NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
C1
cn"
VỀ TÍNH
NHIÊU NGHĨA
CỦA TỤC NGỮ
NGUYÊN XUÂN ĐỨC?)
nh Tạp chí Văn hoá dân gian số
4 năm 2000 chúng tôi đã có bài
viết nhan đề Về nghĩa của tục ngữ
trong đó chứng minh rằng tục ngữ
không tổn tại trên văn bản mà gắn với
phát ngôn và với mỗi lần phát ngôn
tục ngữ chỉ có một nghĩa, nghĩa
đang ứng dụng. Kết luận đó trái
ngược với ý kiến truyền thống của hầu
hết các nhà tục ngữ học nước ta rằng
tục ngữ có hai nghĩa, có nhiều nghĩa
thậm chí có người cho tục ngữ có đa
nghĩa. Lần này chúng tôi tiếp tục trỏ
lại với vấn để nghĩa của tục ngữ ở đặc
điểm tính nhiều nghĩa.
1. Tục ngữ có thể có rất nhiều
nghĩa
Trước hết xin nói rằng fính nhiều
nghĩa mà chúng tôi đề cập đến trong
bài uiết này bhông giống uới tính nhiều
nghĩa mà nhiều nhà tục ngữ học đã chỉ
ra trong các công trình của họ.
Trong việc xác định tính nhiều
nghĩa của tục ngữ hầu như các nhà
nghiên cứu đều có ý kiến giống nhau,
dẫu rằng lời phát biểu có mức độ khác
nhau. Có thể có kiểu phát biểu dè dặt
như Chu Xuân Diên: Một câu tục ngữ
thường có hai nghĩa ; có thể có ý kiến
khẳng định mạnh mẽ như Lê Chí Quế:
C?.TS, Trường Đại học Sư phạm Vĩnh.
Tục ngữ bao giờ cũng có hai nghĩa; lại
cũng có thể có những phát biểu cẩn
thận như Hoàng Tiến Tựu: Có những
tục ngữ chỉ có một nghĩa... Nhưng bộ
phận tục ngữ đa nghĩa chiếm ty lệ khú
lớn, chất lượng hhúá cao uàè là bộ phận
tiêu biểu nhất của thể loại này(I..).
Những ý kiến trên đây cho chúng ta
thấy rằng khi khảo sát nghĩa của tục
ngữ hầu như mọi nhà khoa học đều dựa
trên văn bản mà không hề đặt nó trong
trường phát ngôn mặc dầu tất cả họ,
khi xác định chức năng ứng dụng của
tục ngữ đều chỉ ra rằng tục ngữ dùng
để nói. Cũng vì không xem xét nghĩa
của tục ngữ trong ứng dụng mà chỉ xét
trên văn bản nên các nhà tục ngữ học,
dù cho rằng tục ngữ có nhiều nghĩa
cũng chỉ quanh quần ở nghĩa đen và
nghĩa bóng của nó mà thôi, hơn thế
nữa cũng từ cách xem xét tục ngữ trên
văn bản họ đã không phát hiện ra khả
năng rất nhiều nghĩa trong ứng dụng
của tục ngữ.
Dẫu rằng mọi công việc nghiên cứu
đều phải căn cứ vào văn bản nhưng với
văn học dân gian, nhất là với tục ngữ,
người nghiên cứu phải đặt nó trong môi
trường ứng dụng bởi vì “/ue ngữ từ xưa
tới nay uân được nhân dân dùng xen
Uòo tiếng nói hàng ngày” (II, 243), tục
ngữ là lời ăn tiếng nói của nhân dân.
Trong thực tế có những tục ngữ có
những cấu trúc rất dài trên văn bản
nhưng có thể chỉ được sử dụng từng
phần nghĩa riêng lẻ trong ứng dụng.
Thí dụ câu tục ngữ: “Thâm đông thì
mưu, thâm dưa thì bhhú, thâm uú thì
nghén” có thể được sử dụng ba phần
vào ba hoàn cảnh cụ thể khác nhau.
Như vậy khi nói về nghĩa của tục ngữ
phải nói về nghĩa ứng dụng của nó mới
chính xác. Chính chức năng ứng dụng
đã khiến cho tục ngữ có rất nhiều
5
NGUYÊN XUÂN ĐỨC
nghĩa, cũng do chức năng ứng dụng mà
phần lớn tục ngữ được sáng tạo với một
hình thức tương ứng. Hình thức đó
được các nhà khoa học gọi là tính giản
lược của tục ngữ. Nhờ có kết cấu giản
lược mà tục ngữ có thể được sử dụng
toàn bộ hoặc từng phần, nhưng cũng có
thể được sử dụng như một bộ phận của
phát ngôn...
Thật ra Hoàng Tiến Tựu đã nhận
thấy rằng "tục ngữ có tính mở rộng
nghĩa (mở rộng trong thời gian, không
gian của quá trình sử dụng tục ngữ)"
(HI, 134), nghĩa là ông đã hình dung ra
vấn đề này. Tuy nhiên có thể nhận thấy
rằng trong các công trình của mình ông
vẫn dựa vào văn bản để xác định nghĩa
của tục ngữ, hay nói cách khác ông đã
xem những nghĩa phát triển mang tính
lịch sử đó đã kết tủa vào các văn bản,
kết quả là ông đã bỏ qua chính phát
hiện đáng quí của mình.
Để thấy rõ nghĩa của một câu tục
ngữ không thể hiện dầy đủ trên văn
bản, chúng ta bắt đầu từ câu: “Lời nói,
gói bạc”. Trong thực tế cuộc sống, với
những ngữ cảnh khác nhau, câu tục
ngữ này có thể được sử dụng theo các
nghĩa sau đây:
- LỡI nói quínhự gói bạc (a=b}
- Lỡi nói quí hơn gói bạc (a >b}
-Lời nói chỉ bằng gói bạc (a- Lời nói phải hèm gói bạc (a +b)
- LỡI nói đổi sưu gối bạc (a... b)
- Lợi nói làm ra gói bạc (a b}
Dĩ nhiên còn có nhiều ngữ cảnh để
câu.tục ngữ này có thể có nhiều nghĩa
hơn nữa nhưng sáu dẫn chứng trên đây
cho thấy rằng nghĩa của câu tục ngữ
được mở rộng trong các trường phát
ngôn. Nếu xét câu tục ngữ trên qua văn
bản chúng ta chỉ tìm được từ một đến
hai nghĩa (đầu tiên) của nó là cùng.
Thực ra vấn đề nghĩa mở rộng của
tục ngữ cũng đã được Bùi Mạnh Nhị chỉ
ra một cách chính xác khi anh viết:
"Một tục ngữ có thể được ứng dụng
trong hàng ngàn trường hợp khác nhau.
Quá trình vận dụng tục ngữ là quá
trình tạo nghĩa không ngừng", "...Cứ
mỗi lần được sử dụng ở những văn cảnh
khác nhau thì nội dung, ý nghĩa kinh
nghiệm, những lớp nghĩa nằm bên
trong và bên ngoài từ ngữ của nó lại
giàu thêm” (IV, 24).
Một dẫn chứng khác lại cho ta thấy
rằng nhiều khi ở nhiều thời gian, không
øian khác nhau nhưng với những thực
tiễn giống nhau người ta có thể đúc kết
được những kinh nghiệm giống nhau
mặc dầu những kinh nghiệm đó được
thể hiện trong những vỏ ngữ âm khác
nhau:
- Không trâu bắt chó đi cày
- Không trâu bắt dê đi đầm
- Không chó bắt mèo ăn cứt
Nếu như những dẫn chứng trước
cho thấy rằng một tục ngữ do được sử
dụng trong những ngữ cảnh khác nhau
cho ta những nghĩa khác nhau thì
những dẫn chứng sau lại cho thấy một
quI trình ngược lại: trong những hoàn
cảnh khác nhau, nhiều tục ngữ được
diễn đạt bằng những vỏ ngữ âm khác
nhau, khi có cùng cấu trúc, vẫn có thể
đem lại cùng một nội dung thông báo
như nhau. Vậy là xét về nghĩa ba câu
tục ngữ trên là một.
Từ đây chúng ta thấy rằng nghĩa
của một câu tục ngữ được qui định bởi ngữ
cảnh, vậy thì không thể xét đủ và đúng
nghĩa của câu tục ngữ trên văn bản.
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
Đí
—CCẮ=——— ___————ỄẼ— _—_—_—
2. Tục ngữ nhiều nghĩa nhưng
không đa nghĩa
Những người cho rằng tục ngữ có
hai nghĩa, nhiều nghĩa dù không trực
tiếp sử dụng khái niệm đa nghĩa thì
cũng không hề nêu lên hiện tượng
nhiều nghĩa nhưng không đa nghĩa của
tục ngữ. Trong khi đó theo lối tư duy
thông thường thì nhiều là đa thậm chí
có người còn lập luận một cách dễ dãi
rằng 2 cũng là đa vì 2 là số nhiều.
Một số người khác không hề ngần
ngại khi cho rằng tục ngữ đa nghĩa.
Phan Thị Đào trong công trình đạt giải
thưởng của Hội Văn nghệ dân gian Việt
Nam năm 1997, được nhà xuất bản
Thuận Hoá in năm 1999, sau khi trình
bày sơ lược về bộ phận tục ngữ chỉ có
một nghĩa đã kết luận một cách dứt
khoát: “Phần còn lại của tục ngữ là
những câu đa nghĩa. Đây là bộ phận
tiêu biếu nhất của thể loạt này” (V,
119). Điều đáng nói hơn là mặc dầu
khăng định tục ngữ đa nghĩa nhưng khi
triển khai công trình, Phan Thị Đào
cũng như các học giả khác đều chỉ phân
tích được nghĩa đen và nghĩa bóng của nó
mà thôi. Sự lúng túng đó phải chăng bởi
các học giả này đã nhận ra tính nhiều
nghĩa của tục ngữ nhưng vì soi trên văn
bản nên chỉ thấy có 2? Cũng chính việc
soi xét tục ngữ trên văn bản đã khiến cho
các nhà nghiên cứu không phát hiện ra
rằng tục ngữ có thể eó nhiều nghĩa nhưng
không phải là đa nghĩa.
Hoàng Tiến Tựu cũng đã đề cập tới
tính đa nghĩa của tục ngữ trong giáo
trình Văn học dân gian viết cho hệ Cao
đẳng Sư phạm. Ông đã chỉ ra nghĩa của
tục ngữ trong cách nhìn đồng đại và
lịch đại khi viết: “Môi tục ngữ không
chỉ là kết qud, là sản phẩm trí tuệ của
một người, một địa phương, một thời bì
lịch sử nhất định mà còn là phương
tiện diễn đạt, thể hiện hinh nghiệm, tri
thức, quan niệm của nhiều người thuộc
nhiều địu phương uà thời bù lịch sử
khác nhau. Nhìn chung, số lượng binh
nghiệm uò trí thức được đúc kết, phan
ánh trong bho tàng tục ngữ của mỗi địa
phương, môi dân tộc lớn hơn rất nhiều
so UỚI số lượng những câu tục ngữ mà
họ đa súng tác 0uà lưu giữ (HHI, 134).
Dãn chứng trên đây cho ta thấy Hoàng
Tiến Tựu đã nhận ra nghĩa ứng dụng
của tục ngữ nhưng rồi ông không đi đến
cùng phát hiện này.
Như chúng tôi đã chỉ ra trên đây:
tục ngữ có thể có nhiều nghĩa, nhưng
mỗi lần phát ngôn chỉ thực hiện được
một nghĩa, tính nhiều nghĩa của tục
ngữ gắn với nhiều văn cảnh khác nhau
trong nhiều thời kì lịch sử khác nhau, ở
nhiều địa phương khác nhau. Thực ra,
ca đao cũng được lưu truyền và "sáng
tác lại" trong nhiều không gian và
nhiều thời gian khác nhau nhưng phát
ngôn của ca dao là phát ngôn đa nghĩa
trong mỗi lần nên nó đa nghĩa trong
không gian và thời gian. Trái lại, cũng
nhờ được "sáng tác lại" nhiều lần mà
tục ngữ nhiều nghĩa trong không gian
và thời gian nhưng mục tiêu của tục
ngữ là truyền đạt kinh nghiệm nên
phải đảm bảo tính rõ ràng, chính xác,
tục ngữ vì thế không đa nghĩa trong
mỗi lần phát ngôn. Nói cách khác tục
ngữ không thể được phát ngôn một lúc
nhiều nghĩa bởi nó nhằm truyền đạt
kinh nghiệm. Trái lại, tác phẩm nghệ
thuật đích thực là một chỉnh thể, cái
hay, cái nghệ thuật của nó chính là ở
tính đa nghĩa trong phát ngôn, bởi vì
nếu nghĩa của tục ngữ được người ta
nhận thức thì nghĩa của một tác phẩm
nghệ thuật đích thực (mà ở đây là ca
đao) được người ta cảm nhận bằng cảm
xúc trước khi được chuyển thành nhận
D8
NGUYỄN XUÂN ĐỨC
thức lý trí. Xét về phương thức tác
động: tục ngữ nhằm vào lý trí còn ca
dao nhằm vào cảm xúc của con người.
Nói như vậy cũng có nghĩa là chúng ta
không xem tục ngữ là một nghệ thuật
đích thực. Chính điều này đã được Chu
Xuân Diên phân tích rất kỹ trong giáo
trình Văn học dân gian Việt Nam và ởi
đến những kết luận hết sức xác đáng
rằng: “Trong tất cả các thể loại uăn học
đân gian có tục ngữ uà câu đố là những
thể loại còn gần uới lời ăn tiếng nói
hàng ngày của nhân dân hơn cả". Ông
còn nhấn mạnh thêm: “Nói chung, bhi
chúng ta phát biểu bằng tục ngữ hay
khi chúng ta đố nhau thì đó không phối
là những sinh hoạt Uuăn nghệ đúng uới
nghĩa của nó, dù là thứ sinh hoạt uăn
nghệ mang tính chất nguyên hợp như
Uuăn nghệ dân gian” (II, 243). Như vậy,
mặc dù vẫn thừa nhận là một thể loại
văn học dân gian nhưng Chu Xuân
Diên đã phân biệt tục ngữ với các thể
loại khác như ca dao bởi mức độ nghệ
thuật của nó. Thật ra nếu ca dao, cổ
tích là những sáng tạo nghệ thuật đích
thực, nghệ thuật có chủ tâm thì tục ngữ
nên được gọi là thể loại tiền nghệ
thuật, nghĩa là trong đó đã bao hàm các
yếu tế nghệ thuật nhưng chưa hoàn
chính bởi nó chưa xuất phát từ chủ tâm
làm nghệ thuật. Trong văn học dân
gian hiện tượng này không chỉ xẩy ra
đối với tục ngữ. Khi nghiên cứu thần
thoại Mác cũng đã nhận xét một cách
đúng đắn rằng thần thoại vừa là nghệ
thuật vừa không phải là nghệ thuật, nó
là thứ nghệ thuật vô ý thức.
Tóm lại, nghĩa tục ngữ được qui
định bởi mục đích phát ngôn chứ không
gắn chặt với văn bản như một tác phẩm
văn học viết. Tục ngữ không phải là lối
nói "lấp lửng" như ca đao mà là những
phát ngôn "dễ hiểu" (Hoàng Tiến Tựu)
để truyền đạt một cách chính xác
những kinh nghiệm và vì thế trong mỗi
lần phát ngôn nó chỉ truyền đạt một
nghĩa. Tục ngữ có nhiều nghĩa nhưng
đó là nghĩa trong nhiều lần phát ngôn,
găn với nhiều ngữ cảnh và vì thế không
nên xem đây là thể loại đa nghĩa.
Thuật ngữ đa nghĩa có lẽ nên dùng để
chỉ những thể loại nghệ thuật đích thực
như ca dao, cổ tích, như những sáng tác
thơ ca bằng chữ viết...
Việc nghiên cứu nghĩa của tục ngữ
trên văn bản như nghiên cứu một tác
phẩm văn học viết sẽ không thể đây đủ
và chính xác, phải trả tục ngữ về với
môi trường ứng dụng đích thực mới
hiểu hết khả năng tạo nghĩa của nó.
N.X.Ð
I1 - Định Gia Khánh (chủ biên), Chu
Xuân Diên, Võ Quang Nhơn: Văn học dân
gian Việt Nam, Nxb Giáo dục 1997, tr.244.
Phần tục ngữ do Chu Xuân Diên viết.
- Lê Chí Quế (chủ biên), Võ Quang
Nhơn, Nguyễn Hùng Vĩ: Văn học dân gian
Việt Nam Nxb ĐHQG Hà Nội 1999, tr19?.
Phần tục ngữ do Lê Chí Quế viết.
- Hoàng Tiến Tựu: Văn học dân gian
Việt Nam, giáo trình cho Cao đẳng Sư
phạm, Nxb Giáo dục 1999, tr132.
2. Đình Gia Khánh (chủ biên), Chu
Xuân Diên, Võ Quang Nhơn: Văn học dân
gian Việt Nam, Nxb Giáo dục, tái bản lần
hai 1997. Phần tục ngữ do Chu Xuân Diên
viết.
3. Hoàng Tiến Tựu: Văn học dân gian
Việt Nam (Giáo trình đào tạo giáo viên
Trung học cơ sở hệ Cao đẳng Sư phạm),
Nxb Giáo dục 1999.
4. Bài Mạnh Nhị (chủ biên), Hồ Quốc
Hùng, Nguyễn Thị Ngọc Điệp: Văn học dân
gian - Những công trình nghiên cứu. Nxb
Giáo dục 1999,
5. Phan Thị Đào: Tìm hiểu thi pháp tục
ngữ Việt Nam, Nxb Thuận Hoá 1999,