ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
DƢƠNG THỊ THÙY LINH
CĂN CỨ LY HÔN THEO LUẬT HÔN NHÂN
VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2014 VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP LY HÔN
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
HÀ NỘI – 2019
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
DƢƠNG THỊ THÙY LINH
CĂN CỨ LY HÔN THEO LUẬT HÔN NHÂN
VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2014 VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP LY HÔN
Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 8380101.04
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Văn Cừ
Hà Nội - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, với sự hƣớng
dẫn của PGS.TS Nguyễn Văn Cừ, Giảng viên Trƣờng Đại học Luật Hà Nội. Các
kết quả nêu trong Luận văn chƣa đƣợc công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và
trung thực.
Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội
xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn của mình.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN
Dƣơng Thị Thùy Linh
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1 CHƢƠNG 1 ............................................................................................................ 7 LÝ LUẬN CHUNG VỀ CĂN CỨ LY HÔN ........................................................ 7 1.1. Khái niệm ly hôn và căn cứ ly hôn ................................................................. 7 1.1.1. Khái niệm ly hôn .......................................................................................... 7 1.1.2. Khái niệm căn cứ ly hôn ............................................................................. 11 1.1.3. Cơ sở và ý nghĩacủa việc quy định căn cứ ly hôn ...................................... 13 1.2. Khái lƣợc pháp luật Việt Nam về căn cứ ly hôn qua các giai đoạn lịch sử .. 14 1.2.1. Căn cứ ly hôn theo pháp luật thời kỳ phong kiến ...................................... 14 1.2.2. Căn cứ ly hôn thời kỳ Pháp thuộc .............................................................. 18 1.2.3. Căn cứ ly hôn thời kỳ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến nay ........... 21 1.3. Căn cứ ly hôn theo quy định của một số nƣớc trên thế giới ......................... 25 1.3.1. Căn cứ ly hôn theo quy định của Thái Lan ................................................ 25 1.3.2. Căn cứ ly hôn theo quy định của Cộng hòa Pháp ..................................... 27 CHƢƠNG 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CĂN CỨ LY HÔN THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2014 ..................................................................... 31 2.1. Căn cứ ly hôn trong trường hợp vợ, chồng thuận tình ly hôn ...................... 32 2.2. Căn cứ ly hôn trong trường hợp ly hôn theo yêu cầu của của một bên ........ 42 2.2.3. Trường hợp cha, mẹ, người thân thích khác yêu cầu ly hôn ..................... 60 CHƢƠNG 3 .......................................................................................................... 66 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CĂN CỨ LY HÔN .. 66 3.1. Một số vƣớng mắc, bất cập ........................................................................... 66 3.2. Kiến nghị hoàn thiện ..................................................................................... 72 KẾT LUẬN .......................................................................................................... 81 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 83
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLDS: Bộ luật Dân sự
BLHS: Bộ luật Hình sự
BLTTDS: Bộ luật Tố tụng dân sự
HN&GĐ: Hôn nhân và gia đình
TAND: Tòa án nhân dân
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ ngàn xƣa, gia đình Việt Nam đã mang truyền thống tốt đẹp với những
giá trị tinh hoa văn hóa dân tộc Lạc Hồng. Gia đình là tổ ấm mang lại hạnh phúc,
là sự hài hòa cho đời sống của mỗi thành viên trong gia đình, mỗi cá nhân trong
xã hội. Gia đình êm ấm, hạnh phúc sẽ là hành trang, là nền tảng để mỗi cá nhân
phát huy hết năng lực của mình, góp phần xây dựng đất nƣớc ổn định, phồn vinh
và phát triển. Ngày nay, trong bối cảnh đất nƣớc bƣớc sang giai đoạn phát triển
mới, cùng với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc và hội nhập quốc
tế, đất nƣớc ta đang chịu những tác động tích cực và tiêu cực, không chỉ về mặt
kinh tế mà còn cả về mặt văn hóa, xã hội. Gia đình với tƣ cách là tế bào của xã
hội cũng không tránh khỏi sự tác động đa chiều đó: gia đình hạt nhân (hai thế hệ)
đang dần thay thế cấu trúc gia đình truyền thống (nhiều thế hệ); việc đề cao tự do
của cá nhân trong gia đình đã làm cho sự gắn kết giữa cha, mẹ, con và giữa các
thành viên khác có xu hƣớng giảm sút; quan hệ sở hữu, giao dịch đƣợc thực hiện
không chỉ nhằm đáp ứng các nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình mà còn
nhằm mục đích kinh doanh, thƣơng mại ngày càng phổ biến... Quan trọng hơn cả
đó là sự thiếu bền vững về hôn nhân, tình trạng ly thân, ly hôn gần đây có xu
hƣớng năm sau cao hơn năm trƣớc, đặc biệt trong các gia đình trẻ... Hôn nhân
tan vỡ không chỉ làm ảnh hƣởng đến gia đình, các thành viên trong gia đình mà
còn ảnh hƣởng đến xã hội. Bởi gia đình là tế bào của xã hội, khi tế bào không
“khỏe” thì xã hội bị ảnh hƣởng nhiều mặt. Trƣớc kia xã hội Việt Nam coi ly hôn
nhƣ một hành vi phi đạo đức, phi chuẩn mực ảnh hƣởng đến danh dự, sự thăng
1
tiến của cá nhân. Hiện nay và trong tƣơng lai, dƣới ảnh hƣởng của những nhân tố
kinh tế xã hội mới, hiện tƣợng ly hôn sẽ đƣợc bình thƣờng hóa. Tuy nhiên, hệ
lụy để lại sau khi ly hôn là vô cùng lớn. Tiềm ẩn đằng sau những vụ ly hôn là
những yếu tố bất ổn, sự lỏng lẻo trong kết cấu của gia đình khi mà mỗi thành
viên đều có thể dễ dàng tự quyết định số phận của cuộc sống gia đình, vai trò,
trách nhiệm của ngƣời vợ, ngƣời chồng cũng dần bị xem nhẹ, sợi dây liên kết
tình cảm giữa vợ - chồng, bố mẹ - con cái ngày càng xa cách, dẫn đến sự bất ổn,
khủng hoảng trong cuộc sống xã hội. Chính vì lẽ đó, Đảng và Nhà nƣớc ta dành
sự quan tâm đặc biệt cho lĩnh vực HN&GĐ. Luật HN&GĐ năm 2014 đã có
nhiều quy định tiến bộ, bảo vệ quyền lợi của mọi thành viên trong gia đình,
hƣớng tới xây dựng gia đình hạnh phúc theo mô hình xã hội chủ nghĩa, là căn cứ
để Tòa án giải quyết các vụ việc HN&GĐ một cách thấu tình đạt lý, tuy nhiên
thực tế hiệu lực của Luật HN&GĐ năm 2014 phát huy còn chƣa cao, một số quy
định còn bất cập, nhiều vấn đề còn thiếu sự điều chỉnh của luật...
Bên cạnh các quy định về điều kiện kết hôn, Luật HN&GĐ năm 2014 đã
quy định về căn cứ ly hôn trên nguyên tắc vừa đảm bảo quyền tự do ly hôn của
vợ chồng, vừa là cơ sở pháp lý chính đáng để Tòa án giải quyết ly hôn chính xác
theo bản chất của hôn nhân đã tan vỡ. Tuy nhiên, căn cứ ly hôn hiện nay rất
chung chung, khó xác định, ảnh hƣởng đến công tác xét xử ly hôn. Bởi vậy, với
mong muốn tìm hiểu rõ hơn về các căn cứ ly hôn, và nghiên cứu việc áp dụng
căn cứ ly hôn trong thực tiễn giải quyết các vụ án ly hôn của Tòa án, tôi đã lựa
chọn đề tài "Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và thực
tiễn áp dụng trong việc giải quyết tranh chấp ly hôn". Việc nghiên cứu đề tài này
nhằm làm rõ nội dung căn cứ ly hôn và việc áp dụng nội dung căn cứ ly hôn
2
trong việc giải quyết các tranh chấp ly hôn theo luật định. Trên cơ sở đó phát
hiện những vƣớng mắc, bất cập khi áp dụng giải quyết các vụ án ly hôn; từ đó
kiến nghị hoàn thiện các quy định về căn cứ ly hôn theo pháp luật hiện hành.
2. Tình hình nghiên cứu
Một số công trình nghiên cứu khoa học, các bài báo đƣợc đăng trên các tạp
chí về HN&GĐ đề cập đến vấn đề ly hôn và căn cứ ly hôn: Bài viết "Những điều
cần biết về ly hôn" của tác giả Nguyễn Ngọc Điệp, Trần Đông Phong, Hồ Thị
Nệ, NXB Phụ nữ, 2001; Bài viết "Ly hôn nghiên cứu trƣờng hợp Hà Nội" của
tác giả Nguyễn Thanh Tâm, Trung tâm nghiên cứu khoa học về gia đình và phụ
nữ, Hà Nội, 2002; Bài viết “Căn cứ ly hôn trong cổ luật Việt Nam”, thạc sỹ
Nguyễn Thị Thu Vân, tạp chí Nhà nƣớc và pháp luật.- 8/2005.- Số 208.- Tr.55-
61;…
Một số luận văn thạc sỹ luật học đã nghiên cứu về căn cứ ly hôn: "Căn cứ ly
hôn và các trƣờng hợp ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000", của
tác giả Hà Thị Mai Hoa, năm 2000; "Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2000 và thực tiễn áp dụng pháp luật tại Tòa án nhân dân trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng", của tác giả Nguyễn Thị Thúy Kiều, năm 2013; "Căn cứ ly
hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014" của tác giả Nguyễn Thị Thơm,
năm 2015.
Nhƣ vậy, đã có không ít bài viết, công trình khoa học, luận văn thạc sỹ
nghiên cứu pháp luật về ly hôn, căn cứ ly hôn. Tuy nhiên, thông qua việc nghiên
cứu đề tài “Căn cứ ly hôn theo Luật HN&GĐ năm 2014 và thực tiễn áp dụng
trong việc giải quyết tranh chấp ly hôn”, tôi muốn chỉ ra những bất cập và kiến
nghị những giải pháp cụ thể hoàn thiện pháp luật về căn cứ ly hôn.
3
3. Phạm vi và mục đích nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Nội dung căn cứ ly hôn theo Luật HN&GĐ
Việt Nam năm 2014; Thực tiễn áp dụng căn cứ ly hôn trong việc giải quyết các
tranh chấp ly hôn qua một số vụ án cụ thể. Đề tài không nghiên cứu áp dụng căn
cứ ly hôn có yếu tố nƣớc ngoài.
Mục đích nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu cơ sở lý luận về ly hôn và căn
cứ ly hôn, áp dụng căn cứ ly hôn trong thực tiễn giải quyết các vụ án ly hôn theo
pháp luật HN&GĐ Việt Nam năm 2014; phát hiện vƣớng mắc, bất cập quy định
nội dung căn cứ ly hôn về lý luận và thực tiễn áp dụng; từ đó nêu các kiến nghị,
đề xuất giải pháp để hoàn thiện căn cứ ly hôn theo pháp luật về HN&GĐ Việt
Nam.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Để đạt đƣợc mục đích nghiên cứu của đề tài, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
gồm:
Thứ nhất, nghiên cứu những vấn đề khái quát chung về ly hôn, căn cứ ly
hôn gồm: khái niệm ly hôn, căn cứ ly hôn; cơ sở và ý nghĩa của việc quy định
căn cứ ly hôn; nghiên cứu căn cứ ly hôn qua các giai đoạn phát triển của lịch sử:
từ thời kỳ phong kiến, đến thời kỳ Pháp thuộc, từ năm 1945 đến nay; đồng thời
nghiên cứu căn cứ ly hôn theo quy định của pháp luật một số quốc gia nhƣ Pháp,
Thái Lan… để thấy những điểm giống nhau và khác nhau.
Thứ hai, nghiên cứu những quy định pháp luật hiện hành về căn cứ ly hôn;
phân tích một số vụ án Tòa án áp dụng căn cứ ly hôn để giải quyết tranh chấp ly
hôn, từ đó đƣa ra nhận định của cá nhân, chỉ ra những vƣớng mắc, bất cập trong
4
việc áp dụng căn cứ ly hôn.
Thứ ba, đƣa ra các kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của
pháp luật về căn cứ ly hôn.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để đạt đƣợc các mục tiêu nghiên cứu mà đề tài đặt ra, những phƣơng pháp
đƣợc sử dụng để nghiên cứu luận văn gồm:
Phƣơng pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về chủ nghĩa duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử; quan điểm, đƣờng lối, chính sách của Đảng, pháp luật
của nhà nƣớc về HN&GĐ.
Phƣơng pháp phân tích, phƣơng pháp diễn giải: Những phƣơng pháp này
đƣợc sử dụng để làm rõ các quy định của pháp luật về ly hôn và căn cứ ly hôn.
Phƣơng pháp đánh giá, phƣơng pháp so sánh: Những phƣơng pháp này
đƣợc sử dụng để đƣa ra ý kiến nhận xét quy định của pháp luật hiện hành có hợp
lý hay không, đồng thời nhìn nhận trong mối tƣơng quan của pháp luật các thời
kỳ hay các quy định pháp luật có liên quan và pháp luật của một số nƣớc khác
trên thế giới…
Phƣơng pháp quy nạp, phƣơng pháp diễn dịch: Những phƣơng pháp này
đƣợc sử dụng để triển khai các vấn đề liên quan đến căn cứ ly hôn, đặc biệt là
các vƣớng mắc, bất cập và các kiến nghị hoàn thiện. Ví dụ: phƣơng pháp quy
nạp đƣợc sử dụng để đúc kết lại những bất cập từ các vấn đề thực tiễn áp dụng
căn cứ ly hôn để giải quyết các vụ án ly hôn; đƣa ra những kiến nghị mang tính
khái quát, súc tích, sau đó sử dụng phƣơng pháp diễn dịch để làm rõ nội dung
của kiến nghị đó…
5
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả đạt đƣợc của luận văn góp phần làm sáng tỏ phƣơng diện lý luận
của vấn đề ly hôn và căn cứ ly hôn, đồng thời làm sáng tỏ vấn đề căn cứ ly hôn
đƣợc áp dụng trong thực tiễn. Cụ thể: Xây dựng đƣợc khái niệm và đƣa ra những
tiêu chí cơ bản nhất để Tòa án xác định căn cứ ly hôn, phân tích thực tiễn áp
dụng các căn cứ ly hôn theo quy định của pháp luật hiện hành để giải quyết các
vụ án ly hôn, chỉ ra những bất cập của pháp luật và đƣa ra phƣơng hƣớng hoàn
thiện pháp luật về căn cứ ly hôn.
Ngoài ra, những giải pháp hoàn thiện pháp luật là một kênh thông tin để các
cơ quan chức năng trong phạm vi, thẩm quyền của mình có thể tham khảo để sửa
đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực tƣơng ứng. Bên cạnh đó, luận
văn sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích với đội ngũ giảng viên, sinh viên và có giá
trị đối với các cán bộ đang làm công tác xây dựng pháp luật về HN&GĐ ở Việt
Nam.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn đƣợc
chia thành 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Lý luận chung về căn cứ ly hôn
Chƣơng 2: Căn cứ ly hôn theo pháp luật hiện hành và thực tiễn áp dụng giải
quyết tranh chấp ly hôn
6
Chƣơng 3: Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về căn cứ ly hôn.
CHƢƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CĂN CỨ LY HÔN
1.1. Khái niệm ly hôn và căn cứ ly hôn
1.1.1. Khái niệm ly hôn
Quan hệ hôn nhân với đặc điểm tồn tại lâu dài, bền vững cho đến suốt
cuộc đời con ngƣời vì nó đƣợc xác lập trên cơ sở tình yêu thƣơng, gắn bó giữa
vợ chồng. Tuy nhiên, trong cuộc sống vợ chồng, vì những lý do nào đó dẫn tới
giữa vợ chồng có mâu thuẫn sâu sắc đến mức họ không thể chung sống với nhau
nữa, vấn đề ly hôn đƣợc đặt ra để giải phóng cho vợ chồng và các thành viên
khác thoát khỏi mâu thuẫn gia đình. Ly hôn là mặt trái của hôn nhân nhƣng là
mặt không thể thiếu đƣợc khi quan hệ hôn nhân tồn tại chỉ là hình thức, tình cảm
vợ chồng đã thực sự tan vỡ.
Chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tƣ tƣởng của Nhà nƣớc xã hội chủ
nghĩa, dƣới chế độ xã hội này, hôn nhân đƣợc xây dựng hoàn toàn theo chế độ
một vợ, một chồng, tự do, tiến bộ và bình đẳng. Pháp luật xã hội chủ nghĩa chỉ
thừa nhận quan hệ hôn nhân xây dựng trên cơ sở tình yêu chân chính giữa nam
và nữ, tự do và tự nguyện. Quyền tự do ấy biểu hiện trong việc tự do kết hôn và
tự do ly hôn. Theo Lênin: “Tự do ly hôn tuyệt không có nghĩa là làm “tan rã”
những mối liên hệ gia đình mà ngược lại, nó củng cố những mối liên hệ đó trên
những cơ sở dân chủ, những cơ sở duy nhất có thể có và vững chắc trong một xã
hội văn minh”[23, tr. 335]. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, hôn
nhân nói chung, ly hôn nói riêng là hiện tƣợng xã hội mang tính giai cấp. Nghĩa
7
là nhà nƣớc thông qua pháp luật quy định chế độ hôn nhân phù hợp với ý chí của
nhà nƣớc. Các-Mác phê phán quan điểm vợ chồng chỉ chú ý đến hạnh phúc cá
nhân, ly hôn một cách tùy tiện:“Họ đứng trên quan điểm coi hạnh phúc cá nhân
của mình là mục đích của cuộc sống, họ chỉ nghĩ đến hai cá nhân mà quên mất
gia đình. Họ quên rằng, hầu như mọi sự tan vỡ của hôn nhân đều là sự tan vỡ
của gia đình và quên rằng, ngay cả khi đứng trên quan điểm thuần túy pháp lý,
hoàn cảnh của con cái và tài sản của chúng cũng không thể bị lệ thuộc vào sự xử
lý tùy tiện của bố mẹ, vào việc bố mẹ muốn sao làm vậy. Nếu như hôn nhân
không phải là cơ sở của gia đình thì nó cũng không phải là đối tượng của công
việc lập pháp, ví dụ như tình bạn chẳng hạn. Như vậy, chỉ có ý chí cá nhân, hay
nói đúng hơn là ý muốn tùy tiện của vợ chồng, là được chú ý; còn ý chí của hôn
nhân, thực chất đạo đức của mối quan hệ này thì chưa được chú ý tới”[19, tr.
281].
Ở mỗi nƣớc khác nhau, dƣới mỗi thời kỳ khác nhau có những quan niệm
khác nhau về vấn đề ly hôn, cụ thể: Một số nƣớc cấm ly hôn: Quan niệm này
đƣợc chấp nhận trong rất nhiều hệ thống luật nguyên sơ và đƣợc coi là một trong
những quan niệm nền tảng của luật giáo hội về gia đình, không ít nƣớc Châu Âu
chỉ mới từ bỏ quan niệm này cách đây không lâu nhƣ: ở Ý từ năm 1975, ở Tây
Ban Nha từ năm 1982,...nghĩa là hôn nhân đƣợc xác lập và đƣợc duy trì chỉ nhờ
vào sự ƣng thuận lúc ban đầu, một khi đã ƣng thuận kết hôn, ngƣời kết hôn
không thể thay đổi ý chí, phải chấp nhận cuộc sống chung cho đến cuối đời. Nói
rõ hơn, kết hôn thì đƣợc, nhƣng ly hôn thì không đƣợc. Việc duy trì quan niệm
này trong luật cận đại và đƣơng đại của các nƣớc chủ yếu vì lý do tôn giáo. Trái
ngƣợc lại quan niệm trên, một số nƣớc cho phép tự do ly hôn: hệ thống tự do ly
hôn chủ trƣơng rằng hôn nhân không thể đƣợc duy trì, một khi vợ hoặc chồng
8
hoặc cả hai không còn cảm thấy đƣợc thôi thúc bởi ý muốn chung sống với nhau.
Mỗi ngƣời phải có quyền tự do chấm dứt quan hệ hôn nhân, nhƣ đã có quyền tự
do xác lập quan hệ đó. Nếu cả vợ và chồng đều đồng ý ly hôn, thì càng tốt; nếu
không, mỗi ngƣời có quyền ly hôn chỉ bằng quyết định đơn phƣơng của mình.
Quyền tự do ly hôn đƣơc thiết lập trong luật La Mã thời kỳ cuối. Trong luật
đƣơng đại của nhiều nƣớc theo hệ thống Common law hoặc của các nƣớc Bắc
Âu, ly hôn theo ý chí đơn phƣơng đƣợc thừa nhận dƣới hình thức “ly hôn do
không hợp tính tình”, chỉ cần chứng minh rằng giữa vợ và chồng có sự khác biệt
về tính tình và sự khác biệt đó là nguyên nhân của những xung đột gay gắt giữa
hai ngƣời khiến cho cuộc sống chung không thể chịu đựng đƣợc, vợ hoặc chồng
có thể xin ly hôn và thẩm phán phải đáp ứng thuận lợi đối với yêu cầu ly hôn đó.
Mô hình thứ ba nhƣ là sự dung hoà giữa hai mô hình cấm ly hôn và tự do ly hôn
đó là ly hôn tự do dƣới sự kiểm soát của Nhà nƣớc. Có thể coi ly hôn vẫn nằm
trong nội dung quyền dân sự của cá nhân; nhƣng yêu cầu ly hôn chỉ đƣợc Toà án
tiếp nhận trong những trƣờng hợp đƣợc luật dự kiến. Yêu cầu ly hôn có thể do
vợ hoặc chồng hoặc cả vợ và chồng đƣa ra. Thẩm phán, về phần mình, có quyền
quyết định cho phép hay không cho phép ly hôn trên cơ sở đánh giá mức độ
chính đáng, hợp lý, hợp tình của yêu cầu ly hôn; ngay nếu nhƣ yêu cầu ly hôn rơi
đúng vào trƣờng hợp đƣợc luật dự kiến, thẩm phán có thể bác đơn xin ly hôn,
một khi xét thấy lý do ly hôn không vững chắc hoặc việc ly hôn có thể ảnh
hƣởng bất lợi nghiêm trọng đối với cuộc sống sau ly hôn của một trong hai
đƣơng sự (hoặc cả hai) hoặc đối với tƣơng lai của con cái, so với việc tiếp tục
quan hệ hôn nhân. Hệ thống ly hôn tự do dƣới sự kiểm soát của Nhà nƣớc cho
phép cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền can thiệp vào sự hình thành suy nghĩ của
9
vợ, chồng về vấn đề ly hôn đồng thời vẫn tôn trọng ý chí thực, nghiêm túc và
chắc chắn của vợ, chồng hoặc của cả hai về việc duy trì hay không duy trì cuộc
sống chung.
Việt Nam theo mô hình thứ ba, ly hôn đƣợc thực hiện dƣới sự kiểm soát
của nhà nƣớc. Ly hôn là một biện pháp chấm dứt hôn nhân đƣợc thừa nhận từ rất
sớm trong pháp luật Việt Nam, từ thời kỳ phong kiến, thời kỳ Pháp thuộc cho
đến nay. Theo từ điển luật học của Viện khoa học pháp lý - Bộ Tƣ pháp, ly hôn
đƣợc hiểu là: "chấm dứt quan hệ vợ chồng do TAND công nhận hoặc quyết định
theo yêu cầu của vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng" [41, tr. 460]. Khoản 8
Điều 8 Luật HN&GĐ năm 2000 quy định: “Ly hôn là chấm dứt quan hệ hôn
nhân do Tòa án công nhận hoặc quyết định theo yêu cầu của vợ hoặc của chồng
hoặc cả hai vợ chồng”. Khoản 14 Điều 3 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định: "Ly
hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp
luật của Tòa án". Đây là điểm mới trong quy định về ly hôn tại Luật HN&GĐ
năm 2014, không cần phải có thêm cụm từ “theo yêu cầu của vợ hoặc của chồng
hoặc cả hai vợ chồng”, bởi vì theo Khoản 3 Điều 51 Luật HN&GĐ năm 2014
quy định: ngoài vợ, chồng có quyền yêu cầu ly hôn thì còn có một số chủ thể
khác không phải là vợ, chồng nhƣng cũng có quyền yêu cầu ly hôn trong một số
trƣờng hợp đặc biệt, đó là cha, mẹ, ngƣời thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa
án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh
khác mà không thể nhận thức, làm chủ đƣợc hành vi của mình, đồng thời là nạn
nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hƣởng nghiêm
trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.
Nhƣ vậy, về mặt pháp lý, ly hôn là việc chấm dứt quan hệ hôn nhân trong
10
lúc cả vợ và chồng đều còn sống. Đây là biện pháp cuối cùng mà pháp luật cho
phép thực hiện trong trƣờng hợp cuộc sống vợ chồng lâm vào tình trạng khủng
hoảng mà không thể đƣợc khắc phục bằng bất kỳ biện pháp nào khác.
1.1.2. Khái niệm căn cứ ly hôn
Nếu nhƣ kết hôn là khởi đầu để xác lập nên quan hệ vợ chồng thì ly hôn
có thể coi là điểm cuối của hôn nhân khi quan hệ này thực sự tan rã. Khi đời
sống hôn nhân không thể duy trì đƣợc nữa thì ly hôn là một giải pháp cần thiết
cho cả đôi bên vợ chồng. Ly hôn giải phóng cho các cặp vợ chồng và những
thành viên trong gia đình thoát khỏi xung đột, mâu thuẫn, bế tắc trong cuộc sống.
Bằng các quy định về ly hôn, Nhà nƣớc cũng hƣớng tới bảo vệ lợi ích của gia
đình, của xã hội khi xác định những điều kiện cho phép chấm dứt quan hệ hôn
nhân trƣớc pháp luật, gọi chung là căn cứ ly hôn.
Trong từng giai đoạn phát triển của lịch sử, ở mỗi chế độ xã hội khác
nhau, giai cấp thống trị đều thông qua Nhà nƣớc, bằng pháp luật quy định chế độ
hôn nhân phù hợp với ý chí của Nhà nƣớc. Tức là Nhà nƣớc bằng pháp luật quy
định những điều kiện nào xác lập quan hệ vợ chồng, và những điều kiện nào
đƣợc phép xóa bỏ quan hệ hôn nhân. Do có quan điểm khác nhau về quy định ly
hôn và giải quyết ly hôn, cho nên căn cứ ly hôn đƣợc quy định trong pháp luật
của Nhà nƣớc xã hội chủ nghĩa có nội dung khác về bản chất so với căn cứ ly
hôn do Nhà nƣớc phong kiến, tƣ bản đặt ra. Pháp luật của nhà nƣớc phong kiến,
tƣ sản quy định có thể cấm ly hôn, không quy định căn cứ ly hôn mà chỉ công
nhận quyền vợ chồng đƣợc sống tách biệt nhau (biệt cƣ) bằng chế định ly thân;
bằng hạn chế quyền ly hôn theo thời gian xác lập quan hệ hôn nhân; theo độ tuổi
của vợ chồng; và thƣờng quy định xét xử ly hôn dựa trên cơ sở lỗi của vợ, chồng
11
hay của cả hai vợ chồng,đó là các điều kiện có tính chất hình thức, phản ánh
nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng, chứ không phải bản chất ly hôn đã tan vỡ.
Ngƣợc lại, pháp luật của Nhà nƣớc xã hội chủ nghĩa công nhận quyền tự do ly
hôn chính đáng của vợ chồng, không thể cấm hoặc đặt ra những điều kiện nhằm
hạn chế quyền tự do ly hôn. Ly hôn dựa trên sự tự nguyện của vợ chồng, nó là
kết quả của hành vi có ý chí của vợ chồng khi thực hiện quyền ly hôn của
mình.Việc giải quyết ly hôn là tất yếu đối với quan hệ hôn nhân đã thực sự tan
vỡ, điều đó là hoàn toàn có lợi cho vợ, chồng, con cái và các thành viên trong gia
đình. Các-Mác đã viết: "Sự ly hôn chỉ là việc xác nhận một sự kiện: cuộc hôn
nhân này là cuộc hôn nhân đã chết, sự tồn tại của nó chỉ là cái vỏ bề ngoài và là
sự giả dối. Đương nhiên, không phải sự tùy tiện của nhà lập pháp, cũng không
phải sự tùy tiện của những cá nhân, mà chỉ bản chất của sự kiện mới quyết định
được là cuộc hôn nhân này đã chết hoặc chưa chết. Bởi vì… việc xác nhận sự
kiện chết là tùy thuộc vào thực chất của vấn đề chứ không phải vào nguyện vọng
của những bên hữu quan… Nhà lập pháp chỉ có thể xác định những điều kiện
trong đó hôn nhân được phép tan vỡ, nghĩa là trong đó, về thực chất hôn nhân tự
nó đã bị phá vỡ rồi, việc Tòa án cho phép phá bỏ hôn nhân chỉ có thể là việc ghi
biên bản sự tan vỡ bên trong của nó" [18, tr. 119-121].
Pháp luật Việt Nam là pháp luật xã hội chủ nghĩa nênkhái niệm căn cứ ly
hôn có thể hiểu là: những tình tiết hay các điều kiện pháp lý do pháp luật quy
định, chỉ khi có những tình tiết, hay điều kiện đó, thì Tòa án mới quyết định cho
vợ chồng ly hôn. Hoặc căn cứ ly hôn là những yếu tố để xác định đúng tình trạng
tan vỡ thực sự về tình cảm, đời sống vợ chồng, mục đích của hôn nhân từ đó Tòa
12
án cho phép vợ chồng ly hôn.
Theo tác giả có thể định nghĩa: “Căn cứ ly hôn là cơ sở pháp lý đƣợc luật
định dựa trên cơ sở hôn nhân tan vỡ, dựa vào đó để Tòa án giải quyết các vụ việc
ly hôn”.
1.1.3. Cơ sở và ý nghĩacủa việc quy định căn cứ ly hôn
Dựa trên nguyên tắc bảo đảm quyền tự do hôn nhân bao gồm quyền tự do
kết hôn và tự do ly hôn, sự điều chỉnh các quy định của pháp luật HN&GĐ về
căn cứ để ly hôn là hết sức cần thiết.
Hệ thống pháp luật HN&GĐ của nhà nƣớc ta qua các giai đoạn phát triển
của lịch sử đã quy định căn cứ ly hôn ngày càng hoàn thiện, phù hợp, là cơ sở
pháp lí để tòa án giải quyết các án kiện ly hôn. Sắc lệnh số 159/SL quy định căn
cứ ly hôn vẫn dựa trên cơ sở “lỗi” của vợ chồng. Sau đó, Luật HN&GĐ năm
1959 (Điều 26), Luật HN&GĐ năm 1986 (Điều 40), Luật HN&GĐ năm 2000
(Điều 89) và hiện nay là Luật HN&GĐ năm 2014 (Điều 55 và Điều 56) đã quy
định căn cứ ly hôn theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, dựa vào bản chất
của quan hệ hôn nhân đã tan vỡ.
Nhƣ vậy, căn cứ ly hôn theo Luật HN&GĐ năm 2014 của Nhà nƣớc ta
đƣợc quy định dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, có cơ sở khoa
học và thực tiễn kiểm nghiệm trong nhiều năm, từ khi Nhà nƣớc ta ban hành
Luật HN&GĐ năm 1959. Khi giải quyết ly hôn, cần hiểu điều đó nói lên một
thực trạng hôn nhân đã tan vỡ, quan hệ vợ chồng không thể tồn tại đƣợc nữa, vì
“sự tồn tại của nó chỉ là bề ngoài và giả dối” và ly hôn là một giải pháp tích cực
để giải phóng cho vợ chồng cũng nhƣ các thành viên khác trong gia đình khỏi
cảnh “bất bình thƣờng” đó, đảm bảo lợi ích của vợ chồng, của gia đình và xã hội.
13
Quan điểm của nhà nƣớc ta là tôn trọng quyền tự do ly hôn và giải quyết ly hôn
dựa vào thực chất của quan hệ hôn nhân có còn tồn tại hay không, hay sự tồn tại
chỉ là hình thức bề ngoài. Do vậy, việc quy định căn cứ ly hôn là rất cần thiết và
quan trọng. Nó thể hiện quan điểm của nhà nƣớc ta về vấn đề này. Việc quy định
căn cứ ly hôn rõ ràng là cơ sở quan trọng để Tòa án, Thẩm phán giải quyết việc
ly hôn đúng đắn, thấu tình đạt lý, có ý nghĩa quan trọng giúp vợ chồng nhận
thức, điều chỉnh hành vi của mình để có thể dàn xếp, thỏa thuận trƣớc khi đƣa ra
quyết định ly hôn, góp phần bình ổn quan hệ hôn nhân, bảo vệ và thúc đẩy sự
phát triển của xã hội, củng cố chế độ một vợ, một chồng, tự nguyện, tiến bộ.
1.2. Khái lƣợc pháp luật Việt Nam về căn cứ ly hôn qua các giai đoạn
lịch sử
1.2.1. Căn cứ ly hôn theo pháp luật thời kỳ phong kiến
Trong lịch sử tồn tại và phát triển hàng nghìn năm, các nhà nƣớc quân chủ
và phong kiến ở nƣớc ta đã nhận thức đƣợc vai trò của luật pháp và quan tâm,
đầu tƣ cho việc ban hành pháp luật. Hệ thống pháp luật Việt Nam thời kỳ này
gồm các bộ luật tổng hợp và các văn bản pháp luật khác nhƣ: Chiếu, Chỉ, Lệ,
Lệnh, Dụ, Sắc…Trong đó, các bộ luật: Hình thƣ (thời Lý), Quốc triều Hình luật
(thời Trần), Quốc triều Hình luật (gòn gọi là Bộ luật Hồng Đức - thời Lê), và
Hoàng Việt Luật lệ (gòn gọi là Bộ luật Gia Long - Thời Nguyễn) là những Bộ
luật cổ tiêu biểu nhất đƣợc xây dựng và ban hành trong lịch sử Việt Nam từ thế
kỷ XI đến thế kỷ XIX. Trong đó Bộ luật Hồng Đức và Bộ luật Gia Long là 02 bộ
luật điển hình của thời kỳ phong kiến: Bộ luật Hồng Đức là Bộ luật có những
thành tựu to lớn, có những nét riêng biệt, thể hiện độc đáo bản sắc dân tộc và
tính độc lập của một quốc gia có chủ quyền. Đây là Bộ luật đã khẳng định đƣợc
14
giá trị và vị thế của mình trong lịch sử hệ thống pháp luật của dân tộc và trên thế
giới bởi những giá trị tiến bộ của nó vƣợt trƣớc thời đại bấy giờ, và mang tính
nhân đạo, nhân văn sâu sắc của ngƣời Việt. Bộ luật Gia Long đƣợc thiết lập vào
đầu thế kỷ XIX, là triều đại cuối cùng trong lịch sử chế độ phong kiến nƣớc ta.
Do đó, triều Nguyễn có điều kiện tiếp thu nền lập pháp của các triều đại trƣớc.
Pháp luật dƣới triều Nguyễn vì thế là nền luật pháp hoàn bị dƣới thời phong kiến
ở Việt Nam. Những quy định về HN&GĐ của 02 bộ luật này có sự phát triển đi
trƣớc thời đại.
Ngƣời Việt Nam xƣa và nay, về đạo lý luôn luôn mong muốn cuộc hôn
nhân lâu dài, bền vững. Tuy nhiên, vì một số lý do mà hôn nhân không thể tiếp
tục. Để bảo vệ lợi ích quốc gia, lợi ích gia đình, lợi ích của ngƣời đàn ông, bảo
vệ phong tục tập quán cổ xƣa… Pháp luật phong kiến cũng thừa nhận việc chấm
dứt hôn nhân do những nguyên nhân khác nhau: do vi phạm điều kiện thủ tục kết
hôn, do một ngƣời chết và do ly hôn. Những quy định về ly hôn đã tính đến sự
bảo vệ lợi ích của ngƣời phụ nữ. Cũng nhƣ pháp luật hiện nay, để vợ chồng đƣợc
Tòa án chấp nhận ly hôn phải đảm bảo các điều kiện ly hôn hay còn gọi là các
căn cứ ly hôn. Trong pháp luật Việt Nam thời kỳ phong kiến, các căn cứ ly hôn
thƣờng đƣợc biết đến với tên gọi “duyên cớ ly hôn”. Nhìn chung, các căn cứ ly
hôn trong thời kỳ phong kiến thấm nhuần sâu sắc tƣ tƣởng Nho giáo, chúng đƣợc
quy định dựa trên sự bất bình đẳng giữa vợ chồng và nhằm mục đích bảo vệ
quyền lợi gia đình, gia tộc hơn là quyền lợi cá nhân nên chúng đƣợc chia làm các
loại: rẫy vợ, ly hôn bắt buộc và ly hôn thuận tình.
Thứ nhất, rẫy vợ: là việc ngƣời chồng đƣợc đơn phƣơng bỏ vợ ngoài tầm
kiểm soát của tất cả các thiết chế xã hội. Điều 310 Bộ luật Hồng Đức quy định,
nếu ngƣời vợ phạm phải một trong các điều "thất xuất" thì chồng phải bỏ vợ,
15
không bỏ sẽ bị tội biếm. Tuy Bộ luật Hồng Đức không thống kê rõ các trƣờng
hợp nào đƣợc coi là "thất xuất" nhƣng Điều 108 Bộ Luật Gia Long đã nêu rõ, đó
là bảy trƣờng hợp sau: Thứ nhất, lỗi không có con, nhất là con trai. Thứ hai do
ngƣời vợ “dâm dật”, đƣợc hiểu bao gồm những hành vi lẳng lơ, dâm đãng của
phụ nữ có chồng. Thứ ba, con dâu bất kính với cha mẹ chồng. Thứ tƣ, ngƣời đàn
bà nhiều lời. Thứ năm là ngƣời phụ nữ có tính đố kỵ ghen tuông. Nguyên nhân
bởi luật pháp thời này cho phép ngƣời đàn ông đƣợc chung sống nhƣ vợ chồng
với nhiều phụ nữ để duy trì dòng giống. Vì vậy, sự đố kỵ của ngƣời vợ bị cho là
sẽ làm hại trật tự trong đại gia đình. Hai trƣờng hợp còn lại là “đạo thiết” - trộm
cắp tài sản trong gia đình và “ác tật” cũng khiến ngƣời vợ bị chồng có quyền ly
hôn. Tuy nhiên cổ luật cũng quy định ba trƣờng hợp là “tam bất khứ” mà ngƣời
chồng không đƣợc bỏ vợ, dù rằng ngƣời vợ đã phạm lỗi "thất xuất" gồm: khi vợ
đã để tang cha mẹ chồng đủ 3 năm; khi lấy nhau thì nghèo về sau cùng chung tay
làm ăn trở nên giàu có hoặc khi lấy nhau còn có cha mẹ, anh em, họ hàng nhƣng
khi bỏ nhau ngƣời vợ không còn ai thân thích. Qua đây ta thấy tính nhân đạo,
bác ái của ngƣời Việt Nam phần nào đƣợc thể hiện đối với ngƣời phụ nữ, xuất
phát từ phong tục tập quán tốt đẹp của ngƣời Việt Nam mà quyền, lợi ích cơ bản
của ngƣời phụ nữ đƣợc bảo vệ.
Nhƣ vậy, cổ luật quy định rẫy vợ là căn cứ để ngƣời chồng đƣợc ly hôn,
quyền bỏ vợ của ngƣời chồng và những trƣờng hợp chồng không đƣợc bỏ vợ.
Thứ hai, ly hôn bắt buộc: Ngoài các trƣờng hợp "thất xuất", “tam bất
khứ”, cổ luật Việt Nam còn quy định khi việc kết hôn vi phạm các điều kiện thiết
yếu của hôn nhân thì vợ chồng bị buộc phải ly hôn. Luật không quy định bằng
cách thống kê các điều kiện thiết yếu của hôn nhân cũng nhƣ quyền và nghĩa vụ
cụ thể của vợ chồng, mà luật chỉ can thiệp khi có sự vi phạm các điều kiện hay
16
nghĩa vụ này. Bộ luật Hồng Đức quy định buộc phải ly hôn do hôn nhân đã vi
phạm các quy định cấm kết hôn (Các Điều 317, 318, 323, 324, 334), cấm kết hôn
khi đang có tang cha, mẹ hay chồng (Điều 317), cấm kết hôn khi ông, bà, cha
hay mẹ đang bị giam cầm, tù tội (Điều 318), cấm anh (em) lấy vợ góa của em
(anh), trò lấy vợ góa của thầy (Điều 324)... Điều 308 quy định ngƣời vợ có
quyền trình quan xin ly hôn khi: chồng đã bỏ lửng vợ 5 tháng không đi lại (có
quan xã làm chứng), trừ khi chồng có việc phải đi xa hay Điều 333 nếu con rể
lấy điều thị phi mắng nhiếc cha mẹ vợ. Bộ luật Gia Long quy định tại Điều 108
khi vợ chồng phạm phải điều "nghĩa tuyệt" thì buộc phải ly hôn. Ở lỗi "nghĩa
tuyệt", cổ luật cho phép đoạn tuyệt ân nghĩa vợ chồng nếu vợ mƣu sát chồng,
hoặc chồng bán vợ làm nô lệ, cho thuê vợ, hay cầm cố vợ; hoặc ngƣời chồng
đem ngƣời vợ ngoại tình gả bán cho tình nhân của vợ. Nếu ngƣời vợ phạm vào
lỗi "nghĩa tuyệt" thì nhất định phải chia tay, nếu không ngƣời chồng sẽ bị đánh
80 trƣợng.
Thứ ba, thuận tình ly hôn: Điều 167 Bộ luật Hồng Đức quy định rõ hình
thức thuận tình ly hôn: Theo đó, hai vợ chồng bất hòa thuận nguyện xin ly dị, thì
tờ ly hôn phải tay viết tay ký, mà niên hiệu cùng là giáp lai khép lại thành một
tờ. Giấy ly hôn đƣợc làm dƣới hình thức hợp đồng, ngƣời vợ và ngƣời chồng
mỗi bên giữ một bản. Dƣới chữ niên hiệu và ngày, chồng ký họ tên, vợ điểm chỉ;
hoặc muốn mƣợn ngƣời viết thay cũng đƣợc.Điều 284 Bộ luật Gia Long quy
định thuận tình ly hôn nhƣ sau: "Nếu vợ hoặc chồng trẹo ý không vui nhau, cả
hai đều muốn ly dị, tình thì không hợp, ân đã lìa thì không thể nào hòa lại được,
cho phép họ ly dị, không bị tội". Nhƣ vậy, pháp luật thời Nguyễn cho phép vợ
chồng đƣợc thuận tình ly hôn khi: ăn ở không hòa hợp, tính tình xung
khắc… Con cái mang họ cha và sẽ ở lại với ngƣời cha trừ khi hai vợ chồng thỏa
17
thuận để ngƣời con nào theo mẹ. Trƣờng hợp không có con, nếu ngƣời đàn bà
không phạm lỗi gì thì đƣợc lấy lại tài sản của riêng mình. Nếu có con, dù bị
chồng bỏ hay thuận tình ly hôn, tất cả tài sản trong nhà do ngƣời chồng quản lý.
Ngƣời vợ chỉ lấy lại quần áo và đồ vật riêng. Ngƣời chồng có thể "tùy tâm" giao
thêm cho vợ một ít tiền.
Trải qua 1000 năm Bắc thuộc có lẽ dấu ấn lớn nhất mà chính quyền đô hộ
để lại cho nƣớc Đại Việt đó là mô hình tổ chức bộ máy nhà nƣớc theo kiểu quân
chủ chuyên chế, kéo theo đó là sự biến đổi của pháp luật để phù hợp với hoàn
cảnh lịch sử. Pháp luật phong kiến Việt Nam đã có những thành tựu to lớn nổi
bật trong đó có lĩnh vực HN&GĐ. Quan hệ HN&GĐ có những nét độc đáo tiến
bộ và có tính chất vƣợt thời đại còn ảnh hƣởng đến ngày nay. Bên cạnh đó còn
có những điểm hạn chế do tồn tại xã hội quyết định, đó là quan điểm trọng nam
khinh nữ. Căn cứ ly hôn dƣới thời kỳ phong kiến đƣợc quy định rất đa dạng,
hoặc ngƣời chồng có thể đơn phƣơng ly hôn bắt nguồn ở lễ giáo phong kiến,
hoặc 2 vợ chồng thuận tình ly hôn trên cơ sở thiếu tình thƣơng yêu giữa hai vợ
chồng, hoặc bắt buộc phải ly hôn đó là sự tuyệt nghĩa phu phụ [25, tr. 91].
1.2.2. Căn cứ ly hôn thời kỳ Pháp thuộc
Trong thời kì Pháp thuộc, với chính sách “chia để trị” thực dân Pháp chia
nƣớc ta thành ba miền và ở từng miền cho ban hành và áp dụng các bộ luật riêng
để điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình, trong đó có các quy định về ly
hôn, căn cứ ly hôn. Ở Bắc Kỳ áp dụng Bộ luật Dân sự năm 1931 còn đƣợc gọi là
Dân luật Bắc Kỳ. Ở Trung Kỳ áp dụng Bộ luật Dân sự năm 1936 còn đƣợc gọi là
Dân luật Trung Kỳ. Ở Nam Kỳ cho ban hành tập Dân luật giản yếu Nam kỳ năm
1883 còn đƣợc gọi là Dân luật giản yếu Nam Kỳ. Hôn ƣớc đƣợc ghi nhận trong
18
Dân luật Bắc kỳ, Dân luật Trung kỳ, riêng tập Dân luật giản yếu Nam kỳ không
có ghi nhận về hôn ƣớc cũng nhƣ vấn đề tài sản vợ chồng tuy nhiên án lệ ở Nam
kỳ trong thời kì này lại “luôn luôn nhắc lại nguyên tắc tự do lập hôn ƣớc mà các
Tòa án Pháp coi là lẽ đƣơng nhiên đƣợc áp dụng trong khi không có luật viết”.
Về kỹ thuật lập pháp có thể thấy cả ba bộ luật này đều ảnh hƣởng của pháp luật
Pháp. Các quy định điều chỉnh quan hệ hôn nhân đều là chế định của luật dân sự.
Về mặt nội dung, xét một cách tổng quát, bộ Dân luật Bắc kỳ và bộ Dân luật
Trung kỳ đều phản ánh phong tục, tập quán truyền thống của Việt Nam về
HN&GĐ. Riêng bộ Dân luật giản yếu Nam kỳ chịu nhiều ảnh hƣởng của Bộ luật
dân sự Pháp năm 1804 nên có nhiều điểm cách tân theo quan niệm của các nhà
làm luật phƣơng Tây.
Tại Điều 118 Bộ dân luật Bắc kỳ, Điều 155 Bộ dân luật Trung kỳ quy
định: Ly hôn phải do tòa án xét xử, phải có những lý do đã đƣợc quy định trong
luật, hai vợ chồng hoặc một trong hai vợ chồng có thể xin ly hôn (Điều 116, 117
Dân luật Bắc kỳ và Điều 115, 116 Dân luật Trung kỳ). Cả bộ dân luật Bắc kỳ và
Bộ Dân luật Trung kỳ đã chia căn cứ ly hôn ra làm 3 loại:
Thứ nhất, chồng xin ly hôn vợ vì các duyên cớ sau: vợ ngoại tình, ngƣời
vợ thứ đánh chửi, hành hạ vợ chính; vợ tự ý bỏ về nhà mẹ đẻ mặc dù đã đƣợc
chồng đến gọi về nhà chồng. Tuy nhiên hai bộ luật này cũng quy định cụ thể
trƣờng hợp việc bỏ nhà ra đi của vợ là do chồng có thái độ, cách xử xự khiến
cuộc sống chung trở nên bức bối hoặc không thể chấp nhận đƣợc nữa thì không
đƣợc coi là căn cứ ly hôn.
Thứ hai, vợ xin ly hôn chồng vì các duyên cớ sau: Ngƣời chồng không
thực hiện nghĩa vụ cấp dƣỡng cho con; chồng bỏ nhà hơn hai năm (Bộ Dân luật
19
Bắc kỳ), và hơn một năm (Bộ Dân luật Trung kỳ) mà không có lý do chính đáng;
chồng đuổi vợ ra khỏi nhà mà không có lý do chính đáng; chồng làm rối loạn trật
tự thê thiếp vợ chính, vợ thứ (Điều 119 Dân luật Bắc kỳ và Điều 118 Dân luật
Trung kỳ).
Thứ ba, những duyên cớ cả vợ và chồng cùng xin ly hôn, đó là: Bên nọ
quá khắc hành hạ, chửi rủa thậm tệ đối với bên kia, hoặc với tổ phụ bên kia; vì
một bên can án trọng tội; vì một bên vô hạnh làm nhơ nhuốc đến nỗi bên kia
không thể ở chung đƣợc; vì một bên bị tâm thần mà ai cũng biết hoặc phải ở suốt
đời trong bệnh viện (Điều 120 Dân luật Bắc kỳ và Điều 119 dân luật Trung kỳ).
Vợ có thể xin ly hôn mà không cần chồng cho phép. Việc tự rẫy vợ bị cấm (Điều
116 Dân luật Bắc kỳ, Điều 115 Dân luật Trung kỳ).
Dân luật giản yếu Nam kỳ năm 1883 cũng quy định những duyên cớ ly
hôn của ngƣời chồng, ngƣời vợ và của cả hai vợ chồng, nhƣng đối với việc tự
rẫy vợ thì quy định không rõ ràng. Thiên thứ IV quy định: "Tất cả các cuộc hôn
nhân chỉ chấm dứt do vợ hay chồng chết hoặc do ly hôn" và tiếp theo là các
duyên cớ ly hôn. Nhƣng ở cuối thiên thứ V, khi nói về hiệu lực của giá thú lại có
quy định: "Ngƣời chồng chỉ có thể rẫy vợ trong các trƣờng hợp đƣợc luật dự
liệu".
Cả ba bộ luật đều quy định "ngoại tình của ngƣời vợ" là duyên cớ để
ngƣời chồng xin ly hôn. Dân luật giản yếu Nam kỳ năm 1883 vẫn giữ quy định
"tam bất khứ" của Bộ luật Gia Long, nhƣng lại trừ trƣờng hợp "vợ ngoại tình, bị
phạt về trọng tội hay tự ý bỏ nhà chồng".
Về thuận tình ly hôn, Điều 121 Dân luật Bắc kỳ quy định phải có điều
kiện là đã chung sống với nhau 2 năm. Riêng Điều 120 Dân luật Trung kỳ quy
20
định điều kiện trên là 5 năm và nếu cha mẹ là ngƣời ƣng thuận việc kết hôn mà
còn sống vào lúc vợ chồng xin thuận tình ly hôn, thì chỉ khi cha mẹ đồng ý thì vợ
chồng mới đƣợc xin thuận tình ly hôn. Theo Dân luật giản yếu Nam kỳ năm
1883 thì không đƣợc xin thuận tình ly hôn, nếu chƣa sống đủ 2 năm hoặc đã qua
20 năm; Ngƣời chồng dƣới 25 tuổi hay ngƣời vợ dƣới 21 tuổi hoặc đã quá 45
tuổi; không có sự thuận tình của bố mẹ.
Nhƣ vậy, mặc dù ba Bộ luật đã có nhiều điểm tiến bộ đáng ghi nhận,
nhƣng do hoàn cảnh chính trị - xã hội lúc bấy giờ nên chúng cũng có những hạn
chế nhất định đó là: quy định hạn chế quyền ly hôn theo thời gian xác lập quan
hệ hôn nhân, theo độ tuổi của vợ chồng hoặc trên cơ sở sự ƣng thuận của cha
mẹ; quy định xét xử ly hôn dựa trên cơ sở lỗi của vợ, chồng hay của cả hai vợ
chồng, các điều kiện có tính chất hình thức, phản ánh nguyên nhân mâu thuẫn vợ
chồng, chứ không phải bản chất hôn nhân đã tan vỡ. Việc xét xử của Tòa án rất
thụ động hoàn toàn do ý chí của đƣơng sự quyết định.
1.2.3. Căn cứ ly hôn thời kỳ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến nay
Cách mạng tháng Tám thành công đã mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch
sử, trong đó có hệ thống pháp luật HN&GĐ ở nƣớc ta. Nhiều văn bản pháp luật
về HN&GĐ đã đƣợc ban hành nhằm củng cố và hoàn thiện các quan hệ gia đình
tiến bộ.
Văn bản pháp lý đầu tiên chứa đựng những quy tắc mới về ly hôn là Sắc
lệnh 159-SL ngày 17.11.1950 do Chủ tịch nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa ban
hành. Tại Điều 2 của Sắc lệnh quy định những duyên cớ ly hôn nhƣ sau: Ngoại
tình; Một bên can án phát giam;Một bên mắc bệnh điên hoặc một bệnh khó chữa
khỏi; Một bên bỏ nhà đi quá hai năm không có duyên cớ chính đáng; Vợ chồng
21
tính tình không đƣợc hoặc đối xử với nhau đến nổi không thể sống chung đƣợc.
Sắc lệnh số 159/SL đã xóa bỏ những duyên cớ ly hôn đƣợc quy định trong
các bộ dân luật cũ thể hiện quan điểm bất bình đẳng của vợ chồng khi ly hôn.
Điểm tiến bộ của căn cứ ly hôn thời kỳ này là việc quy định một bên có thể yêu
cầu ly hôn nếu bên kia mắc bệnh điên hoặc bệnh khó chữa. Khi vợ hoặc chồng
mắc bệnh điên hoặc bệnh khó chữa sẽ không đảm bảo hạnh phúc gia đình, không
có khả năng thực hiện tất cả quyền và nghĩa vụ của vợ chồng trong việc xây
dựng đời sống chung. Vì vậy, ngƣời vợ hoặc ngƣời chồng có quyền yêu cầu ly
hôn. Tuy nhiên, do điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội lúc bấy giờ, Sắc lệnh
159/SL quy định vấn đề ly hôn cũng mới chỉ nhằm đấu tranh đòi quyền bình
đẳng giữa vợ và chồng, xóa bỏ quyền gia trƣởng... nên Sắc lệnh còn những hạn
chế nhất định. Đó là Sắc lệnh dựa vào lỗi của vợ chồng để làm căn cứ cho việc
giải quyết ly hôn mà chƣa xét đến bản chất là sự tan rã thực sự của hôn nhân. Xét
về bản chất thì những duyên cớ ly hôn đó chỉ là lý do dẫn đến ly hôn.
Sau hòa bình lập lại, miền Bắc nƣớc ta bƣớc vào thời kỳ Cách mạng
XHCN. Quan hệ sản xuất mới XHCN đƣợc xác lập và là cơ sở vững chắc của
chế độ HN&GĐ mới. Luật HN&GĐ năm 1959 đƣợc Quốc hội khóa I thông qua
ngày 29.12.1959 có hiệu lực ngày 13.01.1960. Lần đầu tiên quy định căn cứ ly
hôn hoàn toàn mới. Theo đó, việc giải quyết ly hôn không dựa trên yếu tố lỗi của
các bên nhƣ trƣớc đây mà căn cứ vào thực trạng của quan hệ hôn nhân. Điều 26
Luật HN&GĐ năm 1959 quy định: "Khi một bên vợ hoặc chồng xin ly hôn, cơ
quan có thẩm quyền sẽ điều tra và hoà giải. Hoà giải không được, TAND sẽ xét
xử. Nếu tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của
hôn nhân không đạt được, thì TAND sẽ cho ly hôn". Luật HN&GĐ năm 1959 đã
công nhận quyền tự do kết hôn và tự do ly hôn, xóa bỏ sự bất bình đẳng về
22
duyên cớ ly hôn chung cho cả hai vợ chồng, Luật HN&GĐ năm 1959 không quy
định những căn cứ ly hôn riêng biệt, mà quy định căn cứ ly hôn duy nhất cho
mọi trƣờng hợp là tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục
đích của hôn nhân không đạt đƣợc.
Ở miền Nam, năm 1959 Luật Gia đình của Ngô Đình Diệm ra đời, tại
Điều 55 quy định cấm vợ chồng không đƣợc ly hôn trừ trƣờng hợp đặc biệt,
Tổng thống có thể quyết định. Đến Sắc luật 15/64 và Bộ Dân luật năm 1972 có
quy định chế định ly hôn, việc giải quyết ly hôn trên cơ sở lỗi của vợ chồng.
Điều 63 Sắc luật 15/64 và Điều 170 Bộ dân luật năm 1972 quy định duyên cơ ly
hôn gồm: Ngoại tình của ngƣời phối ngẫu; ngƣời phối ngẫu bị kết án trọng hình
về thƣờng tội; ngƣợc đãi, bạo hành hay nhục mạ, có tính cách thậm từ và thƣờng
xuyên làm cho vợ chồng không thể sống chung với nhau đƣợc nữa; có án văn
xác định sự biệt tích của ngƣời phối ngẫu đã thất tung; ngƣời phối ngẫu bỏ phế
gia đình sau khi có án văn nhất định xử phạt ngƣời phạm tội.
Sau khi đất nƣớc thống nhất, pháp luật nói chung, pháp luật về HN&GĐ
nói riêng, trong đó pháp luật về ly hôn tiếp tục đƣợc hoàn thiện, phù hợp với tình
hình mới. Tại kỳ họp thứ 12 Quốc hội khóa VII ngày 29.11.1986 đã thông qua
Luật HN&GĐ năm 1986 với 10 chƣơng, 57 điều. Tại Điều 40 quy định về căn
cứ ly hôn: Khi vợ hoặc chồng, hoặc cả hai vợ chồng có đơn xin ly hôn thì TAND
tiến hành điều tra và hoà giải. Trong trƣờng hợp cả hai vợ chồng xin ly hôn, nếu
hoà giải không thành và nếu xét đúng là hai bên thật sự tự nguyện ly hôn, thì
TAND công nhận cho thuận tình ly hôn. Trong trƣờng hợp một bên vợ hoặc
chồng xin ly hôn, nếu hoà giải không thành thì TAND xét xử. Nếu xét thấy tình
trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân
không đạt đƣợc thì TAND xử cho ly hôn. Về cơ bản Luật HN&GĐ năm 1986
23
quy định căn cứ ly hôn giống Luật HN&GĐ năm 1959. Tuy nhiên, theo Luật
HN&GĐ năm 1986, thủ tục hòa giải đƣợc đƣa ra và coi là thủ tục pháp lý bắt
buộc phải có trong việc giải quyết án kiện ly hôn dù hai bên vợ chồng thuận tình
ly hôn hay chỉ có một bên vợ, chồng yêu cầu.
Căn cứ ly hôn theo Luật HN&GĐ năm 2000: Điều 89 quy định: Tòa án
xem xét yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy tình trạng trầm trọng, đời sống chung
không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt đƣợc thì Tòa án quyết định
cho ly hôn. Trong trƣờng hợp vợ hoặc chồng của ngƣời bị Tòa án tuyên bố mất
tích xin ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn. Ngoài việc kế thừa các quy định
về căn cứ ly hôn theo Luật HN&GĐ năm 1986, Luật HN&GĐ năm 2000 đã bổ
sung thêm quy định về ly hôn trong trƣờng hợp một bên vợ hoặc chồng bị Tòa
án tuyên bố mất tích. Đây là điểm tiến bộ trong quy định của luật về các căn cứ
ly hôn, phù hợp với yêu cầu của thực tiễn.
Xuất phát từ thực tiễn của đời sống xã hội trong lĩnh vực HN&GĐ, thực
hiện quyền tự do ly hôn chính đáng của vợ chồng, đồng thời nhằm bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của vợ chồng, các con và các thành viên trong gia đình, trên
cơ sở kế thừa quy định về nội dung căn cứ ly hôn trong hệ thống pháp luật
HN&GĐ của nhà nƣớc ta, Luật HN&GĐ năm 2014 không quy định những căn
cứ ly hôn riêng biệt mà quy định căn cứ ly hôn chung nhất, dựa vào bản chất của
quan hệ hôn nhân đã tan vỡ. Luật HN&GĐ năm 2014 đã quy định tƣơng đối cụ
thể về căn cứ ly hôn tại Điều 55, 56. Điều 55 quy định về thuận tình ly hôn: Vợ
chồng cùng yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy hai bên thật sự tự nguyện ly hôn và đã
thỏa thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dƣỡng, chăm sóc, giáo dục
con trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án công nhận
thuận tình ly hôn; nếu không thỏa thuận đƣợc hoặc có thỏa thuận nhƣng không
24
bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án giải quyết việc ly hôn.
Điều 56 quy định về ly hôn theo yêu cầu của một bên: Khi vợ hoặc chồng yêu
cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành và nếu có căn cứ về việc vợ,
chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ
của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung
không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt đƣợc; hoặc trong trƣờng
hợp vợ hoặc chồng của ngƣời bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa
án giải quyết cho ly hôn. Hoặc trƣờng hợp cha, mẹ, ngƣời thân thích khác yêu
cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc
mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ đƣợc hành vi của mình, đồng
thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hƣởng
nghiêm trọng đến tính mạng, tinh thần, sức khỏe của họ thì Tòa án giải quyết cho
ly hôn.
Nhƣ vậy, dù đã sửa đổi bổ sung nhiều lần nhƣng Luật HN&GĐ của nhà
nƣớc ta từ năm 1959 đến nay quy định về căn cứ ly hôn vẫn giữ nguyên quan
điểm là dựa vào thực trạng của cuộc hôn nhân để công nhận tính không thể tồn
tại, tự hôn nhân đã đổ vỡ. Tóm lại, các quy định về HN&GĐ, trong đó có các
quy định về ly hôn, căn cứ ly hôn đã tồn tại trong suốt chiều dài lịch sử và phát
triển của nhà nƣớc ta. Điều này cho thấy tầm quan trọng và ảnh hƣởng rất lớn
của pháp luật về HN&GĐ đối với đời sống xã hội của nhân dân ta.
1.3. Căn cứ ly hôn theo quy định của một số nƣớc trên thế giới
1.3.1. Căn cứ ly hôn theo quy định của Thái Lan
Là một nƣớc trong khu vực ASEAN, Thái Lan có nhiều nét tƣơng đồng về
văn hóa so với Việt Nam. Tuy nhiên, điều kiện kinh tế, xã hội cũng nhƣ phong
25
tục, tập quán và những yếu tố khác có ảnh hƣởng lớn tới pháp luật điều chỉnh
vấn đề HN&GĐ. Theo quy định của pháp luật Thái Lan, quyền tự do ly hôn là
quyền gắn với nhân thân của bên vợ, bên chồng. Bộ luật Dân sự và thƣơng mại
Thái Lan quy định: Việc ly hôn chỉ có thể đƣợc tiến hành có sự đồng ý của hai
bên phải đƣợc làm văn bản và có ít nhất hai chữ kí xác nhận của hai ngƣời làm
chứng. Trong trƣờng hợp này, khi việc ly hôn đƣợc đăng ký thì tài sản của vợ
chồng sẽ đƣợc thanh lý, các tài sản này áp dụng đối với những tài sản có tính đến
ngày họ đăng ký ly hôn. Khi các bên vợ chồng không cùng đồng ý ly hôn thì
quyền yêu cầu ly hôn đƣợc pháp luật ghi nhận bình đẳng cho các bên vợ, chồng
[36, tr 60]. Điều 1516 Bộ luật dân sự và thƣơng mại Thái Lan quy định khá cụ
thể các căn cứ để một bên có thể kiện đòi ly hôn với bên chồng hay vợ của mình.
Cụ thể là: Ngƣời chồng đã nuôi dƣỡng hoặc thờ phụng một ngƣời đàn bà khác
nhƣ vợ mình hoặc ngƣời vợ ngoại tình; Vợ hoặc chồng phạm lỗi có hành vi đạo
đức xấu, bất kể hành vi đó có phải là tội hình sự hay không nhƣng dẫn đến hậu
quả làm cho ngƣời kia: Bị làm nhục nghiêm trọng; bị lăng mạ hoặc bị thù hằn
nếu tiếp tục chung sống với ngƣời vợ hoặc chồng đã có hành vi đạo đức xấu;
phải chịu đựng thiệt thòi hoặc quấy rầy đau đớn khi xét đến điều kiện, tình trạng
và việc chung sống nhƣ vợ chồng; Vợ hoặc chồng gây thiệt hại hoặc hành hạ
nghiêm trọng thể xác hoặc tinh thần của ngƣời kia, lăng mạ thậm tệ ngƣời kia
hoặc con cái của ngƣời đó; Vợ hoặc chồng đã rời bỏ ngƣời kia hơn một năm: Vợ
hoặc chồng đã bị tòa án kết án có phán quyết cuối cùng và bị tù hơn một năm vì
phạm tội mà không có bất cứ sự tham gia, đồng tình hoặc hay biết của ngƣời kia
và sự chung sống nhƣ vợ chồng gây cho ngƣời kia phải chịu đựng thiệt hại hoặc
quấy nhiễu quá đáng; vợ hoặc chồng đã tình nguyện sống ly thân vì không thể
chung sống hạnh phúc trong hơn ba năm, hoặc sống ly thân hơn ba năm theo
26
quyết định của tòa án; Vợ hoặc chồng bị tuyên là bị mất tích, hoặc đã bỏ nơi cƣ
trú của mình hơn ba năm và không biết chắc chắn là ngƣời đó còn sống hay đã
chết; Vợ hoặc chồng không có sự chăm sóc thích đáng và giúp đỡ ngƣời kia hoặc
có những hành động bất lợi cho quan hệ vợ chồng đến mức độ mà ngƣời kia bị
quấy nhiễu quá đáng khi tính đến điều kiện, tình trạng và sự chung sống nhƣ vợ,
chồng; Vợ hoặc chồng là ngƣời mất trí liên tục trong hơn ba năm và việc mất trí
này khó có thể chữa khỏi làm cho việc tiếp tục hôn nhân là không thể; Vợ hoặc
chồng đã phá vỡ cam kết của mình về giữ đạo đức tốt; Vợ hoặc chồng mắc bệnh
truyền nhiễm và hiểm nghèo không thể chữa khỏi và có thể gây thiệt hại cho
ngƣời kia; Vợ hoặc chồng có khiếm khuyết về thể chất do đó không thể chung
sống thƣờng xuyên nhƣ vợ chồng.
Nhƣ vậy, giống nhƣ pháp luật Việt Nam, pháp luật Thái Lan cũng ghi
nhận và bảo vệ quyền tự do ly hôn cho ngƣời phụ nữ. Pháp luật Thái Lan quy
định căn cứ ly hôn dựa trên cơ sở lỗi của các bên vợ, chồng, căn cứ ly hôn này
có thể dễ dàng áp dụng trong thực tiễn thi hành luật. Trong khi đó, việc áp dụng
căn cứ ly hôn theo pháp luật Việt Nam không dễ dàng song thƣờng phản ánh
đúng bản chất của hôn nhân. Pháp luật Thái Lan với các quy định duyên cớ lỗi
một cách bình đẳng cho cả hai bên vợ chồng vì thế khi vợ hoặc chồng có lỗi,
ngƣời kia có quyền kiện đòi ly hôn nhƣng về bản chất, một trong hai bên có lỗi
chƣa chắc đã dẫn đến tình trạng hôn nhân thực sự tan vỡ. Về khía cạnh này, việc
ghi nhận căn cứ ly hôn dựa vào lỗi có những thiệt thòi nhất định cho các bên vợ,
chồng nhất là đối với ngƣời phụ nữ.
1.3.2. Căn cứ ly hôn theo quy định của Cộng hòa Pháp
Theo Điều 229 BLDS Pháp có thể giải quyết ly hôn trong các trƣờng hợp
27
sau: “Vợ, chồng thuận tình ly hôn; Vợ chồng chấp nhận nguyên tắc chấm dứt
hôn nhân; Cuộc sống chung hoàn toàn chấm dứt; Ly hôn do lỗi”. Trong trƣờng
hợp thuận tình ly hôn, pháp luật của Pháp quy định nhƣ sau: Nếu vợ chồng đã
thỏa thuận với nhau về việc chấm dứt hôn nhân và hệ quả của việc chấm dứt hôn
nhân, thì có thể yêu cầu Tòa án giải quyết việc ly hôn và phê chuẩn thỏa thuận
giải quyết các hệ quả của việc ly hôn. Thẩm phán phê chuẩn thỏa thuận của các
bên và tuyên bố cho ly hôn nếu có cơ sở xác định rằng vợ và chồng thực sự
muốn ly hôn và quyết định thuận tình ly hôn của họ là hoàn toàn tự nguyện.
Thẩm phán chỉ có thể từ chối phê chuẩn thỏa thuận và không giải quyết ly hôn
nếu thỏa thuận này không đảm bảo lợi ích của con hoặc của một trong hai bên.
Điều 243 Bộ Luật Dân sự Cộng hòa Pháp quy định về căn cứ ly hôn nhƣ
sau: “Vợ hoặc chồng có thể xin ly hôn khi nêu ra toàn bộ những sự việc bắt
nguồn từ bên vợ hoặc chồng làm cho cuộc sống chung không thể tiếp tục”. Theo
quy định này, một bên vợ hoặc chồng làm đơn đến Toà án xin ly hôn trong đó có
nêu lỗi của bên kia và nếu bên kia thừa nhận lỗi trƣớc Toà thì Toà sẽ tuyên ly
hôn. Theo Điều 245 BLDS Cộng hòa Pháp quy định lỗi của các bên đều có thể
đƣợc Tòa án thụ lý trong đơn yêu cầu ly hôn của họ: “Dù người vợ hoặc người
chồng yêu cầu ly hôn là người có lỗi thì yêu cầu ly hôn của người đó vẫn được
xem xét; tuy nhiên lỗi này có thể làm giảm bớt tính chất nghiêm trọng của các sự
việc mà người đó viện dẫn để quy kết cho người kia làm căn cứ cho yêu cầu ly
hôn. Lỗi này cũng có thể do bên kia nêu ra trong yêu cầu phản tố. Nếu cả hai
yêu cầu cùng được thụ lý thì Tòa án sẽ xử cho ly hôn do lỗi của cả hai bên”.
Điều 230 BLDS Cộng hòa Pháp quy định:“Nếu hai vợ chồng cùng xin ly
hôn thì không phải nói rõ lý do”, hoặc nhƣ tại Điều 233 BLDS Cộng hòa Pháp
quy định: “Vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng có quyền yêu cầu Tòa án giải
28
quyết việc ly hôn nếu họ chấp nhận nguyên tắc chấm dứt hôn nhân mà không
cần tính đến các sự việc dẫn đến ly hôn. Nếu có cơ sở xác định rằng vợ và chồng
đều tự nguyện chấp nhận nguyên tắc chấm dứt hôn nhân thì Thẩm phán cho ly
hôn và quyết định các hệ quả của việc ly hôn”, trong trƣờng hợp này, căn cứ cho
ly hôn đƣợc xác định nếu việc ly hôn do một bên xin với lý do bên kia làm cho
cuộc sống chung không thể tiếp tục và bên kia chấp nhận thì thẩm phán tuyên bố
cho ly hôn mà không cần xem xét với yếu tố lỗi. Nhƣ vậy, trong trƣờng hợp này
ly hôn đƣợc giải quyết theo sự thoả thuận của đƣơng sự. Điều đó cũng phù hợp
với bản chất của hôn nhân khi pháp luật của Pháp coi hôn nhân là một hợp đồng
nhƣ những hợp đồng dân sự khác. Tuy nhiên, BLDS Cộng hòa Pháp cũng có xét
đến tình trạng hôn nhân trên thực tế của vợ chồng, Toà án sẽ xử cho ly hôn, nếu
tính tình của một ngƣời đã thay đổi đến mức không thể sống chung đƣợc nữa và
theo những dự đoán có lý nhất, không thể đƣợc khôi phục trong tƣơng lai. Bên
cạnh việc xác định về tình trạng đời sống chung tan vỡ, còn phải xét đến thời
gian sống riêng biệt của hai vợ chồng, Điều 237 BLDS Cộng hòa Pháp quy định
khoảng thời gian đó là 2 năm.
Nhƣ vậy, pháp luật của Pháp không quan tâm đến thực trạng của cuộc hôn
nhân mà chỉ dựa vào ý chí của các bên trong quan hệ, cái chính là thể hiện việc
đề cao cái tôi cá nhân. Quy định này khác với quy định về căn cứ ly hôn ở nƣớc
ta. Quan điểm của Nhà nƣớc ta cho phép vợ chồng có quyền đƣợc tự do ly hôn
khi có căn cứ xác định rằng cuộc hôn của họ là đã chết, sự tồn tại chỉ là bề ngoài,
hình thức. Căn cứ ly hôn theo pháp luật của nƣớc ta xuất phát từ bản chất của
quan hệ hôn nhân khi "tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài,
mục đích của hôn nhân không đạt đƣợc" thì cho ly hôn.
Nhƣ vậy, theo quy định của pháp luật một số nƣớc trên thế giới, ly hôn và
29
những căn cứ ly hôn mà nhà làm luật quy định phụ thuộc vào điều kiện kinh tế,
văn hóa tâm lý của mỗi nƣớc đặc biệt là sự phụ thuộc vào những thay đổi trong
đời sống xã hội. Do đó khi điều chỉnh vấn đề ly hôn nói riêng và vấn đề
HN&GĐ nói chung chúng ta phải để ý đến mặt xã hội của nó.
Kết luận chƣơng 1:
Nghiên cứu lý luận về căn cứ ly hôn nhận thấy căn cứ ly hôn là quy định
pháp luật quan trọng để Tòa án căn cứ vào đógiải quyết vụ án ly hôn. Pháp luật
nhà nƣớc ta từ thời kỳ phong kiến đã quy định về căn cứ ly hôn, qua mỗi thời kỳ
quy định về căn cứ ly hôn ngày càng hoàn thiện hơn. Từ năm 1959 đến nay, nhà
nƣớc ta quy định căn cứ ly hôn dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin:
phản ánh bản chất của cuộc hôn nhân đã tan vỡ, nghĩa là hôn nhân đã “chết”,
việc Tòa án xử cho ly hôn chỉ là việc công nhận một thực tế khách quan: Hôn
nhân không thể tồn tại đƣợc nữa. Trong khi đó, một số nƣớc trên thế giới quy
định căn cứ ly hôn dựa trên yếu tố lỗi. Tiếp thu quy định này, Luật HN&GĐ năm
2014 đã bổ sung yếu tố lỗi vào một trong những nguyên tắc giải quyết tài sản của
vợ chồng khi ly hôn, tạo cơ sở pháp lý cho Tòa án khi giải quyết việc ly hôn theo
30
yêu cầu của một bên.
CHƢƠNG 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CĂN CỨ LY HÔN THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2014
Trong quá trình hội nhập kinh tế thị trƣờng, xã hội có những biến đổi,
những biến đổi này tác động đến nhiều mặt của đời sống gia đình. Chuẩn mực
đạo đức của ngƣời vợ, ngƣời chồng trong gia đình có thể bị vi phạm bởi các tệ
nạn xã hội nhƣ nghiện rƣợu, ma túy, cờ bạc, bạo lực gia đình, ngoại tình…
Ngoài ra, vấn đề ứng xử giữa vợ và chồng, nuôi dạy con cái, kinh tế… là những
vấn đề tiềm ẩn nhất dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng. Từ đó dẫn đến tình trạng ly
hôn. Ly hôn xảy ra ở những cặp vợ chồng mà hôn nhân không còn thiết thực
nữa, cuộc sống hôn nhân bế tắc và mục đích của hôn nhân không đạt đƣợc nữa.
Ngăn cấm ly hôn là làm trái với pháp luật xã hội chủ nghĩa, là kéo dài tình trạng
đau khổ của cả ngƣời chồng và ngƣời vợ khi tình yêu thực sự không còn nữa.
Mặt khác, ly hôn là việc hệ trọng, ảnh hƣởng rất lớn tới lợi ích của con cái, xã
hội, và làm tan vỡ gia đình, cho nên pháp luật xã hội chủ nghĩa chỉ cho phép
quyền tự do ly hôn phù hợp với yêu cầu tiến bộ của xã hội, hợp với đạo đức xã
hội, chống mọi hiện tƣợng xin ly hôn tùy tiện, bừa bãi vì tƣ tƣởng tự do phóng
đãng, ích kỷ và lãng mạn, vì tiền tài, địa vị. Nhƣ đã phân tích ở Chƣơng 1, quan
điểm giải quyết ly hôn của Nhà nƣớc ta theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác-
Lênin: ly hôn chỉ là việc xác nhận một sự kiện: cuộc hôn nhân này là cuộc hôn
nhân đã chết, sự tồn tại của nó chỉ là bề ngoài và lừa dối. Đƣơng nhiên, không
phải sự tùy tiện của nhà lập pháp, cũng không phải là sự tùy tiện của những cá
nhân, mà chỉ bản chất của sự kiện mới quyết định đƣợc là cuộc hôn nhân đã chết
hoặc chƣa chết, bởi vì, nó chấm dứt phụ thuộc vào thực chất của vấn đề, chứ
31
không phải là nguyện vọng của các bên hữu quan.
Kế thừa các quy định về căn cứ ly hôn trong hệ thống pháp luật HN&GĐ
của Nhà nƣớc ta, Luật HN&GĐ năm 2014 không quy định căn cứ ly hôn riêng
biệt mà quy định tại Điều 55, Điều 56, về mặt câu chữ có thể hiểu có 04 căn cứ
ly hôn, 01 căn cứ áp dụng khi hai vợ, chồng thuận tình ly hôn và 03 căn cứ áp
dụng khi một bên yêu cầu ly hôn. Tuy nhiên, theo tác giả cần hiểu và áp dụng
căn cứ ly hôn là dù vợ chồng thuận tình ly hôn hay ly hôn do một bên yêu cầu,
với bất cứ lý do, nguyên nhân nào, nếu hòa giải không thành thì Tòa án cũng chỉ
đƣợc giải quyết cho vợ, chồng ly hôn khi có căn cứ hôn nhân đã lâm vào tình
trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân
không đạt đƣợc.
2.1. Căn cứ ly hôn trong trường hợp vợ, chồng thuận tình ly hôn
Điều 55 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định: "Trong trường hợp vợ chồng
cùng yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy hai bên thật sự tự nguyện ly hôn và đã thỏa
thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con
trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án công nhận
thuận tình ly hôn; nếu không thỏa thuận được hoặc có thỏa thuận nhưng không
bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án giải quyết việc ly hôn".
Theo quy định của điều luật này, vợ chồng thuận tình ly hôn thì cả vợ và
chồng phải cùng yêu cầu ly hôn. Vợ chồng đƣợc coi là thuận tình ly hôn đƣợc
thể hiện qua hai khía cạnh sau: Vợ chồng cùng thể hiện ý chí là mong muốn
đƣợc ly hôn và sự thể hiện ý chí phải thống nhất giữa hai bên vợ chồng. Thứ
nhất, vợ chồng cùng thể hiện ý chí là mong muốn ly hôn: đó là hai bên vợ chồng
cùng thể hiện ý chí muốn ly hôn vào cùng một thời điểm và đƣợc thể hiện bằng
32
đơn yêu cầu Tòa án giải quyết việc ly hôn, đây là quyền gắn liền với nhân thân
của vợ chồng, là đặc trƣng để phân biệt với trƣờng hợp ly hôn theo yêu cầu một
bên và ý chí là yếu tố quan trọng nhất trong trƣờng hợp thuận tình ly hôn.
Nguyên nhân có thể do cuộc sống vợ, chồng có nhiều mâu thuẫn, nhiều khúc
mắc, không có điểm tƣơng đồng, không giải quyết đƣợc dẫn đến mục đích của
hôn nhân không đạt đƣợc nên cùng mong muốn đƣợc ly hôn để có cuộc sống
mới thực sự hạnh phúc. Thứ hai, sự thể hiện ý chí phải thống nhất với ý chí của
hai bên vợ chồng: Đó phải là sự tự do lý trí, không bên nào bị cƣỡng ép, lừa dối.
Khoản 9 Điều 3 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định cƣỡng ép ly hôn là việc đe
dọa, uy hiếp tinh thần, hành hạ, ngƣợc đãi, yêu sách của cải hoặc hành vi khác để
buộc ngƣời khác phải ly hôn trái với ý muốn của họ. Vợ chồng chỉ đƣợc coi là tự
nguyện ly hôn nếu mỗi bên vợ, chồng đều không bị tác động bởi bên kia hay bất
kì bên nào khác khiến họ phải ly hôn trái với nguyện vọng của mình. Khoản e
Điều 5 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định về cấm các hành vi ảnh hƣởng đến chế
độ hôn nhân trong đó có “cƣỡng ép ly hôn, lừa dối ly hôn, cản trở ly hôn”.
Ngoài ra luật còn quy định ngƣời có hành vi vi phạm về cƣỡng ép ly hôn có thể
bị xử phạt hành chính theo quy định tại Điều 55 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP
ngày 12/11/2013 của Chính phủ quy định về hành vi cƣỡng ép ly hôn bị phạt
cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000đ đến 300.000đ. Thậm chí nặng hơn có thể bị
xử lý hình sự theo quy định tại Điều 181 BLHS năm 2015 quy định về tội cƣỡng
ép ly hôn đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt
cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 3
năm. Ví dụ nhƣ nhiều trƣờng hợp có thể do mâu thuẫn, xích mích mẹ chồng, em
chồng với nàng dâu hoặc do mẹ chồng không thích nàng dâu hoặc nàng dâu
chậm sinh con hoặc không sinh đƣợc con mà nhiều mẹ chồng thƣờng ép con trai
33
mình phải ly hôn với vợ…
Nhƣ vậy, theo quy định của Luật HN&GĐ năm 2014 trong trƣờng hợp hai
vợ chồng yêu cầu thuận tình ly hôn, thì ý chí tự nguyện của hai vợ chồng phải
bảo đảm thật sự nghiêm túc, chắc chắn, hiểu biết đƣợc hậu quả sau khi ly hôn,
không bị cƣỡng ép, không bị lừa dối, khi đó là căn cứ để Tòa án quyết định cho
vợ, chồng ly hôn. Việc cho ly hôn trong trƣờng hợp thuận tình này đối với Tòa
án không phải là dễ, bởi vì khó có thể định lƣợng khi chỉ dựa trên yếu tố tự
nguyện thật sự của hai vợ chồng nếu không xem xét đến tình trạng mâu thuẫn vợ
chồng đến đâu, mức độ ảnh hƣởng đến cuộc sống hôn nhân đến cấp độ nào và
gắn với việc thỏa thuận của họ đến đâu về việc chăm sóc, nuôi dƣỡng, giáo dục
con cái, phân chia tài sản sau khi ly hôn. Thực tế, có nhiều đôi vợ chồng yêu cầu
Tòa án giải quyết cho họ đƣợc ly hôn là do tình cảm hai vợ chồng bị rạn nứt do
một trong hai bên đã không làm tròn nghĩa vụ của mình với gia đình hay vì tự ái
cá nhân hoặc hiểu lầm trong quan hệ của vợ hoặc chồng…, chƣa đến mức độ
mâu thuẫn lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục
đích của hôn nhân không đạt đƣợc. Do vậy, thẩm phán cần phải sử dụng các biện
pháp nghiệp vụ, tiến hành điều tra, xác minh để làm rõ nguyên nhân, động cơ xin
ly hôn, tình trạng trầm trọng của hôn nhân để tiến hành hòa giải. Thông qua công
tác hòa giải, nhiều cặp vợ chồng đã rút đơn yêu cầu ly hôn, thông cảm, chia sẻ
cho nhau và đoàn tụ với nhau, khi đó Tòa án không phải giải quyết ly hôn và các
vấn đề về con cái, tài sản kéo theo.
Thêm vào đó, tại Điều 55 Luật HN&GĐ năm 2014, trong việc thuận tình
ly hôn, ngoài ý chí thật sự tự nguyện xin thuận tình ly hôn của vợ chồng, đòi hỏi
hai vợ chồng còn phải có sự thoả thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi
dƣỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở đảm bảo quyền lợi chính đáng của vợ
34
và con, xảy ra 02 trƣờng hợp sau:
+ Trƣờng hợp thứ nhất: hai bên đã thỏa thuận đƣợc việc chia tài sản, việc
trông nom, nuôi dƣỡng, chăm sóc, giáo dục con và sự thỏa thuận này đảm bảo
quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án ra Quyết định công nhận thuận
tình ly hôn. Qua thực tiễn nghiên cứu các trƣờng hợp thuận tình ly hôn cho thấy,
thông thƣờng các cặp vợ chồng thuận tình ly hôn thì tự thỏa thuận về việc chia
tài sản và nuôi con. Tuy nhiên, trên thực tế, có nhiều trƣờng hợp sự thỏa thuận
của vợ chồng về việc xác định khối tài sản chung và chia tài sản chung đó không
phù hợp với các quy định của pháp luật. Chẳng hạn, có trƣờng hợp vợ chồng có
tài sản chung, cũng đã tự thỏa thuận để chia cho một bên, nhƣng trƣớc tòa họ lại
khai rằng không có tài sản chung và Tòa án trong bản án cũng nhận định rằng
không có tài sản chung, nhƣ vậy việc Tòa án nhận định là không phù hợp với
thực tế, do đó không bảo vệ đƣợc quyền và lợi ích hợp pháp của các bên. Do
vậy, Tòa án cần hết sức cẩn trọng trong việc đánh giá thực chất các quan hệ nhân
thân giữa vợ chồng và xác định khối tài sản chung của vợ chồng trong việc giải
quyết các trƣờng hợp thuận tình ly hôn. Đối với việc chia tài sản chung của vợ
chồng, khi họ không tự thỏa thuận đƣợc mà yêu cầu Tòa án giải quyết thì Tòa
án cần quán triệt các nguyên tắc của việc chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn để
các quyết định của Tòa án về việc chia tài sản chung phù hợp với pháp luật, bảo
vệ đƣợc quyền, lợi ích hợp pháp của đƣơng sự.
Ví dụ số 1: Quyết định sơ thẩm số 26/2018/QĐST-HNGĐ ngày 20/3/2018
của Tòa án nhân dân huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội quyết định công nhận
thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đƣơng sự: Anh Vũ H1Q và chị Dƣơng
Thị H. Sự thỏa thuận của các đƣơng sự cụ thể nhƣ sau: Về con chung: có hai con
chung là cháu Vũ Đức G1 sinh ngày 27/4/2011 và cháu Vũ Kim Ngân sinh ngày
35
27/01/2014. Anh Q và chị H thỏa thuận giao hai cháu G1 và cháu Ngân cho chị
H nuôi cho đến khi hai cháu đủ 18 tuổi hoặc khi có quyết định khác của cơ quan
nhà nƣớc có thẩm quyền. Anh Q không phải cấp dƣỡng nuôi con cho đến khi có
yêu cầu mới. Anh Q có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai đƣợc cản
trở. Về tài sản chung, công sức, nợ: Anh chị đều không yêu cầu Tòa án giải
quyết. Căn cứ vào Điều 55, 57, 81, 82, 83 của Luật HN&GĐ năm 2014, căn cứ
vào biên bản ghi nhận sự tự nguyện ly hôn và hòa giải không thành về việc các
đƣơng sự đã thực sự tự nguyện ly hôn và thỏa thuận với nhau về việc giải quyết
toàn bộ vụ án về HN&GĐ, không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức
xã hội thì TAND huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội quyết định công nhận
thuận tình ly hôn của các đƣơng sự.
Nhƣ vậy, hai bên là anh Q và chị H đã tự nguyện thỏa thuận với nhau về
vấn đề tài sản, con cái. Liệu quyền và lợi ích giữa các bên đã thực sự đảm bảo
chƣa hay quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đƣơng
sự chỉ là hình thức, điều kiện hợp pháp để các bên ly hôn. Đây là băn khoăn
chung đối với rất nhiều trƣờng hợp khác, khi mà các đƣơng sự yêu cầu Tòa án
công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đƣơng sự, nhƣng bản chất
của vấn đề lại không đảm bảo đƣợc quyền và lợi ích của các bên. Đối với trƣờng
hợp tại phiên tòa các đƣơng sự đã thuận tình ly hôn, đa phần các bản án phân
tích nguyên nhân để chấp nhận cho ly hôn “ngắn”, “khái quát”, thậm chí không
cần phân tích mà xác định ngay rằng: “Hội đồng xét xử xét thấy hôn nhân của
ông A và bà B không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt đợc nên công
36
nhận sự thuận tình ly hôn của đương sự…”.
+ Trƣờng hợp thứ hai: hai bên không thỏa thuận đƣợc việc chia tài sản,
việc trông nom, nuôi dƣỡng, chăm sóc, giáo dục con hoặc có thỏa thuận nhƣng
việc thỏa thuận không đảm bảo đƣợc quyền lợi chính đáng của vợ và con. Trong
trƣờng hợp này, quan hệ vợ chồng bản chất đã tan vỡ, là trƣờng hợp chuyển hóa
từ thủ tục giải quyết việc dân sự sang vụ án dân sự do trong quá trình xuất hiện
tranh chấp cần giải quyết. Ngoài ra, trên thực tế còn xảy ra trƣờng hợp các bên
đã đồng thuận ly hôn và tự thỏa thuận về tài sản, con cái, tuy nhiên sau đó một
trong các bên đƣơng sự đã thay đổi thỏa thuậnvề việc phân chia tài sản hay việc
nuôi dƣỡng con cái và có đơn yêu cầu tòa án giải quyết thì Tòa án đình chỉ việc
công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn, Tòa án
thụ lý vụ án theo thủ tục dân sự chung quy định tại BLTTDS.
Về mặt thủ tục, Điều 396, 397 BLTTDS năm 2015 quy định thủ tục giải
quyết yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con và chia tài sản
khi ly hôn cụ thể nhƣ sau: vợ, chồng yêu cầu Tòa án công nhận thuận tình ly
hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn phải có đơn yêu cầu. Vợ, chồng
cùng yêu cầu Tòa án công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài
sản khi ly hôn phải ký tên hoặc điểm chỉ vào đơn yêu cầu. Kèm theo đơn yêu
cầu, ngƣời yêu cầu phải gửi tài liệu, chứng cứ chứng minh thỏa thuận về thuận
tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn là có căn cứ và hợp pháp.
Trong thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu, trƣớc khi tiến hành hòa giải để vợ
chồng đoàn tụ, khi xét thấy cần thiết, Thẩm phán có thể tham khảo ý kiến của cơ
quan quản lý nhà nƣớc về gia đình, cơ quan quản lý nhà nƣớc về trẻ em về hoàn
cảnh gia đình, nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn và nguyện vọng của vợ, chồng,
con có liên quan đến vụ án. Thẩm phán phải tiến hành hòa giải để vợ chồng đoàn
37
tụ, giải thích về quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng, giữa cha, mẹ và con, giữa
các thành viên khác trong gia đình, về trách nhiệm cấp dƣỡng và các vấn đề khác
liên quan đến HN&GĐ. Trƣờng hợp sau khi hòa giải, vợ chồng đoàn tụ thì Thẩm
phán ra quyết định đình chỉ giải quyết yêu cầu của họ. Nếu hòa giải đoàn tụ
không thành, Tòa án lập biên bản về việc đồng thuận ly hôn và hòa giải không
thành. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày lập biên bản, nếu vợ hoặc chồng hoặc
cả hai vợ chồng không thay đổi ý kiến và Viện kiểm sát không phản đối thì Tòa
án ra quyết định công nhận ly hôn mà không phải mở phiên tòa khi có đầy đủ
các điều kiện sau: Hai bên đã tự thỏa thuận đƣợc với nhau về việc phân chia
hoặc không chia tài sản; Hai bên đã tự thỏa thuận đƣợc với nhau về việc trông
nom, nuôi dƣỡng, giáo dục, chăm sóc con; Sự thỏa thuận của hai bên về tài sản
và con trong từng trƣờng hợp cụ thể này là bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ
và con. Quyết định công nhận thuận tình ly hôn có hiệu lực pháp luật ngay, các
bên không có quyền kháng cáo, Viện kiểm sát không có quyền kháng nghị theo
trình tự phúc thẩm. Ngƣợc lại, trong trƣờng hợp hòa giải tại Tòa án thiếu một
trong các điều kiện sau thì tòa án lập biên bản về việc hòa giải đoàn tụ không
thành: Hai bên không thỏa thuận đƣợc với nhau về việc phân chia hoặc không
chia tài sản; hoặc hai bên không thỏa thuận đƣợc với nhau về việc trông nom,
nuôi dƣỡng, giáo dục, chăm sóc con; Hoặc sự thỏa thuận của hai bên về tài sản
và con trong từng trƣờng hợp cụ thể này không bảo đảm quyền lợi chính đáng
của vợ và con. Trong đó nêu rõ những vấn đề hai bên không thỏa thuận đƣợc
hoặc có thỏa thuận đƣợc nhƣng không bảo đảm đƣợc quyền lợi chính đáng của
vợ và con, đồng thời tiến hành mở phiên tòa xét xử vụ án ly hôn theo thủ tục
chung.
Ngoài ra, trên thực tế, có nhiều trƣờng hợp các bên “giả tự nguyện ly hôn”
38
và “giả thỏa thuận ly hôn” nhằm lừa dối cơ quan có thẩm quyền vì một mục đích
nào đó. Việc ly hôn “để đạt mục đích khác mà không nhằm mục đích chấm dứt
hôn nhân” xem là hành vi ly hôn giả tạo và bị xử phạt hành chính. Khoản 15
Điều 3 Luật HN&GĐ 2014 có quy định về khái niệm ly hôn giả tạo: “Ly hôn giả
tạo là việc lợi dụng ly hôn để trốn tránh nghĩa vụ tài sản, vi phạm chính sách,
pháp luật về dân số hoặc để đạt được mục đích khác mà không nhằm mục đích
chấm dứt hôn nhân”. Hiện tƣợng ly hôn giả tạo nhằm mƣu cầu lợi ích riêng. Họ
tự nghĩ ra mâu thuẫn và lý do chính đáng nhƣng thực tế họ lại không mong muốn
chấm dứt quan hệ vợ chồng và giữa họ không hề có mâu thuẫn. Ví dụ, hiện nay,
rất nhiều đôi vợ chồng, khi vay tiền, chỉ có một trong hai ngƣời đứng ra ký giấy
vay nợ. Sau một thời gian do làm ăn thua lỗ, không có khả năng thanh toán nợ,
họ đã dùng kế hoạch ly hôn giả để nhằm mục đích trốn tránh nghĩa vụ trả nợ với
bên thứ ba. Khi ly hôn, họ thỏa thuận chia tài sản hết cho ngƣời không đứng ra
vay tiền, để ngƣời vay tiền không có điều kiện trả nợ, từ đó họ không phải trả nợ
và vẫn bảo toàn đƣợc số tài sản hiện có. Đây đƣợc coi là ly hôn giả tạo và là một
trong những hành vi bị cấm đƣợc quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 5 Luật
HN&GĐ năm 2014. Hành vi ly hôn giả tạo này sẽ bị xử phạt hành chính theo
khoản 35 Điều 1 Nghị định 67/2015/NĐ-CP sửa đổi Điều 48 Nghị định
110/2013/NĐ-CP nhƣ sau:“2. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000
đồng đối với một trong các hành vi sau:a) Lợi dụng việc ly hôn để trốn tránh
nghĩa vụ tài sản, vi phạm chính sách, pháp luật về dân số hoặc để đạt được mục
đích khác mà không nhằm mục đích chấm dứt hôn nhân”. Phạt hành chính chỉ là
một trong những hậu quả pháp lý đối với hành vi ly hôn giả tạo khi bị phát hiện.
Ly hôn giả nhƣng hậu quả để lại là thật, không phải ai cũng có thể đạt đƣợc kết
quả mong muốn nhƣ dự tính ban đầu bởi thủ thuật này là “con dao hai lƣỡi”. Rất
39
nhiều cặp vợ chồng đã phải gánh chịu những hậu quả không thể ngờ đến đƣợc
khi ly hôn giả tạo. Thậm chí nó khiến cho việc ly hôn giả tạo thành ly hôn thật.
Tuy nhiên vì cái lợi trƣớc mắt mà rất nhiều cặp vợ chồng vẫn tiếp tục hành vi vi
phạm này. Vì vậy, ngoài việc giáo dục, nâng cao nhận thức của mọi ngƣời, pháp
luật cũng cần sớm ban hành những quy định chặt chẽ hơn nữa để ngăn chặn hành
vi ly hôn giả tạo này. Do đó, nếu không điều tra kỹ thì Tòa án có thể kết luận
những trƣờng hợp “ly hôn giả tạo” đã đủ căn cứ để công nhận thuận tình ly hôn.
Trong những trƣờng hợp này Tòa án cần xử bác đơn xin thuận tình ly hôn của
đƣơng sự đồng thời phê phán, giáo dục đƣơng sự về những hành vi sai trái đó,
răn đe đƣơng sự.
Sau đây là một vụ án cụ thể vợ chồng ly hôn giả nhằm trốn tránh thi hành
án phạt tù, ví dụ số 2: Anh Luyện kết hôn với chị Sáng năm 1993, trên cơ sở tự
nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã M, huyện B. Vợ chồng có
02 con chung là cháu Lê Thị Huệ, sinh 1996 và cháu Lê Trung Tuyến 1998.
Ngày 24/4/2011 anh Luyện phạm tội đánh bạc và bị Tòa án nhân dân tỉnh A xử
phạt 24 tháng tù giam. Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, do anh Luyện muốn
đƣợc Tòa án cho hoãn thi hành án nên đã bàn bạc với chị Sáng xin ly hôn giả. Về
con chung, mỗi ngƣời nhận nuôi 01 con để tạo ra lý do anh là lao động chính duy
nhất trong gia đình. Ngày 07/5/2013, anh Luyện và chị Sáng làm đơn xin thuận
tình ly hôn và đã đƣợc Tòa án nhân dân huyện B giải quyết cho ly hôn tại Quyết
định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đƣơng sự số
73/2012/QĐST- HNGĐ ngày 16/5/2012. Từ lý do đó, anh Luyện đã đƣợc Tòa án
nhân dân huyện B cho hoãn thi hành án 03 lần, trong đó có 02 lần đƣợc hoãn với
lý do ngƣời bị kết án là lao động chính trong gia đình hiện đang nuôi con nhỏ và
chăm sóc mẹ già. Thông qua công tác kiểm tra liên ngành của cơ quan Công an-
40
Viện kiểm sát- Tòa án- Mặt trận tổ quốc tỉnh A trong công tác hoãn thi hành án
phạt tù tại Trại tạm giam Công an tỉnh A phát hiện trƣờng hợp hoãn thi hành án
phạt tù đối với trƣờng hợp anh Luyện là không có căn cứ. Tại kết luận kiểm tra
liên ngành số 999/KLKT- LN ngày 18/6/2013, đoàn kiểm tra yêu cầu Tòa án
huyện B ra quyết định thi hành án đối với anh Luyện theo quy định của pháp
luật. Trên cơ sở yêu cầu nêu trên, Tòa án nhân dân huyện B đã ra Quyết định thi
hành án phạt tù số 19/QĐ- CA ngày 01/3/2013, buộc anh Luyện phải thi hành án
phạt tù. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh A đã tiến hành kiểm tra, xác minh việc ly
hôn của vợ chồng anh Luyện, chị Sáng. Kết quả điều tra, xác minh: Trƣớc và sau
khi ly hôn anh Luyện, chị Sáng không có mâu thuẫn, vợ chồng vẫn yêu thƣơng
nhau, cùng ăn ở, sinh hoạt một nhà, chung sống hòa thuận, cùng nhau nuôi
dƣỡng và chăm sóc con cái, mẹ già. Song, vợ chồng đã tạo ra việc xin ly hôn giả
với mục đích là để cho anh Luyện đƣợc hoãn thi hành án. Việc xin ly hôn của vợ
chồng anh Luyện, chị Sáng và việc giải quyết cho vợ chồng thuận tình ly hôn
của Tòa án nhân dân huyện B nêu trên đã vi phạm quy định tại khoản 2 Điều 4
và khoản 1 Điều 89 Luật HN&GĐ năm 2000 (nay là khoản 2 Điều 5 và khoản 1
Điều 56 Luật HN&GĐ năm 2014). Sau khi phát hiện đƣợc vi phạm nêu trên,
ngày 17 tháng 9 năm 2013 Viện kiểm sát nhân dân tỉnh A đã ra quyết định kháng
nghị giám đốc thẩm. Tại Quyết định giám đốc thẩm số 01/2014/QĐ- UBTP ngày
24/02/2014, Ủy ban thẩm phán Tòa án nhân dân tỉnh A đã hủy toàn bộ Quyết
định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đƣơng sự nêu trên,
giao hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại theo quy định của pháp
luật [43, tr.59].
Thông qua vụ án trên cho thấy, khi thực hiện công tác kiểm sát việc giải
quyết các vụ án HN&GĐ, cán bộ, Kiểm sát viên cần lƣu ý phát hiện các sai
41
phạm của Tòa án trong việc giải quyết cho đƣơng sự ly hôn trái pháp luật, để
thực hiện việc kiến nghị, kháng nghị. Ly hôn vốn là biện pháp cuối cùng cho
những cuộc hôn nhân không thể hàn gắn, nhƣng hiện nay ly hôn giả tạo đang trở
thành cứu tinh cho nhiều cặp vợ chồng để mƣu cầu lợi ích vật chất cho gia đình
mình nhƣ tẩu tán tài sản khi thanh toán nợ, xuất ngoại, xuất khẩu lao động, thậm
chí có cả trƣờng hợp để đƣợc sinh con thứ ba, hoãn thi hành án phạt tù…
Tóm lại, căn cứ ly hôn trong trƣờng hợp thuận tình ly hôn theo quy định
của Luật HN&GĐ năm 2014 là sự tự nguyện ly hôn thực sự của vợ chồng, Tòa
án cần tôn trọng sự thuận tình của vợ chồng, vợ hoặc chồng không có nghĩa vụ
phải chứng minh hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không
thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt đƣợc. Mà trên cơ sở tự nguyện ly
hôn thực sự của vợ, chồng, Tòa án công nhận thuận tình ly hôn. Theo quan điểm
của tác giả, vấn đề xác định căn cứ ly hôn là sự tự nguyện ly hôn của các bên rất
khó để xác định sự tự nguyện ly hôn thực sự. Nhƣ đã phân tích ở phần trên,
nhiều trƣờng hợp có thể chỉ là mâu thuẫn nhỏ nhặt, tự ái, sĩ diện hoặc có thể là ly
hôn giả tạo của các cặp vợ, chồng. Bởi vậy, Tòa án cần đƣa ra các quyết định
chính xác, vẫn cần dựa trên nguyên tắc xác định tình trạng trầm trọng của hôn
nhân, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt đƣợc
để quyết định cho ly hôn hay không, qua đó bảo vệ hạnh phúc, quyền và lợi ích
hợp pháp của các bên, của gia đình và xã hội.
2.2. Căn cứ ly hôn trong trường hợp ly hôn theo yêu cầu của của một
bên
2.2.1. Trường hợp có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình
42
hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng
Đây là trƣờng hợp ly hôn theo yêu cầu của một bên vợ hoặc chồng. Khoản
1 Điều 56 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định: “Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly
hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu
có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm
trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm
trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt
đƣợc”. Quyền yêu cầu giải quyết ly hôn chỉ bị hạn chế đối với ngƣời chồng trong
trƣờng hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dƣới 12 tháng tuổi
đƣợc quy định tại Khoản 3 Điều 51 Luật HN&GĐ năm 2014.
Trƣớc tiên, khi có yêu cầu ly hôn của vợ hoặc chồng, Toà án phải tiến
hành điều tra và hoà giải, nếu hoà giải không thành thì Toà án cần xác định tình
trạng của quan hệ hôn nhân, xem có căn cứ ly hôn không để giải quyết. Việc giải
quyết ly hôn cần phải chính xác. Nếu xét xử đúng, kết quả đó sẽ phù hợp với
nguyện vọng của các bên, bảo vệ quyền và lợi ích của các thành viên trong gia
đình. Ngƣợc lại, nếu việc giải quyết không chính xác sẽ dẫn tới tan vỡ hạnh phúc
gia đình, phá huỷ một cuộc hôn nhân còn có thể cứu vãn đƣợc và gây ra hậu quả
không đáng có.
Thứ nhất, đối với trường hợp có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo
lực gia đình.
Luật HN&GĐ năm 2014 đã quy định hành vi bạo lực gia đình là căn cứ để
Tòa án giải quyết cho ly hôn. Tình trạng bạo lực trong gia đình ngày càng gia
tăng và thể hiện tính chất nghiêm trọng của nó. Bạo lực giữa ngƣời chồng đối
với ngƣời vợ trong gia đình có thể thấy là dạng bạo lực phổ biến nhất trong gia
43
đình hiện nay. Hành vi ngƣời chồng gây ra chủ yếu và lớn nhất là bạo lực về thể
chất, đây là dạng dễ nhận thấy và bị lên án mạnh mẽ nhất. Sở dĩ đa phần ngƣời
đàn ông sử dụng nắm đấm để dạy vợ là do họ không nhận thức đƣợc hành vi của
mình là vi phạm pháp luật. Tuy nhiên không phải tất cả hành vi bạo lực của
ngƣời chồng đều là bạo lực về thể chất mà có những lúc, họ dùng nhiều cách
khác để gây ra những tổn thƣơng về tâm lý cho ngƣời vợ nhƣ mắng mỏ, chửi
bới, xúc phạm danh dự… Bên cạnh đó, trong xã hội ngày nay, hiện tƣợng ngƣời
vợ sử dụng bạo lực đối với ngƣời chồng cũng không phải là hiếm. Không chỉ
dừng lại ở lời lẽ chửi bới, những cách ứng xử thô bạo mà họ còn trực tiếp gây ra
những tổn thƣơng về thể chất hoặc tính mạng của ngƣời chồng. Tình trạng bạo
lực trong gia đình xảy ra do nhiều nguyên nhân khác nhau: có thể nguyên nhân
thuộc về nhận thức, do xã hội chúng ta vẫn tồn tại những quan niệm về định kiến
giới, tƣ tƣởng trọng nam khinh nữ, cho rằng nam giới có quyền lực và có quyền
“dạy” vợ; hoặc là cộng đồng và xã hội vẫn coi bạo lực gia đình là chuyện riêng
của gia đình mà không can thiệp kịp thời, chƣa tạo ra dƣ luận rộng rãi; hoặc là
những nguyên nhân về kinh tế và các tệ nạn xã hội nhƣ nghiện rƣợu, cờ bạc, ma
túy, mại dâm đƣợc coi là những nguyên nhân cơ bản… Hậu quả của bạo lực gia
đình là một nỗi đau đặc biệt nghiêm trọng, nó không chỉ gây tổn thƣơng đến
cuộc sống, sức khỏe, tinh thần, danh dự của ngƣời vợ hoặc ngƣời chồng mà còn
ảnh hƣởng đến con cái trong gia đình, vi phạm tới các chuẩn mực đạo đức xã
hội, tiếp tay cho sự gia tăng các tệ nạn xã hội nhƣ mại dâm, ma túy, ngƣời lang
thang, tội phạm vị thành niên, nạn buôn bán trẻ em và phụ nữ, bạo lực gia đình
còn ảnh hƣởng xâu xa đến toàn xã hội… Đa phần bạo lực trong gia đình dẫn đến
tình trạng vợ chồng ly hôn, có trƣờng hợp dẫn đến án mạng.
Khoản 2 Điều 1 Luật phòng, chống bạo lực gia đình số 02/2007/QH12 quy
44
định về khái niệm bạo lực gia đình: "2. Bạo lực gia đình là hành vi cố ý của
thành viên gia đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh
thần, kinh tế đối với thành viên khác trong gia đình". Tại khoản 1 Điều 2 Luật
phòng chống bạo lực gia đình năm 2007 liệt kê cụ thể những hành vi đƣợc coi là
hành vi bạo lực gia đình: Hành hạ, ngƣợc đãi, đánh đập hoặc hành vi cố ý khác
xâm hại đến sức khoẻ, tính mạng; Lăng mạ hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm
danh dự, nhân phẩm; Cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thƣờng xuyên về tâm lý
gây hậu quả nghiêm trọng; Ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan
hệ gia đình giữa ông, bà và cháu, giữa cha, mẹ và con, giữa vợ và chồng, giữa
anh, chị, em với nhau; Cƣỡng ép quan hệ tình dục; Cƣỡng ép tảo hôn; Cƣỡng ép
kết hôn, ly hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ; Chiếm đoạt, huỷ hoại,
đập phá hoặc có hành vi khác cố ý làm hƣ hỏng tài sản riêng của thành viên khác
trong gia đình hoặc tài sản chung của các thành viên gia đình; Cƣỡng ép thành
viên gia đình lao động quá sức, đóng góp tài chính quá khả năng của họ; Kiểm
soát thu nhập của thành viên gia đình nhằm tạo ra tình trạng phụ thuộc về tài
chính; Có hành vi trái pháp luật buộc thành viên gia đình ra khỏi chỗ ở.
Nhƣ vậy, gia đình là nơi trú ngụ của hạnh phúc, cái nôi nuôi dƣỡng và
giáo dục trẻ thơ, nơi trở về sau mỗi lần vấp ngã đối với mỗi con ngƣời. Nhƣng
trong nhiều trƣờng hợp, bạo lực đang trở thành một trong những nguy cơ biến
gia đình thành “địa ngục trần gian”. Dù ở bất cứ nơi đâu, trong bất cứ hoàn cảnh
nào, bạo lực gia đình không chỉ để lại hậu quả về thể chất, tinh thần mà còn về
mặt kinh tế - xã hội. Bạo lực gia đình có đối tƣợng tác động trực tiếp là vợ hoặc
chồng hậu quả thƣờng dẫn đến ly hôn, trong một số trƣờng hợp, hành vi bạo lực
gia đình tác động đến thành viên khác trong gia đình cũng là nguyên nhân dẫn
đến mâu thuẫn vợ chồng, và là nguyên nhân dẫn đến ly hôn giữa vợ, chồng, ví
45
dụ nhƣ bố mẹ chồng bạo lực với con dâu hoặc bố hoặc mẹ bạo lực với con cái…
Thứ hai, đối với trường hợp có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi vi
phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.
Để xác định có việc vi phạm quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng dẫn đến
việc một bên yêu cầu ly hôn hay không, cần căn cứ vào quy định của pháp luật
về HN&GĐ và pháp luật khác có quy định về quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng.
Khái quát chung, vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ chồng bao gồm
hai dạng chính là vi phạm quyền, nghĩa vụ về nhân thân và vi phạm quyền, nghĩa
vụ về tài sản và quy định về đại diện giữa vợ, chồng.
Một là, vi phạm quyền và nghĩa vụ về nhân thân giữa vợ, chồng: Quyền
nhân thân là một trong những quyền dân sự cơ bản. Từ sự kiện kết hôn, quyền và
nghĩa vụ về nhân thân của vợ, chồng phát sinh. Quyền, nghĩa vụ về nhân thân
giữa vợ, chồng không chỉ đƣợc quy định tại Luật HN&GĐ mà còn đề cập trong
Hiến pháp, BLDS và các văn bản pháp luật khác nên có phạm vi rất rộng. Thông
thƣờng, những vi phạm sau đây là vi phạm nghiêm trọng về nhân thân giữa vợ
chồng:
+ Vợ hoặc chồng có hành vi phân biệt đối xử, gây bất bình đẳng nghiêm
trọng về quyền và nghĩa vụ trong gia đình nhƣ việc ăn ở, chăm sóc, nuôi dƣỡng
con cái, quan hệ với gia đình, họ hàng hai bên; phân biệt đối xử, cản trở vợ hoặc
chồng thực hiện quyền, nghĩa vụ của công dân nhƣ chọn nghề nghiệp, việc làm,
học tập, nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn nghiệp vụ, tham gia hoạt động
chính trị, kinh tế, văn hóa, tôn giáo, tín ngƣỡng, tham gia công tác xã hội…;
+ Vợ hoặc chồng ngoại tình, không chung thủy, chung sống nhƣ vợ, chồng
với ngƣời khác, bỏ mặc không quan tâm chăm sóc lẫn nhau, không cùng nhau
46
chia sẻ và thực hiện công việc gia đình; Vợ hoặc chồng không chung sống với
nhau mà không có lý do chính đáng hoặc không có thỏa thuận gì khác. Mục đích
kết hôn nhằm xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc. Để đạt mục đích kết
hôn, vợ chồng phải thực sự chung sống với nhau, cũng không buộc phải thƣờng
xuyên, liên tục suốt thời kỳ hôn nhân nhƣng nếu không chung sống một thời gian
dài mà không có lý do chính đáng và không có thỏa thuận với nhau sẽ ảnh hƣởng
đến việc thực hiện quyền, nghĩa vụ giữa vợ chồng và những vấn đề pháp lý
khác..;
+ Vợ hoặc chồng ràng buộc việc lựa chọn nơi cƣ trú mà không có thỏa
thuận với nhau. Bên cạnh nghĩa vụ chung sống thì vợ chồng có quyền thỏa thuận
lựa chọn nơi cƣ trú phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh chung sống và thuận lợi
cho việc duy trì mối quan hệ vợ chồng; trƣờng hợp bên vợ hoặc bên chồng ràng
buộc về nơi cƣ trú của bên kia mà không có sự bàn bạc, đồng ý hoặc hai bên thỏa
thuận với nhau là đã vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ hoặc chồng;
+ Vợ hoặc chồng có hành vi làm ảnh hƣởng nghiêm trọng danh dự, nhân
phẩm, uy tín của nhau. Danh dự, nhân phẩm, uy tín là quyền và nghĩa vụ nhân
thân, đƣợc pháp luật bảo vệ;
+ Vợ hoặc chồng có hành vi xâm phạm quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo
của nhau.
Hai là, vi phạm quy định về đại diện giữa vợ, chồng và chế độ tài sản của
vợ, chồng bao gồm:
+ Vợ hoặc chồng có hành vi vi phạm quy định về đại diện giữa vợ, chồng
nhƣ tự ý đứng ra xác lập, thực hiện, chấm dứt giao dịch liên quan quyền lợi,
47
nghĩa vụ của cả vợ chồng, gia đình mà không đƣợc sự đồng ý của bên kia làm
ảnh hƣởng đến quyền lợi, nghĩa vụ, lợi ích hợp pháp của bên không đứng ra giao
dịch hoặc của cả gia đình;
+ Vợ hoặc chồng từ chối làm ngƣời đại diện cho bên kia mà không có lý
do chính đáng trong những trƣờng hợp pháp luật quy định để bảo đảm quyền và
lợi ích hợp pháp của bên kia;
+ Vợ hoặc chồng vi phạm quy định về bình đẳng quyền, nghĩa vụ trong
việc tạo lập, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung, phân biệt giữa lao
động có thu nhập với lao động trong gia đình, đƣa tài sản chung vào kinh doanh
mà không có thỏa thuận bằng văn bản, không đóng góp tài sản, thu nhập để đáp
ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình, không thực hiện giao dịch nhằm
đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình;
+ Vợ hoặc chồng vi phạm quy định về đăng ký quyền sở hữu, quyền sử
dụng tài sản chung, không ghi tên của cả hai vợ chồng đối với tài sản chung pháp
luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng mà không có thỏa
thuận khác;
+ Vợ hoặc chồng vi phạm nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng, về
trách nhiệm liên đới của vợ, chồng.
Luật HN&GĐ năm 2014 quy định vợ hoặc chồng có hành vi bạo lực gia
đình hoặc có hành vi vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng chỉ
đủ điều kiện cho ly hôn khi mức độ, hệ quả là làm cho hôn nhân lâm vào tình
trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân
không đạt đƣợc. Hiện nay, chƣa có văn bản hƣớng dẫn cụ thể để đánh giá hành
vi bạo lực gia đình hay vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ chồng đến
48
mức độ nào thì đủ cơ sở xác định là làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm
trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt đƣợc.
Tại Nghị quyết số: 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao, căn cứ vào những dấu hiệu của điều kiện cần, mức
độ tình trạng mâu thuẫn đƣợc coi là làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm
trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt đƣợc, cụ
thể nhƣ sau:
“a.1. Đƣợc coi là tình trạng của vợ chồng trầm trọng khi:
- Vợ, chồng không thƣơng yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau nhƣ
ngƣời nào chỉ biết bổn phận ngƣời đó, bỏ mặc ngƣời vợ hoặc ngƣời chồng muốn
sống ra sao thì sống, đã đƣợc bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức,
nhắc nhở, hoà giải nhiều lần.
- Vợ hoặc chồng luôn có hành vi ngƣợc đãi, hành hạ nhau, nhƣ thƣờng
xuyên đánh đập, hoặc có hành vi khác xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm và uy
tín của nhau, đã đƣợc bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, đoàn thể
nhắc nhở, hoà giải nhiều lần.
- Vợ chồng không chung thuỷ với nhau nhƣ có quan hệ ngoại tình, đã
đƣợc ngƣời vợ hoặc ngƣời chồng hoặc bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ
chức, nhắc nhở, khuyên bảo nhƣng vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại tình;
a.2. Để có cơ sở nhận định đời sống chung của vợ chồng không thể kéo
dài đƣợc, thì phải căn cứ vào tình trạng hiện tại của vợ chồng đã đến mức trầm
trọng nhƣ hƣớng dẫn tại điểm a.1 mục 8 này. Nếu thực tế cho thấy đã đƣợc nhắc
nhở, hoà giải nhiều lần, nhƣng vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại tình hoặc vẫn tiếp
tục sống ly thân, bỏ mặc nhau hoặc vẫn tiếp tục có hành vi ngƣợc đãi hành hạ,
xúc phạm nhau, thì có căn cứ để nhận định rằng đời sống chung của vợ chồng
49
không thể kéo dài đƣợc.
a.3. Mục đích của hôn nhân không đạt đƣợc là không có tình nghĩa vợ
chồng; không bình đẳng về nghĩa vụ và quyền giữa vợ, chồng; không tôn trọng
danh dự, nhân phẩm, uy tín của vợ, chồng; không tôn trọng quyền tự do tín
ngƣỡng, tôn giáo của vợ, chồng; không giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau phát
triển mọi mặt”.
Khi thực tế quan hệ vợ chồng ở trong “tình trạng trầm trọng, đời sống
chung không thể kéo dài” thì thƣờng dẫn tới hậu quả làm cho “mục đích của hôn
nhân không đạt được”. Mục đích của hôn nhân là tình yêu giữa nam và nữ muốn
chung sống với nhau suốt đời, cùng nhau xây dựng gia đình hạnh phúc, bền vững
trên cơ sở giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Mục đích của hôn nhân nói chung xuất
phát từ bản chất của hôn nhân. Toà án không thể dựa vào mục đích của hai ngƣời
kết hôn mà xem xét có đạt đƣợc hay không để giải quyết ly hôn. Phần lớn mục
đích của nam và nữ trƣớc khi kết hôn là hƣớng tới xây dựng gia đình hạnh phúc,
bền vững nhƣng cũng có nhiều cuộc hôn nhân đƣợc xác lập bắt đầu từ những
mục đích khác nhau. Dù cho họ từng kết hôn với mục đích nào đi chăng nữa thì
mục đích của hôn nhân bền vững, hạnh phúc vẫn là tiêu chuẩn cao nhất mà bất
kỳ ai kết hôn cũng hƣớng tới. Tuy nhiên, mục đích của vợ hay chồng đôi khi
cũng ảnh hƣởng tới cuộc sống gia đình nếu nhƣ nó không đạt đƣợc sau khi kết
hôn. Mục đích của hai ngƣời không phải bao giờ cũng giống nhau. Hôn nhân có
thể đem đến cho ngƣời này nhƣng lại không làm thoả mãn mục đích của ngƣời
kia hoặc cả hai ngƣời. Vì vậy, điều cần thiết là phải hiểu đƣợc mục đích của hôn
nhân. Nhà làm luật ở đây muốn nói đến mục đích cốt lõi của hôn nhân là xây
dựng gia đình hạnh phúc, bền vững. Mục đích của hôn nhân dƣới chế độ xã hội
chủ nghĩa là nhằm xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền
50
vững. Tờ trình về dự luật HN&GĐ năm 1959 của Chính phủ trƣớc Quốc hội đã
chỉ rõ: “Mục đích của hôn nhân trong chế độ ta là xây dựng những gia đình
hạnh phúc, dân chủ và hòa thuận, trong đó mọi người thương yêu, tương trợ,
giúp đỡ nhau cùng tiến bộ và bảo đảm cho nòi giống được lành mạnh, tương lai
con cái được tốt đẹp, cho xã hội được phát triển thịnh vượng, và làm cho mọi
người trong gia đình đều phấn khởi lao động sản xuất, cùng nhau cải thiện đời
sống và kiến thiết Tổ quốc” [21, tr. 260]. Do vậy, khi mục đích hôn nhân “không
đạt được” thì quan hệ hôn nhân thƣờng có tác động ngƣợc lại. Khi đó chấm dứt
hôn nhân đƣợc giải quyết bằng việc ly hôn.
Ví dụ số 3: Bản án số 09/2018/HNGĐ-ST ngày 30/3/2018 của TAND
huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội: Chị Cấn Thị M và anh Dƣơng Văn N kết
hôn hợp pháp, anh chị có làm thủ tục đăng ký kết hôn tại xã P-T, huyện P, thành
phố Hà Nội vào ngày 17/02/2000. Trong quá trình chung sống, vợ chồng anh chị
chung sống hạnh phúc đƣợc một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân
mâu thuẫn là do anh N thƣờng xuyên uống rƣợu và về bạo hành mẹ con chị M.
Việc mâu thuẫn giữa chị M và anh N là có thật, anh chị đã sống ly thân từ nhiều
năm nay. Tuy anh N không đồng ý ly hôn nhƣng không chấp hành giấy triệu tập
của Tòa án, không đến Tòa án để tham gia tố tụng cũng nhƣ không có biện pháp
gì để khắc phục mâu thuẫn. Các con của chị M và anh N cũng trình bày về việc
ba mẹ con chị M thƣờng xuyên bị anh N uống rƣợu say rồi đánh đập. Điều này
cho thấy mâu thuẫn vợ chồng đã lâm vào trầm trọng, đời sống chung của vợ
chồng không thể kéo dài vì mục đích của hôn nhân không đạt đƣợc nên căn cứ
Điều 51, 56 Luật HN&GĐ Tòa án chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị N.
Nhận định của Tòa án trong bản án trên là hoàn toàn chính xác, khi mà
mâu thuẫn, bạo lực gia đình xảy ra chỉ sau một thời gian ngắn kể từ khi hai
51
ngƣời kết hôn, bạo lực có xu hƣớng ngày càng gia tăng và nếu tiếp tục duy trì
quan hệ hôn nhân này sẽ ảnh hƣởng xấu và nguy hiểm cho chị N và các con của
chị.
Ví dụ số 4: Bản án số 20/2017/HNGĐ-ST ngày 23/8/2017 của TAND
huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội: Chị Phùng Thị N và anh Nguyễn Đăng T
kết hôn hợp pháp vào ngày 14/7/2014. Ngay từ những ngày đầu chung sống
cùng nhau giữa anh T và chị N đã có những bất đồng về quan điểm sống nên vợ
chồng xảy ra mâu thuẫn cãi nói nhau, trong những lúc bực tức nhƣ vậy thì anh T
đã đánh chị N nên nhiều lần chị N phải về nhà bố mẹ đẻ ở, lần cuối cùng chị bỏ
đi vào tháng 4/2017, từ đó đến nay chị N và anh T không ai quan tâm đến ai nữa.
Quá trình giải quyết vụ án cũng nhƣ tại phiên tòa, chị N xác định tình cảm vợ,
chồng không còn, không thể hàn gắn để sống chung cùng nhau đƣợc nên đề nghị
Tòa án giải quyết cho ly hôn. Phía anh T cũng xác định không còn tình cảm với
chị N nên không thể tồn tại cuộc sống chung cùng chị N. Điều này cho thấy mâu
thuẫn vợ chồng đã lâm vào trầm trọng, đời sống chung của vợ chồng không thể
kéo dài vì mục đích của hôn nhân không đạt đƣợc nên căn cứ Điều 51, 56 Luật
HN&GĐ Tòa án chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị N.
Nhận định của Tòa án trong bản án trên là hoàn toàn chính xác, khi mà
mâu thuẫn giữa hai bên xảy ra ngay từ những ngày đầu hai ngƣời kết hôn, dần dà
để lâu mâu thuẫn gia tăng, hai bên bất đồng quan điểm, ban đầu cãi nhau, mắng
mỏ, có lời lẽ xúc phạm sau sẽ dẫn đến bạo lực gia đình, vì cuộc hôn nhân này cả
hai bên không có tình yêu thƣơng, không có sự thông cảm, thấu hiểu và nhƣờng
nhịn nhau, nếu tiếp tục quan hệ hôn nhân thì sẽ chỉ gây đau khổ kéo dài cho cả
hai bên, và làm tổn thƣơng con cái, về lâu dài còn ảnh hƣởng đến nhận thức và
52
đạo đức của con cái.
Ví dụ số 5: Bản án số 08/2018/HNGĐ-ST ngày 28/5/2018 của TAND
huyện Đan Phƣợng, thành phố Hà Nội: Chị Nguyễn Thị B và anh Đào Văn V
sống chung với nhau từ năm 2012, tuy nhiên đến ngày 6/5/2017 hai bên đã đăng
ký kết hôn tại ủy ban nhân dân xã Th, huyện Đ, thành phố Hà Nội nên xác định
quan hệ hôn nhân giữa chị B và anh V là hợp pháp. Xét thời gian chị B và anh V
có khoảng thời gian sống chung cùng nhau khoảng 5 năm, tuy thời gian chung
sống không dài, nhƣng giữa anh chị thƣờng xuyên có mâu thuẫn, chị B thƣờng
xuyên bỏ về nhà bố mẹ đẻ để ở. Từ tháng 6/2017 đến nay, chị B đã không về
sống cùng anh V nữa, vợ chồng sống ly thân và không quan tâm gì đến nhau
nữa. Điều này cho thấy mâu thuẫn vợ chồng đã lâm vào trầm trọng, đời sống
chung của vợ chồng không thể kéo dài vì mục đích của hôn nhân không đạt đƣợc
nên căn cứ Điều 51, 56 Luật HN&GĐ Tòa án chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của
chị B.
Qua bản án trên, nhận thấy nhận định của tòa án cho chị B đƣợc ly hôn với
anh V chƣa đảm bảo, bởi lẽ, tuy hai bên có mâu thuẫn, nhƣng chƣa lớn, cần có
thời gian để hai bên suy nghĩ lại và hàn gắn lại mối quan hệ. Cuộc hôn nhân này
hoàn toàn có thể còn cứu vãn, gia đình có thể đoàn tụ, không bị chia ly cha mẹ,
con cái và tòa án không phải giải quyết vấn đề tài sản và con cái kéo theo.
Ví dụ số 6: Bản án số 19/2017/HNGĐ-ST ngày 26/9/2017 của TAND
huyện Đan Phƣợng, thành phố Hà Nội: Chị Nguyễn Thị H và anh Đỗ Mạnh H
sống chung với nhau từ năm 2003, sau đó hai bên kết hôn tự nguyện và đăng ký
tại thị trấn P, huyện Đ, thành phố Hà Nội nên xác định là hôn nhân hợp pháp.
Sau khi kết hôn vợ chồng anh H và chị H chung sống cùng gia đình. Tình cảm
vợ chồng trong cuộc sống chung không có hạnh phúc. Chị H cho rằng ngay sau
53
khi tổ chức cƣới thì vợ, chồng đã phát sinh mâu thuẫn, do anh H sử dụng ma túy
và phải đi chấp hành án phạt tù nhiều năm. Khi chị đến trại thăm anh thì anh
không một lời động viên, an ủi, không biết chị phải làm lụng vất vả nuôi con mà
còn đòi hỏi chị chu cấp tiền và quà. Nay chị H xét thấy tình cảm không còn và
xin đƣợc ly hôn với anh H. Phía anh H thừa nhận do phải đi chấp hành án phạt tù
nhiều năm nên anh không thể quan tâm, chăm lo cho hạnh phúc của chị H và các
con đƣợc. Anh cũng xác định tình cảm vợ chồng không còn nên đồng ý ly hôn.
Xét thấy cả hai bên đều thừa nhận cuộc sống chung không có hạnh phúc, tình
cảm không còn, mục đích của hôn nhân không đạt đƣợc nên cần áp dụng Điều
51, 56 Luật HN&GĐ chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh H và chị H là phù hợp.
Qua bản án trên, nhận thấy nhận định của Tòa án là hoàn toàn đúng đắn.
Khi mà một bên vi phạm pháp luật, không thực hiện đƣợc nghĩa vụ của vợ hoặc
chồng thì mục đích của hôn nhân không đạt đƣợc. Cần thiết cho ly hôn để đảm
bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bên còn lại.
Trong thực tiễn có những trƣờng hợp cùng là hành vi ngoại tình nhƣng
khi hội đồng xét xử các cấp áp dụng pháp luật thì không giống nhau.
Ví dụ số 7: Tại bản án số 07/2017/HNGĐ-ST ngày 28/4/2017 của TAND
quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội: Anh Nguyễn Danh C và chị Nguyễn Thị
Mai T kết hôn ngày 14/5/1998 tại Ủy ban nhân dân phƣờng Ngọc Hà, quận Ba
Đình, thành phố Hà Nội trên cơ sở tự nguyện. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống
hạnh phúc cho đến năm 2007 thì bắt đầu nảy sinh mâu thuẫn. Theo anh C
nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng quan điểm sống bất đồng, không tìm
đƣợc tiếng nói chung trong cuộc sống và công việc. Hai vợ chồng sống ly thân từ
năm 2008 đến nay. Trong quá trình mâu thuẫn, gia đình hai bên đã tiến hành hòa
54
giải nhiều lần nhƣng không có kết quả. Năm 2013, anh đã từng nộp đơn xin ly
hôn nhƣng sau đó đã rút đơn để hòa giải mâu thuẫn. Nay anh xác định tình cảm
vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn. Chị T không đồng ý
xin ly hôn vì lý do ly hôn của anh C không chính đáng, anh C có quan hệ bất
chính với ngƣời phụ nữ khác, chị vẫn còn tình cảm với anh C nên không đồng ý
ly hôn, chị mong hòa giải đoàn tụ để chăm lo cho con cái và sự nghiệp của vợ
chồng. Xét thấy mục đích của hôn nhân không đạt đƣợc nên căn cứ Điều 51, 56
Luật HN&GĐ, TAND quận Bắc Từ Liêm chấp nhận đơn xin ly hôn của anh C.
Tại Bản án phúc thẩm số 70/2018/HNGĐ-PT ngày 10/5/2018 của TAND thành
phố Hà Nội nhận định: Tuy mâu thuẫn vợ chồng anh chị trên thực tế là có,
nhƣng tại phiên tòa chị T vẫn thể hiện rằng còn tình cảm với anh C, bày tỏ
nguyện vọng tha thiết xin đoàn tụ để hàn gắn, nên Tòa án cũng tạo điều kiện để
hai bên đƣơng sự có thời gian cải thiện quan hệ vợ chồng, do đó sửa bản án dân
sự sơ thẩm theo hƣớng không chấp nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn.
Ngoại tình là một trong những hành vi vi phạm nghĩa vụ chung thủy giữa
vợ chồng, là hành vi trái với đạo đức xã hội. Luật HN&GĐ năm 2014 quy định:
Cấm ngƣời đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống nhƣ vợ chồng với
ngƣời khác hoặc ngƣời chƣa có vợ, chƣa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống
nhƣ vợ chồng với ngƣời đang có chồng, có vợ. Trƣớc đây, theo Sắc lệnh số
159/SL ngày 17/11/1950 của Chủ tịch nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa quy
định trƣờng hợp ngoại tình và một bên bỏ nhà đi quá hai năm không có duyên cớ
chính đáng là một trong những căn cứ để Tòa án cho ly hôn. Hiện nay, tình trạng
yêu cầu ly hôn do một bên ngoại tình tăng lên, tuy nhiên không có hƣớng dẫn cụ
thể nên mỗi thẩm phán với tƣ duy khác nhau đƣa ra những nhận định khác nhau,
dẫn đến xét xử không thống nhất, không đồng bộ. Theo tác giả, trong ví dụ trên,
55
Bản án phúc thẩm của TAND thành phố Hà Nội bác đơn xin ly hôn của anh C và
chị T là đúng đắn, bởi vì trong trƣờng hợp này nguyên đơn là anh C đã có hành
vi ngoại tình, làm đơn gửi Tòa án xin ly hôn với chị T, mục đích anh T xin ly
hôn là muốn sống chung với ngƣời thứ ba, tuy nhiên chị T không muốn ly hôn
và có thể tha thứ cho anh C, do đó hôn nhân hoàn toàn chƣa lâm vào tình trạng
trầm trọng, nên Tòa án cần xử bác đơn xin ly hôn.
Tóm lại, hiện nay chƣa có văn bản của cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền
hƣớng dẫn cụ thể về căn cứ ly hôn trong trƣờng hợp vợ hoặc chồng có hành vi
bạo lực gia đình hoặc hành vi vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ,
chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không
thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt đƣợc, nên thực tiễn xét xử phụ
thuộc hoàn toàn vào thẩm phán, có thể cùng một hiện tƣợng nhƣng có nhiều cách
lý giải khác nhau, từ đó hƣớng giải quyết vụ việc cũng khác nhau.
2.2.2. Trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích
yêu cầu ly hôn
Khoản 2 Điều 55 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định: “Trong trường hợp
vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án
giải quyết cho ly hôn”.
Theo Từ điển Tiếng việt: Tuyên bố một ngƣời mất tích là một sự kiện
pháp lý nhằm xác định một ngƣời cụ thể “hoàn toàn không rõ tung tích, cũng
không rõ còn sống hay đã chết”. Theo quy định tại Điều 68 BLDS năm
2015: “Khi một người biệt tích 2 năm liền trở lên, mặc dù đã áp dụng đầy đủ các
biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự nhưng
vẫn không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay đã chết thì theo yêu
56
cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án có thể tuyên bố người đó mất
tích…”. Thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một ngƣời mất tích đƣợc quy định
từ Điều 387 đến Điều 390 BLTTDS năm 2015: Ngƣời có quyền, lợi ích liên
quan có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố một ngƣời mất tích theo quy định của
BLDS. Kèm theo đơn yêu cầu phải gửi tài liệu, chứng cứ để chứng minh ngƣời
bị yêu cầu tuyên bố mất tích đã biệt tích 02 năm liền trở lên mà không có tin tức
xác thực về việc ngƣời đó còn sống hoặc đã chết và chứng minh cho việc ngƣời
yêu cầu đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo, tìm kiếm; trƣờng hợp trƣớc
đó đã có quyết định của Tòa án thông báo tìm kiếm ngƣời vắng mặt tại nơi cƣ trú
thì phải có bản sao quyết định đó. Trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày thụ lý đơn
yêu cầu tuyên bố một ngƣời mất tích, Tòa án ra quyết định thông báo tìm kiếm
ngƣời bị yêu cầu tuyên bố mất tích. Thời hạn thông báo tìm kiếm ngƣời bị yêu
cầu tuyên bố mất tích là 04 tháng kể từ ngày đăng, phát thông báo lần đầu tiên.
Trong thời hạn thông báo, nếu ngƣời bị yêu cầu tuyên bố mất tích trở về và yêu
cầu Tòa án đình chỉ việc xét đơn yêu cầu thì Tòa án ra quyết định đình chỉ việc
xét đơn yêu cầu tuyên bố một ngƣời mất tích. Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày
kết thúc thời hạn thông báo thì Tòa án phải mở phiên họp xét đơn yêu cầu.
Trƣờng hợp chấp nhận đơn yêu cầu thì Tòa án ra quyết định tuyên bố một ngƣời
mất tích.
Nhƣ vậy, Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ án ly hôn sau khi quyết định của
Tòa án tuyên bố ngƣời vợ hoặc chồng mất tích có hiệu lực pháp luật. Căn cứ vào
quy định pháp luật và đơn yêu cầu xin ly hôn của ngƣời có chồng hoặc vợ bị mất
tích, Tòa án xem xét, giải quyết cho ly hôn. Trƣờng hợp đồng thời yêu cầu Tòa
án tuyên bố mất tích và yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn, Tòa án chỉ giải quyết
cho ly hôn khi có bằng chứng chứng minh đƣợc chồng hoặc vợ đã biệt tích từ hai
57
năm trở lên kể từ ngày có tin tức cuối cùng về chồng (vợ), mặc dù đã áp dụng
đầy đủ các biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật tố tụng
dân sự nhƣng vẫn không có tin tức xác thực về việc ngƣời đó còn sống hay đã
chết. Việc tuyên bố cá nhân mất tích có ý nghĩa hết sức quan trọng. Nó góp phần
bảo vệ lợi ích của cá nhân cũng nhƣ các chủ thể có liên quan. Việc xác định
đúng điều kiện và hậu quả pháp lí của tuyên bố này là cơ sở đảm bảo quyền lợi
cho các chủ thể, đồng thời góp phần thực hiện có hiệu quả những quy định của
pháp luật trong tuyên bố các cá nhân mất tích.
Trong quan hệ HN&GĐ, việc chồng hoặc vợ bị mất tích đã ảnh hƣởng sâu
sắc tới quan hệ vợ chồng và các thành viên trong gia đình. Ngƣời bị Tòa án
tuyên bố mất tích, ít nhất trong hai năm liền không có mặt ở nhà mà không có lý
do, không cùng gánh vác công việc gia đình, không thực hiện quyền và nghĩa vụ
của mình, không cùng chia sẻ niềm vui, nỗi buồn với ngƣời vợ hoặc chồng còn
lại… chính sự vắng mặt đó đã làm cho quan hệ vợ, chồng lâm vào tình trạng
trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt
đƣợc. Khi đó, cần phải giải phóng vợ hoặc chồng thoát khỏi “hoàn cảnh đặc
biệt” này, khi họ có yêu cầu đƣợc ly hôn với ngƣời chồng hoặc vợ đã bị Tòa án
tuyên bố mất tích. Việc giải quyết ly hôn trong trƣờng hợp này đƣợc đặt ra nhằm
bảo vệ quyền, lợi ích cho ngƣời vợ hoặc chồng của ngƣời bị tuyên bố mất tích,
bảo đảm những lợi ích về nhân thân và tài sản cho họ.
Ví dụ số 7: Bản án 05/2018/HNGĐ-ST ngày 26/6/2018 của TAND huyện
Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn về ly hôn với ngƣời mất tích: Tại đơn xin ly hôn ngày
14/5/2018, bản tự khai ngày 18/5/2018 và tại phiên tòa ông Hoàng Văn H trình
bày: Vào năm 1982 ông và bà Hoàng Thị T đƣợc tự tìm hiểu, tự nguyện kết hôn
và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã B, huyện C, tỉnh Lạng Sơn quê
58
của bà Hoàng Thị T. Sau khi cƣới, vợ chồng sống hạnh phúc tại thôn N, xã H,
huyện B và có 4 ngƣời con chung. Nhƣng đến năm 2007 bà Hoàng Thị T tự
nhiên bỏ gia đình đi đâu, không rõ địa chỉ, ông đã tìm kiếm mọi nơi, kể cả bên
nhà chị Hoàng Thị T tại thôn M, xã B, huyện C, tỉnh Lạng Sơn cũng không có
tin tức gì. Để bảo đảm quyền và lợi ích của ông, nên ngày 22/9/2017 ông Hoàng
Văn H đã yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Bình Gia tuyên bố bà Hoàng Thị T bị
mất tích. Tại Quyết định số 01/2018/QĐDS-ST ngày 16/3/2018 của Tòa án nhân
dân huyện Bình Gia đã tuyên bố bà Hoàng Thị T mất tích. Nay ông Hoàng Văn
H đề nghị Tòa án giải quyết cho đƣợc ly hôn với ngƣời mất tích là bà Hoàng Thị
T theo quy định của pháp luật. Nhận định của Tòa án: Ông Hoàng Văn H và bà
Hoàng Thị T có thời gian chung sống vợ chồng, có đăng ký kết hôn năm 1982 tại
Ủy ban nhân dân xã B, huyện C, tỉnh Lạng Sơn, nên quan hệ vợ chồng đƣợc
pháp luật thừa nhận. Lý do ông Hoàng Văn H xin ly hôn là do bà Hoàng Thị T
đã bị Tòa án tuyên bố là mất tích. Căn cứ Quyết định số 01/2018/QĐDS-ST
ngày 16/3/2018 của Tòa án nhân dân huyện Bình Gia đã tuyên bố bà Hoàng Thị
T mất tích, quyết định này đã có hiệu lực pháp luật và đến ngày Tòa án mở phiên
tòa bà Hoàng Thị T vẫn vắng mặt. Do vậy, căn cứ khoản 2 Điều 56 Luật hôn
nhân và gia đình cho ông Hoàng Văn H đƣợc ly hôn với bà Hoàng Thị T là có
căn cứ pháp luật.
Nhƣ vậy, trong trƣờng hợp này, chính quyết định tuyên bố mất tích là căn
cứ để Tòa án giải quyết cho ly hôn, Thẩm phán không cần phải xác minh tình
trạng trầm trọng của hôn nhân bởi sự kiện mất tích của vợ hoặc chồng chính là
nguyên nhân dẫn đến hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung
59
không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt đƣợc.
2.2.3. Trường hợp cha, mẹ, người thân thích khác yêu cầu ly hôn
Khoản 3 Điều 56 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định: “Trong trường hợp
có yêu cầu ly hôn theo quy định tại Khoản 2 Điều 51 của Luật này thì Tòa án
giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc chồng, vợ có hành vi bạo lực gia
đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của người
kia”.
Điều luật này dẫn chiếu đến Khoản 2, Điều 51 Luật HN&GĐ năm 2014
nhƣ sau: "2. Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu tòa án giải quyết
ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không
thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo
lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính
mạng, sức khỏe, tinh thần của họ".
Theo quy định của pháp luật, cha, mẹ, ngƣời thân thích khác là ngƣời có
quyền yêu cầu ly hôn trong trƣờng hợp này. Vậy, ngƣời thân thích gồm những
ai? Theo Khoản 17, 18, 19 Điều 3 Luật HN&GĐ năm 2014, ngƣời thân thích là
ngƣời có quan hệ hôn nhân, nuôi dƣỡng, ngƣời có cùng dòng máu về trực hệ và
ngƣời có họ trong phạm vi ba đời; những ngƣời cùng dòng máu về trực hệ là
những ngƣời có quan hệ huyết thống, trong đó, ngƣời này sinh ra ngƣời kia tiếp
nhau; những ngƣời có họ trong phạm vi ba đời là những ngƣời cùng một gốc
sinh ra gồm cha mẹ là đời thứ nhất; anh, chị, em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ,
cùng mẹ khác cha là đời thứ hai; anh, chị, em con chú, con bác, con cô, con cậu,
con dì là đời thứ ba.
Bệnh tâm thần là bệnh do rối loạn hoạt động não bộ gây nên những biến
60
đổi bất thƣờng về lời nói, ý tƣởng, hành vi, tác phong, tình cảm… Bệnh tâm thần
điển hình bao gồm trầm cảm, rối loạn lo âu, tâm thần phân liệt, rối loạn ăn uống
và hành vi gây nghiện. Trƣờng hợp mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm
chủ đƣợc hành vi là trƣờng hợp vợ hoặc chồng không thể nhận thức, làm chủ
hành vi, làm chủ bản thân.
Ngƣời bị tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức và làm
chủ đƣợc hành vi của mình không thể là đƣơng sự trong vụ án ly hôn, vì vậy, để
đảm bảo quyền và lợi ích cho ngƣời bị tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không
thể nhận thức và làm chủ hành vi là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ
của họ gây ra làm ảnh hƣởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần
của họ, pháp luật thừa nhận quyền yêu cầu ly hôn của cha, mẹ hoặc ngƣời thân
thích khác. Nhƣ đã phân tích ở trên, ngƣời thân thích gồm: cha, mẹ; anh, chị, em
cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha; anh, chị, em con chú, con
bác, con cô, con cậu, con dì. Còn cha, mẹ theo ý hiểu ở đây gồm cả cha, mẹ của
hai bên, bên bị tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không nhận thức, làm chủ hành
vi và cả bên còn lại là cha, mẹ của bên có hành vi bạo lực gia đình.
Đối với ngƣời bị tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức,
làm chủ đƣợc hành vi của mình, Khoản 1 Điều 22 BLDS năm 2015 quy định:
“Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận
thức, làm chủ được hành vi thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên
quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố người
này là người mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám định pháp y
tâm thần”. Trong vụ án ly hôn, ngƣời bị tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không
thể nhận thức, làm chủ đƣợc hành vi của mình phải đƣợc Tòa án ra quyết định
tuyên bố là ngƣời mất năng lực hành vi dân sự để đảm bảo họ có ngƣời giám hộ
61
tham gia tố tụng tại Tòa án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Theo
quy định tại khoản 1 Điều 53 BLTTDS năm 2015 và khoản 3 Điều 24 Luật
HN&GĐ năm 2014, vợ hoặc chồng bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân
sự thì ngƣời còn lại sẽ đƣợc xác định là ngƣời giám hộ đƣơng nhiên. Khi thực
hiện các giao dịch dân sự hoặc tham gia tố tụng tại Tòa án với một chủ thể thứ
ba thì ngƣời giám hộ đại diện và thay mặt họ để thực hiện. Tuy nhiên, ngƣời vợ
hoặc chồng của ngƣời bị tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự trong vụ án ly
hôn xung đột về lợi ích, xung đột về quyền và nghĩa vụ nên không đủ điều kiện
là ngƣời giám hộ, khi đó Tòa án sẽ chỉ định ngƣời khác giám hộ để đại diện cho
ngƣời bị tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự tham gia tố tụng thực hiện bảo vệ
quyền và lợi ích của họ. Thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một ngƣời mất năng
lực hành vi dân sự đƣợc thực hiện theo quy định từ Điều 376 đến Điều 378
BLTTDS năm 2015 nhƣ sau: Ngƣời có quyền, lợi ích liên quan, cơ quan, tổ chức
hữu quan có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố một ngƣời mất năng lực hành vi dân
sự theo quy định của BLDS năm 2015. Trong thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu,
theo đề nghị của ngƣời yêu cầu, Tòa án có thể trƣng cầu giám định pháp y tâm
thần đối với ngƣời bị yêu cầu tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự. Khi nhận
đƣợc kết luận, Tòa án phải ra quyết định mở phiên họp để xét đơn yêu cầu.
Trƣờng hợp chấp nhận đơn yêu cầu thì Tòa án phải ra quyết định tuyên bố một
ngƣời mất năng lực hành vi dân sự. Sau đó, cần phải xác định ngƣời đại diện cho
ngƣời vợ hoặc chồng bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự tham gia
vào vụ án ly hôn.
Nhƣ vậy, thay vì chỉ vợ, chồng hoặc cả hai ngƣời mới có quyền yêu cầu
Tòa án giải quyết ly hôn nhƣ trƣớc đây thì kể từ khi Luật HN&GĐ năm 2014 có
hiệu lực pháp luật, cha, mẹ, ngƣời thân thích khác cũng có quyền yêu cầu Tòa án
62
giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh
khác mà không thể nhận thức, làm chủ đƣợc hành vi của mình, đồng thời là nạn
nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hƣởng nghiêm
trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ. Quy định này đã tháo gỡ cho
nhiều trƣờng hợp mong muốn xin ly hôn thay cho ngƣời thân bị mất năng lực
hành vi mà không đƣợc do trƣớc đây chỉ quy định việc ly hôn phải do chính
đƣơng sự là vợ hoặc chồng yêu cầu, trong khi họ lại bị mất năng lực hành vi dân
sự dẫn đến không có năng lực hành vi tố tụng dân sự để xin ly hôn. Chính điều
này đã dẫn tới thực trạng có rất nhiều trƣờng hợp cha, mẹ, ngƣời thân thích của
ngƣời bị mất năng lực hành vi dân sự muốn ngƣời đó đƣợc ly hôn nhƣng Tòa án
không thể tiến hành giải quyết đƣợc, có nhiều vụ việc kéo dài trong rất nhiều
năm với nguyên nhân duy nhất là do ngƣời vợ hoặc chồng bị mất năng lực hành
vi dân sự. Bên cạnh đó, đối với trƣờng hợp này các nhà làm luật yêu cầu cha,
mẹ, ngƣời thân thích khác của vợ hoặc chồng cần phải chứng minh đƣợc việc
ngƣời chồng hoặc vợ bị mất năng lực hành vi dân sự phải là nạn nhân của bạo
lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hƣởng nghiêm trọng đến tính
mạng, sức khỏe, tinh thần của họ. Quy định nhƣ vậy là hoàn toàn đúng đắn, để
phân biệt ly hôn với ngƣời vợ hoặc chồng mắc bệnh tâm thần mà làm cho tình
trạng hôn nhân trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài và mục đích của
hôn nhân không đạt đƣợc theo nhƣ Khoản 1 Điều 56 Luật HN&GĐ năm 2014,
tránh trƣờng hợp ngƣời vợ hoặc chồng của ngƣời bị tâm thần không có hành vi
bạo lực và không mong muốn ly hôn, muốn tiếp tục chung sống và chăm sóc cho
ngƣời chồng hoặc vợ bị tâm thần nhƣng cha mẹ hoặc ngƣời thân thích khác có
đơn yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án ly hôn, nên nhà làm luật đã quy định ngƣời
tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ đƣợc hành vi của
63
mình phải là nạn nhân của bạo lực gia đình bị ảnh hƣởng nghiêm trọng đến sức
khỏe, tinh thần của họ. Theo tác giả, lần đầu tiên trong hệ thống pháp luật
HN&GĐ của Nhà nƣớc ta từ năm 1959 đến nay, đã dự liệu giải quyết ly hôn dựa
trên cơ sở “lỗi” của vợ, chồng. Đó là việc cha, mẹ, ngƣời thân thích khác có
quyền yêu cầu ly hôn chứng minh đƣợc ngƣời vợ hoặc chồng có hành vi bạo lực
gia đình đối với ngƣời chồng hoặc vợ còn lại mà bị bệnh tâm thần hoặc mắc
bệnh khác không thể nhận thức, làm chủ đƣợc hành vi của mình khiến cho họ bị
ảnh hƣởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần thì Tòa án giải quyết
cho ly hôn, ngƣời yêu cầu ly hôn không phải chứng minh hôn nhân lâm vào tình
trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân
không đạt đƣợc.
Ví dụ số 8: Nguyên đơn là bà Trần Thị M, sinh năm 1966 (có quyết định
tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự của Tòa án), địa chỉ tại huyện P, thành phố
H; bị đơn là ông Nguyễn Đức H, sinh năm 1963 địa chỉ tại huyện P, thành phố
H; Ngƣời giám hộ đƣợc Tòa án chỉ định cho bà Trần Thị M có ông Nguyễn
Quang T, sinh năm 1987, địa chỉ huyện P, thành phố H (là con trai của bà M và
ông H). Bà Trần Thị M và ông Nguyễn Đức H kết hôn năm 1984. Năm 1993, bà
Trần Thị M bị bệnh tâm thần phân liệt đƣợc điều trị tại Trung tâm điều dƣỡng
ngƣời tâm thần thành phố H, cho đến ngày 30/9/2013 bà Trần Thị M đƣợc
TAND huyện P, thành phố H tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự. Ông H
thƣờng xuyên uống rƣợu và khi không tỉnh táo thƣờng có hành vi đánh đập bà
M, ảnh hƣởng nghiêm trọng đến sức khỏe, tâm lý bà M. Nay ông Nguyễn Quang
T là con trai bà M làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn cho bà M và ông H.
Vì vậy, căn cứ Khoản 3 Điều 56 Luật HN&GĐ năm 2014, TAND huyện H giải
64
quyết ly hôn cho bà M và ông H.
Qua bản án trên, nhận thấy phán quyết của Tòa án hoàn toàn đúng đắn,
phù hợp với quy định của pháp luật, và bản chất của hôn nhân là hạnh phúc bền
vững không còn thì ly hôn là giải pháp tốt nhất cho cả hai bên.
Kết luận chƣơng 2:
Nghiên cứu căn cứ ly hôn theo Luật HN&GĐ năm 2014 và thực tiễn áp
dụng trong việc giải quyết tranh chấp ly hôn nhận thấy: Luật HN&GĐ năm 2014
đã quy định tƣơng đối cụ thể về căn cứ ly hôn. Các căn cứ ly hôn này đã góp
phần giúp Tòa án giải quyết tốt nhiều án ly hôn, giải phóng cho nhiều cuộc hôn
nhân thoát khỏi những bế tắc. Tuy nhiên một số quy định về căn cứ ly hôn còn
chung chung, chƣa có văn bản hƣớng dẫn cụ thể của cơ quan Nhà nƣớc có thẩm
quyền, dẫn đến thực tiễn áp dụng giải quyết tranh chấp ly hôn của các cấp Tòa
án không thống nhất nên rất dễ tùy tiện. Ngoài ra, việc áp dụng căn cứ ly hôn
trong trƣờng hợp thuận tình ly hôn (Điều 55) và Khoản 3 Điều 56 Luật HN&GĐ
năm 2014 không dựa vào bản chất hôn nhân tan vỡ nên trong một số trƣờng hợp
sẽ dẫn đến việc Tòa án có phán quyết sai, không phù hợp với bản chất của sự
65
việc.
CHƢƠNG 3
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CĂN CỨ LY HÔN
3.1. Một số vƣớng mắc, bất cập
Việc nghiên cứu, tìm hiểu căn cứ ly hôn hiện nay có ý nghĩa rất quan
trọng, căn cứ ly hôn là cơ sở pháp lý và chỉ khi có các điều kiện đó thì Tòa án
mới có thể giải quyết ly hôn, là điều kiện để giải quyết vụ án ly hôn đúng pháp
luật, phán quyết thấu tính đạt lý, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân,
góp phần bảo đảm ổn định, an toàn đời sống gia đình, lợi ích xã hội. Bên cạnh
những kết quả đạt đƣợc trong việc giải quyết các vụ án HN&GĐ nói chung và vụ
án ly hôn nói riêng, thì việc áp dụng các căn cứ ly hôn còn một số bất cập, vƣớng
mắc.
Thứ nhất, hiện nay, vẫn chƣa có văn bản nào của cơ quan Nhà nƣớc có
thẩm quyền xác định có mấy căn cứ ly hôn và hƣớng dẫn áp dụng về căn cứ ly
hôn. Tại Thông tƣ liên tịch số 01/TTLT/TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày
06/01/2016 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ
tƣ pháp hƣớng dẫn thi hành một số quy định của Luật HN&GĐ năm 2014 cũng
chỉ có một số quy định hƣớng dẫn về hủy việc kết hôn trái pháp luật, nguyên tắc
chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn mà không có nội dung nào hƣớng dẫn về
việc áp dụng căn cứ ly hôn. Do đó, các cấp Tòa án áp dụng căn cứ ly hôn giải
quyết các trƣờng hợp ly hôn vẫn chƣa có quan điểm thống nhất nên rất dễ tùy
tiện, đặc biệt trong việc đánh giá tình trạng trầm trọng của hôn nhân theo quy
định tại Khoản 1 Điều 56 Luật HN&GĐ năm 2014: “Khi vợ hoặc chồng yêu cầu
ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu
66
có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm
trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm
trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được”.
Đây là một quy định mới, mang tính khái quát cao. Cụ thể hành vi bạo lực gia
đình ở mức độ nào và hành vi vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng nhƣ thế
nào thì làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không
thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt đƣợc. Việc quy định về căn cứ ly
hôn thể hiện yếu tố tình cảm vẫn còn chung chung, khi giải quyết các trƣờng hợp
cụ thể, với sự đa dạng của cuộc sống, thì mỗi cặp vợ chồng, mỗi vụ án ly hôn
thƣờng có mâu thuẫn cũng nhƣ hoàn cảnh không giống nhau. Trong khi đó,
không có căn cứ rõ ràng để xác định thế nào là “làm cho hôn nhân lâm vào tình
trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không
đạt đƣợc”, thế nào là hành vi “vi phạm nghiêm trọng” nên việc xem xét, đánh giá
căn cứ trên là rất khó khăn, vƣớng mắc. Xuất phát từ bản chất và đặc thù của
quan hệ hôn nhân, không phải khi nào hội đồng xét xử hay những ngƣời bên
ngoài nào cũng đánh giá thấu đáo đƣợc thực trạng hôn nhân của đƣơng sự. Hơn
nữa, có những nguyên cớ, hành vi, cách ứng xử giữa vợ, chồng mang nặng tính
riêng tƣ, không phải trƣờng hợp nào đƣơng sự cũng khai cụ thể và cung cấp
chứng cứ để chứng minh. Trong khi đó, tính gắn kết trong đời sống cộng đồng,
nhất là sự quan tâm giữa gia đình này với gia đình khác trong cùng một khu vực
sống ngày một khoảng cách hơn, hoạt động của các đoàn thể, tổ chức xã hội
trong công tác bảo vệ quyền lợi của thanh niên, phụ nữ, trẻ em vị thành niên…
chƣa thật sự mang lại hiệu quả. Các điều kiện này làm cho công tác thu thập
chứng cứ, tìm hiểu, đánh giá thực trạng hôn nhân của đƣơng sự từ phía cơ quan
tiến hành tố tụng không thuận lợi, thậm chí rất khó khăn. Nhiều trƣờng hợp Hội
67
đồng xét xử chỉ căn cứ vào lời khai của vợ, chồng để đánh giá thực trạng hôn
nhân của đƣơng sự có thỏa mãn hay chƣa thỏa mãn căn cứ ly hôn theo Khoản 1
Điều 56 Luật HN&GĐ năm 2014; thậm chí có trƣờng hợp lời khai của các bên
có mâu thuẫn nhau về chứng minh thực trạng hôn nhân nhƣng Hội đồng xét xử
vẫn quyết theo “suy đoán nội tâm” mà không có chứng cứ khác. Nhƣ vậy, cần có
văn bản của cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền hƣớng dẫn chi tiết về khoản này
để quá trình áp dụng pháp luật của Tòa án đƣợc chính xác và đồng bộ.
Thứ hai, bất cập trong việc áp dụng căn cứ ly hôn trong trƣờng hợp thuận
tình ly hôn đƣợc quy định tại Điều 55 Luật HN&GĐ năm 2014. Nhƣ đã phân
tích ở Chƣơng 2, nếu Tòa án quyết định cho ly hôn dựa trên sự tự nguyện thực
sự và sự thỏa thuận thực sự của đƣơng sự mà không trên cơ sở xem xét tình trạng
quan hệ hôn nhân thì không phản ánh đúng đƣợc bản chất hôn nhân tan vỡ, ví dụ
nhƣ đối với những đôi vợ, chồng có học thức đôi khi chỉ vì cái tôi cá nhân quá
cao không bên nào chịu bên nào, mặc dù vẫn còn yêu thƣơng nhau, nhƣng vẫn
yêu cầu Tòa án công nhận thuận tình ly hôn hoặc nhƣ những trƣờng hợp ly hôn
giả tạo để trốn tránh thực hiện nghĩa vụ với ngƣời thứ ba, để sinh con thứ ba, hay
để trốn thi hành án phạt tù hoặc thỏa thuận của đƣơng sự về phân chia tài sản,
con cái không đảm bảo lợi ích của các bên... Nhƣ vậy, vấn đề xác định căn cứ ly
hôn là sự tự nguyện ly hôn của các bên rất khó để xác định sự tự nguyện ly hôn
thực sự.
Thứ ba, bất cập trong việc áp dụng căn cứ ly hôn tại Khoản 3 Điều 56
Luật HN&GĐ năm 2014. Đây là quy định mới khi quyền yêu cầu ly hôn không
chỉ thuộc về vợ, chồng mà cha, mẹ, ngƣời thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa
án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh
khác mà không thể nhận thức, làm chủ đƣợc hành vi của mình, đồng thời là nạn
68
nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hƣởng nghiêm
trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ. Trong trƣờng hợp này thì Tòa
án giải quyết cho ly hôn, nếu cha, mẹ, ngƣời thân thích khác chứng minh đƣợc
chồng, vợ có hành vi bạo lực gia đình làm ảnh hƣởng nghiêm trọng đến tính
mạng, sức khỏe, tinh thần của ngƣời vợ hoặc chồng bị tâm thần, hoặc mắc bệnh
khác mà không thể nhận thức, làm chủ đƣợc hành vi của mình. Đây là quy định
tiến bộ, có giá trị nhân văn cao, giải phóng nhiều cuộc hôn nhân không lối thoát,
tuy nhiên quy định này dựa trên yếu tố “lỗi” để Tòa án giải quyết cho ly hôn mà
không dựa vào bản chất hôn nhân đã tan vỡ. Nên xảy ra trƣờng hợp sau: anh A
và chị B kết hôn năm 2014, cuộc sống của hai ngƣời rất hạnh phúc, anh chị có 2
con chung, tuy nhiên, năm 2018, do bị tai nạn lao động nên chị B bị mất năng
lực hành vi dân sự, nhƣng anh A vẫn rất yêu thƣơng vợ và chăm sóc chị B và các
con rất chu đáo. Tuy nhiên, do một hôm anh A đi uống rƣợu với bạn bè và uống
quá nhiều, khi về nhà đã có hành vi bạo lực với chị B khiến chị bị ảnh hƣởng
nghiêm trọng đến sức khỏe và tinh thần, do đó bố mẹ đẻ của chị B đã yêu cầu
Tòa án giải quyết ly hôn. Anh A vẫn còn yêu thƣơng vợ và muốn chăm sóc cho
vợ, không muốn ly hôn và giải thích rằng do anh uống rƣợu say, không làm chủ
đƣợc hành vi nên đã gây ra thƣơng tích cho chị B. Tòa án căn cứ vào quy định
tại Khoản 3 Điều 56 Luật HN&GĐ năm 2014 đã phán quyết cho chị B đƣợc ly
hôn với anh A. Đây là trƣờng hợp Tòa án giải quyết cho ly hôn dựa trên yếu tố
“lỗi” mà không dựa trên bản chất hôn nhân đã tan vỡ hay chƣa? Rõ ràng anh A
vẫn còn rất yêu thƣơng vợ và không muốn ly hôn với vợ, tuy chị B bị mất năng
lực hành vi dân sự nhƣng nếu tình cảm yêu thƣơng thực sự của anh A vẫn còn thì
phán quyết cho ly hôn của Tòa án là không chính xác.
Ngoài ra, khi giải quyết án ly hôn, cần phải chú trọng đến ngƣời làm công
69
tác hòa giải, bởi hòa giải là biện pháp quan trọng, hàn gắn lại tình cảm vợ chồng,
tránh làm tan vỡ cuộc hôn nhân còn có thể cứu vãn, việc hòa giải đoàn tụ là vấn
đề cốt lõi, mục đích chủ yếu mà Luật HN&GĐ hƣớng tới. Do đó, cần lựa chọn
Thẩm phán có đủ năng lực, uy tín, có tinh thần trách nhiệm và có tác phong thận
trọng, khách quan, vô tƣ để chủ trì phiên hòa giải. Trình độ hiểu biết về tâm lý xã
hội, về kinh nghiệm của Thẩm phán cũng có ý nghĩa hết sức quan trọng trong
quyết định kết quả hòa giải. Khi chọn Thẩm phán để giải quyết án HN&GĐ phải
chọn ngƣời không những chỉ có kiến thức chuyên môn mà cần phải có kiến thức
xã hội sâu rộng, có kinh nghiệm trong cuộc sống gia đình. Nếu giao thẩm phán
trẻ, chƣa có kinh nghiệm về HN&GĐ thì kết quả hòa giải mang lại không cao.
Vì mục đích của việc giải quyết án ly hôn không chỉ đạt đƣợc yêu cầu của
nguyên đơn, quan trọng hơn là tránh sự tan vỡ gia đình và chính bản thân các
thành viên trong gia đình phải gánh chịu hậu quả. Vì thế nghệ thuật của ngƣời
Thẩm phán có tính chất quyết định đến hiệu quả công tác hòa giải. Hơn nữa, vai
trò của ngƣời thẩm phán đặc biệt quan trọng trong việc xác minh, thu thập chứng
cứ, đánh giá chứng cứ, nắm bắt nội dung vụ án, tìm hiểu thái độ, tâm lý, nhân
thân của đƣơng sự, tiếp xúc, tác động tích cực và phân tích, giải thích với đƣơng
sự về tình tiết vụ án…thông qua đó để giải quyết vụ án, bởi không phải lúc nào
đƣơng sự cũng trung thực và trình bày rõ ràng nội dung vụ việc trƣớc tòa, nhƣ
vậy, rất cần thiết phải có một đội ngũ Thẩm phán dày dặn kinh nghiệm, trình độ
chuyên môn cao để giải quyết vụ án HN&GĐ một cách chính xác, công tâm,
khách quan. Tuy nhiên, hiện nay, vẫn còn tồn tại một bộ phận cán bộ xét xử
năng lực còn yếu, không đảm bảo đƣợc việc đánh giá thấu tình đạt lý nội dung
vụ án. Trong khi đó, một bộ phận cán bộ xét xử khác còn thiếu trách nhiệm trong
việc giải quyết án ly hôn, ví dụ nhƣ công tác hòa giải còn qua loa, hình thức,
70
không đƣợc coi trọng, việc xác minh còn chậm, không chặt chẽ, chỉ dựa vào lời
khai của đƣơng sự để phán quyết... Đặc biệt nghiêm trọng là một bộ phận cán bộ
xét xử không có lƣơng tâm với nghề nghiệp, bị mua chuộc, hoặc bị tác động bởi
đƣơng sự hoặc bên thứ ba mà giải quyết vụ án không trong sáng… dẫn đến có
những phán quyết sai, ảnh hƣởng đến chất lƣợng của bản án, làm tan vỡ những
cuộc hôn nhân còn có thể cứu vãn, từ đó ảnh hƣởng không nhỏ đến gia đình và
xã hội.
Hơn nữa, đối với ly hôn ở giới trẻ, do trình độ hiểu biết còn hạn chế, kinh
nghiệm sống còn ít, đôi khi chỉ là những mâu thuẫn nhỏ nhặt trong cuộc sống,
nhƣng không bên nào chịu bên nào, nhất quyết đòi ly hôn mà không nghĩ đến
hậu quả nặng nề để lại cho con cái, gia đình và cho xã hội. Trƣớc Tòa án nhiều
trƣờng hợp thƣờng trình bày nội dung vụ việc còn chung chung, đôi khi vòng vo,
giấu giếm nội dung vụ việc, chỉ trình bày là không thể chung sống với nhau và
một mực đòi ly hôn đã gây khó dễ cho cán bộ xét xử trong quá trình thực hiện
công tác hòa giải cũng nhƣ công tác xét xử. Ví dụ nhƣ hai bên đƣơng sự trƣớc
tòa trình bày tự nguyện ly hôn và thỏa thuận về việc phân chia tài sản và nuôi
con, tuy nhiên sau đó một thời gian, các bên không thống nhất đƣợc với nhau và
lại có đơn gửi Tòa án giải quyết… Nhƣ đã phân tích ở phần trên, bạo lực gia
đình là căn cứ để Tòa án cho ly hôn, tuy nhiên nhiều trƣờng hợp ngƣời dân hiểu
biết pháp luật còn ít, nên tình trạng bạo lực gia đình vẫn diễn ra trong rất nhiều
gia đình, ngƣời bị bạo lực thì cam chịu, không dám lên tiếng, lo sợ bị tai tiếng,
ảnh hƣởng đến công việc, đến vị trí trong xã hội… trong khi đó ngƣời gây ra bạo
lực thì không hiểu đó là hành vi vi phạm pháp luật, có thể bị xử phạt vi phạm
hành chính thậm chí là phạt tù, điều này gây ảnh hƣởng xấu đến gia đình có bạo
lực nói riêng và đến toàn xã hội nói chung. Một số trƣờng hợp khác, ngƣời dân
71
lợi dụng các quy định của pháp luật về ly hôn để ly hôn giả tạo nhằm mục đích
chuộc lợi cho bản thân, trốn tránh thực hiện nghĩa vụ với ngƣời thứ ba, hoặc là vi
phạm pháp luật…điều này ảnh hƣởng không nhỏ đến tính nghiêm minh, thƣợng
tôn của pháp luật. Qua đó, nhận thấy nhận thức của ngƣời dân về pháp luật nói
chung, pháp luật HN&GĐ nói riêng, trong đó là các quy định về ly hôn và căn
cứ ly hôn còn hạn chế, gây khó khăn trong công tác hòa giải, xét xử của Tòa án,
có trƣờng hợp lừa dối cơ quan pháp luật mà không lƣờng trƣớc đƣợc hậu quả
xảy ra sau đó.
3.2. Kiến nghị hoàn thiện
3.2.1. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần có văn bản hướng dẫn chi tiết
về căn cứ ly hôn
Thứ nhất, cần hƣớng dẫn cụ thể hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng,
đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt đƣợc quy
định tại Khoản 1 Điều 56 Luật HN&GĐ năm 2014 nhƣ sau:
+ Vợ, chồng không thƣơng yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau nhƣ
ngƣời nào chỉ biết bổn phận ngƣời đó, bỏ mặc ngƣời vợ hoặc ngƣời chồng muốn
sống ra sao thi sống, đã đƣợc bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức
nhắc nhở, hòa giải nhiều lần;
+ Hoặc vợ chồng có hành vi ngƣợc đãi, hành hạ nhau hoặc các hành vi
khác xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm và uy tín của nhau đã đƣợc bà con thân
thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức nhắc nhở, hòa giải nhiều lần; Hoặc hành vi
bạo lực gia đình mang tính chất thƣờng xuyên, lặp đi lặp lại nhiều lần đã đƣợc
vợ hoặc chồng hoặc bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, đoàn thể
nhắc nhở, hoà giải hoặc cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp cách ly, cấm
72
tiếp xúc nhƣng bỏ mặc, không khắc phục hoặc vẫn tiếp tục hành vi bạo lực;
Hành vi bạo lực gia đình mang tính chất thƣờng xuyên hoặc không thƣờng xuyên
nhƣng gây ra hậu quả thƣơng tích hoặc làm cho nạn nhân bị tổn hại sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm hoặc làm cho nạn nhân tìm cách tự sát hoặc đã bị xử phạt
hành chính hoặc cơ quan điều tra kết luận có dấu hiệu tội phạm nhƣng chƣa đến
mức truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc hậu quả khác làm cho nạn nhân lâm vào
tình trạng không có nơi ở, cuộc sống khó khăn, túng thiếu, phụ thuộc về vật chất,
tinh thần;
+ Hoặc vi phạm quyền và nghĩa vụ về nhân thân nhƣ ngoại tình, chung
sống nhƣ vợ chồng với ngƣời khác đã đƣợc vợ, chồng hoặc bà con thân thích của
họ hoặc cơ quan, tổ chức góp ý, nhắc nhở, khuyên bảo, hoà giải nhƣng không
khắc phục hoặc vẫn tiếp tục lặp đi lặp lại hoặc đã bị xử phạt hành chính hoặc cơ
quan điều tra kết luận có dấu hiệu tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng nhƣng
chƣa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc sau khi bị xử lý về hành vi
ngoại tình thì bỏ đi khỏi nơi cƣ trú, không có trách nhiệm với gia đình; Vi phạm
quyền và nghĩa vụ về nhân thân nhƣ không chung sống với nhau một thời gian
dài mà không có lý do chính đáng, chung sống với nhau không có tình nghĩa vợ
chồng, không quan tâm đến cuộc sống chung, cản trở việc thực hiện các quyền
và nghĩa vụ cơ bản của công dân, việc thực hiện quyền tự do tín ngƣỡng, tôn
giáo đã đƣợc vợ, chồng hoặc bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức góp
ý, nhắc nhở, khuyên bảo, hoà giải nhƣng không khắc phục hoặc vẫn tiếp tục vi
phạm;
+ Hoặc vi phạm quy định về đại diện giữa vợ, chồng và chế độ tài sản của
vợ, chồng đƣợc coi là trầm trọng nhƣ việc tự ý xác lập, thực hiện, chấm dứt giao
dịch, từ chối đứng ra làm đại diện cho bên kia mà không có lý do chính đáng,
73
không bình đẳng trong tạo lập, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung, tự ý
đƣa tài sản chung vào kinh doanh hoặc có tài sản nhƣng không đóng góp để đáp
ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình, cản trở việc vợ hoặc chồng đứng
tên đăng ký tài sản thuộc quyền sở hữu, sử dụng chung thuộc trƣờng hợp phải
đăng ký... gây thất thoát, thiệt hại đến tài sản, ảnh hƣởng đến thực hiện quyền và
nghĩa vụ chung, xâm phạm nghiêm trọng đến quyền sở hữu tài sản của bên kia,
làm phát sinh nghĩa vụ về tài sản, hợp đồng làm cho vợ, chồng, gia đình lâm vào
cảnh khó khăn, nhu cầu thiết yếu của gia đình không bảo đảm... đã tìm cách khắc
phục, hạn chế nhƣng không có hiệu quả…
Thứ hai, pháp luật Việt Nam là pháp luật xã hội chủ nghĩa, quan điểm giải
quyết ly hôn của Nhà nƣớc ta theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác-lênin: “ly hôn
chỉ là việc xác nhận một sự kiện: cuộc hôn nhân này là cuộc hôn nhân đã chết,
sự tồn tại của nó chỉ là bề ngoài và lừa dối. Đương nhiên, không phải sự tùy tiện
của nhà lập pháp, cũng không phải là sự tùy tiện của những cá nhân, mà chỉ bản
chất của sự kiện mới quyết định được là cuộc hôn nhân đã chết hoặc chưa chết,
bởi vì, nó chấm dứt phụ thuộc vào thực chất của vấn đề, chứ không phải là
nguyện vọng của các bên hữu quan”. Bởi vậy, pháp luật HN&GĐ Việt Nam cần
quy định có một căn cứ ly hôn duy nhất đó là dựa trên nguyên tắc xác định tình
trạng trầm trọng của hôn nhân, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của
hôn nhân không đạt đƣợc để quyết định cho ly hôn hay không, qua đó bảo vệ
hạnh phúc, quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, của gia đình và xã hội. Qua
đó, giải quyết đƣợc một số bất cập nhƣ đã phân tích trong trƣờng hợp thuận tình
ly hôn (Điều 55 Luật HN&GĐ năm 2014) và ly hôn theo yêu cầu của cha, mẹ,
ngƣời thân thích khác (Khoản 3 Điều 56 Luật HN&GĐ năm 2014).
3.2.2. Pháp luật HN&GĐ Việt Nam cần công nhận ly thân và xem ly thân
74
là một trong những căn cứ để cho ly hôn
Theo từ điển tiếng việt: “Ly thân mô tả quan hệ vợ chồng theo đó một người
hay cả hai không còn muốn sống chung với nhau. Trên pháp lý họ vẫn là vợ chồng
cho tới khi được xử ly hôn, và họ không cần ra tòa để được sống ly thân.Ly thân tạo
cơ hội cho vợ hay chồng sống riêng biệt mà không cần phải ly hôn.Lợi điểm là ly
thân dễ làm ngược trở lại. Họ có thể thử chia tay, rồi nhờ hướng dẫn, làm hòa, hay
có thể thử sống chung lại rồi ly hôn”. Hiểu đơn giản, ly thân là sự sống riêng giữa
vợ và chồng, nhƣ là không ăn chung, ở chung, không sinh hoạt vợ chồng. Ly thân
không làm chấm dứt mối quan hệ pháp lý giữa vợ và chồng nên trong thời gian
sống ly thân các bên vẫn có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ đối với con chung và tài
sản. Ly thân chƣa hẳn là điều không tốt, theo quy định của luật pháp các nƣớc là để
giảm thiểu những căng thẳng, xung đột gay gắt giữa vợ và chồng hoặc tránh những
việc đáng tiếc có thể xảy ra. Nhiều cặp vợ chồng ly thân chứ chƣa ly hôn vì nhiều lý
do: sợ dƣ luận dị nghị, sợ công ăn việc làm bị gián đoạn, sợ ảnh hƣởng đến danh
dự… Họ xem ly thân là bƣớc đệm giúp cả hai soi rọi bản thân và nhìn lại nhau để từ
đó có quyết định hàn gắn hoặc chấm dứt hôn nhân. Trong lịch sử lập pháp và các
văn bản pháp luật hiện hành không thừa nhận vấn đề ly thân, thực tế trong Luật
HN&GĐ năm 2014 không có một cụm từ nào đƣợc gọi là “ly thân”, do đó cần phải
hiểu đây chỉ là thuật ngữ xã hội mà không phải thuật ngữ pháp lý. Luật HN&GĐ
năm 2014 không quy định ly thân là căn cứ cho ly hôn. Tuy nhiên, trong thực tiễn
xét xử, các Tòa án thƣờng đánh giá ly thân là căn cứ để giải quyết cho ly hôn. Nhƣ
ví dụ sau: Chị T và anh M kết hôn trên cơ sở tự nguyện và hợp pháp từ năm
2000, ban đầu chung sống hạnh phúc, sau đó có mâu thuẫn dẫn đến không còn
sống chung từ tháng 6/2009 cho đến nay. Trong khoảng thời gian này, hai vợ
chồng không liên lạc, không thăm hỏi nhau và không thể đoàn tụ đƣợc.Chị T và
75
anh M cũng không còn quan tâm và trách nhiệm với nhau.Tại phiên tòa giải
quyết ly hôn, chị T yêu cầu đƣợc ly hôn. Trong vụ án này, chị T và anh M đã có
thời gian ly thân dài, không quan tâm và trách nhiệm với nhau, không cùng nhau
xây dựng hạnh phúc gia đình. Tòa án đã mở phiên hòa giải tạo điều kiện cho vợ
chồng anh chị có giải pháp đoàn tụ, nhƣng anh M vắng mặt. Xét thấy mâu thuẫn
gia đình trầm trọng nên Tòa án giải quyết theo hƣớng cho ly hôn.
Tác giả kiến nghị quy định về vấn đề ly thân trong luật định và quy định ly
thân là căn cứ ly hôn, cụ thể nhƣ sau: “Trong trƣờng hợp vợ chồng đã sống ly
thân hơn 3 năm mà vẫn không thể quay về với nhau để chung sống hạnh phúc
hoặc sống ly thân hơn 3 năm theo quyết định của Tòa án thì Tòa án giải quyết
cho ly hôn mà không phải xem xét, đánh giá thực trạng quan hệ vợ chồng và các
bên không phải chứng minh tình trạng trầm trọng của hôn nhân”.
3.2.3. Pháp luật HN&GĐ Việt Nam cần bổ sung quy định căn cứ ly hôn
khi chồng hoặc vợ phạm tội và đang chấp hành án phạt tù
Gia đình là tế bào của xã hội, gia đình có các chức năng cơ bản gồm: Chức
năng kinh tế, giáo dục, duy trì nòi giống và thỏa mãn nhu cầu sinh lý, tình cảm.
Trong một số trƣờng hợp, thì ngƣời đang chấp hành án phạt tù không thể chăm
lo đƣợc về đời sống vật chất cũng nhƣ tinh thần cho gia đình, không thể thực
hiện đƣợc nghĩa vụ giữa vợ chồng, không thể duy trì hạnh phúc gia đình, không
có trách nhiệm với gia đình, không cùng nhau xây dựng hôn nhân cũng nhƣ
trong việc chung tay nuôi dƣỡng con cái, việc duy trì hôn nhân chỉ là hình thức
bên ngoài. Một số trƣờng hợp khác, ngƣời phạm tội có thể là ngƣời mất tƣ cách,
có đạo đức xấu ảnh hƣởng đến việc giáo dục con cái. Luật HN&GĐ năm 2014
chƣa quy định căn cứ ly hôn trong trƣờng hợp vợ hoặc chồng đang chấp hành án
76
phạt tù. Trƣờng hợp vợ hoặc chồng xin ly hôn với chồng hoặc vợ đang chấp
hành án phạt tù thì Tòa án vẫn phải xem xét việc chấp hành án phạt tù của một
bên có làm mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích
hôn nhân không đạt đƣợc thì mới giải quyết cho ly hôn. Tại Sắc lệnh số 159/SL
ngày 17/11/1950 của Chủ tịch nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa quy định: Một
trong những căn cứ ly hôn là trƣờng hợp một bên vợ hoặc chồng can án phạt
giam. Nhƣng quy định này dựa trên yếu tố “lỗi” nên không phù hợp với pháp
luật xã hội chủ nghĩa, mặt khác nếu chỉ dựa vào việc can án phạt giam, bị đi tù
của một bên để giải quyết cho ly hôn thì không đảm bảo bản chất hôn nhân đã
tan vỡ. Bởi vì không phải tất cả các trƣờng hợp ngƣời bị phạt tù đều là xấu và họ
không có nghĩa vụ, trách nhiệm với gia đình, nên tác giả kiến nghị bổ sung quy
định căn cứ ly hôn khi chồng hoặc vợ phạm tội và đang chấp hành án phạt tù,
cụ thể nhƣ sau: “Trong trƣờng hợp vợ hoặc chồng của ngƣời đang chấp hành án
phạt tù yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn đối với trƣờng hợp ngƣời
chấp hành án phạt tù mà phạm tội liên quan đến quyền con ngƣời cụ thể: tội giết
ngƣời với khung hình phạt tù từ mƣời hai năm đến hai mƣơi năm, tù chung thân
hoặc tử hình theo quy định tại Điều 123 BLHS năm 2015”. Quy định này nhằm
tạo điều kiện cho vợ chồng thực hiện quyền đƣợc ly hôn khi một bên vợ, chồng
có đạo đức không tốt, vi phạm pháp luật. Quy định này cũng có ý nghĩa răn đe
những ngƣời là vợ, chồng chuẩn bị phạm tội phải suy nghĩ, đắn đo khi thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả của nó đối với chính mình.
* Ngoài ra, cần nâng cao hiệu quả xét xử của Tòa án, trình độ chuyên
môn, kỹ năng, nghiệp vụ cho cán bộ Tòa án đối với các vụ án ly hôn
Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án ly hôn, Hội đồng xét xử cần xem xét thận
trọng nội dung, nguồn và giá trị các chứng cứ chứng minh thực trạng hôn nhân
77
của đƣơng sự, chứng minh các yêu cầu về chia tài sản chung, trả nợ chung, nuôi
con chung. Khi các chứng cứ trên không có hoặc có nhƣng chƣa đầy đủ thì các
thành viên Hội đồng xét xử có thể trao đổi với nhau để thu thập, xác minh, làm
rõ trƣớc khi mở phiên tòa xét xử. Thẩm phán phải sử dụng các kỹ năng nhất định
khi tiến hành xét xử, phải có cái nhìn chính xác để nắm vững nội dung vụ án
phục vụ cho việc xét xử. Nhiều sự việc về HN&GĐ không dễ phơi bầy ra trƣớc
phiên tòa, sự khéo léo tinh tế của ngƣời Thẩm phán khi tiếp xúc với đƣơng sự là
điều cần thiết, để tìm ra đƣợc tính chất của vụ án, loại bỏ ly hôn giả tạo. Trong
khi đó, Hội thẩm nhân dân phải phát huy trách nhiệm của mình khi thực hiện vai
trò đại diện cho nhân dân khi tham gia xét xử, làm tốt công tác hòa giải hôn nhân
khi xét xử, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ, trẻ em; phòng ngừa,
chống các hành vi bạo lực gia đình, tuyên truyền, giáo dục, vận động các đối
tƣợng khắc phục những hành vi sai trái; phải làm rõ, đối chiếu các chứng cứ thu
thập đƣợc với thực trạng hôn nhân theo lời khai của đƣơng sự tại phiên tòa, kể cả
trƣờng hợp đƣơng sự đã thuận tình ly hôn trƣớc đó. Việc làm này vừa hạn chế
đƣợc những trƣờng hợp xin ly hôn chỉ do xích mích nhỏ nhặt, vợ chồng trẻ tuổi,
suy nghĩ nông cạn, tình trạng hôn nhân chƣa đến mức không thể hàn gắn đƣợc
hoặc tránh gặp phải những sai sót do đƣơng sự lừa dối để làm thủ tục ly hôn
nhằm tránh nghĩa vụ với bên thứ ba hoặc đi nƣớc ngoài trái pháp luật…
Để hạn chế việc giải quyết các vụ án ly hôn không đúng pháp luật, cần
thiết có những cán bộ xét xử có trình độ chuyên môn cao, điều trƣớc tiên phải
chú trọng đến chất lƣợng Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân tham gia hội đồng
xét xử. Căn cứ ly hôn nhƣ hiện nay khó áp dụng trên thực tế vì quy định còn
chung chung, phải hiểu, đánh giá nhƣ thế nào là quan hệ vợ chồng đã ở vào “tình
trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân
78
không đạt đƣợc” để Tòa án xét xử cho ly hôn, điều này phụ thuộc nhiều vào
năng lực, trách nhiệm và bằng niềm tin nội tâm của cán bộ xét xử. Đòi hỏi Thẩm
phán, Hội thẩm nhân dân trong quá trình giải quyết, xét xử vụ án HN&GĐ phải
phát huy hết năng lực, trách nhiệm và cái tâm với nghề nghiệp để giải quyết vụ
án thấu tình đạt lý.
Bên cạnh đó, cần tổ chức tập huấn chuyên sâu về giải quyết các vụ án
HN&GĐ, đặc biệt là các vụ án ly hôn, qua đó rút kinh nghiệm về chuyên môn,
chỉ ra những sai lầm, thiếu sót trong công tác xét xử, đồng thời nâng cao kỹ
năng, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, thẩm phán, thƣ ký, hội thẩm nhân dân. Có
chính sách đầu tƣ thỏa đáng cho việc đào tạo, bồi dƣỡng đội ngũ những ngƣời
làm công tác xét xử, trang bị đầy đủ tài liệu nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác
xét xử. Công việc này có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả, đảm
bảo tính thống nhất trong hoạt động giải quyết các vụ án ly hôn.
* Tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về HN&GĐ, nâng
cao trình độ hiểu biết pháp luật về ly hôn và căn cứ ly hôn cho người dân
Phổ biến, giáo dục pháp luật về HN&GĐ là phƣơng tiện truyền tải những
thông tin, yêu cầu, nội dung và các quy định pháp luật về HN&GĐ, trong đó có
các quy định liên quan đến ly hôn và căn cứ ly hôn. Qua đó để mọi ngƣời hiểu
biết về pháp luật, hiểu biết về quá trình thực hiện và áp dụng, những ƣu điểm,
hạn chế của quá trình điều chỉnh pháp luật và hiểu đúng pháp luật về HN&GĐ,
các quy định liên quan đến ly hôn và căn cứ ly hôn. Phổ biến giáo dục pháp luật
về HN&GĐ không đơn thuần là tuyên truyền các văn bản pháp luật về HN&GĐ,
các quy định có liên quan đến ly hôn và căn cứ ly hôn mà còn lên án các hành vi
vi phạm pháp luật nhƣ bạo lực gia đình, vi phạm quyền và nghĩa vụ giữa vợ và
79
chồng, giữa cha mẹ và con cái…, hình thành, củng cố tình cảm tốt đẹp của ngƣời
dân với pháp luật, đồng thời nâng cao hiểu biết pháp luật của ngƣời dân đối với
các văn bản pháp luật, các hiện tƣợng pháp luật trong đời sống, từ đó nâng cao ý
thức tự giác chấp hành pháp luật của ngƣời dân.
Cách thức phổ biến giáo dục pháp luật về HN&GĐ trong đó có các quy
định về ly hôn và căn cứ ly hôn nhƣ: thông qua báo chí hoặc trực tiếp tƣ vấn, phổ
biến thông qua hoạt động của các trợ giúp pháp lý từ các xã phƣờng, quận huyện
đến thành phố; hoặc thông qua mạng lƣới truyền thanh cơ sở, hoặc biên soạn,
phát hành sách hỏi đáp pháp luật bỏ túi, phổ biến thông qua các nhà trƣờng, hoặc
thông qua các cuộc thi, các câu lạc bộ pháp luật, hoặc là tổ chức xét xử lƣu động
các vụ án về HN&GĐ…
Kết luận chƣơng 3:
Nội dung chƣơng 3 chỉ ra những vƣớng mắc, bất cập khi Tòa án áp dụng
căn cứ ly hôn để giải quyết các vụ án ly hôn, do các căn cứ ly hôn còn chung
chung, cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền chƣa có văn bản hƣớng dẫn chi tiết về
căn cứ ly hôn, ngoài ra, để giải quyết đúng đắn vụ án ly hôn, còn phụ thuộc vào
trình độ năng lực và lƣơng tâm trách nhiệm của đội ngũ xét xử và trình độ nhận
thức của ngƣời dân về ly hôn và căn cứ ly hôn… Từ đó kiến nghị hoàn thiện
pháp luật về căn cứ ly hôn để Tòa án các cấp áp dụng thống nhất, đồng bộ tránh
đƣợc việc tùy tiện, xét xử không đúng ảnh hƣởng đến hạnh phúc không chỉ của
80
riêng mỗi gia đình mà còn ảnh hƣởng đến lợi ích của toàn xã hội.
KẾT LUẬN
Trong xã hội có giai cấp, hôn nhân là hiện tƣợng xã hội mang tính giai cấp
sâu sắc. Trong từng giai đoạn phát triển của lịch sử, ở mỗi chế độ xã hội khác
nhau, giai cấp thống trị đều thông qua nhà nƣớc, bằng pháp luật quy định chế độ
hôn nhân phải phù hợp với ý chí của nhà nƣớc. Tức nhà nƣớc bằng pháp luật quy
định trong những điều kiện nào thì cho phép xác lập quan hệ vợ chồng, đồng thời
xác định trong những điều kiện, căn cứ nhất định mới cho phép xóa bỏ quan hệ
hôn nhân. Đó chính là căn cứ ly hôn đƣợc quy định trong pháp luật của nhà
nƣớc.
Dƣới tác động của hội nhập, các luồng văn hóa mới thâm nhập vào Việt
Nam làm cho giới trẻ có những quan niệm mới về giá trị gia đình, về cuộc sống
hôn nhân. Hiện nay, tỷ lệ ly hôn ở Việt Nam đang ngày càng tăng. Do vậy, sự
điều chỉnh các quy định của pháp luật HN&GĐ về căn cứ để ly hôn là hết sức
cần thiết. Nhằm đảm bảo cho mối quan hệ vợ chồng thêm bền chặt và gắn kết lâu
dài, không thể coi việc ly hôn là một việc hết sức bình thƣờng và dễ dàng, kết
hôn đƣợc thì cũng ly hôn đƣợc. Sẽ làm mất đi giá trị và tính thiêng liêng của mối
quan hệ vợ chồng, gia đình, vì vậy thật sự cần thiết pháp luật phải quy định thật
chặt chẽ các căn cứ để tòa án xem xét cho ly hôn.
Thực tiễn việc áp dụng Luật HN&GĐ năm 2014 đã mang lại nhiều thuận
lợi, giải quyết đƣợc nhiều tình huống mà pháp luật trƣớc đây chƣa dự liệu. Tuy
nhiên, vẫn còn một số bất cập nhƣ chƣa có văn bản nào hƣớng dẫn, giải thích chi
tiết căn cứ cho ly hôn nên việc áp dụng, nhận định còn bất cập, chƣa thống nhất,
đồng bộ, nhiều thẩm phán vẫn theo lối tƣ duy cũ. Nhƣ vậy, việc nghiên cứu, tìm
81
hiểu căn cứ ly hôn hiện nay có ý nghĩa rất quan trọng, qua đó chỉ ra những bất
cập, đƣa ra những kiến nghị để giải quyết vụ án ly hôn đúng pháp luật, phán
quyết thấu tính đạt lý, bảo đảm và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công
82
dân, góp phần bảo đảm ổn định, an toàn đời sống xã hội.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Văn bản pháp luật
1. Bộ luật dân sự năm 2005
2. Bộ luật dân sự năm 1972 dƣới chính quyền Ngụy Sài Gòn
3. Bộ luật Gia Long
4. Bộ luật Hình sự năm 2015
5. Bộ luật Hồng Đức
6. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015
7. Dân luật Bắc kỳ năm 1931, dân luật Trung kỳ năm 1936, dân luật giản yếu
Nam kỳ năm 1883
8. Hiến pháp năm 2013
9. Luật Gia đình năm 1959 dƣới chế độ Ngô Đình Diệm
10. Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 1959, 1986, 2000, 2014
11. Luật Phòng chống bạo lực gia đình năm 2007
12. Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014 của Chính phủ quy định
chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hôn nhân và gia đình
13. Nghị định số 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ quy định
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng
chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình
14.Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm
phán TANDTC hƣớng dẫn áp dụng một số quy định của Luật HN&GĐ năm
83
2000
15. Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng thẩm
phán TANDTC hƣớng dẫn áp dụng thi hành một số quy định trong phần thứ nhất
“Những quy định chung” của Bộ luật Tố tụng dân sựđã đƣợc sửa đổi, bổ sung
theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự
16. Sắc lệnh số 159-SL ngày 17/11/1950 của Chủ tịch nƣớc Việt Nam dân
chủ cộng hòa quy định về vấn đề ly hôn
II. Sách, giáo trình, công trình khoa học, luận văn tham khảo
17. C.Mác-Ph.Ăngghen (1978), Bản dự luật về ly hôn, NXB. Sự thật
18. C.Mác-Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 1, Hà Nội, NXB. Sự thật, 1978,
tr. 119-121
19. C.Mác-Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 1, Hà Nội, NXB. Sự thật, 1978,
tr. 218
20. Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa luật (2004), Giáo trình Luật Hôn nhân và
gia đình, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội
21. Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình ,
NXB Công an nhân dân, Tr. 260
22. Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình Luật Hôn nhân và gia
đình Việt Nam, Nxb. Hồng Đức
23. Lênin, Về quyền dân tộc tự quyết, Toàn tập, Tập 25, NXB Tiến Bộ,
Matxcova 1980, tr. 335
24. LG. Ngô Văn Thâu (2005), Pháp luật về hôn nhân và gia đình trước và
84
sau cách mạng tháng tám, NXB Tƣ pháp Hà Nội
25. LS. Nguyễn Mạnh Bách (2005), Luật Dân sự Việt Nam lược khảo, Nhà
xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 91
26. Luật sƣ – Thạc sỹ Nguyễn Văn Cừ, Thạc sỹ Ngô Thị Hƣờng (2003), Một
số vấn đề lý luận và thực tiễn về Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 – NXB
Chính trị quốc gia Hà Nội
27. Nguyễn Ngọc Điện (2002), Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia
đình, tập I - Gia đình, Nxb. Trẻ TP. Hồ Chí Minh
28. Nhà pháp luật Việt – Pháp (1998), Bộ luật dân sự của nước Cộng hòa
Pháp, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội
29. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia (1995), Bộ luật dân sự và thương mại
Thái Lan, các quyển I-IV, Hà Nội
30. Hà Thị Mai Hoa (2007), “Căn cứ ly hôn và các trường hợp ly hôn theo
Luật HN&GĐ năm 2000”: luận văn thạc sỹ/PGS.TS Hà Thị Mai Hiên hƣớng
dẫn, Hà Nội, 2007
31. Nguyễn Thị Thơm (2015), “Căn cứ ly hôn theo Luật HN&GĐ Việt Nam
năm 2014”: luận văn thạc sỹ/TS Nguyễn Thị Lan hƣớng dẫn, Hà Nội, 2015
32. Nguyễn Thị Thúy Kiều (2013), "Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và
gia đình năm 2000 và thực tiễn áp dụng pháp luật tại Tòa án nhân dân trên
địa bàn thành phố Đà Nẵng": luận văn thạc sỹ/PGS.TS Hà Thị Mai Hiên
hƣớng dẫn, Hà Nội, 2013
85
III. Tạp chí, báo điện tử
33. Hoàng Thị Kim Quế (2012), Bảo vệ quyền lợi phụ nữ trong Luật Hồng
Đức (Lê Triều hình luật) tính tiến bộ nhân văn và giá trị đương đại, Tạp chí
khoa học ĐHQGHN, Luật học 28 (2012)
34. Nguyễn Ngọc Điệp, Trần Đông Phong, Hồ Thị Nệ (2001), Những điều
cần biết về ly hôn, NXB Phụ nữ
35. Nguyễn Thanh Tâm (2002), Ly hôn nghiên cứu trường hợp Hà Nội,
Trung tâm nghiên cứu khoa học về gia đình và phụ nữ, Hà Nội
36. Ths Bùi Thị Mừng (2011), Quyền kết hôn và ly hôn của phụ nữ Thái Lan
và Việt Nam nhìn từ góc độ so sánh luật, Tạp chí luật học số 2/2011, Tr 60
37. Ths Nguyễn Thị Thu Vân (2005),Căn cứ ly hôn trong cổ luật Việt Nam,
tạp chí Nhà nƣớc và pháp luật.- 8/2005.- Số 208.- Tr.55-61;…
38. Ths Phan Thị Luyện (2013), nguyên nhân ly hôn và một số giải pháp hạn
chế ly hôn, Tạp chí luật học số 9/2013
39. TS Ngô Thị Hƣờng (2007), Ảnh hưởng của giới đối với việc ly hôn ở Việt
Nam hiện nay, Tạp chí luật học số 3/2007
40. TS Ngô Thị Hƣờng (2013), Tác động của đạo đức đối với pháp luật Hôn
nhân và gia đình Việt Nam, Tạp chí luật học số 3/2013
41. Từ điển luật học, NXB Viện khoa học pháp lý – Bộ Tƣ pháp, Tr. 460.
42. Website: http://congbobanan.toaan.gov.vn
86
43. Website: http://vksbacgiang.gov.vn/chuyendephapluat/59/2898