Triều Nguyên




NGHĨA CỦA TỤC NGỮ
TRIỀU NGUYÊNÏ)

1. Các nhà nghiên cứu tục ngữ, trên đai thể, đã thống nhất là tục ngữ xét ở phạm vi thể loại, có hai loại nghĩa: nghĩa đen uà nghĩa bóng”. Một số nhà nghiên cứu như Nguyễn Đức Dân, Bùi Mạnh Nhị, Phan Thị Đào có để cập đến nghĩa khái quát, nhưng cách hiểu về nghĩa này không giống nhau.
Nguyên Đức Dân ở bài viết "Đạo lí trong tục ngữ" (Tạp chí Văn học, số 5 - 198/7, tr.57 - 66), đã xác lập nghĩa khái quát trên cơ sở chuyển hình ảnh, khái niệm cụ thể sang khái niệm mang tính khái quát, bằng phép suy luận chặt chẽ. Ví dụ:
"Một người biết lo bằng kho người hay làm”. (1) một người + biết lo = kho người + hay làm
kho người > một người

=> biết lo > hay làm (a)
— trí tuệ > sự cần cù (b)
(a) và (b) là hai nghĩa khái quát của (1), và bậc của (a) thấp hơn bậc của (b) [tr. 64].
Bùi Mạnh Nhị trong mục "“Fục ngữ" của tập sách Văn học dân gian - những công trình nghiên cứu (Nhiều tác giả, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2000, tr.254 - 260)”, khi để cập đến nghĩa khái quát, đã dân các câu "Hàng săng chết bó chiếu", "Thợ rèn không có dao ăn trầu", "Nhà vườn ăn cam sâu", và cho rằng, chúng cùng diễn đạt nhận xét khái quát "chủ nhân của sản phẩm không
'”Th8. Hội Văn nghệ dân gian Thừa Thiên
- Huế.
(hoặc không được) hưởng thụ thành qua do chính họ làm ra" [tr.257|.
Riêng Phan Thị Đào, ở chuyên luận Tìm hiếu thi pháp tục ngữ Việt Nam (Nxb Thuận Hoá, Huế, 1999) thì nghĩa khái quát được nêu làm để mục tương đương với nghĩa đen và nghĩa bóng; ví dụ được dân nghiêng về logic: "ta có những câu tục ngữ mà ở đó môi vế tồn tại như một tiền để mang ý nghĩa khái quát cao, còn kết để là một phán doán mang ý nghĩa khái quát cao hơn, nhưng không phải tồn tại trên văn ban mà được rút ra từ tư duy của người tiếp nhận":
Thợ may ăn giẻ, thợ vẽ ăn hồ,
thợ bồ ăn nan, thợ hàn ăn thiếc.
TIỀN ĐỀ

KÊT LUẬN
(Làm nghề gì ăn nghề ấy). [r.1251
Có thể thấy rằng, Nguyễn Đức Dân đã tìm cách rút nghĩa khái quát của tục ngữ nhằm nắm được phần mô hình, cái nòng cốt bên trong, để có thể phân định, đối sánh giữa các đơn vị tục ngữ với nhau; Bùi Mạnh Nhị thừa nhận có nghĩa khái quát nhưng chưa xếp vào hệ thống nghĩa của tục ngữ (đoạn dân là phần duy nhất của bài viết bàn về nghĩa khái quát); Phan Thi Đào thì đưa nghĩa khái quát vào hệ thống nghĩa của tục ngữ, xem đó như một tất yếu, nhưng ngoài ví dụ đã dẫn, không nói gì thêm về eơ chế của nghĩa này”.
Bên cạnh hai loại nghĩa (nghĩa đen, nghĩa bóng) đã được thống nhất, một loại nghĩa (nghĩa khái quát) mới được nhìn nhận bước đầu vừa nêu, cũng có một số vấn đề về nghĩa khác đang được quan tâm (như Nguyễn Xuân Đức (Những uấn đề thi phúp uăn học dân gian, sảd) cho rằng "tục ngữ có thể có rất nhiều nghĩa" [tr.133]. "tục ngữ nhiều nghĩa do nhiều lần phát ngôn đem NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
9
—————ỄẰẦBB B B E- ÐÐÐ
lại chứ nó không đa nghĩa trong mỗi lần phát ngôn" [tr.139)). Và ngay cả hai loại nghĩa đã thống nhất, cơ sở, cơ chế để suy nghĩa ra sao, vân chưa được giải quyết thoả đáng (vấn để được nhận ra qua việc trình bày nghĩa thiếu nhất quán trong một số công trình sưu tập và chú giải tục ngữ đã xuất bản).
Bài viết này nhằm miêu tả, hệ thống hoá các bình diện nghĩa của tục ngữ; và trong quá trình thực hiện công việc của mình, nó cũng góp phần tháo gỡ, khắc phục các tồn tại, thiếu sót vừa đặt ra.
2. Môi câu tục ngữ có ít nhất là một nghĩa. Qua xem xét 16.098 đơn vị tục ngữ của bộ sách Kho tàng tục ngữ người Việt (Nguyễn Xuân Kính chủ biên, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội, 2002), nếu phân loại tục ngữ theo hình thức tạo nghĩa, thì có bảy đạng tục ngữ sau:
+ Những câu tục ngữ chỉ có nghĩa đen: (1) "Tháng bảy nước nhảy lên bờ". (2) "Thừa mạ thì bán, chớ có cấy ráng ăn rơm. (3) "“Fôm đi chạng vạng, cá đi rạng đông". + Những câu tục ngữ chỉ có nghĩa khái quát: (4) "Cái sảy nảy cái ung”. (5) "Có bột mới gột nên hồ". (6) "Con vua vua dấu, con chúa chúa yêu”. + Những câu tục ngữ chỉ có nghĩa bóng: (7) "Mực thắng mất lòng cây gỗ cong". (8) "Nồi tròn úp vung tròn, nồi méo úp vung méo". (9) "Éch ngồi đáy giếng coi trời bằng vung”. + Những câu tục ngữ vừa có nghĩa đen vừa có nghĩa khái quát:
(10) "Cờ bạc ăn nhau về sáng".
(11) “Trâu he hơn bò khoẻ".
(12) "Ruộng ai thì nấy đắp bờ".
+ Những câu tục ngữ vừa có nghĩa đen vừa có nghĩa bóng:
(138) "Ngựa hay chạy đường dài mới biết"
(14) "Chó ÿ thế nhà, gà ÿ thế vườn".
(15) "Trâu ngãng ăn thì ngãng cày".
+ Những câu tục ngữ vừa có nghĩa khái quát vừa có nghĩa bóng:
(16) “Fam quan cao hơn chùa".
(17) "To thuyền thì to sóng". -
(18) "Môi hở, răng lạnh".
+ Những câu tục ngữ vừa có ngh1a đen vừa có nghĩa khái quát, lại vừa có nghĩa bóng:
(19) "Cá kể đầu, rau kế móớ".
(20) "Mắm mặn nó chết trol".
(21) "Mía sâu có đốt, nhà dột có nơi".
Bảy dạng tục ngữ này có thể gộp làm hai nhóm lớn: nhóm những câu tục ngữ chỉ có một loại nghĩa (ba dạng đầu), và nhóm những câu tục ngữ có nhiều loại nghĩa (bốn đạng còn lạn).
2.1. Những câu tục ngữ chỉ có một loạt nghĩa
Những câu tục ngữ chỉ có một loại nghĩa thường là đơn nghĩa. Số ít hơn là có nhiều nghĩa của cùng một loại nghĩa.
2.1.1. Nghĩa đen
+ Nghĩa den là nghĩa được suy trên cơ sở sự thống nhất, sự phù hợp giữa đối tượng được để cập (hay hiện thực được nói đến) trong câu tục ngữ với cuộc sống thực, với chân lí khách quan. Câu tục ngữ chỉ có duy nhất nghĩa đen là câu tục ngữ có nghĩa được suy trên cơ sở vừa nêu, và ngoài nó ra, không tạo một sự liên tưởng nào khác.
Chẳng hạn, với ba câu đã dẫn: vào khoảng tháng bảy âm lịch, ở Bắc Bộ và bắc 10
miền Trung thì thường xảy ra mưa lụt (1): khi cấy, thấy mạ thừa mà cấy rậm vào, thì lúa sẽ ít hạt (9); tôm có nhiều trên mặt nước lúc chạng vạng, trong lúc cá lại kéo thành đàn vào rạng sáng (biết để đánh bắt) (3);...
+ Việc suy nghĩa đen có khó khăn hơn khi gặp những câu tục ngữ (số này rất ít) có hiện tượng "nhiễu" ở một vị trí được "đánh dấu" trên trục dọc (trục lựa chọn). Các đánh dấu thường gặp là dạng cùng âm, đa nghĩa, dạng khuyết các tổ hợp nối, tổ hợp so sánh, các tình huống (trạng ngữ), dạng có nhiều cách ngắt nhịp,...
Ví dụ về dạng cùng âm:
Câu tục ngữ "Sống ngày nào hay ngày ấy", do "hay" có thể gồm hai từ (cùng âm) mà có hai nghĩa đen sau:
- Đống được ngày nào thì tốt ngày ấy (bởi sức sống của đối tượng được nói đến đã gần hết) ("hay": tốt).
- Đống được ngày nào thì biết ngày ấy (bởi điều kiện, nhu cầu cần thiết cho cuộc sông của đối tượng được nói đến rất khó khăn, không có gì đảm bảo là sẽ có được trong một tương lai gần; hoặc phải đương đầu với hiểm nguy (như chiến tranh, công việc thiếu an toàn,...); hoặc cũng có thể do quan niệm "tử vô kì", không thể biết được lúc nào chết, ngay cả ngày mai, chỉ có ngày còn đang sống là chắc chắn chưa chết) (“hay": biết).
Ví dụ về dạng đa nghĩa:
Câu tục ngữ "Làm xâu xấu có cấu mà ăn" cấu": gạo), do "xấu xấu" đa nghĩa mà có thể hiểu nghĩa đen theo các hướng:
- Làm công việc không được sạch đẹp, thanh lịch, nhưng có tiền có gạo mà sống (“xâu xấu": không được đẹp).
- Làm không tốt, không bền để sản phẩm chóng hỏng, người tiêu dùng phải mua luôn, như vậy thì mới có lợi tức mà sống ("xấu xấu": không được tốt).
Triều Nguyên


Ví dụ về dạng khuyết các tổ hợp kết từ:
Câu tục ngữ "Làm tốt mốt đui", có thể có các tô hợp kết từ và theo đó mà có các nghĩa đen sau:
- Nếu làm tốt £h¡ mốt đuI.
- V làm tốt nên mốt đuI.
- Cứ làm tốt dò mốt đu!...
Ví dụ về dạng khuyết tình huống:
Câu tục ngữ "Chuối sau, cau trước", có thể bổ sung các tình huống để có các nghĩa đen sau:
- Khi trồng, cau thường trồng trước nhà, chuối thường trồng sau nhà.
- Khi cúng, cau trầu đặt trước, chuối đặt sau.
- Khi ăn, cau trâu ăn trước thì thích thú, chuối (quả ngọt nói chung) ăn sau cùng thì phù hợp...
Ví dụ về dạng có nhiều cách ngắt nhịp:
Câu tục ngữ "Giàu đôi con mắt, khó đôi bàn tay", có thể có các cách ngắt nhịp, và tương ứng với chúng là các nghĩa đen sau:
Ngắt nhịp 4 - 4:
- Mắt tỉnh đời, dù tấm thân lao nhọc.
- Bởi đôi mắt sắc sảo, tỉnh tường, nên đôi tay chịu vất vả, nhọc nhăn (tay phải làm sao cho mắt vừa ý).
Ngắt nhịp 113 - 1/3:
- Giàu thể hiện ở đôi mắt sáng trong, linh hoạt: khó thể hiện ở đôi bàn tay chai sạn, đen đúa (vì làm việc nặng).
- Giàu dùng mắt để trông coi, xem xét công việc; khó phai vận dụng sức lực của tay chân.
Các cách tạo nghĩa vừa nêu tuy có đáng dấp gần với lối chơi chữ, nhưng thật ra không phải là chơi chữ. Bởi chơi chữ nhằm tạo nên một lượng thông tin mới cùng tôn tại bên cạnh lượng thông tin cơ sở!” còn ở NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
1l]

đây, không có cái gọi là thông tin cơ sở, tất ca đều mới, chỉ với điều kiện là những cái mới được tạo nên phù hợp với thực tiễn cuộc sống, với chân lí khách quan.
+ Ngoài ra, cũng có hiện tượng một câu tục ngữ có nhiều nghĩa đen, các nghĩa này thể hiện tính chất nhiều mặt của đối tượng được đề cập trong thực tiên, chúng thường bổ sung cho nhau để có thể hiểu vấn đề một
cách đầy đủ. Ví dụ:
Câu "Một bụi có, một nắm phân", có thể gồm các nghĩa:
- Một bụi có vùi dưới gốc, có giá trị như một nắm phân.
- Một bụi cỏ ăn hại được nhổ bỏ, đỡ phí đi một nắm phân vun bón cho cây.
Câu "Dâu vào nhà, mụ gia ra ngô”, có thê gôm các nghĩa:
- Khi nàng dâu vào đến nhà (ngày cưới), người mẹ chồng ôm bình vôi chạy sang nhà hàng xóm, hoặc ra sau vườn ngồi một lát, rồi mới quay về (tập quán, ngụ ý mẹ chồng nhường quyền tay hòm chìa khoá cho nàng dâu).
- Nàng dâu mới làm chủ nhà, mẹ chồng bị gạt khỏi vai trò "nội tướng", trở thành "người ngoài", thương "ra ngõ" hái rau, mót củ1, hay tâm sự với xóm giềng.
- Nàng dâu với mẹ chồng xung đột nhau, nàng dâu đi làm về thì mẹ chồng lánh ra ngõ.
2.1.2. Nghĩa khái quát
+ Nghĩa khái quát được rút ra trên cơ sở những hình ảnh, khái niệm cụ thể của câu tục ngữ, sao cho ý nghĩa được rút phải bao hàm ý nghĩa của câu tục ngữ. Như vậy. nó phân biệt với cách mô hình hoá tục ngữ, bởi bản thân mô hình là sự rút gọn đồng nghĩa. Câu tục ngữ chỉ có duy nhất nghĩa khái quát là câu tục ngữ có nghĩa được suy trên cơ sở vừa nêu, và ngoài nghĩa ấy ra, không tạo một sự liên tưởng nào khác.
Chẳng hạn, với (4), chuyện cái rôm say (nhỏ và tác hại không đáng kể), nảy thành cái ung nhọt (gây hại đáng kể), nhằm nói lên ý nghĩa: sự việc nhỏ mà không khéo giải quyết thì trở thành vấn để lón; với (5), chuyện có bột mới làm nên hồ, nhằm nghĩa: phải có điều kiện cơ bản (như nguyên vật liệu, phương tiện, cơ chế, năng lực.... ), thì mới làm nên chuyện; và với (6), chuyện "eon vua vua dấu, con chúa chúa yêu” lại thể hiện một tâm lí phổ biến: con của al, người ấy yêu quý. Các nghĩa vừa nêu là nghĩa khái quát.
+ Cách rút nghĩa khái quát thường g4p:
- Nghĩa khái quát thường được rút ra theo quá trình suy luận quy nạp, đó là kết đề của quá trình này được thể hiện trong phạm vi một câu tục ngữ (như ví dụ đã dân của Phan Thị Đào, ví dụ (6)). Khi kết đề của quá trình suy luận quy nạp dựa trên cơ sở của những đơn vị tục ngữ cùng nghĩa hay tương đương về nghĩa, thì đó là trường hợp đặc biệt (như ví dụ đã dân của Bùi Mạnh Nhận).
- Nghĩa khái quát cũng thường được rút ra trên eơ sở mâu câu. Các hình ảnh cụ thể trong mẫu câu được thay bằng các hình anh trừu tượng hoặc các khái niệm có sức khái quát (các ví dụ (4), (5)).
+ Đặc điểm về nghĩa khái quát của tục ngư:
Nghĩa khái quát hoàn toàn khác với tính khái quát của tục ngữ. Ví dụ, "Cha nào con ấy" là một câu tục ngữ có tính khái quát cao, nhưng bản thân nó chỉ có nghĩa đen mà không có nghĩa khái quát (bởi không thể suy được cái có thể bao hàm nộ); ngược lại, nó bao hàm ý nghĩa:của các câu như "Hổ phụ sinh hổ tử" (cha hổ sinh con hổ), "Cha anh hùng, con hảo hán", "Cha ninh thần con mấy trung lương".... (nhưng bấy giờ, nó là nghĩa khái quát của các câu Lại
Triều Nguyên


này chứ không phải là câu tục ngữ, và để tránh hiểu nhầm, người ta có thể thay bằng các cách nói cùng nghĩa, chẳng hạn: cha như thế nào thì con như thế ấy; cha làm sao thì con cũng hao hao làm vậy:...).
Nghĩa khái quát có thể có tầng bậc, như đã trình bày ở ví dụ của Nguyễn Đức Dân, hoặc như câu “Cái áo không làm nên thầy tu" có hai nghĩa khái quát: a) trang phục, đẫu là thứ trang phục đặc biệt, dành riêng cho một giới nào đó, hắn nhiên, cũng không tạo nên phẩm chất, đặc điểm của giới ây cho người mang nó; b) trang phục không làm nên giá trị con người; và câu "Khôn tiền xu, ngu bạc vạn" cũng có hai nghĩa khái quát: a) khôn điều vặt vãnh mà ngu chuyện lớn lao (nên có vẻ khôn mà thực chất là ngu dạn); b) chỉ nhìn thấy cái lợ/hai nhỏ, không nhận ra điều được/mất lớn - trong đó, bậc của b cao hơn a (b bao hàm a, a bao hàm câu tục ngữ).
2.1.3. Nghĩa bóng
+ Nếu cơ sở để suy nghĩa đen là sư phù hợp giữa đối tượng được để cập trong câu tục ngữ với hiện thực khách quan, thì cơ sở để suy nghĩa bóng, với trường hợp câu tục ngữ chỉ có duy nhất nghĩa bóng, là ngược lại (đối tượng được nói đến trong câu tục ngữ không tương ứng với hiện thực, với chân lí khách quan). Thường gặp nhất về đối tượng được đề cập này, là những con vật, đồ vật, sự vật, hiện tượng được dùng để nói về con người và xã hội con người (tức kiểu nói ẩn dụ). Câu tục ngữ chỉ có duy nhất nghĩa bóng là câu tục ngữ có nghĩa được suy trên cơ sở vừa nêu, và ngoài nghĩa ây ra, không tạo một sự liên tưởng nào khác.
Chẳng han, với (7) ("Mực thẳng mất lòng cây gỗ cong") có nghĩa "người nói năng, làm việc ngay thẳng, sẽ mất lòng kẻ trí trá, gian manh" (Mực: thợ cưa xẻ, thợ mộc dùng
dây tẩm mực kéo căng rồi búng xuống gỗ đề lấy đường thắng mà cưa; đường thẳng được tạo theo kiểu ấy gọi là đường mực, vật tạo đường mực bằng gõ, hình hộp, èó trục cuốn dây tấm mực khô (ở trong) và tay quay (ở ngoài), gọi là con mực); với (8) (“Nồi tròn úp vung tròn, nồi méo úp vung méo") có nghĩa "bản thân và hoàn cảnh ra sao thì lấy vợ lấy chồng tương ứng như thế ấy"; với (9) ('Ếch ngồi đáy giếng coi trời bằng vunø") có nghĩa "người hiểu biết hạn chế sẽ có cái nhìn thiển cận, tự tôn, không biết được những điều lớn lao trong cuộc sống". Ba nghĩa vừa nêu là nghĩa bóng.
Cơ sở để suy nghĩa bóng, như đã nói, là sự không tương ứng giữa đối tượng được nói đến với hiện thực, kèm cách liên tưởng theo lối ấn dụ. Điều này bao gồm cả trường hợp nói như sự thật, nghĩa là thoạt nghe ngỡ thật, ngẫm lại, thì bình thường không ai nói vậy. Như câu "Quắng xương cho chó cắn nhau" vẻ như gặp nhiều trong cuộc sống, nhưng thật ra, chỉ trừ khi vô ý, chứ không ai làm vậy (vì chó cắn nhau có thể gây đô vỡ đồ đạc, có khi cắn lây sang ngưởơi,...), nên câu này chỉ dùng nghĩa bóng (ấy là: "để thao túng phường giá áo túi cơm, chỉ cần ném cho chúng ít mồi - chức vị, lợi lộc,... - là chúng sẽ căn xé, giành giựt nhau ngay").
Cũng có một số trường hợp câu tục ngữ được suy nghĩa bóng trên cơ sở cùng âm. Vị dụ, câu "Già kén, kẹn họm”" (có hai cách giải thích: a) khi tằm chín nhả tơ thành kén, con tằm hoá nhộng nằm gọn trong kén tơ đó, nếu để kén lâu ngày thì nhộông hoá thành ngài (bướm) cắn thủng kén bay ra: loại kén "già" khi kéo tơ thì tơ chăng đóc ra được (tơ bị kẹn): b) khi tăm chín, người ta tha trên cái né (vật đan bằng tre tạo các hình ô vuông (như tấm liếp thưa), có cài
"rơm ở các ô này), để tằm nhả tơ kết kén:
nêu kén trên né mà to, mật độ dày ("già NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI



kén"), thì sẽ kẹt chặt vào hom (các thanh tre làm né) gây khó gỡ, "kẹn hom"), hầu như không còn dùng nghĩa đen mà chỉ dùng nghĩa bóng, ấy là: "nếu quá kén chọn (về vợ chồng, công việc, danh vi,...), thì có thể sẽ bỏ mất nhiều cơ hội tốt, thành ế ẩm, đở dang" (chuyển nghĩa theo cách cùng âm: kén "tơ tăm" (kén "chọn lựa").
+ Một câu tục ngữ chỉ có duy nhất loại nghĩa bóng cũng có thể gồm nhiều nghĩa bóng. Thưởng gặp là dạng các nghĩa bóng này bô sung nghĩa cho nhau.
Ví dụ sau, môi câu tục ngữ đều có hai nghĩa bóng: "Chạy trời không khỏi nắng" (nghĩa bóng: a) không tránh khỏi số phận; b) khi gây tội, dâu giỏi trốn tránh cũng không thoát khỏi sự trừng phạt); "Đánh chó, ngó đăng sau" (nghĩa bóng: a) khi đả kích, hạ bệ ai đó, phải dè chừng người bậc trên của người ấy; b) khi đánh kẻ hung hãn muốn hại mình, phải xem người đứng đằng sau để sai khiến, giật dây kẻ hung hãn đó là al, vì chính người ấy mới là ke thù thật sự); "Kình nghê vui thú kình nghê, tép tôm thì lại vui bể tép tôm" (nghĩa bóng: a) hạng người giàu sang thì vui chơi theo kiểu giàu sang, hạng người nghèo hèn thì vui chơi theo lối nghèo hèn; b) tuỳ theo điều kiện, môi trường sống của môi ngươi, mà có những kiểu ăn chơi, cách tìm thú vui riêng).
Trường hợp ít gặp hơn, là khi câu tục ngữ có nhiều cách hiểu (mà vẫn không có nghĩa đen), thì mỗi cách hiểu có một nghĩa bóng tương ứng. Ví dụ, câu "Bò bổ nhằm khi khế rụng" (bò ngã chết đúng vào mùa khế - thịt bò nấu với khế rất hợp) có hai nghĩa bóng: a) điều không hay xảy ra đúng lúc có sự kiện bất lợi cho nó hình thành, khiến càng phức tạp, khó khăn hơn (hiểu "bò bổ" là điều không may); b) sự phù hợp ngâu nhiên (trong điều kiện thuận lợi), sẽ đem lại kết qua ngoài mức mong đợi (hiểu "bò bổ" là bình thường).
2.2. Những câu tục ngữ có nhiều loạt nghĩa
Những câu tục ngữ có nhiều loại nghĩa thưởng gặp, là hai nghĩa thuộc vào hai loại nghĩa khác nhau. Số ít hơn, là có hai nghĩa thuộc vào hai loại nghĩa khác nhau kết hợp với nghĩa của cùng một loại nghĩa đen, cùng một loại nghĩa khái quát,...
2.2.1. Nghĩa đen uà nghĩa bhúi quát
+ Câu tục ngữ vừa có nghĩa đen vừa có nghĩa khái quát khi nó thoa mãn các yêu cầu tạo nghĩa của hai loại nghĩa này (và không có loại nghĩa bóng).
Chẳng hạn, với (10), nghĩa đen: "cờ bạc (qua đêm) phải đến sáng mới rõ được thua", nghĩa khái quát: "công việc phải đến khi sắp kết thúc mới rõ thành công hay thất bại"; với (11), nghĩa đen: "trâu gầy ốm sức cày kéo cũng bằng bò khoẻ mạnh", nghĩa khái quát: "cái thuộc cấp hạng trên dâu có kém cỏi vẫn sánh ngang với cái cao nhất thuộc cấp hạng dưới kế đó”; với (12), nghĩa đen: "ruộng vườn của ai thì người ấy lo đắp bờ, rào giậu", nghĩa khái quát: "vật riêng của ai thì người ấy lo giữ gìn, bảo vệ".
+ Trường hợp có nhiều nghĩa đen do hiện tượng cùng âm, thì nghĩa khái quát thường chỉ duy nhất một nghĩa (bao trùm các nghĩa đen kia). Hai câu tục ngữ được dẫn kèm phân tích dưới đây cho thấy điều đó:
Câu "Khỏi lỗ thì vỗ vế", do "lỗ" có thê gồm ba từ (cùng âm) mà có ba nghĩa đen:
- Thoát ra khỏi hang hốc (ít nhiều nguy hiểm), thì lấy làm vui mừng ( lô": hang hốc).
- Người buôn bán gặp mặt hàng khó bán, may mắn bán được mà không bị lô vốn, thì lấy làm vui mừng ("lô": thua thiệt, trái với lãI). 14
Triều Nguyên


- Người đàn ông sau cuộc làm tình vụng trộm được an toàn, thì lấy làm vui mừng ("lỗ": bộ phận sinh dục nữ).
Và nghĩa khái quát là "thoát khỏi tình trang bất lợi hay không an toàn, thì lấy làm vu!'.
Câu "Cha đào ngạch, con xách nồi" do "ngạch" có thể gồm hai từ (cùng âm) mà có hai nghĩa đen:
- Cha đào đất bùn mà bắt lươn, thì con xách nổi đi theo để đựng lươn bắt được - nổi thường được dùng để đựng lươn ("ngạch": ngách hẹp ở trong đất, ở đây là hang lươn).
- Cha đào ngạch để đột nhập vào nhà người ta ăn trộm, thì con đi theo để xách nồi - tức mang đồ trộm được ("ngạch": phần bên dưới ngưỡng cửa, tường phên, tiếp giáp với nền đất).
Và nghĩa khái quát là: "cha làm việc øì, con làm theo việc ấy".
Đây là một đặc điểm khác của nghĩa khái quát (chưa được nêu ở 3.1.3.).
+ Xét tương quan giữa nghĩa đen và nghĩa khái quát ở dạng tục ngữ đang bàn, thì chúng không cố định mà ít nhiều được phân chẻ ra theo tình huống phát ngôn. Như với trường hợp đối tượng được đề cập trong câu tục ngữ đồng thời là thực tiễn (hay bối cảnh) đang được hướng đến lúc nói, thì nghĩa của câu tục ngữ nghiêng về nghĩa đen (nghĩa khái quát chỉ hình thành thứ yếu, nhằm muốn hiểu sâu hơn, nếu cần); còn như đối tượng được đề cập trong câu tục ngữ không quan hệ gì với bối cảnh nói, thì nghĩa của câu tục ngữ nghiêng về nghĩa khái quát (người tiếp nhận buộc phải suy nghĩa khái quát để hiểu ý người nói, còn nghĩa đen nhằm củng cố điều đã được Suy).
Ngoài ra, khi nghĩa đen là một kinh nghiệm cụ thể, xác thực, thì vai trò của
nghĩa khái quát có phần mờ nhạt. Ví dụ, câu "Canh bầu thì nấu hanh hao, bí ngô nấu tói, bí đao nấu hành" (hanh hao: có vị tương tự ngò - hiện nay, nấu canh bầu ngươi ta dùng ngò thay hanh hao), do nghĩa đen là bày kinh nghiệm nêm gia VỊ cho các loại canh bầu bí, nên nghĩa khái quát "mỗi loại thức ăn đòi hỏi một (hoặc một số) gia vị riêng, mà nếu thiếu sẽ mất ngon" có về như không cần lắm.
2.2.2. Nghĩa đen uà nghĩa bóng
+ Câu tục ngữ vừa có nghĩa đen vừa có nghĩa bóng khi nó thoả mãn các yêu cầu tạo nghĩa của hai loại nghĩa này (và không có loại nghĩa khái quát).
Chẳng hạn, câu (13), có nghĩa đen: "có chạy đường dài mới biết con ngựa đang dùng là hay hoặc kém"; nghĩa bóng: "con người phải trải qua một giai đoạn thử thách nhất định về một công việc nào đó, mới biết rõ được năng lực, tài cán, để có thể sử dụng phù hợp, lâu dài". Câu (14), có nghĩa đen: "chó hay yÿ thế nhà (một con chó thường ru những con chó nó thích về nhà và cắn đuổi những con chó khác); gà cũng vậy, hay ÿ thế vườn nhà (một con gà vườn này vừa qua khỏi hàng rào, sang địa phận vườn khác, là bị cắn đuổi ngay)"; nghĩa bóng: "con người có lắm khi dựa vào thế lực do quen biết ở nơi mình sinh sống, hoạt động, để chèn ép người xa lạ". Câu (15), có nghĩa đen: "trâu ăn uống lơ là, không ham thích, thì cày kéo cũng lừ đừ, uế oải"; nghĩa bóng: "người khi đau ốm hay già yếu. không ham thích chuyện ăn uống, thì cũng không còn thiết tha đến công việc nữa".
+ Nếu con đường đi đến nghĩa bóng của dạng tục ngữ chỉ có duy nhất loại nghĩa bóng là trực tiếp từ các hình ảnh của tục ngữ, thì con đường đến nghĩa bóng đối với dạng tục ngữ vừa có nghĩa đen vừa có nghĩa bóng phải có sự tham gia của nghĩa đen. Cho nên, nếu câu tục ngữ vừa có nghĩa NGHIÊN CỨU TRAO ĐỐI
đen vừa có nghĩa bóng, mà nghĩa đen gồm nhiều nghĩa, thì nghĩa bóng cũng được hình thành từ các nghĩa đen tương ứng.
Ví dụ, câu "Trâu béo kéo trâu gầy" có hai nghĩa đen:
- Cùng một chủ, trâu béo, khoẻ bù chỗ kém, thiếu ở phần việc của trâu gầy, yếu;
- Trâu béo, khoe cày kéo tốt, khiến trâu gầy, yếu hơn cũng phải cố theo (tạo hiệu quả tốt cho công việc).
Và hai ngh1a bóng tương ứng:
- Trong một tập thể, người giỏi giang, siêng năng bù đắp công việc cho người kém cỏ1, lười biếng:
- Người giỏi giang, năng nổ có tác động, anh hưởng tốt đến người kém cỏi, ù lì, giúp người này cùng tiến bộ.
Điều này phân biệt với nghĩa khái quát, dù nghĩa đen (trong trương hợp câu tục ngữ vừa có nghĩa khái quát vừa có nghĩa đen), gồm nhiều hướng nghĩa, thì nghĩa khái quát vẫn ổn định, không lệ thuộc vào các hướng nghĩa ấy, đã nêu trước.
Một ngoại lệ được tìm thấy là trường hợp nghĩa bóng được hình thành trên cơ sở cùng âm, gần như không quan hệ gì với nghĩa đen, dù nghĩa này vân được sử dụng:
Câu "Gần đâu xâu đó" có nghĩa đen "sân ở đâu thì đi xâu hay nộp sưu thuế ở đó" ("xâu": sưu dịch - sưu thuế và phục dịch), và nghĩa bóng xuất phát từ hiện tượng cùng âm với "xâu" (xỏ qua lỗ để nối kết các vật rời với nhau): "tiện đâu thì lấy vợ ở đó".
2.2.3. Nghĩa hút quút 0uà nghĩa bóng
+ Câu tục ngữ vừa có nghĩa khái quát vừa có nghĩa bóng khi nó thoả mãn các yêu
cầu tạo nghĩa của hai loại nghĩa này (và không có loại nghĩa đen).
lỗ
Chắng hạn, câu (16) ("Tam quan cao hơn chùa") có nghĩa khái quát: "cái để phô phang thương vượt quá cái dùng làm cơ sở cho nó" (œm quan: cổng có ba lối 0ào, thường xây trước đình, chùa, nhà thờ họ): ngh1a bóng: "những kẻ thuộc cấp có vai trò quan trọng, không thể không quan tâm". Câu (17) (“Fo thuyền thì to sóng") có nghĩa khái quát: "mỗi sự vật (khi phát huy tác dụng) đều tương xứng với những cái có quan hệ sở thuộc hay tất yếu với chúng"; nghĩa bóng: "chức quyền, địa vị càng cao thì những trở lực, gian nguy càng lớn (cần phải dàn xếp, võ yên mới dễ bề thăng tiến)". Câu (18) (Môi hở, răng lạnh") có nghĩa khái quát: "sự an lành của cái được che chở, được bảo đảm từ phía cái che chở; khi cái che chở bất ổn, thì cái được che chở có thể sẽ bị tác động làm cho xấu đi"; nghĩa bóng: "anh em, bà con hay những người cùng gắn bó trong một tổ chức, cần thuận thảo, đoàn kết, đùm bọc nhau: nếu bất hoà sẽ tạo nên sự thiếu ổn định về tâm lí, là cơ sở tiềm ấn của nhiều tai hoạ".
Có thể không khó nhận ra (qua ba câu tục ngữ vừa phân tích) là với dạng tục ngữ vừa có nghĩa khái quát vừa có nghĩa bóng này, tính khái quát - ấn dụ cao hơn các dang khác. Đồng thời, sũng cho thấy cách suy nghĩa khác nhau giữa hai loại nghĩa đang bàn: nghĩa khái quát theo con đương suy lí, logic, gắn kết với vấn đề đặt ra từ câu tục ngữ mà nó khái quát, trong lúc nghĩa bóng đi theo lối lên tương, tưởng tượng, từ những hình ảnh ngoài con người sang những vấn để thuộc con người và xã hội con người.
Cũng do con đương suy nghĩa không giống nhau và việc suy nghĩa ấy không xuất phát từ nghĩa den, mà ở dạng đang bàn, nghĩa khái quát và nghĩa bóng có ve như ít phù hợp với nhau hơn các trương hợp khác (như so với những câu tục ngữ vừa có nghĩa 16
Triều Nguyên


đen vừa có nghĩa khái quát, vừa có nghĩa đen vừa có nghĩa bóng đã nêu).
+ Có khi nghĩa khái quát và nghĩa bóng khó phân định, chúng như nhập vào nhau. Thường gặp là dạng rút nghĩa khái quát của nhiều câu tục ngữ cùng nghĩa (hay tương đương về nghĩa), mà khi rút như vậy đã bao gồm nét nghĩa về con người và xã hội con người.
Ví dụ dưới đây gồm ba đơn vị tục ngữ, mỗi đơn vị có hai câu cùng nghĩa:
hn treo, heo nhịn đói".
"Cơm treo, mèo nhịn đói".
Nghĩa khái quát - nghĩa bóng: "có thức ăn, vật dùng, mà không được dùng (điều không đáng để xảy ra)".
Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng". "Gần son thì đỏ, gần mực thì đen".
Nghĩa khái quát - nghĩa bóng: Sống gân/trong môi trường nào, sẽ chịu ảnh hưởng của môi trường ấy: có bạn xấu, sống gần/trong môi trường xấu, thì dễ bị nhuốm thói xấu; có bạn tốt, sống gần/trong môi trường tốt, thì được ảnh hưởng điều tốt đẹp.
"Cây đắng sinh trái ngọt". "Cây ngọt sinh trái đắng".
Nghĩa khái quát - nghĩa bóng: "tính khí (hiển dữ, ngay gian,... ) của con trái ngược với tính khí của cha mẹ".
2.2.4. Nghĩa đen, nghĩa khút quút 0uà nghĩa bóng
+ Câu tục ngữ vừa có nghĩa đen, vừa có nghĩa khái quát lại vừa có nghĩa bóng khi nó thoả mãn các yêu cầu tạo nghĩa của cả ba loại nghĩa này.
Chẳng hạn, câu (19) ("Cá kể đầu. rau kể mớ") có nghĩa đen: "cá thì tính theo đầu con, còn rau thì tính theo mớ"”; nghĩa khái quát: "vật có giá trị cao được tính từng đơn
vị, vật có giá trị thâp thì thưởng được tính gøộp"; nghĩa bóng: "những nhân vật quan trọng cần được xem xét cụ thể khi muốn sử dụng hay loại trừ, còn những ngươi bình thường thì chỉ cần tính chung theo một dạng thức, đơn vị nào đó". Câu (20) ("Mắm măn nỏ chết troi") có nghĩa đen: "mắm tuy mặn nhưng không giết chết được gi1ò1': nghĩa khái quát: "dù môi trường khắc nghiệt vân có loại sinh vật thích nghi được"; nghĩa bóng: "biện pháp. cơ chế chính trị khắc nghiệt gây nguy hại đến nhiều tâng lớp người, nhưng vẫn có một số đối tượng nhất định chẳng hề hấn gì". Câu (21) ("Mía sâu có đốt, nhà đột có nơi") có nghĩa đen: "thông thường, mía có bị sâu cũng chì một số đốt nhất định, nhà có dột cũng ở vài chỗ"; nghĩa khái quát: "sự vật có thể bị hư hỏng ở một bộ phận nhất định, không nên thấy có chô hỏng mà cho là hỏng cả"; nghĩa bóng: "trong một gia đình, tổ chức nào đó, có thể có một vài kẻ xấu, nhưng không vì thế mà đánh giá cả tập thể ấy đều xấu cả".
+ Như đã trình bày ở trường hợp nghĩa đen và nghĩa khái quát, nghĩa đen của dạng này cũng vậy, chúng chỉ thể hiên mạnh khi đối tượng được để cập trong câu tục ngữ có bối cảnh, hoàn cảnh nói ủng hộ (như câu (20) được nói khi đang gắp mắm, câu (21) được nói khi có người chê mía sâu,...). Trên thực tế, dạng tục ngữ vừa có nghĩa den, vừa có nghĩa khái quát lại vừa
có nghĩa bóng, cùng với dạng tục ngữ vừa (5)
có nghĩa đen vừa có nghĩa bóng, có rất ít”.
3. Đến đây, để có thể nêu nhận xét chung, có lẽ cũng cần nhắc lại định nghĩa về tục ngữ: "Tục ngữ là những câu nói ổn định về cấu trúc, phản ánh những tri thức, kinh nghiệm và quan niệm (dân gian) của một dân tộc về thế giới khách quan, tư nhiên cũng như xã hội""”. Định nghĩa này được các nhà tục ngữ học thống nhất, chỉ khác đôi chút về diễn đạt. Chẳng han. chỉ NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
17
————ễỄẼỲẼ ẼŠẼŠẼŠẼŠẼễẼễẼễẼễễễ==
tiết "ổn định về cấu trúc" được Chu Xuân Diên gọi là "có hình thức bền vững"“?) Đỗ Bình Trị cho là "gọn chắc", "một câu hoàn chỉnh về mặt ngữ pháp"”".
Chi tiết vừa nêu cũng là chi tiết cần chú ý khi xét về nghĩa. Bởi một khi cái biểu đạt (lời tục ngữ) "ổn định", "bền vững", "gọn chắc", thì cái được biểu đạt (nghĩa của tục ngữ) cũng sẽ như vậy. Theo đó, thì những trình bày về "hiện tượng "nhiễu" ở một vị trí được "đánh dấu" trên trục dọc" (ở 2.1.1.) nên được hiểu là trường hợp đặc biệt của tục ngữ (bởi trên thực tế chúng chỉ có rất ít). Và tuy cái đặc biệt cũng mang những thuộc tính như cái bình thường trong hệ thống mà chúng xuất hiện, nhưng đồng thời chúng cũng có những đặc điểm có thể thuộc vào những hệ thống khác mà những cái bình thường trong hệ thống chúng xuất hiện đang đề cập không có. Tức nếu xuất phát từ cái đặc biệt, nắm bắt các tính chất của nó để suy ra tính chất ấy là chung cho cả hệ thống mà cái đặc biệt có xuất hiện, thì không phù hợp về mặt lí luận, là nguyên nhân dân đến cái nhìn nhận sa! lệch.
Mặt khác, nghĩa của tục ngữ là nghĩa của các phán đoán, nghĩa của các nhận định, kinh nghiệm dưới hình thức câu, tức diễn đạt một ý trọn vẹn (điều đã được thống nhất cao, ở đây xin được nêu mà không lí giải) "”.
Hai đặc điểm về nghĩa (tính ổn định, bền vững; tính hoàn chỉnh, trọn vẹn) vừa nêu, đặc điểm đầu giúp tục ngữ được lưu truyền, sử dụng một cách thuận tiện, thống nhất trong cộng đồng, đặc điểm sau nhằm phân định giữa tục ngữ và thành ngữ 10, đồng thời là cơ sở quan trọng để xếp tục ngữ với tư cách là một thể loại thuộc văn học dân gian (và cũng là chỗ dựa cho việc giải thích, trình bày nghĩa tục ngữ, tránh trường hợp trình bày nghĩa theo lối từ vựng, lối nghĩa khái niệm).
Hệ thống (hay các bình diện) nghĩa của tục ngữ đã trình bày, cùng hai đặc điểm về nghĩa được nhấn mạnh, là vấn để cơ bản của thi pháp tục ngữ, chúng góp phần làm sáng rõ đặc điểm thể loại của loại hình văn
_học dân gian này, và về mặt thực tiễn, sẽ
giúp việc sưu tầm, biên soạn và chú giải tục ngữ được dễ dàng, nhất quán hơn.f
1.N.
(1) Xét ở bình diện phát ngôn, thì vấn đề có thể khác. Xem: Nguyễn Xuân Đức, Những uấn đề thi pháp uăn học dân gian, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2005, tr.133
(2) Mục “Tục ngữ” này được trích lại từ “Bài giang cho sinh viên khoa Văn các trường đại học”.
(3) Tính khái quát và nghĩa khá! quát của tục ngữ, ở đây, cũng không được phân định.
(4) Cái thú vị của chơi chữ nhờ sự đôi sánh giữa hai lượng thông tin khác biệt trên cùng một hình thức ngôn ngữ này.
(5) Sự có mặt của chúng cho thấy tính chất hoàn thiện, tròn đây của hệ thống nghĩa tục ngữ được trình bày.
(6) Nguyễn Đức Dân, “Đạo lí trong tục ngữ”, Bài đã dẫn, tr.58.
(7) Chu Xuân Điên, “Pục ngữ”, trong sách Từ điển uăn học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1984, tr.473.
(8) Đỗ Bình Tri, “Những đặc điểm thi pháp của tục ngữ”, trong sách Góp phần nâng cœo chất lượng sưu tâm, nghiên cứu uăn hoá, Uuăn nghệ dân gian, Nxb Văn hoa dân tộc, Hà Nội, 2000, tr.352, 354.
(9) Dù chức năng của các loại nghĩa không giống nhau, như với nghĩa khái quát, nghĩa bóng giúp vào việc lĩnh hội, nhận thức (biết để có sự nhìn nhận đúng đắn về những vấn đề của cuộc sống), với một bộ phận quan trọng của nghĩa đen (như tục ngữ về dự đoán thời tiết, kinh nghiệm trồng trọt, chăn nuôi, đánh bắt cá, các nghề thủ công,... ), giúp việc chỉ hướng hành động (biết để làm theo).
(10) Nghĩa của thành ngữ tương đương với nghĩa của khái niệm.