Hoặc hành vi

bạo lực gia đình mang tính chất thƣờng xuyên, lặp đi lặp lại nhiều lần đã đƣợc

vợ hoặc chồng hoặc bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, đoàn thể

nhắc nhở, hoà giải hoặc cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp cách ly, cấm

72

tiếp xúc nhƣng bỏ mặc, không khắc phục hoặc vẫn tiếp tục hành vi bạo lực;

Hành vi bạo lực gia đình mang tính chất thƣờng xuyên hoặc không thƣờng xuyên

nhƣng gây ra hậu quả thƣơng tích hoặc làm cho nạn nhân bị tổn hại sức khỏe,

danh dự, nhân phẩm hoặc làm cho nạn nhân tìm cách tự sát hoặc đã bị xử phạt

hành chính hoặc cơ quan điều tra kết luận có dấu hiệu tội phạm nhƣng chƣa đến

mức truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc hậu quả khác làm cho nạn nhân lâm vào

tình trạng không có nơi ở, cuộc sống khó khăn, túng thiếu, phụ thuộc về vật chất,

tinh thần;

+ Hoặc vi phạm quyền và nghĩa vụ về nhân thân nhƣ ngoại tình, chung

sống nhƣ vợ chồng với ngƣời khác đã đƣợc vợ, chồng hoặc bà con thân thích của

họ hoặc cơ quan, tổ chức góp ý, nhắc nhở, khuyên bảo, hoà giải nhƣng không

khắc phục hoặc vẫn tiếp tục lặp đi lặp lại hoặc đã bị xử phạt hành chính hoặc cơ

quan điều tra kết luận có dấu hiệu tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng nhƣng

chƣa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc sau khi bị xử lý về hành vi

ngoại tình thì bỏ đi khỏi nơi cƣ trú, không có trách nhiệm với gia đình; Vi phạm

quyền và nghĩa vụ về nhân thân nhƣ không chung sống với nhau một thời gian

dài mà không có lý do chính đáng, chung sống với nhau không có tình nghĩa vợ

chồng, không quan tâm đến cuộc sống chung, cản trở việc thực hiện các quyền

và nghĩa vụ cơ bản của công dân, việc thực hiện quyền tự do tín ngƣỡng, tôn

giáo đã đƣợc vợ, chồng hoặc bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức góp

ý, nhắc nhở, khuyên bảo, hoà giải nhƣng không khắc phục hoặc vẫn tiếp tục vi

phạm;

+ Hoặc vi phạm quy định về đại diện giữa vợ, chồng và chế độ tài sản của

vợ, chồng đƣợc coi là trầm trọng nhƣ việc tự ý xác lập, thực hiện, chấm dứt giao

dịch, từ chối đứng ra làm đại diện cho bên kia mà không có lý do chính đáng,

73

không bình đẳng trong tạo lập, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung, tự ý

đƣa tài sản chung vào kinh doanh hoặc có tài sản nhƣng không đóng góp để đáp

ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình, cản trở việc vợ hoặc chồng đứng

tên đăng ký tài sản thuộc quyền sở hữu, sử dụng chung thuộc trƣờng hợp phải

đăng ký... gây thất thoát, thiệt hại đến tài sản, ảnh hƣởng đến thực hiện quyền và

nghĩa vụ chung, xâm phạm nghiêm trọng đến quyền sở hữu tài sản của bên kia,

làm phát sinh nghĩa vụ về tài sản, hợp đồng làm cho vợ, chồng, gia đình lâm vào

cảnh khó khăn, nhu cầu thiết yếu của gia đình không bảo đảm... đã tìm cách khắc

phục, hạn chế nhƣng không có hiệu quả…

Thứ hai, pháp luật Việt Nam là pháp luật xã hội chủ nghĩa, quan điểm giải

quyết ly hôn của Nhà nƣớc ta theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác-lênin: “ly hôn

chỉ là việc xác nhận một sự kiện: cuộc hôn nhân này là cuộc hôn nhân đã chết,

sự tồn tại của nó chỉ là bề ngoài và lừa dối. Đương nhiên, không phải sự tùy tiện

của nhà lập pháp, cũng không phải là sự tùy tiện của những cá nhân, mà chỉ bản

chất của sự kiện mới quyết định được là cuộc hôn nhân đã chết hoặc chưa chết,

bởi vì, nó chấm dứt phụ thuộc vào thực chất của vấn đề, chứ không phải là

nguyện vọng của các bên hữu quan”. Bởi vậy, pháp luật HN&GĐ Việt Nam cần

quy định có một căn cứ ly hôn duy nhất đó là dựa trên nguyên tắc xác định tình

trạng trầm trọng của hôn nhân, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của

hôn nhân không đạt đƣợc để quyết định cho ly hôn hay không, qua đó bảo vệ

hạnh phúc, quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, của gia đình và xã hội. Qua

đó, giải quyết đƣợc một số bất cập nhƣ đã phân tích trong trƣờng hợp thuận tình

ly hôn (Điều 55 Luật HN&GĐ năm 2014) và ly hôn theo yêu cầu của cha, mẹ,

ngƣời thân thích khác (Khoản 3 Điều 56 Luật HN&GĐ năm 2014).

3.2.2. Pháp luật HN&GĐ Việt Nam cần công nhận ly thân và xem ly thân

74

là một trong những căn cứ để cho ly hôn

Theo từ điển tiếng việt: “Ly thân mô tả quan hệ vợ chồng theo đó một người

hay cả hai không còn muốn sống chung với nhau. Trên pháp lý họ vẫn là vợ chồng

cho tới khi được xử ly hôn, và họ không cần ra tòa để được sống ly thân.Ly thân tạo

cơ hội cho vợ hay chồng sống riêng biệt mà không cần phải ly hôn.Lợi điểm là ly

thân dễ làm ngược trở lại. Họ có thể thử chia tay, rồi nhờ hướng dẫn, làm hòa, hay

có thể thử sống chung lại rồi ly hôn”. Hiểu đơn giản, ly thân là sự sống riêng giữa

vợ và chồng, nhƣ là không ăn chung, ở chung, không sinh hoạt vợ chồng. Ly thân

không làm chấm dứt mối quan hệ pháp lý giữa vợ và chồng nên trong thời gian

sống ly thân các bên vẫn có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ đối với con chung và tài

sản. Ly thân chƣa hẳn là điều không tốt, theo quy định của luật pháp các nƣớc là để

giảm thiểu những căng thẳng, xung đột gay gắt giữa vợ và chồng hoặc tránh những

việc đáng tiếc có thể xảy ra. Nhiều cặp vợ chồng ly thân chứ chƣa ly hôn vì nhiều lý

do: sợ dƣ luận dị nghị, sợ công ăn việc làm bị gián đoạn, sợ ảnh hƣởng đến danh

dự… Họ xem ly thân là bƣớc đệm giúp cả hai soi rọi bản thân và nhìn lại nhau để từ

đó có quyết định hàn gắn hoặc chấm dứt hôn nhân. Trong lịch sử lập pháp và các

văn bản pháp luật hiện hành không thừa nhận vấn đề ly thân, thực tế trong Luật

HN&GĐ năm 2014 không có một cụm từ nào đƣợc gọi là “ly thân”, do đó cần phải

hiểu đây chỉ là thuật ngữ xã hội mà không phải thuật ngữ pháp lý. Luật HN&GĐ

năm 2014 không quy định ly thân là căn cứ cho ly hôn. Tuy nhiên, trong thực tiễn

xét xử, các Tòa án thƣờng đánh giá ly thân là căn cứ để giải quyết cho ly hôn. Nhƣ

ví dụ sau: Chị T và anh M kết hôn trên cơ sở tự nguyện và hợp pháp từ năm

2000, ban đầu chung sống hạnh phúc, sau đó có mâu thuẫn dẫn đến không còn

sống chung từ tháng 6/2009 cho đến nay. Trong khoảng thời gian này, hai vợ

chồng không liên lạc, không thăm hỏi nhau và không thể đoàn tụ đƣợc.Chị T và

75

anh M cũng không còn quan tâm và trách nhiệm với nhau.Tại phiên tòa giải

quyết ly hôn, chị T yêu cầu đƣợc ly hôn. Trong vụ án này, chị T và anh M đã có

thời gian ly thân dài, không quan tâm và trách nhiệm với nhau, không cùng nhau

xây dựng hạnh phúc gia đình. Tòa án đã mở phiên hòa giải tạo điều kiện cho vợ

chồng anh chị có giải pháp đoàn tụ, nhƣng anh M vắng mặt. Xét thấy mâu thuẫn

gia đình trầm trọng nên Tòa án giải quyết theo hƣớng cho ly hôn.

Tác giả kiến nghị quy định về vấn đề ly thân trong luật định và quy định ly

thân là căn cứ ly hôn, cụ thể nhƣ sau: “Trong trƣờng hợp vợ chồng đã sống ly

thân hơn 3 năm mà vẫn không thể quay về với nhau để chung sống hạnh phúc

hoặc sống ly thân hơn 3 năm theo quyết định của Tòa án thì Tòa án giải quyết

cho ly hôn mà không phải xem xét, đánh giá thực trạng quan hệ vợ chồng và các

bên không phải chứng minh tình trạng trầm trọng của hôn nhân”.

3.2.3. Pháp luật HN&GĐ Việt Nam cần bổ sung quy định căn cứ ly hôn

khi chồng hoặc vợ phạm tội và đang chấp hành án phạt tù

Gia đình là tế bào của xã hội, gia đình có các chức năng cơ bản gồm: Chức

năng kinh tế, giáo dục, duy trì nòi giống và thỏa mãn nhu cầu sinh lý, tình cảm.

Trong một số trƣờng hợp, thì ngƣời đang chấp hành án phạt tù không thể chăm

lo đƣợc về đời sống vật chất cũng nhƣ tinh thần cho gia đình, không thể thực

hiện đƣợc nghĩa vụ giữa vợ chồng, không thể duy trì hạnh phúc gia đình, không

có trách nhiệm với gia đình, không cùng nhau xây dựng hôn nhân cũng nhƣ

trong việc chung tay nuôi dƣỡng con cái, việc duy trì hôn nhân chỉ là hình thức

bên ngoài. Một số trƣờng hợp khác, ngƣời phạm tội có thể là ngƣời mất tƣ cách,

có đạo đức xấu ảnh hƣởng đến việc giáo dục con cái. Luật HN&GĐ năm 2014

chƣa quy định căn cứ ly hôn trong trƣờng hợp vợ hoặc chồng đang chấp hành án

76

phạt tù. Trƣờng hợp vợ hoặc chồng xin ly hôn với chồng hoặc vợ đang chấp

hành án phạt tù thì Tòa án vẫn phải xem xét việc chấp hành án phạt tù của một

bên có làm mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích

hôn nhân không đạt đƣợc thì mới giải quyết cho ly hôn. Tại Sắc lệnh số 159/SL

ngày 17/11/1950 của Chủ tịch nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa quy định: Một

trong những căn cứ ly hôn là trƣờng hợp một bên vợ hoặc chồng can án phạt

giam. Nhƣng quy định này dựa trên yếu tố “lỗi” nên không phù hợp với pháp

luật xã hội chủ nghĩa, mặt khác nếu chỉ dựa vào việc can án phạt giam, bị đi tù

của một bên để giải quyết cho ly hôn thì không đảm bảo bản chất hôn nhân đã

tan vỡ. Bởi vì không phải tất cả các trƣờng hợp ngƣời bị phạt tù đều là xấu và họ

không có nghĩa vụ, trách nhiệm với gia đình, nên tác giả kiến nghị bổ sung quy

định căn cứ ly hôn khi chồng hoặc vợ phạm tội và đang chấp hành án phạt tù,

cụ thể nhƣ sau: “Trong trƣờng hợp vợ hoặc chồng của ngƣời đang chấp hành án

phạt tù yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn đối với trƣờng hợp ngƣời

chấp hành án phạt tù mà phạm tội liên quan đến quyền con ngƣời cụ thể: tội giết

ngƣời với khung hình phạt tù từ mƣời hai năm đến hai mƣơi năm, tù chung thân

hoặc tử hình theo quy định tại Điều 123 BLHS năm 2015”. Quy định này nhằm

tạo điều kiện cho vợ chồng thực hiện quyền đƣợc ly hôn khi một bên vợ, chồng

có đạo đức không tốt, vi phạm pháp luật. Quy định này cũng có ý nghĩa răn đe

những ngƣời là vợ, chồng chuẩn bị phạm tội phải suy nghĩ, đắn đo khi thực hiện

hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả của nó đối với chính mình.

* Ngoài ra, cần nâng cao hiệu quả xét xử của Tòa án, trình độ chuyên

môn, kỹ năng, nghiệp vụ cho cán bộ Tòa án đối với các vụ án ly hôn

Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án ly hôn, Hội đồng xét xử cần xem xét thận

trọng nội dung, nguồn và giá trị các chứng cứ chứng minh thực trạng hôn nhân

77

của đƣơng sự, chứng minh các yêu cầu về chia tài sản chung, trả nợ chung, nuôi

con chung. Khi các chứng cứ trên không có hoặc có nhƣng chƣa đầy đủ thì các

thành viên Hội đồng xét xử có thể trao đổi với nhau để thu thập, xác minh, làm

rõ trƣớc khi mở phiên tòa xét xử. Thẩm phán phải sử dụng các kỹ năng nhất định

khi tiến hành xét xử, phải có cái nhìn chính xác để nắm vững nội dung vụ án

phục vụ cho việc xét xử. Nhiều sự việc về HN&GĐ không dễ phơi bầy ra trƣớc

phiên tòa, sự khéo léo tinh tế của ngƣời Thẩm phán khi tiếp xúc với đƣơng sự là

điều cần thiết, để tìm ra đƣợc tính chất của vụ án, loại bỏ ly hôn giả tạo. Trong

khi đó, Hội thẩm nhân dân phải phát huy trách nhiệm của mình khi thực hiện vai

trò đại diện cho nhân dân khi tham gia xét xử, làm tốt công tác hòa giải hôn nhân

khi xét xử, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ, trẻ em; phòng ngừa,

chống các hành vi bạo lực gia đình, tuyên truyền, giáo dục, vận động các đối

tƣợng khắc phục những hành vi sai trái; phải làm rõ, đối chiếu các chứng cứ thu

thập đƣợc với thực trạng hôn nhân theo lời khai của đƣơng sự tại phiên tòa, kể cả

trƣờng hợp đƣơng sự đã thuận tình ly hôn trƣớc đó. Việc làm này vừa hạn chế

đƣợc những trƣờng hợp xin ly hôn chỉ do xích mích nhỏ nhặt, vợ chồng trẻ tuổi,

suy nghĩ nông cạn, tình trạng hôn nhân chƣa đến mức không thể hàn gắn đƣợc

hoặc tránh gặp phải những sai sót do đƣơng sự lừa dối để làm thủ tục ly hôn

nhằm tránh nghĩa vụ với bên thứ ba hoặc đi nƣớc ngoài trái pháp luật…

Để hạn chế việc giải quyết các vụ án ly hôn không đúng pháp luật, cần

thiết có những cán bộ xét xử có trình độ chuyên môn cao, điều trƣớc tiên phải

chú trọng đến chất lƣợng Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân tham gia hội đồng

xét xử. Căn cứ ly hôn nhƣ hiện nay khó áp dụng trên thực tế vì quy định còn

chung chung, phải hiểu, đánh giá nhƣ thế nào là quan hệ vợ chồng đã ở vào “tình

trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân

78

không đạt đƣợc” để Tòa án xét xử cho ly hôn, điều này phụ thuộc nhiều vào

năng lực, trách nhiệm và bằng niềm tin nội tâm của cán bộ xét xử. Đòi hỏi Thẩm

phán, Hội thẩm nhân dân trong quá trình giải quyết, xét xử vụ án HN&GĐ phải

phát huy hết năng lực, trách nhiệm và cái tâm với nghề nghiệp để giải quyết vụ

án thấu tình đạt lý.

Bên cạnh đó, cần tổ chức tập huấn chuyên sâu về giải quyết các vụ án

HN&GĐ, đặc biệt là các vụ án ly hôn, qua đó rút kinh nghiệm về chuyên môn,

chỉ ra những sai lầm, thiếu sót trong công tác xét xử, đồng thời nâng cao kỹ

năng, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, thẩm phán, thƣ ký, hội thẩm nhân dân. Có

chính sách đầu tƣ thỏa đáng cho việc đào tạo, bồi dƣỡng đội ngũ những ngƣời

làm công tác xét xử, trang bị đầy đủ tài liệu nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác

xét xử. Công việc này có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả, đảm

bảo tính thống nhất trong hoạt động giải quyết các vụ án ly hôn.

* Tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về HN&GĐ, nâng

cao trình độ hiểu biết pháp luật về ly hôn và căn cứ ly hôn cho người dân

Phổ biến, giáo dục pháp luật về HN&GĐ là phƣơng tiện truyền tải những

thông tin, yêu cầu, nội dung và các quy định pháp luật về HN&GĐ, trong đó có

các quy định liên quan đến ly hôn và căn cứ ly hôn. Qua đó để mọi ngƣời hiểu

biết về pháp luật, hiểu biết về quá trình thực hiện và áp dụng, những ƣu điểm,

hạn chế của quá trình điều chỉnh pháp luật và hiểu đúng pháp luật về HN&GĐ,

các quy định liên quan đến ly hôn và căn cứ ly hôn. Phổ biến giáo dục pháp luật

về HN&GĐ không đơn thuần là tuyên truyền các văn bản pháp luật về HN&GĐ,

các quy định có liên quan đến ly hôn và căn cứ ly hôn mà còn lên án các hành vi

vi phạm pháp luật nhƣ bạo lực gia đình, vi phạm quyền và nghĩa vụ giữa vợ và

79

chồng, giữa cha mẹ và con cái…, hình thành, củng cố tình cảm tốt đẹp của ngƣời

dân với pháp luật, đồng thời nâng cao hiểu biết pháp luật của ngƣời dân đối với

các văn bản pháp luật, các hiện tƣợng pháp luật trong đời sống, từ đó nâng cao ý

thức tự giác chấp hành pháp luật của ngƣời dân.

Cách thức phổ biến giáo dục pháp luật về HN&GĐ trong đó có các quy

định về ly hôn và căn cứ ly hôn nhƣ: thông qua báo chí hoặc trực tiếp tƣ vấn, phổ

biến thông qua hoạt động của các trợ giúp pháp lý từ các xã phƣờng, quận huyện

đến thành phố; hoặc thông qua mạng lƣới truyền thanh cơ sở, hoặc biên soạn,

phát hành sách hỏi đáp pháp luật bỏ túi, phổ biến thông qua các nhà trƣờng, hoặc

thông qua các cuộc thi, các câu lạc bộ pháp luật, hoặc là tổ chức xét xử lƣu động

các vụ án về HN&GĐ…

Kết luận chƣơng 3:

Nội dung chƣơng 3 chỉ ra những vƣớng mắc, bất cập khi Tòa án áp dụng

căn cứ ly hôn để giải quyết các vụ án ly hôn, do các căn cứ ly hôn còn chung

chung, cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền chƣa có văn bản hƣớng dẫn chi tiết về

căn cứ ly hôn, ngoài ra, để giải quyết đúng đắn vụ án ly hôn, còn phụ thuộc vào

trình độ năng lực và lƣơng tâm trách nhiệm của đội ngũ xét xử và trình độ nhận

thức của ngƣời dân về ly hôn và căn cứ ly hôn… Từ đó kiến nghị hoàn thiện

pháp luật về căn cứ ly hôn để Tòa án các cấp áp dụng thống nhất, đồng bộ tránh

đƣợc việc tùy tiện, xét xử không đúng ảnh hƣởng đến hạnh phúc không chỉ của

80

riêng mỗi gia đình mà còn ảnh hƣởng đến lợi ích của toàn xã hội.

KẾT LUẬN

Trong xã hội có giai cấp, hôn nhân là hiện tƣợng xã hội mang tính giai cấp

sâu sắc. Trong từng giai đoạn phát triển của lịch sử, ở mỗi chế độ xã hội khác

nhau, giai cấp thống trị đều thông qua nhà nƣớc, bằng pháp luật quy định chế độ

hôn nhân phải phù hợp với ý chí của nhà nƣớc. Tức nhà nƣớc bằng pháp luật quy

định trong những điều kiện nào thì cho phép xác lập quan hệ vợ chồng, đồng thời

xác định trong những điều kiện, căn cứ nhất định mới cho phép xóa bỏ quan hệ

hôn nhân. Đó chính là căn cứ ly hôn đƣợc quy định trong pháp luật của nhà

nƣớc.

Dƣới tác động của hội nhập, các luồng văn hóa mới thâm nhập vào Việt

Nam làm cho giới trẻ có những quan niệm mới về giá trị gia đình, về cuộc sống

hôn nhân. Hiện nay, tỷ lệ ly hôn ở Việt Nam đang ngày càng tăng. Do vậy, sự

điều chỉnh các quy định của pháp luật HN&GĐ về căn cứ để ly hôn là hết sức

cần thiết. Nhằm đảm bảo cho mối quan hệ vợ chồng thêm bền chặt và gắn kết lâu

dài, không thể coi việc ly hôn là một việc hết sức bình thƣờng và dễ dàng, kết

hôn đƣợc thì cũng ly hôn đƣợc. Sẽ làm mất đi giá trị và tính thiêng liêng của mối

quan hệ vợ chồng, gia đình, vì vậy thật sự cần thiết pháp luật phải quy định thật

chặt chẽ các căn cứ để tòa án xem xét cho ly hôn.

Thực tiễn việc áp dụng Luật HN&GĐ năm 2014 đã mang lại nhiều thuận

lợi, giải quyết đƣợc nhiều tình huống mà pháp luật trƣớc đây chƣa dự liệu. Tuy

nhiên, vẫn còn một số bất cập nhƣ chƣa có văn bản nào hƣớng dẫn, giải thích chi

tiết căn cứ cho ly hôn nên việc áp dụng, nhận định còn bất cập, chƣa thống nhất,

đồng bộ, nhiều thẩm phán vẫn theo lối tƣ duy cũ. Nhƣ vậy, việc nghiên cứu, tìm

81

hiểu căn cứ ly hôn hiện nay có ý nghĩa rất quan trọng, qua đó chỉ ra những bất

cập, đƣa ra những kiến nghị để giải quyết vụ án ly hôn đúng pháp luật, phán

quyết thấu tính đạt lý, bảo đảm và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công

82

dân, góp phần bảo đảm ổn định, an toàn đời sống xã hội.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Văn bản pháp luật

1. Bộ luật dân sự năm 2005

2. Bộ luật dân sự năm 1972 dƣới chính quyền Ngụy Sài Gòn

3. Bộ luật Gia Long

4. Bộ luật Hình sự năm 2015

5. Bộ luật Hồng Đức

6. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015

7. Dân luật Bắc kỳ năm 1931, dân luật Trung kỳ năm 1936, dân luật giản yếu

Nam kỳ năm 1883

8. Hiến pháp năm 2013

9. Luật Gia đình năm 1959 dƣới chế độ Ngô Đình Diệm

10. Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 1959, 1986, 2000, 2014

11. Luật Phòng chống bạo lực gia đình năm 2007

12. Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014 của Chính phủ quy định

chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hôn nhân và gia đình

13. Nghị định số 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ quy định

xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng

chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình

14.Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm

phán TANDTC hƣớng dẫn áp dụng một số quy định của Luật HN&GĐ năm

83

2000

15. Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng thẩm

phán TANDTC hƣớng dẫn áp dụng thi hành một số quy định trong phần thứ nhất

“Những quy định chung” của Bộ luật Tố tụng dân sựđã đƣợc sửa đổi, bổ sung

theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự

16. Sắc lệnh số 159-SL ngày 17/11/1950 của Chủ tịch nƣớc Việt Nam dân

chủ cộng hòa quy định về vấn đề ly hôn

II. Sách, giáo trình, công trình khoa học, luận văn tham khảo

17. C.Mác-Ph.Ăngghen (1978), Bản dự luật về ly hôn, NXB. Sự thật

18. C.Mác-Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 1, Hà Nội, NXB. Sự thật, 1978,

tr. 119-121

19. C.Mác-Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 1, Hà Nội, NXB. Sự thật, 1978,

tr. 218

20. Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa luật (2004), Giáo trình Luật Hôn nhân và

gia đình, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội

21. Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình ,

NXB Công an nhân dân, Tr. 260

22. Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình Luật Hôn nhân và gia

đình Việt Nam, Nxb. Hồng Đức

23. Lênin, Về quyền dân tộc tự quyết, Toàn tập, Tập 25, NXB Tiến Bộ,

Matxcova 1980, tr. 335

24. LG. Ngô Văn Thâu (2005), Pháp luật về hôn nhân và gia đình trước và

84

sau cách mạng tháng tám, NXB Tƣ pháp Hà Nội

25. LS. Nguyễn Mạnh Bách (2005), Luật Dân sự Việt Nam lược khảo, Nhà

xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 91

26. Luật sƣ – Thạc sỹ Nguyễn Văn Cừ, Thạc sỹ Ngô Thị Hƣờng (2003), Một

số vấn đề lý luận và thực tiễn về Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 – NXB

Chính trị quốc gia Hà Nội

27. Nguyễn Ngọc Điện (2002), Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia

đình, tập I - Gia đình, Nxb. Trẻ TP. Hồ Chí Minh

28. Nhà pháp luật Việt – Pháp (1998), Bộ luật dân sự của nước Cộng hòa

Pháp, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội

29. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia (1995), Bộ luật dân sự và thương mại

Thái Lan, các quyển I-IV, Hà Nội

30. Hà Thị Mai Hoa (2007), “Căn cứ ly hôn và các trường hợp ly hôn theo

Luật HN&GĐ năm 2000”: luận văn thạc sỹ/PGS.TS Hà Thị Mai Hiên hƣớng

dẫn, Hà Nội, 2007

31. Nguyễn Thị Thơm (2015), “Căn cứ ly hôn theo Luật HN&GĐ Việt Nam

năm 2014”: luận văn thạc sỹ/TS Nguyễn Thị Lan hƣớng dẫn, Hà Nội, 2015

32. Nguyễn Thị Thúy Kiều (2013), "Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và

gia đình năm 2000 và thực tiễn áp dụng pháp luật tại Tòa án nhân dân trên

địa bàn thành phố Đà Nẵng": luận văn thạc sỹ/PGS.TS Hà Thị Mai Hiên

hƣớng dẫn, Hà Nội, 2013

85

III. Tạp chí, báo điện tử

33. Hoàng Thị Kim Quế (2012), Bảo vệ quyền lợi phụ nữ trong Luật Hồng

Đức (Lê Triều hình luật) tính tiến bộ nhân văn và giá trị đương đại, Tạp chí

khoa học ĐHQGHN, Luật học 28 (2012)

34. Nguyễn Ngọc Điệp, Trần Đông Phong, Hồ Thị Nệ (2001), Những điều

cần biết về ly hôn, NXB Phụ nữ

35. Nguyễn Thanh Tâm (2002), Ly hôn nghiên cứu trường hợp Hà Nội,

Trung tâm nghiên cứu khoa học về gia đình và phụ nữ, Hà Nội

36. Ths Bùi Thị Mừng (2011), Quyền kết hôn và ly hôn của phụ nữ Thái Lan

và Việt Nam nhìn từ góc độ so sánh luật, Tạp chí luật học số 2/2011, Tr 60

37. Ths Nguyễn Thị Thu Vân (2005),Căn cứ ly hôn trong cổ luật Việt Nam,

tạp chí Nhà nƣớc và pháp luật.- 8/2005.- Số 208.- Tr.55-61;…

38. Ths Phan Thị Luyện (2013), nguyên nhân ly hôn và một số giải pháp hạn

chế ly hôn, Tạp chí luật học số 9/2013

39. TS Ngô Thị Hƣờng (2007), Ảnh hưởng của giới đối với việc ly hôn ở Việt

Nam hiện nay, Tạp chí luật học số 3/2007

40. TS Ngô Thị Hƣờng (2013), Tác động của đạo đức đối với pháp luật Hôn

nhân và gia đình Việt Nam, Tạp chí luật học số 3/2013

41. Từ điển luật học, NXB Viện khoa học pháp lý – Bộ Tƣ pháp, Tr. 460.

42. Website: http://congbobanan.toaan.gov.vn

86

43. Website: http://vksbacgiang.gov.vn/chuyendephapluat/59/2898