Nghiên cứu trao đôỉi

47

CHÚ ĐÊ PHỤ NỮ■ TỪ VĂN HỌC DÂN GIAN ĐẾN VĂN HỌC ■ HIỆN ĐẠI VIỆT NAM

■________ ■________________

TRẦN NGỌC dung'■’

ể đến với chủ đề “Phụ nữ từ văn học dân gian đến văn học hiện đại Việt Nam” có đường đi muôn ngả. Và những cuộc hành trình đi tìm vẻ đẹp đích thực của người phụ nữ vẫn luôn luôn là "miền đất hứa” cho các công trình nghiên cứu không phải chỉ của văn học, mà còn là của nhiêu ngành nghệ th u ật khác (hội hoạ, kiên trúc, sân khấu, điện ảnh, phim truyền hình, kịch truyền thanh...). Trong thực tế, con người bao giờ cũng là đối tượng nhận thức trung tâm của văn học. Lịch sử văn học thực chất là lịch sử của việc nhận thức, khám phá, thể hiện con người thông qua những nhân vật văn học. Từ điên thuật ngữ văn học từng quan niệm: “Nhân vật văn học chính là con người cụ thê được miêu tả trong tác phẩm văn học”. Từ xa xưa, trong văn học dân gian (chủ yếu là trong truyện cổ tích và trong ca dao) người phụ nữ đã được nhìn nhận, miêu tả rấ t chi tiết vởi chủ đề: quyền sống, quyền làm người, từ đó nhằm bộc lộ tư tưởng dân chủ và bình đẳng. Với người phụ nữ đó còn là tiếng nói khát khao được tự do yêu đương, giải phóng khỏi sự ràng buộc của xã hội phong kiến vì chính nghĩa và tình yêu. Trong văn học dân gian, truyện cổ tích là hiện thân của những giấc mơ đẹp của người

TS. Học viện Báo chí và tuyên truyền

Việt cô hướng tới một xã hội công bằng, con người được sông trong no ấm, dân chủ và hạnh phúc. Các tác giả dân gian đã thể hiện những ước mơ đó qua hai tuyến nhân vật rõ ràng đó là cái thiện và cái ác. Trong truyện cố tích, tiêu chí vê' cái thiện nằm ở chính nghĩa. Có chính nghĩa thì sẽ gặp được người tốt giúp đỡ, nhận được những phép màu kì diệu. Còn cái ác (phi nghĩa) thì nhất định sẽ bị trừng phạt thích đáng. Bởi thê nhân vật nữ trong cố tích người Việt thường có sự phân tuyển rõ ràng theo tiêu chí “tuyệt đối”. Tuyệt đôi tót hoặc tuyệt đỗì xấu, không có nhân vật nào phức tạp, bí ẩn. Nhân vật nữ đại diện cho lí tưởng tốt đẹp của nhân dân thường có sô' phận bi thảm, tiêu biểu cho những con người “thấp cổ bé họng”. Đó thường là những kẻ mồ côi, không nơi nương tựa, bị tưốc đoạt mọi quyền lợi, có khi phải chết đi sông lại nhiều lần như cô Tấm (Tấm Cám). Chính sự quan tâm đến sô' phận những con người nhỏ bé đã thể hiện giá trị hiện thực và nhân đạo của truyện cổ tích. Phẩm chất người phụ nữ trong cổ tích chính là đại diện cho những phẩm chất cao quý của nhân dân. Trong cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác thường quyết liệt, song cuổì cùng bao giờ cái thiện cũng chiến thắng. Những nhân vật đại diện cho cái thiện, cho lí tưởng và khát vọng vê' tự do, hạnh phúc và công bằng xã hội, bao giờ cũng là những người có phẩm chất tốt đẹp: biết thương người, biết làm tròn bổn phận, biết thực hiện lời hứa, luôn tuân theo những chuẩn mực đạo đức truyền thông của nhân dân. Họ là những người phụ nữ giàu lòng nhân hậu, bao dung. Cô ú t lấy Sọ Dừa (Sọ Dừa), Tiên Dung lấy Chử Dồng Tử (Chử Đồng Tử), cô Tấm lấy vua (Tăm Cám)... đó chính là thể hiện ước mơ vê' sự công bằng và dân chủ, theo quan điểm của người Việt xưa kia. Các nhân vật phụ nữ trong truyện cô

TRẦN NGỌC DUNG

48

tích dường như luôn được tác giả dân gian nâng niu, trân trọng và có đời sông nội tâm phong phú. Đoạn đầu đời, họ có thê gặp rất nhiều sự bất công, bị đe doạ, trắc trở, song cuối cùng bằng sự kiên trì nhẫn nại họ đểu chiến thắng và hạnh phúc đã mỉm cười với những người phụ nữ ấy. Tấm mỗi lần hồi sinh lại duyên dáng hơn xu'a (Tâm Cám), cô Út chui ra từ bụng cá vẫn hồn nhiên tươi tắn (Sọ Dừa), người vợ của anh học trò nghèo khi trú t bỏ lốt cóc là một cô gái thật xinh đẹp (Lấy vợ Cóc).

riêng, những khổ sở bất hạnh của người phụ nữ, ca dao xứng đáng là những bài ca mẫu mực về giá trị nhân đạo. Người phụ nữ trong ca dao còn là biểu tượng của vẻ đẹp truyền thống, họ ý nhị và kín đáo: "Miệng cười như thê hoa ngâu/ Cái khăn đội đầu như thể hoa sen". Đặc biệt vẻ đẹp tâm hồn (biết hi sinh vì hạnh phúc gia đình, biết “thương”...) của người phụ nữ luôn được ca dao đề cao. Khi đang yêu, họ biết thương bạn tình, khi làm vợ họ tiếp tục thương chồng - thương đến cháy lòng: "Qua đình nga nón trông đ ìn h / Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu"... Trong tình yêu lứa đôi họ yêu thiết tha, say đắm, chân chất và biết vượt khó: "Em nghe anh đau đầu chưa k h á /E m băng dồng chỉ sá hái nam lá cho anh xông /Ước chi cho nên vợ nên chổng/Đô mồ hôi em chăm, ngọn gió lồng thì em che"... Đặc biệt trong hôn nhân, họ là những người nhân hậu, vị tha và chung thuỷ hết mực: "Chồng em áo rách em thương/ Chồng người áo gấm, xông hương mặc người", hoặc: "Anh đi làm mộc nơi nao/ Đê em gánh đục, gánh bào đi theo"...

Có một thể loại tiêu biểu nữa của văn học dân gian hay hướng điểm nhìn tói người phụ nữ - đó là ca dao. Ca dao là hình thức đê người xưa thố lộ tâm tình. Mà phụ nữ thường huống nội và có nhu cầu tâm tình, có lẽ vì thê trong ca dao những cung bậc về cõi lòng người phụ nữ thường được giãi bày nhiêu hơn nam giới. Trong ca dao, nhân vật phụ nữ hiện lên thông qua những tâm trạng, những nỗi niềm riêng tư và mang dấu ấn xã hội rấ t rõ nét. Hai tình cảm nôi bật trong những lời ca của người phụ nữ xưa có thể tập trung trong hai từ “than” và “thương”. Xã hội phong kiến vối quan niệm “trọng nam khinh nữ” đã xô đẩy nhiều phụ nữ đến với sự bất hạnh và đắng cay. Họ phải sông trong cảnh phụ thuộc và không tự quyết định được số phận của mình, họ than: "Thăn em như hạt mưa sa/ Hạt rơi xuống đất, hạt sa vườn đào", hoặc "Thân em như tâm lụa đào / Phất phơ giữa chợ biết vào ta y ai", và: ''Em n h ư con hạc giữa đ ìn h / Muốn bay không cất nổi mình mà bay".v.v

Ca dao miêu tả th ậ t thấm thìa tâm trạng đau đón của những cô gái bị ép duvên, những người vợ có chồng ăn chơi, bạc tình bạc nghĩa, cảnh làm lẽ, cảnh những nàng dâu có mẹ chồng ác nghiệt v.v... Chú ý đi sâu mô tả những nỗi niềm Trong văn học trung đại Việt Nam khi viêt vê người phụ nữ, một mặt vẫn có sự kê thừa tư tưởng của văn học dân gian, song mặt khác, “Hồng nhan bạc phận” cũng được xem là tư tưởng chủ đạo của các tác giả. Nàng Vũ Nương hiếu thảo, đảm đang, chung thuỷ thì bị ngờ oan là ngoại tình, đến nỗi phải lấy cái chết để minh oan - mà khi chêt đi rồi trong lòng vẫn mang nặng nỗi oan uống đó (Chuyện người con gái Nam Xương - Nguyễn Dữ). Người cung nữ xinh đẹp, tài hoa, khát khao hạnh phúc thì bị nhà vua bỏ rơi, sông cô đơn, mòn mỏi, lạnh lẽo nơi cung cấm, chôn vùi tuổi thanh xuân trong cung điện thâm u (Cung oán ngẫm khúc - Nguyễn Gia Thiều). Người phụ nữ chỉ có một khát vọng rất bình thường là được chung sông cùng vởi người

Nghiên cứu trao đôi

49

biểu là nhân vật Mai (Nửa chừng xuân - Khái Hưng), nhân vật Loan (Đoạn tuyệt - Nhất Linh). Những người phụ nữ này đòi hỏi quyền được yêu, được bình đẳng, chông đốỉ tư tưởng đa thê và gia trưởng trong các gia đình phong kiến.

Với dòng văn học hiện thực phê phán, chúng ta bắt gặp quan niệm: con người là sản phẩm, là tiêu bản của hoàn cảnh, khi phân tích, mổ xẻ con người, các nhà văn đã khám phá những tác động của hoàn cảnh đôi với con người. Tuy nhiên quan niệm đó được thể hiện ở những cấp độ rấ t khác nhau đối với từng tác giả. Ngô Tất Tô vốn xuất thân là một nhà Nho, lại thấm nhuần đạo đức truyền thông của dân tộc, nên hình ảnh nhân vật nữ nổi tiếng của ông (chị Dậu) vừa mang cái nhìn hiện thực, đồng thời lại vẫn mang dấu ấn của cái nhìn về người phụ nữ trong văn học dân gian ("Gần bùn mà chang hôi tanh m ùi bùn") và văn học trung đại. Chị chịu bao nhiêu sự chèn ép tàn bạo của hoàn cảnh: đói ăn triển miên, chạy vạy vay nợ, lo sưu thuế (cho cả người đang sông lẫn người đã chết). Chị hết bản con, rồi bán chó, mà sắc đẹp và phẩm chất vẫn không thay đổi. Còn Nam Cao, quá trình sáng tác của ông giông như một cuộc hành trình đi tìm kiếm, khảm phả vẻ đẹp còn tiềm ẩn, còn sót lại trong con người. Ông quan niệm: “Cái bản tính tốt của con người ta thường bị những nỗi lo lắng, buồn đau, ích kỉ, che lấp m ất” (Đời thừa) và vối nguyên tắc “cô tìm hiếu họ”, Nam Cao đã phát hiện được ra những phẩm chất tốt đẹp của những người phụ nữ - như n h â n v ậ t N hu ( ơ hiền ), D ần (Một đám cưới), Thị Nở (Chí Phèo)... chồng thân yêu, song lại rơi vào cảnh đau đớn “tử biệt sinh li”, đằng đẵng chờ đợi không biết có ngày gặp lại. (Chinh phụ ngâm - Đặng Trần Côn). Nàng Kiểu của Nguyễn Du xinh đẹp tài hoa là thế, nhung lại bị clập vùi trong cảnh "Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần", liên tiếp bị đầy đọa cả vê thê xác lẫn tinh thần đê rồi phải thốt lên (thực tê là sự đầu hàng hoàn cảnh) rằng: "Thản lươn bao quan lấm đầu ỉ Chút lòng trinh bạch tư sau xin chừa!". Đây không chỉ là bi kịch của riêng nàng Kiểu, mà còn là bi kịch chung của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Mặt khác văn học trung đại Việt Nam, bước đầu đã phản ảnh được quan niệm vê con người cá nhân trong xã hội. Nhiều nhân vật nữ trong giai đoạn này cũng thể hiện sự phản kháng, sự tô' cáo xã hội cũ, nêu lên nhiều suy nghĩ, nhiều quan điểm chông đôi lại quan điểm của xã hội phong kiến (tiêu biểu hơn cả là thơ Hồ Xuân Hương). Đặc biệt văn học đã chú ý khám phá nội tâm nhân vật. Các tác giả (Nguyễn Dữ, Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm, Hồ Xuân Hương..) khi mô tả người phụ nữ, thường để cho nhân vật bộc bạch trực tiếp những nỗi đau khổ, những niềm riêng tư (sự tự ý thức vê mình): "Đau đớn thay phận đàn bà/ Lời rang bạc mệnh củng là lời chung" (Truyện Kiều - Nguyễn Du), hoặc bộc lộ những phản ung: "Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng/ Chém cha cái kiếp lấy chồng chung"... (Hồ Xuân Hương). Có thể khẳng định rằng cảm giác mất mát hạnh phúc và nỗi khát khao hạnh phúc là hai tâm trạng, hai nỗi niềm thường gặp nhất ở các nhân vật nữ trong văn học trung đại Việt Nam.

Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công dã mở ra một kỉ nguyên mới cho dân tộc. Cùng vối sự thay đổi của lịch sử, và sự đi lên của đất nước, cách nhìn nhận, mô tả vê con người của các nhà văn Bước sang thế kỉ XX (thê kỉ của nên văn học hiện đại), các nhà văn Tự lực văn đoàn đã mở đầu cho phương pháp miêu tả thê giới nội tâm con người - đặc biệt là người phụ nữ - th ậ t sâu sắc và tinh tế. Tiêu

TRẦN NGOC DUNG

50

thời kì này có sự chuyển biến rõ rệt. Hình tượng người phụ nữ không còn là những nhân vật chịu nhiều bất hạnh vì bị xã hội cũ vùi dập, không còn là những người phụ nữ “nổi loạn” đòi bình đẳng như trong các tiểu thuyết của Tự lực văn đoàn nữa. Con người Việt Nam thời kì này là “con người mới”, “con người cộng đồng” gắn liền với cuộc chiến dấu bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy các nhân vật nữ đều được xây dựng theo cảm quan: con người cộng đồng. Họ là những “o du kích nhỏ gương cao súng", những "người mẹ cầm súng", những "người con gái Việt Nam"... Đây là những cô gái, những người vợ, người mẹ rất đỗi bình thường, trong cuộc sông hàng ngày, dịu dàng, nhân hậu, yêu thương chồng con hết mực. Song, mặt khác trong chiến đấu lại là những phụ nữ dũng cảm. Đó là cô Mẫn (Mẫn và tôi - Phan Tứ), là chị Ut Tịch (Người mẹ cầm súng - Nguyễn Thi), là Mẹ Suốt (Mẹ Suốt - Tô" Hữu), là chị Sứ (Hòn Đất - Anh Đức)... Có thê coi đây là những nhân vật phụ nữ yêu nước điển hình của văn học trong suốt 30 năm chiến tranh (1945 - 1975).

Năm 1975 cuộc kháng chiến chông Mĩ kết thúc. Từ 1975 đến 1986 (văn học 10 năm sau hoà bình) vẫn có sự tiếp nô'i của văn học 30 năm chiến tranh trước đó. Văn học chủ yếu nói vê những vấn đê hậu chiến. Thời kì trước, nêu các nhân vật nữ được nhìn nhận chủ yếu dưới góc độ anh hùng trong chiến đấu, thì trong văn học 10 năm sau chiên tranh, sự nhìn nhận các nhân vật nữ đều nghiêng nhiều về khía cạnh đời tư, về những nỗi đau thời hậu chiến. Họ là những con người chịu nhiều mất mát, đau thương sau chiến tranh (nhân vật Thai trong Cỏ lau, Quỳ trong Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, mẹ Em trong Miền cháy của nhà văn Nguyễn Minh Châu, một số nhân vật nữ trong Bi kịch nhỏ của Lê Minh Khuê)... Sau nãm 1986, với chủ trương “cởi trói” cho văn nghệ sĩ, văn học Việt Nam bưốc vào một cuộc thay đổi lốn, một sô" văn nghệ sĩ tiếp tục “lột xác” cho phù hợp với hoàn cảnh và thời đại mới. Con người được mô tả trong tác phẩm văn học tỏ ra đa dạng và phong phú, mang màu sắc cá nhân riêng biệt, chứ không còn đồng nhất trong một quan niệm chung như trước đây nữa. Các nhân vật nữ giờ đây xuất hiện trong tác phẩm mỗi người một vẻ, một dấu ấn riêng, đem lại sự phong phú cho văn học và phần nào đã làm thoả mãn nhu cầu của độc giả. Có thể tìm thấy các nhân vật nữ trong một sô tác phẩm của nhà văn Ma Văn Kháng vói hai kiểu dáng: dấu ấn truyền thông trong văn học dân gian và người phụ nữ của thời hiện đại. Đó là những nhân vật rất đẹp, giàu thiên tính nữ trong truyện của Nguyễn Huy Thiệp. Đó là sô' phận những người phụ nữ nhỏ bé - (một nửa của nhân loại) trong truyện ngắn Võ Thị Hảo. Đó là những người phụ nữ và những dứa trẻ trong gia đình vói những nỗi niềm, những bi kịch trước sự rạn nứt của gia đình truyền thông của nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ. Đó là những người phụ nữ truyền thông với những phẩm chất đẹp và những người phụ nữ hiện đại với những khủng hoảng tinh thần của nhà văn Lê Minh Khuê. Nhìn chung văn học từ sau thời kì đổi mới đến nay phác hoạ tương đô"i hoàn thiện chân dung người phụ nữ Việt Nam hiện đại. Đó là những con người phức tạp nhiều mâu thuẫn (Phù thuỷ, Cõi mê, Hậu thiên đường, cầ u thang - Nguyễn Thị Thu Huệ). Trong con người của họ cũng đầy sự bí ẩn (Người đàn bà và những giấc mơ - Y Ban, Con dại của đá - Võ Thị Hảo...), ớ những truyện này các tác giả đã có hứng thú đi sâu khám phá, phân tích và biểu hiện chiều sâu tâm lí của con người, mô tả thành công nhân vật nữ vói tư cách con

Nghiên cứu trao đổi

51

NGHỀ ĐÁNH BAT v à ...

(Tiếp theo tr a n g 41)

người tự nhận thức. Họ hay suy nghĩ, hay tự nhìn lại chính mình để phán xét, sám hôi nhằm tự hoàn thiện mình trong cuộc sông. Tiêu biểu là các nhân vật trong tác phẩm Cát đợi, Người đàn bà có ma lực, Biển ấm (Nguyễn Thị Thu Huệ); Người đàn bà và những giấc mơ, Sau chớp là bão giông (Y Ban)... Các nhân vật nữ ở đây đêu đã từng trải nghiệm qua những nỗi đau - có khi là nỗi đau do chiến tranh để lại, có khi do gặp bi kịch trong tình yêu hoặc trong hôn nhân v.v

Tháng 7, Quang Lang có hội Rước nước reo ống. Trong hội này, người ta chủ yếu tố chức tế lễ, nghi thức rước nước cũng giông như lễ rưốc trong hội tháng Giêng. Hội có các trò chơi như đánh cờ, chọi gà, tổ tôm diêm,... Từ nãm 1998 đến nay, khi ra biển rước nước, người ta tổ chức diễn trò reo ông đánh cá. Tuy nhiên, diễn trò này cũng cần nhiêu chi phí để trang bị nên năm nào có điều kiện thì làng mới tổ chức.

Quang Lang là một làng biên đặc sắc vởi hai nghê chủ yếu là đánh bắt và chê biến hải sản. Đến nay, hai nghề này đã có sự phát triển mạnh mẽ, một sô phương thức sản xuất thô sơ, cô xưa đã được thay thê bởi các phương thức sản xuất mới, hiện đại. Tuy nhiên, những kiêng kị, tục lệ và lễ hội của nghê cá thì ngày càng được, thực hành một cách đầy đủ hơn, chu đáo hơn. Nghê cá nơi đây lại có cội nguồn hình thành riêng, gắn chặt với con người và lịch sử hình thành của làng. Bởi vậy, có thể nói, Quang Lang là một làng biển cổ truyền và độc đáo.d

P.T.H .L

(1) Xem bài “Lễ hội Bà chúa Muôi” đàng trên Tạp chí Nguồn sáng dân gian, sô' 3 năm 2004

(2) Phạm Minh Đức. Phạm Thị Nết. Phạm Thị Lan, Hội lễ dàn gian ở Thái Bình, Sớ Văn hoả thông tin Thái Bình xuất bản, 1991, tr.90

(3) Theo Báo cáo sưu tầm: “Hội làng Quang Lang với tục múa ông Đùng bà Đà và tục rước nước gieo ông trên biển” của Sơ Vàn hoá thong- tin tỉnh Thái Bình, 1999

Phác thảo tương đôi có hệ thông chủ đề phụ nữ trong lịch sử văn học Việt Nam (từ văn học dân gian đến văn học hiện đại), dễ dàng nhận thây văn học ngày nay vẫn kê thừa được những quan niệm tiến bộ của cha ông ta vê người phụ nữ. Từ xưa đến nay tuy người phụ nữ phần lốn đều phải gánh chịu những nỗi đau khôn cùng, sự hi sinh, mất mát lớn lao, nhưng dù trong hoàn cảnh nào tâm hồn họ vẫn ánh lên vẻ đẹp dịu dàng và nhân hậu, vị tha và bao dung. Họ có “th an ” nhưng vẫn biết “thương” khôn cùng. Văn học ngày nay tuy viết vê những khủng hoảng tinh thần (do sự chi phôi của hoàn cảnh mới), nhung mặt trái của cơ chê thị trường, những bi kịch truyền tình yêu, sự rạn nứt gia đình thông... nhưng trong sự “phải chịu đựng ày", người phụ nữ hiện đại vẫn luôn bộc lộ những vẻ đẹp mới: muôn tự khắng định mình, thể hiện mình và dám sông thực vói mình. Cuô'i cùng có thê khang định thế giỏi nội tâm phong phú và sự bí ân của người phụ nữ bao giờ cũng là một đê tài hấp dẫn dối vối văn học 0 mọi thời dại - và như vậy hi vọng bạn đọc hôm nay sẽ luôn luôn tìm thấy giá trị nhân đạo và nhân văn - một nội dung cơ bản cấu thành đặc diem từ văn học dân gian đôn văn học viết Việt Nam hiện đại.D

T.N.D