ĐỖ THỊ KIM LIÊN - TRƯỜNG NGỮ NGHĨA VỂ...

34

2. K h á i n iệ m trư ờ ng n g h ĩa

TRƯỜNG NGỮ NGHĨA

v ế CÂV LÚA VÀ CÁC

SẢN PHẨM TỪ LÚA

PHẢN ÁNH ĐẶC TRƯNG

VĂN HOÁ LÚA NƯỚC

TRONG TỤC NGỮ

NGƯỜI VlệT _________________ • ___________________

Đ ỗ THỊ KIM LIÊN

1. v ề sự tồ n tạ i của trư ờng ngữ

nghĩa - lớp từ ngữ ch ỉ cây lú a và các

sản p h â m từ lú a

Trường ngữ nghĩa là một khái niệm trong từ vựng học. Theo tác giả Đỗ Hữu Châu, tính hộ thông về ngữ nghĩa của từ vựng thê hiện qua những tiểu hệ thông trong lòng từ vựng và quan hệ ngữ nghĩa giữa các từ riêng lẻ thể hiện qua quan hệ giữa những tiểu hệ thông ngữ nghĩa chứa chúng. Mỗi tiểu hệ thống là một trường ngữ nghĩa. Đó là một tập hợp từ đồng nhất với nhau về ngữ nghĩa [1, tr. 171 ]. Các từ trong cùng một trường luôn có quan hệ ý nghĩa vởi nhau và quan hệ này vừa là cơ sở đê xác lập trường vừa có tác dụng liên kết các đơn vị từ vựng trong một trường nghĩa. Các nhà từ vựng thường nói đến bôn nhóm trường ngữ nghĩa: Trường nghĩa biểu vật, trường nghĩa biểu niệm (xét trên trục dọc), trường nghĩa tuyến tính (xét trên trục ngang - trục ngữ đoạn) và trường nghĩa liên tưởng (xét trong việc sử dụng từ ngữ). Trong tục ngữ, lớp từ tạo thành trường chủ yếu là trường biểu vật và trường liên tưởng.

3. Ngữ n g h ĩa của các p h á t ngôn tục

ngữ p h ả n án h v ă n hoá lú a nước

3.1. C á c từ g o i tên c â y lú a và sả n

p h ă m từ c â y lú a

Người Việt canh tác lúa nước vói mục đích lấy hạt lúa làm lương thực chính. Cây lúa đến thời kì chín rộ, có màu vàng mơ, người ta thu hoạch về lấy hạt, được gọi là hạt lúa. Nhưng khi đã mang về nhà (có thể phơi khô để cất giữ) còn được gọi là thóc. Nêu hạt lúa còn ở trên cây chưa thu hoạch thì không gọi là hạt thóc mà gọi là hạt lúa. Trong tư liệu của chúng tôi có bô’n từ được dùng với tần sô’ cao là lúa với: "Thóc hoa dâu, trầu lá mặt", từ cơm là 66 lần "Lớn bát cơm, to bó lúa", từ gạo 17 lần "Mẹ dần lại đẻ con đần, gạo chiêm đem giã mâ’y lần vẫn chiêm"; "Gạo chợ, nưởc sông, củi đồng, trầu Khảo sát cuôn Tục ngữ Việt Nam chọn lọc của Vương Trung Hiếu, Nxb. Văn nghệ, 1996 (618 trang) vối 96 chủ đề, chúng tôi nhận thấy dấu ấn văn hoá lúa nước của người Việt thê hiện qua tục ngữ khá rõ. Trong tổng sô’ 2400 phát ngôn tục ngữ thì có đến 446 phát ngôn chứa các từ ngữ xuất hiện thành trường đề cập đến cây lúa và sản phẩm cây lúa cũng như kinh nghiêm trồng lúa. Trong cuô’n Kho tàng tục ngữ Việt Nam, do Nguyễn Xuân Kính chủ biên, trong sô' 9000 phát ngôn có 609 phát ngôn viết về cây lúa. Con sô’ này nói lên người Việt trồng lúa và canh tác lúa nước từ lâu đời, để lại dấu ấn qua lớp từ ngữ, chúng phản ảnh nền văn hoá lúa nước của người Việt, vì vậy bài viết của chúng tôi đi sâu tìm hiểu trường ngữ nghĩa do lớp từ ngữ phản ánh dặc trung văn hoá lúa nước của người Việt.

TCVHDG SỐ 4/2006 - NGHIÊN cứu TRAO Đ ổl

35

miếng". Trong sử dụng từ lúa có biến thể ngữ âm là lủ "Khôn như tiên không tiền cũng dại, dại như chó có ló cũng khôn". Trong dân gian, có nhiêu loại lúa khác nhau, nhưng chủ yếu có hai loại lúa được trồng vào hai khoảng thời gian khác nhau và thu hoạch cũng khác nhau đó là lúa chiêm và lúa mùa. Vê' từng loại lúa dùng để ăn vào những dịp khác nhau chủ yếu có hai loại: lúa tẻ và lúa nếp. Lúa tẻ nâu thành cơm dùng trong bữa ăn hằng ngày, còn lúa nếp nấu thành xôi dùng vào dịp lễ, tết. Lúa nếp ngon hơn lúa tẻ: "Đắt lúa tẻ, rẻ lúa nếp"; Gần chùa chẳng được ăn xôi"; "Cơm tẻ no xôi vò chẳng thiết"; "Có thịt đòi xôi".

cơm chấm muôi; cơm tẻ trong "Cơm tẻ no, xôi vò chẳng thiết"; "Cơm tẻ mẹ ruột" để chỉ loại cơm nấu từ gạo khác với loại xôi nấu từ nếp; cơm hàng trong "Cơm hàng cháo chợ, ai lỡ thì ăn" để chỉ cơm nấu với mục đích bán cho người qua đường. Bên cạnh đó còn có những câu tục ngữ phản ánh cách thức nấu cơm thành các kiểu cơm: "Cơm ráo, cháo dừ"; "Cơm sông là cơm thảo, cơm nhão là cơm hà tiện", "Cơm sông tại nồi, cơm sôi tại lửa"; "Cơm sông vì nồi, không sông vì vung", hoặc phản ánh cách thức ăn cơm khác cháo: "Cơm và, cháo húp"; "Học chọc bát cơm, học đơm bát cháo"; "Cơm quanh rá, mạ quanh bờ"; hoặc phản ánh cách gọi tên đơn vị đo lường lượng cơm hằng ngày: "Cơm ăn mỗi bữa mỗi lưng hơi đâu mà giận người dưng thêm gầy"; "Cơm ba bát áo ba manh"; "Cơm ba bát, thuổc ba thang". Ca dao cũng sử dụng từ chỉ đơn vị đo lường lượng cơm trong bát, như: "Cơm ăn mỗi bữa mỗi lưng, uống nước cầm chừng để dạ thương ai". Cơm còn được dùng để đánh giá tính cách con người: c ắ n hột cơm không vỡ (chỉ người có tính keo kiệt so đo); "Cắn cơm không vỡ, cắn tiền vỡ tan". Ngoài những từ trên, ta còn gặp các từ khác đều là sản phẩm của hạt lúa được tách từ hạt lúa ra: tấm, cám, mắn, trấu\ "Ra tay gạo xay ra cám"; "Trai di giày đến đám, trai về nhà bôc cám rang"; "No cơm tấm, ấm ổ rơm"; "Trấu trong nhà, thả gà di đâu". Hoặc ta bắt gặp những tổ hợp từ ghép: thóc lúa, thóc gạo, gạo thóc, lúa gạo, lúa má, cơm cháo, tấm cám: "Xay lúa Đồng Nai, thóc gạo vê ngài, tấm cám về tôi"; "Thóc lúa vê nhà, lợn gà ra chợ".

3.2. C á c từ g ọ i tê n th ự c p h â m ch ẻ

b iên từ h ạ t lú a

Trong tục ngữ, chúng tôi bắt gặp nhiều nhát là cơm. Cơm là lương thực chính trong bữa ăn hằng ngày của người Việt. Tiêu chuẩn dê đánh giá sự no đủ là: "No cơm ấm áo"; "No cơm ấm cật". Cơm có nhiều loại khác nhau vơi những tên gọi theo những nguồn gốc khác nhau. Ta có cơm cày, cơm cấy tro n g "Cơm cày cơm cấy ai th ấ y thì căn" dể chỉ cơm ăn vào dịp làm mùa; cơm hom trong "Ăn cơm hom, nằm giường hòm" để chỉ loại cơm ngon dắt tiền, cơm chăm, cơm mùa trong "Cơm mùa treo chái chùa cũng chín"; cơm chăm (mắm chườm), cơm muối trong "Cơm. muôi hơn chuôi chết" dể chỉ Ngoài từ cơm, ta còn bắt gặp từ cháo. Cháo là món ăn nấu từ gạo nhưng loãng, có nhiều nước, thời gian nâu lâu hơn. Đặc biệt, vào những ngày đói kém, thiêu gạo, hay yếu mệt, người Việt thường nấu gạo thành cháo đê ăn: "Cháo nóng húp quanh, công nọ' tra dần"; "Ãn cháo đá bát"; "Cơm hàng cháo chợ ai lỡ thì ăn". Cùng với cháo, trong các thứ quà bánh được chê biến từ gạo, phải kê đến bánh đúc. Bánh đúc là một món tăn ngon, bô dưỡng của người Việt trước đây, được mọi người ưa thích. Người ta xay nhỏ gạo thành bột, ngâm vào nước, cho thêm ít nước vôi (hoặc hàn the), quấy đều và đun lên, sau đó đổ theo khuôn, dặt ở sàng: "Bánh đúc bày sàng". Khi ăn, bánh đúc được chấm với mắm tôm ngon đến mức: "Bánh đúc bẻ ba, mắm

ĐỖ THỈ KIM LIÊN - TRƯỜNG NGỮ NGHĨA VỀ...

36

tôm quệt ngược cả nhà tan hoang"; "Muôn ăn no bánh đúc, ăn bánh đúc đục mặt". Từ gạo tẻ hoặc nếp có thê xay thành bột, chế biến thành hồ: "Có bột mới gột nên hồ"; làm hàng xáo, bánh dày: "Khôn khéo bánh dầy, vụng dại chày cối"; "Đấu hàng xáo, gáo hàng dầu" (với nghĩa là vật dùng đê đo lường đốì với từng loại); "Hàng xay hàng xáo láo nháo ghẹo chồng con bồ còn thóc hết". Nếp (cũng là một loại gạo nhưng quý hdn) đê gói bánh chưng, nấu xôi cúng vào dịp lễ tết, vì vậy câu: "An chực đòi bánh chưng" hoặc "An mày đòi xôi gấc" để nói đến người đi ăn chực không có quyền đòi hỏi vì phụ thuộc vào sự hảo tâm của người cho.

được gọi bằng những tên khác nhau: Gỉôhg, mạ (má), lúa con gái, lúa dậy thì, lúa chín. Khi gặt xong cắt phần trên thì gọi là rạ hay gôc rạ, còn phần trên của cây lúa phơi khô thì gọi là rơm. Ta bắt gặp tên gọi này qua các câu tục ngữ: Giông: "Không nhặt mà rặt giống"; "Nhất nước nhì phân, tam cần tư giống, Muốn ăn lúa phải tìm giống"; Mạ: "Mạ chiêm đào sâu chôn chặt mạ mùa chôn chặt mà đi"; "Khoai ưa lạ, mạ ưa quen"; "Trồng khoai đất lạ, gieo mạ đất quen"; "Mạ già ruộng ngấu"; "Mạ mùa sưởng cao, /?ỉự chiêm ao thấp”; Lúa vào thời kì phát triển: "Lúa chiêm lấp ló đầu bờ, hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên”; Lúa trô bông: "Lúa trô mâm xôi, dẫy nồi chồng vợ"; Lúa chín: "Lúa chín hoa ngâu đi đâu chẳng gặt"; Rơm, rạ: "Lửa gầm rơm lâu ngày cũng bén"; "Om rơm dặm bụng"; "Lúa giỗ ngã mạ, vàng rạ mạ xuống".

3.4. C á c từ g ọ i tê n th ờ i tiế t, th ờ i vụ

g á n với v iệ c tr ồ n g lú a

trăn g : "M uôn ă n

lúa

Sau đây là một sô câu tục ngữ phản ánh món ăn nấu từ gạo nếp: "Nếp lộn lòn cha con đánh chén"; "Có xôi nói xôi dẻo, có thịt nói thịt bùi"; "Gần chùa chẳng được miếng xôi"; "Muôn ăn xôi ông ơi xắn áo"; "Ăn xôi chùa ngọng miệng"; "Cơm tẻ ăn no, xôi vò chả thiết".

Các từ gọi tên các công cụ, hoạt động biến từ lúa, thóc thành gạo. như chày, cối, côi xay. dần, sàng: "Khôn khéo vá may, vụng vê chày cối"; "Nhác đâm thì đổi chày, nhác xay thì đổi cối"; "Nói trặc họng cối xay"; "Hát khi xay lúa, múa khi tôi trời"; "Xay lúa thì đừng ẵm em"; "Xay thóc có chàng, việc làng có mõ". Thậm chí, cối xay thóc được khái quát thành nhận thức: Trẻ con // (thì) học, côi H (thì) xay thóc. Nia, sàng, thúng là vật dụng để sàng, để đựng và sảy gạo: "Bánh đúc bày sàng”; "Đá thúng đụng nia". Ca dao cũng có những câu dùng các từ nia, sàng để chỉ dụng cụ sàng sảy gạo: "Ra dường ông nọ bà kia, về nhà chẳng khỏi cái nia cái sàng".

a. Thời tiết có ảnh hưỏng rất lởn dên việc trồng lúa. Chính vì vậy, tục ngữ đã phản ánh kinh nghiệm nhận biết vê thời tiết có liên quan đến thời kì phát triển, trồng lúa. Đó là kinh nghiệm trông sao và trăng: "Sao rua đứng trô’c, lúa lôc được ăn"; "Tua rua một tháng mười ngày, cấy trốc luống cày cũng được lúa xôi"; "Tua rua bằng mặt cất bát cơm chăm, tua rua di nằm, cơm chăm đã cạn" (Tua rua bằng mặt có nghĩa là trông thấy). Hay kinh nghiệm trô n g th á n g năm trông trăng rằm tháng Tám"; "Muôn ăn lúa tháng mười trông trăng mồng tám tháng tư"; "Trăng mờ tốt lúa nỏ, trăng tỏ tốt lúa sâu"; "Trăng mười bốn dược tằm, tỏ trăng hôm rằm thì được lúa gieo".

3.3. C ác từ g ọ i tê n c á c th ờ i hì p h á t

tr iề n c ủ a c à y lú a

Cây lúa có quá trình phát triển khoảng bốn tháng. Trong khoảng thời gian này, nó Kinh nghiệm về thời tiết mưa nắng, sấm, chớp, gió dể biết trước mất mùa hay được mùa: a l) Vê nắng, mưa: "Nắng tốt

TCVHDG SỐ 4/2006 - NGHIÊN cứu TRAO Đ ổl

37

a. Các từ ngư gọi tên thứ tự của việc canh tác lúa nước.

Trong các từ được sắp xếp theo trình tự vể tính cần thiết người ta quan tâm trưởc hêt là nước. Nước là nguồn gốc của sự sông và nó cũng là nhân tô" đầu tiên nói đến khi trồng lúa: "Nhất nước nhì phân, tam cần, tứ giống"-, "Nhất ruộng, nhì mạ, thứ ba canh điền"-, "Nhất canh trì, nhì canh viên, ba canh điền"-, "Cày cấy, bón phân phải kê anh phạt bờ cuốc gốc".

dưa mưa tốt lúa"; "Mồng tám tháng tám không mưa bỏ cả cày bừa mà nhổ lúa đi"; "Mồng chín tháng chín không mưa, mẹ con đi sớm về trưa mặc lòng, mồng chín tháng chín có mưa, mẹ con bán cả cày bừa mà ăn"; "Tháng Tám mưa trai tháng hai mưa thóc"; a2) Vê sấm: "Tháng mười có sấm cấy trên nấm cũng có ăn"; "Lúa chiêm đứng nép đầu bờ, hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên"; a3) v ề gió: "Trời nồm tốt mạ, trời giá tôt rau"; "Gió đông là chồng lúa chiêm, gió bấc là duyên lúa mùa".

b. Cách thức làm đất là phải chú trọng đất ải. Trong câu: "Đất không ải, rải thêm phân" là nói đến kinh nghiệm làm đất, nhưng câu: "Đất chổng lên, nền vạc phang, ải tảng bâng, cấy sáng giăng, không phải thằng nào đấm" lại là chê cách làm đất, cách canh tác không đúng. Đất phải làm th ật ải: "Ai bở chồng con ở, ải sượng chồng con đi"; "Một cục đất ải bằng một bãi phân"; "Cày ải hơn rải phân". Cùng với việc làm ải đất còn phải chú trọng làm cho ngấu đất: "Ai thâm không bằng dầm ngấu"-, "Thứ nhất phân ngấu, thứ nhì ngâu tươi", chú trọng cách thức làm đất đê gieo mạ: "Ướp dưa phải dằn đá, vãi mạ phải soạn trưa".

b. Người Việt trước đầy trồng lúa chủ yếu vào vụ mùa, nên gọi là lúa mùa. Vê sau, do tiếp xúc với người Chiêm (hay Chăm) nên có thêm lúa chiêm (hay lúa chăm). Như vậy, hằng năm người Việt canh tác lúa vào hai mùa chính: lúa chiêm và lúa mùa. Tục ngữ đã ghi lại cách gọi tên lúa theo hai vụ này: "Chiêm xấp xới, mùa đợi nhau"; ''Chiêm bơ bãi, mùa phải thời", nghĩa là mạ chiêm thì có thể cấy chênh nhau về ngày nhưng mạ mùa thì phải đúng thời gian, vào một khoảng nhất định, đó là lúc có sao tua rua. Cũng chính vì vậy, sao tua rua là một trong những ngôi sao làm bạn với nhà nông: "Tua rua đi bắc mạ mùa".

3.5. C ác

từ g ọ i

tên k in h n g h iệ m

tr ồ n g lú a và c a n h tá c lú a nư ớc

c. Cách thức làm cỏ: Nói đến làm ruộng là phải diệt sạch cỏ: "Ăn cơm làm cỏ chẳng bỏ đi đâu"; "Một búi cỏ, một giỏ thóc"; "Một lượt cỏ, thêm một giỏ thóc".

d. Làm ruộng là phải đi cày, đi bừa: "Cày cạn khoẻ trâu, cày sâu tốt lúa"; "Cày gãi bừa chùi, lúa thui thóc lép/Cậy sâu bừa kép, lúa đẹp bông sây"; "Cày sâu làm đầu lúa tốt"; "Thứ nhất cày nỏ thứ nhì bỏ phân". Sau đây là kiểu cày chưa đúng cách: "Cày sưa bừa mệt"; "Cây sáng cấy tôi, gặp phải chân bừa dối toi ăn". Cày bừa theo vụ mùa cũng khác nhau: "Chiêm đi đơn, mùa đi kép".

Làm ruộng là phải đi cấy. Việc đi cấy như một nhận thức tấ t yếu: "Chẳng cấy lấy đâu có thóc, chẳng học lấy đâu có chữ. Đi Liên quan đến kinh nghiệm trồng lúa và canh tác lúa phải nói đến trường ngữ nghĩa gồm những từ chỉ công cụ sản xuất lúa nước, như cái cày, cái bừa, cái liềm.... đặc biệt con vật gắn bó mật thiết với con người là con trâu: "Con trâu là đ ầ u cơ nghiệp; Ruộng sâu trâu nái không bằng con gái đẳu lòng"; "Trâu lên mạ xuồng". Tuy nhiên do giối hạn về phạm vi khảo sát, chúng tôi chưa có điêu kiện đê cập đên trường ngữ nghĩa nói về loài vật gắn với việc canh tác lúa nưốc trong đó có con trâu.

ĐỖ THỈ KIM LIÊN - TRƯỜNG NGỮ NGHĨA VÊ...

38

tiền không gạo mạnh bạo xó bếp"; "Ngồi đông thóc, móc đông tiên".

cấy được phản ánh bằng những động tác khác nhau: "Cấy bằng mặt, gặt bằng đầu". Tục ngữ còn phản ánh cách thức cây lúa: "Cấy thưa thừa thóc, cấy dày thì cóc được ăn"; "Cấy cạn đẻ nhiều là điều nhà nông"; "Gié thừa cấy nỏ, chiêm thừa bỏ đi"; "Lúa mùa thì cấy cho sâu, lúa chiêm thì gửi cành dâu cũng vừa"; "Vụ mùa cấy lúa cao, vụ chiêm cấy lúa trũng". Thứ hai, nó là thước đo sự giàu nghèo: "Làm ruộng không trâu, làm giàu không thóc"; "Nhà giàu mua vải tháng ba, bán gạo tháng tám mới ra nhà giàu"; "Khen nhà giàu lắm thóc"; "Chứa tiền chứa thóc thì giàu"; "Làm ruộng không trâu làm giàu không í/ióc"; "Con học, thóc vay".

Thứ ba. thóc gạo là thưởc: đo tính giá trị trong lời nói: "Lời nói quan tiền thúng thóc".

Cuối cùng, thóc gạo còn là thước đo sự khôn dại: "Khôn như tiền không tiền cũng dại, dại như chó có ló cũng khôn"; "Mạnh vì gạo bạo vì tiền khôn ngoan dù mốc".

3.7. Các từ g ọ i tên đơn vị đ o n g đêm đo lường thóc h oặc ch ứ a dựng, lúa, gạo, cơm

Làm ruộng phải chú trọng đến việc tưới nưốc, cách thức tưới nước cho ruộng: "Đất điền đất thổ, ruộng cao tưới trước, ruộng thấp tưới sau"; "Không nước không phân chuyên cần vô ích"; "Làm ruộng thì phải đắp đìa, vừa dễ giữ nưổc, khi về dễ đi"; "Làm ruộng thì phải đắp bờ, may cờ thì phải viên đường mép". Công cụ để tưới nưởc ở những ruộng cao thấp khác nhau: "Cao bờ thì tát gàu dai, gàu sòng chỉ tá t được nơi thấp bờ".

Làm ruộng là nói đến công cụ gặt lúa khi vụ thu hoạch đến. Khi lúa chín, người nông dân thường dùng hái, liềm (còn gọi là A, vì nó có hình giông như chữ A): "Lúa phơi màu, trông nhau liềm hái"; "Cắt rạ thì dùng bằng A, quét nhà thì dùng bằng chổi"; "Đánh một /ưữi A bằng ba công việc lưỡi hái".

3.6. C ác từ g ọ i tê n g i á t r ị h à n g h oá

lấ y th ó c lú a là m đ ơ n v ị so s á n h

Sự độc canh cây lúa (và lương thực nói chung) tạo ra tâm lí lấy hạt lúa (hoặc lương thực) làm hệ quy chiếu, hệ chuẩn mực trong n h ậ n thức, đánh giá mọi quan hệ khác. Vì vậy, thóc gạo được coi là thước đo nhiều giá trị khác nhau trong xã hội. Ta gặp một sô lượng các câu tục ngữ phản ánh giá trị này. Trong tục ngữ, ta bắt gặp những danh từ chỉ đơn vị gọi tên vật dùng đê đong đếm thóc gạo: "Ba thưng cũng vào một đấu”; "Đấu hàng xáo, gáo hàng dầu"; "Được vài đấu thóc khấn trời làm mưa". Từ chỉ vật chứa đựng thóc, lúa, gạo, cơm như bồ, cót, bát, giỏ, thúng-. "Tháng giêng ăn nghiêng bồ thóc"; "Hàng xay hàng xáo láo nháo ghẹo chồng con bồ còn thóc hết"; "Thóc cót thóc bồ"; "Thóc gạo đầy bồ cũng nhờ anh phạt bờ cuốc góc"; "Dòm giỏ bỏ thóc"; "Một lượt cỏ, một giỏ thóc"; "Cày sâu cuốc bẫm, thóc đầy lẫm khoai đầy bồ"; "Nắm cbgiỏ thóc"; "Lời nói thúng thóc, lời nói dùi đục cẳng tay"; "Căn ló không bằng xó nhà". Thậm chí, tục ngữ còn sử dụng cả những danh từ chỉ vật đựng thóc, lúa để gọi các từ chỉ người với nghĩa chỉ tập hợp: "Một giỏ sinh đồ, một bồ ông công, một đống ông nghè, một bè tiến sĩ, một bị trạng nguyên, một thuyên bảng nhãn".

Trước hết thóc gạo là thước đo mô'i quan hệ thân sơ giữa người với người trong cộng đồng: "Ong tiến ông thóc, ông cóc gì ai"; "Bà tiên bà thóc, bà cóc gì ai"; "Không tiền không gạo mạnh bạo gì thầy"; "Không Bên cạnh các vật đựng thóc lúa gạo, người Việt dùng vật đựng trong bữa ăn cơm bằng bát, đọi. Khác các nước sôìrg bằng nghề săn bắt, thực phẩm chủ yếu là thịt, họ dùng công cụ trong bữa ăn là dao, đĩa, thìa,

TCVHDG só 4/2006 - NGHIÊN cứu TRAO Đ ổ l

39

HÒ SÔNG NƯỚC...

(T iếp theo tr a n g 42)

nĩa. Người Việt, trái lại thường dùng đũa, bát, chén, đọi, môi, thìa..., như: "Bớt bát cơm mặt còn hơn nợ nần"; "Có bát mát mặt; Lớn bát cơm to bó lúa"; "Một nút lạt một bát cơm"; "Cơm ba bát áo ba manh"; "Ngồi mát ăn bát đầy, lầy cầy không đầy bát”-, "Sợ bát cơm đầy không sợ thầy to tiếng"; "Ản cháo đá bát"-, "Một quả cà bằng ba bát/ chén thuôc"; "Một chén thuốc ta bằng ba chén thuốc tàu"; "Lời nói đọi máu"; "Ba voi không được đọi xáo".

4. K ế t lu ậ n

đầu từ lao động, tiếng hò vang tạo nên niềm phấn khích, trở thành sợi dây gắn kết tấ t cả mọi người. Mỗi làn điệu đều có tên gọi đặc trưng cho từng hoạt động nhất định, ví dụ hò rời bến xuất hiện khi đò đón khách tại các bến dọc theo sông Mã, hò mái nhì do người ở vị trí tay chèo thứ hai trên thuyền hát lên, hoặc hò kéo thuyên, hò mái đẩy, mái ruỗi... tấ t cả đều mang nội dung cũng như âm hưởng riêng. Nhưng sức lan toả của mỗi điệu hò đi khắp nơi giúp hò sông nưốc bay đi rấ t xa, tới đâu cũng được người dân ghi nhớ, tái tạo cho phù hợp với hệ thông dân ca từng địa phương. Do đó những biến thể mới từ điệu gôc đã xuất hiện, lưu truyền rộng rãi tuỳ thuộc vào khả năng sáng tạo lúc sử dụng, cứ như vậy hò sông nước được người Việt Bắc Trung Bộ hoàn chỉnh theo thời gian tạo nên sức cuốn hút mạnh mẽ đốì với những ai nghe hò và trực tiếp tham gia.n Khảo sát các phát ngôn tục ngữ Việt, chúng ta bắt gặp nhiều lớp từ xuất hiện thành trường ngữ nghĩa, trong đó có cả trường ngữ nghĩa về cây lúa, các sản phẩm từ lúa, các thời kì sinh trưởng cây lúa, sự canh tác lúa nước của người Việt, thang giá trị lấy lúa gọi tên đơn vị đo để so sánh... Đây là những từ ra đời từ sốm, đa số đơn tiết, phản ánh đặc thù văn hoá lúa nước của người Việt khá rõ mà qua nhiều biến đổi của thời gian, chúng được lưu giữ như những nhân chứng in đậm dấu ấn lịch sử.o

T .H .T

Đ .T .K .L

TÀI LIỆU THAM KHẢO

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đỗ Hữu Châu (1999), Từ vựng ngữ nghĩa

1. Tôn Thất Bình (1994), Dãn ca Bình Trị

tiếng Việt, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.

Thiên, Nxb. Thuận Hoá, Huế.

2. Vũ Ngọc Khánh (1989), “Tiếng hát. sông

Hương”, Tạp chí Văn hoá dân gian, (sô' 4).

2. Nguyễn Thái Hoà (1982), Miêu tả và phàn Loại các khuôn hình tục ngữ Việt Nam. Nxb. Văn hoá dân tộc, Hà Nội.

3. Phạm Phúc Minh (1994), Tìm hiểu dán

ca Việt Nam, Nxb. Âm nhạc, Hà Nội.

3. Nguyễn Thái Hoà (1997), Tục ngữ Việt Nam - Cấu trúc và thi pháp. Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

4. Tú Ngọc (1974), “Những bài hát lễ nghi - phong tục Việt, Nam”, Tạp chí Văn hoá dân gian, ( sô' 4).

4. N g u y ễn T hị H ư ơ ng (1999), "Đ ặc trư n g ngữ nghía của nhóm tục ngữ chứa các từ chi quan hệ thân tộc", Tạp chí Ngôn ngữ sô 6, tr.27-33.

5. Nhiều tác giả (1991), Dãn ca Nghệ Tĩnh.

5. Vương Trung Hiếu (1996), Tục ngữ Việt

Nxb. Âm nhạc, Nghệ Tĩnh.

Nam chọn lọc. Nxb. Vàn nghệ.

6. Trung tâm Văn hoá thông tin Lệ Thuỷ

(1996), Hò khoan Lệ Thuỷ, Tài liệu sưu tám.

6. Nguyền Xuân Kính (2002). Kho tàng tục ngữ người Việt, tập 1, 2, Nxb. Vãn hoá - Thông tin. Hà Nội.