
Ngày nhận bài: 30-07-2024 / Ngày chấp nhận đăng bài: 06-09-2024 / Ngày đăng bài: 08-09-2024
*Tác giả liên hệ: Huỳnh Ngọc Vân Anh. Khoa Y tế Công cộng, Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam.
E-mail: hnvanhytcc@ump.edu.vn
© 2024 Bản quyền thuộc về Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh.
8 https://www.tapchiyhoctphcm.vn
ISSN: 1859-1779
Nghiên cứu Y học
Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh; 27(4):08-15
https://doi.org/10.32895/hcjm.m.2024.04.02
Chất lượng cuộc sống và các yếu tố liên quan
tới sức khỏe phụ nữ mang thai trong 3 tháng
đầu thai kỳ tại bệnh viện Đại học Y Dược Thành
phố Hồ Chí Minh Cơ sở 2
Hoàng Phương Thảo1, Huỳnh Ngọc Vân Anh1,*, Võ Ý Lan1, Nguyễn Hữu Trung2
1Khoa Y tế Công cộng, Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam
2Khoa Phụ sản, Bệnh viện Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh Cơ sở 2, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam
Tóm tắt
Đặt vấn đề: Chất lượng cuộc sống (CLCS) của phụ nữ mang thai đang ngày càng được quan tâm và được coi là chỉ số
đánh giá tình trạng sức khỏe của thai phụ. Trong 3 tháng đầu thai kỳ là giai đoạn quan trọng cho việc hình thành các cấu
trúc cơ bản của thai nhi, bên cạnh đó là quá trình thay đổi tâm sinh lý của cơ thể gây ảnh hưởng tới sức khỏe thể chất và
tinh thần của thai phụ.
Mục tiêu: Nghiên cứu thực hiện nhằm xác định điểm CLCS trung bình và các yếu tố liên quan tới CLCS của thai phụ
trong 3 tháng đầu thai kỳ tại bệnh viện Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh (TPHCM) cơ sở 2 năm 2024.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Thiết kế nghiên cứu cắt ngang mô tả thực hiện trên 140 thai phụ đang mang
thai trong 3 tháng đầu thai kỳ đến khám tại khoa Phụ sản, bệnh viện Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh cơ sở 2 từ
tháng 3 đến tháng 5 năm 2024. Thai phụ đồng ý tham gia nghiên cứu được phỏng vấn trực tiếp bằng bằng bộ câu hỏi
soạn sẵn. Chất lượng cuộc sống được đo lường bằng thang đo NVPQoL. Kiểm định T không bắt cặp, kiểm định Anova
và mô hình hồi quy tuyến tính đa biến dùng để xác định các yếu tố liên quan tới CLCS của thai phụ.
Kết quả: Điểm trung bình chất lượng cuộc sống chung là 145,2 ± 31,8. Những yếu tố về trình độ học vấn, tuổi thai, tình
trạng dinh dưỡng, thay đổi cân nặng có mối liên quan tới chất lượng cuộc sống của thai phụ mang thai trong 3 tháng đầu
thai kỳ.
Kết luận: Những thai phụ có trình độ học vấn trên cấp 3, tuổi thai >7 tuần, thể trạng thiếu cân hoặc bị giảm cân trong
thai kỳ có điểm CLCS chung thấp hơn so với những thai phụ không có đặc điểm này.
Từ khóa: chất lượng cuộc sống; phụ nữ mang thai; NVPQoL

Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh * Tập 27 * Số 4 * 2024
https://doi.org/10.32895/hcjm.m.2024.04.02 https://www.tapchiyhoctphcm.vn | 9
Abstract
QUALITY OF LIFE AND FACTORS RELATE TO MATERNAL HEALTH IN THE
FIRST 3 MONTHS OF PREGNANCY IN HO CHI MINH CITY UNIVERSITY
MEDICAL CENTER, CAMPUS 2
Hoang Phuong Thao, Huynh Ngoc Van Anh, Vo Y Lan, Nguyen Huu Trung
Background: The quality of life (QOL) of pregnant women is drawing attention as an indicator for assessing the health
status of pregnant women. The first 3-month of pregnancy is an important period for featuring germinal and embryonic
stages, and in addition, a process of physiological changes in the mother's body that affect the physical and mental
health of the pregnant woman.
Objectives: The research aims to describe the average quality of life score and factors related to the QOL of pregnant
women in the first 3-month of pregnancy in Campus 2 of Ho Chi Minh University Medical Center in 2024.
Methods: A cross-sectional study was implemented on 140 pregnant women aged 18 years or older, who were in the
first 3-month of pregnancy and submitted to the Obstetrics and Gynecology Department in Campus 2 of Ho Chi Minh
University Medical Center from March to May 2024. Pregnant women, who agreed to participate in the study were
interviewed directly using questionnaire. The quality of life of the pregnant women was measured using the NVPQoL
scale. T-test, ANOVA, and multivariate linear regression models were used to identify factors related to the QoL of
pregnant women.
Results: The average overall quality of life score was 145,2 ± 31,8. Factors such as educational level, gestational age,
nutritional status, and weight change were associated with the quality of life of pregnant women in the first 3-month of
pregnancy.
Conclusion: Pregnant women with post-high-school education, gestational age over 7 weeks, underweight or weight
loss during pregnancy had lower overall QoL scores compared to those without these characteristics.
Keywords: quality of life; pregnant woman; NVPQoL
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới, trong năm 2020
mỗi ngày có khoảng 800 phụ nữ tử vong vì những nguyên
nhân có thể phòng ngừa được liên quan đến mang thai và sinh
con - nghĩa là cứ hai phút lại có một phụ nữ tử vong bất chấp
các tiến bộ y tế [1]. Tại Việt Nam, theo thống kê của Tổng cục
thống kê điều tra dân số và nhà ở năm 2020, dân số nữ là 48,8
triệu người, chiếm 48,8%. Phụ nữ trong độ tuổi sinh sản từ 15
đến 49 là 49,2% so với dân số cùng tuổi [2]. Do đó chăm sóc
sức khỏe sinh sản đang ngày càng được quan tâm. Mặc dù
mang thai không được coi là bệnh nhưng các quá trình sinh
học và xã hội xảy ra có thể mang lại rủi ro về sức khỏe cho
thai phụ [3]. Những thay đổi về thể chất và cảm xúc xảy ra
trong suốt thai kỳ và theo từng giai đoạn với các mức độ khác
nhau [4]. Ba tháng đầu thai kỳ là giai đoạn quan trọng cho
việc hình thành các cấu trúc cơ thể cơ bản của thai nhi, những
tác động tới sức khỏe thai phụ trong giai đoạn này có thể gây
ảnh hưởng tới cả mẹ và thai nhi [3].
Các thay đổi trong trong thời kỳ mang thai có ảnh hưởng
đáng kể đến chất lượng cuộc sống (CLCS) của thai phụ. Đánh
giá CLCS thai kỳ đang ngày càng phổ biến, cho phép xác định
các yếu tố ảnh hưởng tới sức khỏe thai kỳ theo cảm nhận của
thai phụ và dự đoán các vấn đề sức khỏe trong các tam cá
nguyệt tiếp theo [5]. CLCS thai phụ kém trong 3 tháng đầu
thai kỳ có liên quan đến việc tăng nguy cơ xảy ra các bất lợi
cho cả mẹ và con ở các tam cá nguyệt tiếp theo và sau sinh,
bao gồm: trầm cảm sau sinh, sinh con nhẹ cân [6-8]. Việc xác
định yếu tố nguy cơ và can thiệp cần thời gian để đem lại hiệu
quả cải thiện chất lượng cuộc sống thai phụ. Trên thế giới các
nghiên cứu về CLCS của phụ nữ mang thai có điểm CLCS

Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh * Tập 27 * Số 4 * 2024
10 | https://www.tapchiyhoctphcm.vn https://doi.org/10.32895/hcjm.m.2024.04.02
dao động từ 94,82 ± 39,84 đến 117,96 ± 43,66 [9-11]. Tại Việt
Nam, nghiên cứu của Nguyễn Thị Bích Ngọc thực hiện tại
bệnh viện Trung ương Huế cho thấy CLCS của thai phụ là
147,2 ± 39,12 và có liên quan tới nôn nghén trong nửa đầu
thai kỳ [12]. Tuy nhiên, mỗi giai đoạn của thai kỳ CLCS bị
ảnh hưởng bởi các yếu tố khác nhau. Cần xác định CLCS của
thai phụ và các yếu tố liên quan từ những tháng đầu thai kỳ
càng sớm càng tốt.
Khoa Phụ sản bệnh viện Đại học Y Dược Thành phố Hồ
Chí Minh (TPHCM) cơ sở 2 được phát triển từ năm 2001, thu
hút lượng lớn thai phụ đến khám với hơn 100.000 lượt khám
mỗi năm [13]. Bên cạnh việc phát triển đội ngũ nhân lực tay
nghề cao, trang thiết bị y tế hiện đại, Khoa còn tiến hành các
nghiên cứu để không ngừng nâng cao chất lượng phục vụ cho
công tác khám chữa bệnh và chăm sóc tại Khoa. Vì vậy
nghiên cứu này là cần thiết với mục tiêu nhằm xác định điểm
CLCS trung bình và các yếu tố liên quan tới sức khỏe phụ nữ
mang thai trong 3 tháng đầu thai kỳ tại đây.
2. ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Những thai phụ mang thai trong 3 tháng đầu thai kỳ đến
khám tại khoa Phụ sản bệnh viện Đại học Y Dược TPHCM
Cơ sở 2 trong thời gian từ tháng 3 đến tháng 5 năm 2024.
2.1.1. Tiêu chuẩn chọn
Những thai phụ từ 18 tuổi trở lên đang mang thai trong 3
tháng đầu thai kỳ đến khám tại bệnh viện Đại học Y Dược
TPHCM Cơ sở 2 trong thời gian tiến hành nghiên cứu.
2.1.2. Tiêu chuẩn loại
Những thai phụ đến khám trong tình trạng có thai chết lưu
tại thời điểm phỏng vấn hoặc thai phụ không có khả năng giao
tiếp hoặc không có khả năng nghe hiểu tiếng Việt.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang mô tả.
2.2.2. Cỡ mẫu
Áp dụng công thức ước lượng một trung bình với xác suất
sai lầm loại 1 là 0,05, sai số biên cho phép là 2 và độ lệch
chuẩn của chất lượng cuộc sống là 11,7 [14].
Từ đó tính được cỡ mẫu tối thiểu là 132 thai phụ.
Cỡ mẫu thực tế của nghiên cứu là 140 thai phụ.
2.2.3. Phương pháp thực hiện
Chọn mẫu theo phương pháp lấy mẫu thuận tiện, lấy liên
tục cho đến khi đủ mẫu từ tháng 3 đến tháng 5 năm 2024.
Những thai phụ đến khám có kết quả siêu âm thai ≤13 tuần
được nghiên cứu viên tiếp cận giải thích rõ ràng về mục đích
nghiên cứu và đảm bảo tính bảo mật thông tin, những thai phụ
đồng ý tham gia nghiên cứu được phỏng vấn bằng bộ câu hỏi
soạn sẵn gồm 5 phần (51 câu):
A – Đặc điểm dân số kinh tế xã hội,
B – Đặc điểm gia đình,
C – Đặc điểm sản khoa,
D – Đặc điểm bệnh lý,
E – Chất lượng cuộc sống (NVPQoL).
Thang đo Chất lượng cuộc sống NVPQoL (Health-Related
Quality of Life for Nausea and Vomiting during Pregnancy)
Thang đo NVPQoL được phát triển tại Canada năm 2002
bao gồm 30 câu chia thành 4 lĩnh vực: Triệu chứng lâm sàng
và các yếu tố làm nặng (9 câu), Mệt mỏi (4 câu), Cảm xúc (7
câu), Hạn chế (10 câu) [15]. Mỗi nội dung được tính điểm
bằng thang đo Likert 7 mức độ ứng với 1 điểm – tất cả thời
gian, 2 điểm – hầu hết thời gian, 3 điểm – nhiều khi, 4 điểm -
thỉnh thoảng, 5 điểm – một vài khi, 6 điểm – hầu như không
có, 7 điểm – không hề có. Điểm CLCS chung bằng tổng điểm
của 4 lĩnh vực, dao động từ 30 đến 210. Điểm số càng cao thể
hiện CLCS càng tốt. Thang đo đã được chứng minh là có tính
giá trị nội tại với chỉ số Cronbach’s alpha dao động từ 0,70 đến
0,98 [9, 16, 17]. Nghiên cứu thử trên 20 thai phụ trong 3 tháng
đầu thai kỳ tại bệnh viện ĐHYD TPHCM Cơ sở 2 cũng cho
kết quả Cronbach’s alpha là 0,88.
2.2.4. Phân tích thống kê
Số liệu được nhập liệu bằng phần mềm Epidata 4.6 và xử
lý phân tích số liệu bằng phần mềm Stata 17.0.
Sử dụng tần số và tỷ lệ % mô tả: nhóm tuổi, trình độ học
vấn, nghề nghiệp, người sống chung, trình độ học vấn của
chồng, nghề nghiệp của chồng, tình trạng dinh dưỡng, thay
đổi cân nặng, kế hoạch mang thai, số con đã sinh, tiền sử

Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh * Tập 27 * Số 4 * 2024
https://doi.org/10.32895/hcjm.m.2024.04.02 https://www.tapchiyhoctphcm.vn | 11
bỏ/sảy thai.
Sử dụng trung bình và độ lệch chuẩn mô tả tuổi thai, điểm
CLCS.
Kiểm định T không bắt cặp để xác định mối liên quan giữa
CLCS chung với các yếu tố: tình trạng học vấn, sống chung
với ba mẹ ruột, tuổi thai.
Sử dụng phép kiểm Anova để xác định mối liên quan giữa
CLCS chung với các đặc điểm: tình trạng dinh dưỡng, thay
đổi cân nặng. Kiểm định có ý nghĩa thống kê khi p <0,05.
Mô hình hồi quy tuyến tính đa biến dùng để xác định các
yếu tố thực sự có liên quan tới CLCS của thai phụ trong 3
tháng đầu thai kỳ với ngưỡng ý nghĩa thống kê khi p <0,05.
3. KẾT QUẢ
Trong thời gian nghiên cứu từ tháng 3/2024 đến tháng
5/2024 tại khoa Phụ sản bệnh viện Đại học Y Dược TPHCM
Cơ sở 2, nhóm nghiên cứu tiếp cận được 150 thai phụ tuy nhiên
có 8 thai phụ có tình trạng thai chết lưu tại thời điểm khảo sát,
2 thai phụ từ chối tham gia. Do đó, kết quả phân tích được ghi
nhận trên 140 thai phụ.
Kết quả nghiên cứu cho thấy độ tuổi trung bình của thai phụ
tham gia nghiên cứu là 30,7 ± 4,9 trong đó những thai phụ tham
gia tập trung nhiều ở nhóm tuổi 25 – 29 tuổi và 30 – 34 tuổi.
Khoảng 3/4 thai phụ tham gia nghiên cứu có trình độ học vấn
trên cấp 3. Thai phụ có nghề nghiệp là nhân viên văn phòng
chiếm 52,9% (Bảng 1).
Bảng 1. Đặc điểm dân số kinh tế xã hội (n=140)
Đặc tính mẫu Tần số
(n) Tỷ lệ
(%) Đặc tính mẫu Tần số
(n) Tỷ lệ
(%)
Nhóm
tuổi
18-24 14 10,0
Người sống
chung
Chồng 133 95,0
25-29 46 32,9 Cha mẹ chồng 30 21,4
30-34 55 39,3 Cha mẹ ruột 28 20,0
≥ 35 25 17,8 Anh/Chị/Em ruột 15 10,7
Trình độ
học vấn
≤ Cấp 3 35 25,0 Anh/ Chị/ Em chồng 15 10,7
Trên cấp 3 105 75,0 Khác (Bạn bè, dì, giúp việc) 3 2,1
Nghề
nghiệp
Nhân viên văn phòng 74 52,9
Nghề nghiệp
của chồng
Nhân viên văn phòng 68 48,6
Kinh doanh/ buôn bán 23 16,4 Kinh doanh/ buôn bán 39 27,9
Nội trợ 20 14,3 Lao động tự do 23 16,4
Lao động tự do 13 9,3 Công nhân 10 7,1
Công nhân 10 7,1 Trình độ học
vấn của
chồng
≤ Cấp 3 39 27,9
Tuổi thai TB ± ĐLC 8,8 ± 2,9 Trên cấp 3 101 72,1
GTNN – GTLN 4,5 – 13
Thay đổi cân
nặng
Giảm cân 17 12,2
Tình trạng
dinh
dưỡng
Thiếu cân 15 14,3 Không tăng, tăng ≤ 1kg 73 52,1
Bình thường 80 57,1 Tăng > 1kg 50 35,7
Thừa cân 25 17,9 Số con đã
sinh
Chưa có 75 53,6
Béo phì 20 14,3 ≥ 1 con 65 46,4
Kế hoạch
mang thai
Có kế hoạch 103 73,6 Tiền sử
bỏ/sảy thai
Có 35 25,0
Ngoài kế hoạch 37 26,4 Không 105 75,0
Tất cả các thai phụ tham gia nghiên cứu đều sống chung với
chồng/bạn tình hoặc người thân. Trong đó sống chung với
chồng/bạn tình chiếm 95%. Trình độ học vấn của chồng/bạn
tình thai phụ có 72,1% trên cấp 3. Chồng/bạn tình của thai phụ
tham gia nghiên cứu có nghề nghiệp đa dạng: 48,6% nhân viên
văn phòng, 27,9% làm kinh doanh/buôn bán, 16,4% làm lao
động tự do và 7,1% làm công nhân (Bảng 1).
Những thai phụ tham gia nghiên cứu có tuổi thai trung bình
là 8,8 ± 2,9 tuần, trong đó có 73,6% thai kỳ trong kế hoạch.
Có 53,6% thai phụ chưa có con, 46,4% thai phụ đã có từ 1

Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh * Tập 27 * Số 4 * 2024
12 | https://www.tapchiyhoctphcm.vn https://doi.org/10.32895/hcjm.m.2024.04.02
con trở lên. Có 10,7% thai phụ có tình trạng dinh dưỡng thiếu
cân và 57,1% có tình trạng dinh dưỡng bình thường. 12,2%
thai phụ giảm cân trong thời gian 3 tháng đầu, 52,1% không
tăng cân hoặc tăng từ 1kg trở xuống (Bảng 1).
Bảng 2. Điểm chất lượng cuộc sống (n=140)
Lĩnh vực Trung
bình
Độ
lệch
chuẩn
Giá trị
nhỏ
nhất
Giá trị
lớn
nhất
Lâm sàng và các
yếu tố làm nặng 45,3 12,3 9 63
Mệt mỏi 16,5 5,6 4 28
Cảm xúc 36,2 6,4 17 49
Hạn chế 47,3 13,4 10 70
CLCS chung 145,2 31,8 55 203
Điểm trung bình CLCS của 4 lĩnh vực đều cao hơn 50% so
với tổng điểm tối đa của từng lĩnh vực, trong đó điểm CLCS
lĩnh vực điểm CLCS trung bình thấp nhất ở lĩnh vực mệt mỏi
16,5 ± 5,6 và cao nhất ở lĩnh vực hạn chế 47,3 ± 13,4. Điểm
trung bình CLCS chung là 145,2 ± 31,8, dao động từ 55 đến
203 điểm (Bảng 2).
Bảng 3. Các yếu tố liên quan tới CLCS chung (n=140)
Đặc điểm Tần số CLCS chung Giá trị p
Trình độ học vấn
≤ Cấp 3 35 154,7 ± 29,3 0,041a
Trên cấp 3 105 142,0 ± 32,2
Sống với ba mẹ ruột
Có 28 134,4 ± 30,9 0,046a
Không 112 147,9 ± 31,6
Tuổi thai
≤ 7 tuần 48 158,1 ± 27,6 <0,001a
> 7 tuần 92 138,5 ± 31,9
Thay đổi cân nặng
Giảm cân 17 110,2 ± 26,1
<0,001b
Không tăng, tăng
≤1kg 73 152,9 ± 32,1
Tăng > 1kg 50 145,8 ± 25,0
a Kiểm định T không bắt cặp b Kiểm định Anova
Nghiên cứu ghi nhận có mối liên quan có ý nghĩa thống kê
giữa điểm CLCS chung với trình độ học vấn (p=0,041), sống
với ba mẹ ruột (p=0,046), tuổi thai (p <0,001), thay đổi cân
(p <0,001) (Bảng 3).
Bảng 4. Mô hình hồi quy tuyến tính đa biến giữa điểm CLCS chung với các yếu tố liên quan (n=140)
Hệ số thô KTC 95% thô Giá trị p thô Hệ số hc KTC 95% hc Giá trị p hc
Trình độ học vấn
≤ Cấp 3
Trên cấp 3 -12,7 (-24,9) – (-0,6) 0,041 -13,9 (-24,9) – (-2,8) 0,014
Sống với ba mẹ ruột
Không
Có -13,4 (-26,6) – (-0,2) 0,046 -0,7 (-13,2) – 11,9 0,914
Tuổi thai
≤ 7 tuần
> 7 tuần -19,6 (-30,4) – (-8,9) <0,001 -15,9 (-26,1) – (-5,7) 0,003
Tình trạng dinh dưỡng
Nhẹ cân
Bình thường 19,5 1,9 – 37,0 0,030 16,8 0,2 – 33,5 0,047
Thừa cân 13,8 (-6,6) – 34,2 0,182 12,7 (-6,2) – 31,5 0,188
Béo phì 8,5 (-12,8) – 29,8 0,431 6,0 (-14,3) – 26,3 0,560
Thay đổi cân nặng
Giảm cân
Không tăng, tăng ≤ 1kg 42,8 27,3 – 58,3 <0,001 35,4 20,1 – 50,7 <0,001
Tăng cân > 1kg 35,6 19,5 – 51,8 <0,001 30,7 14,3 – 47,1 <0,001