Triều Nguyên
NGHĨA CỦA TỤC NGỮ
TRIỀU NGUYÊNÏ)
1. Các nhà nghiên cứu tục ngữ, trên
đai thể, đã thống nhất là tục ngữ xét ở
phạm vi thể loại, có hai loại nghĩa: nghĩa
đen uà nghĩa bóng”. Một số nhà nghiên
cứu như Nguyễn Đức Dân, Bùi Mạnh Nhị,
Phan Thị Đào có để cập đến nghĩa khái
quát, nhưng cách hiểu về nghĩa này không
giống nhau.
Nguyên Đức Dân ở bài viết "Đạo lí
trong tục ngữ" (Tạp chí Văn học, số 5 -
198/7, tr.57 - 66), đã xác lập nghĩa khái
quát trên cơ sở chuyển hình ảnh, khái niệm
cụ thể sang khái niệm mang tính khái
quát, bằng phép suy luận chặt chẽ. Ví dụ:
"Một người biết lo bằng kho người hay
làm”. (1)
một người + biết lo = kho người + hay làm
kho người > một người
=> biết lo > hay làm (a)
— trí tuệ > sự cần cù (b)
(a) và (b) là hai nghĩa khái quát của
(1), và bậc của (a) thấp hơn bậc của (b) [tr.
64].
Bùi Mạnh Nhị trong mục "“Fục ngữ"
của tập sách Văn học dân gian - những
công trình nghiên cứu (Nhiều tác giả, Nxb
Giáo dục, Hà Nội, 2000, tr.254 - 260)”, khi
để cập đến nghĩa khái quát, đã dân các câu
"Hàng săng chết bó chiếu", "Thợ rèn không
có dao ăn trầu", "Nhà vườn ăn cam sâu", và
cho rằng, chúng cùng diễn đạt nhận xét
khái quát "chủ nhân của sản phẩm không
'”Th8. Hội Văn nghệ dân gian Thừa Thiên
- Huế.
(hoặc không được) hưởng thụ thành qua do
chính họ làm ra" [tr.257|.
Riêng Phan Thị Đào, ở chuyên luận
Tìm hiếu thi pháp tục ngữ Việt Nam (Nxb
Thuận Hoá, Huế, 1999) thì nghĩa khái quát
được nêu làm để mục tương đương với
nghĩa đen và nghĩa bóng; ví dụ được dân
nghiêng về logic: "ta có những câu tục ngữ
mà ở đó môi vế tồn tại như một tiền để
mang ý nghĩa khái quát cao, còn kết để là
một phán doán mang ý nghĩa khái quát cao
hơn, nhưng không phải tồn tại trên văn
ban mà được rút ra từ tư duy của người
tiếp nhận":
Thợ may ăn giẻ,
thợ vẽ ăn hồ,
thợ bồ ăn nan,
thợ hàn ăn thiếc.
TIỀN
ĐỀ
KÊT
LUẬN
(Làm nghề gì ăn nghề ấy).
[r.1251
Có thể thấy rằng, Nguyễn Đức Dân đã
tìm cách rút nghĩa khái quát của tục ngữ
nhằm nắm được phần mô hình, cái nòng cốt
bên trong, để có thể phân định, đối sánh
giữa các đơn vị tục ngữ với nhau; Bùi Mạnh
Nhị thừa nhận có nghĩa khái quát nhưng
chưa xếp vào hệ thống nghĩa của tục ngữ
(đoạn dân là phần duy nhất của bài viết
bàn về nghĩa khái quát); Phan Thi Đào thì
đưa nghĩa khái quát vào hệ thống nghĩa
của tục ngữ, xem đó như một tất yếu,
nhưng ngoài ví dụ đã dẫn, không nói gì
thêm về eơ chế của nghĩa này”.
Bên cạnh hai loại nghĩa (nghĩa đen,
nghĩa bóng) đã được thống nhất, một loại
nghĩa (nghĩa khái quát) mới được nhìn
nhận bước đầu vừa nêu, cũng có một số vấn
đề về nghĩa khác đang được quan tâm (như
Nguyễn Xuân Đức (Những uấn đề thi phúp
uăn học dân gian, sảd) cho rằng "tục ngữ có
thể có rất nhiều nghĩa" [tr.133]. "tục ngữ
nhiều nghĩa do nhiều lần phát ngôn đem
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
9
—————ỄẰẦBB B B E- ÐÐÐ
lại chứ nó không đa nghĩa trong mỗi lần
phát ngôn" [tr.139)). Và ngay cả hai loại
nghĩa đã thống nhất, cơ sở, cơ chế để suy
nghĩa ra sao, vân chưa được giải quyết thoả
đáng (vấn để được nhận ra qua việc trình
bày nghĩa thiếu nhất quán trong một số
công trình sưu tập và chú giải tục ngữ đã
xuất bản).
Bài viết này nhằm miêu tả, hệ thống
hoá các bình diện nghĩa của tục ngữ; và
trong quá trình thực hiện công việc của
mình, nó cũng góp phần tháo gỡ, khắc phục
các tồn tại, thiếu sót vừa đặt ra.
2. Môi câu tục ngữ có ít nhất là một
nghĩa. Qua xem xét 16.098 đơn vị tục ngữ
của bộ sách Kho tàng tục ngữ người Việt
(Nguyễn Xuân Kính chủ biên, Nxb Văn hoá
thông tin, Hà Nội, 2002), nếu phân loại tục
ngữ theo hình thức tạo nghĩa, thì có bảy
đạng tục ngữ sau:
+ Những câu tục ngữ chỉ có nghĩa đen:
(1) "Tháng bảy nước nhảy lên bờ".
(2) "Thừa mạ thì bán, chớ có cấy ráng
ăn rơm.
(3) "“Fôm đi chạng vạng, cá đi rạng đông".
+ Những câu tục ngữ chỉ có nghĩa khái
quát:
(4) "Cái sảy nảy cái ung”.
(5) "Có bột mới gột nên hồ".
(6) "Con vua vua dấu, con chúa chúa yêu”.
+ Những câu tục ngữ chỉ có nghĩa bóng:
(7) "Mực thắng mất lòng cây gỗ cong".
(8) "Nồi tròn úp vung tròn, nồi méo úp
vung méo".
(9) "Éch ngồi đáy giếng coi trời bằng
vung”.
+ Những câu tục ngữ vừa có nghĩa đen
vừa có nghĩa khái quát:
(10) "Cờ bạc ăn nhau về sáng".
(11) “Trâu he hơn bò khoẻ".
(12) "Ruộng ai thì nấy đắp bờ".
+ Những câu tục ngữ vừa có nghĩa đen
vừa có nghĩa bóng:
(138) "Ngựa hay chạy đường dài mới biết"
(14) "Chó ÿ thế nhà, gà ÿ thế vườn".
(15) "Trâu ngãng ăn thì ngãng cày".
+ Những câu tục ngữ vừa có nghĩa khái
quát vừa có nghĩa bóng:
(16) “Fam quan cao hơn chùa".
(17) "To thuyền thì to sóng". -
(18) "Môi hở, răng lạnh".
+ Những câu tục ngữ vừa có ngh1a đen
vừa có nghĩa khái quát, lại vừa có nghĩa
bóng:
(19) "Cá kể đầu, rau kế móớ".
(20) "Mắm mặn nó chết trol".
(21) "Mía sâu có đốt, nhà dột có nơi".
Bảy dạng tục ngữ này có thể gộp làm
hai nhóm lớn: nhóm những câu tục ngữ chỉ
có một loại nghĩa (ba dạng đầu), và nhóm
những câu tục ngữ có nhiều loại nghĩa (bốn
đạng còn lạn).
2.1. Những câu tục ngữ chỉ có một
loạt nghĩa
Những câu tục ngữ chỉ có một loại
nghĩa thường là đơn nghĩa. Số ít hơn là có
nhiều nghĩa của cùng một loại nghĩa.
2.1.1. Nghĩa đen
+ Nghĩa den là nghĩa được suy trên cơ
sở sự thống nhất, sự phù hợp giữa đối
tượng được để cập (hay hiện thực được nói
đến) trong câu tục ngữ với cuộc sống thực,
với chân lí khách quan. Câu tục ngữ chỉ có
duy nhất nghĩa đen là câu tục ngữ có nghĩa
được suy trên cơ sở vừa nêu, và ngoài nó ra,
không tạo một sự liên tưởng nào khác.
Chẳng hạn, với ba câu đã dẫn: vào
khoảng tháng bảy âm lịch, ở Bắc Bộ và bắc
10
miền Trung thì thường xảy ra mưa lụt (1):
khi cấy, thấy mạ thừa mà cấy rậm vào, thì
lúa sẽ ít hạt (9); tôm có nhiều trên mặt nước
lúc chạng vạng, trong lúc cá lại kéo thành
đàn vào rạng sáng (biết để đánh bắt) (3);...
+ Việc suy nghĩa đen có khó khăn hơn
khi gặp những câu tục ngữ (số này rất ít) có
hiện tượng "nhiễu" ở một vị trí được "đánh
dấu" trên trục dọc (trục lựa chọn). Các
đánh dấu thường gặp là dạng cùng âm, đa
nghĩa, dạng khuyết các tổ hợp nối, tổ hợp
so sánh, các tình huống (trạng ngữ), dạng
có nhiều cách ngắt nhịp,...
Ví dụ về dạng cùng âm:
Câu tục ngữ "Sống ngày nào hay ngày
ấy", do "hay" có thể gồm hai từ (cùng âm)
mà có hai nghĩa đen sau:
- Đống được ngày nào thì tốt ngày ấy
(bởi sức sống của đối tượng được nói đến đã
gần hết) ("hay": tốt).
- Đống được ngày nào thì biết ngày ấy
(bởi điều kiện, nhu cầu cần thiết cho cuộc
sông của đối tượng được nói đến rất khó
khăn, không có gì đảm bảo là sẽ có được
trong một tương lai gần; hoặc phải đương
đầu với hiểm nguy (như chiến tranh, công
việc thiếu an toàn,...); hoặc cũng có thể do
quan niệm "tử vô kì", không thể biết được
lúc nào chết, ngay cả ngày mai, chỉ có ngày
còn đang sống là chắc chắn chưa chết)
(“hay": biết).
Ví dụ về dạng đa nghĩa:
Câu tục ngữ "Làm xâu xấu có cấu mà
ăn" cấu": gạo), do "xấu xấu" đa nghĩa mà
có thể hiểu nghĩa đen theo các hướng:
- Làm công việc không được sạch đẹp,
thanh lịch, nhưng có tiền có gạo mà sống
(“xâu xấu": không được đẹp).
- Làm không tốt, không bền để sản
phẩm chóng hỏng, người tiêu dùng phải
mua luôn, như vậy thì mới có lợi tức mà
sống ("xấu xấu": không được tốt).
Triều Nguyên
Ví dụ về dạng khuyết các tổ hợp kết từ:
Câu tục ngữ "Làm tốt mốt đui", có thể
có các tô hợp kết từ và theo đó mà có các
nghĩa đen sau:
- Nếu làm tốt £h¡ mốt đuI.
- V làm tốt nên mốt đuI.
- Cứ làm tốt dò mốt đu!...
Ví dụ về dạng khuyết tình huống:
Câu tục ngữ "Chuối sau, cau trước", có
thể bổ sung các tình huống để có các nghĩa
đen sau:
- Khi trồng, cau thường trồng trước
nhà, chuối thường trồng sau nhà.
- Khi cúng, cau trầu đặt trước, chuối
đặt sau.
- Khi ăn, cau trâu ăn trước thì thích
thú, chuối (quả ngọt nói chung) ăn sau
cùng thì phù hợp...
Ví dụ về dạng có nhiều cách ngắt nhịp:
Câu tục ngữ "Giàu đôi con mắt, khó đôi
bàn tay", có thể có các cách ngắt nhịp, và
tương ứng với chúng là các nghĩa đen sau:
Ngắt nhịp 4 - 4:
- Mắt tỉnh đời, dù tấm thân lao nhọc.
- Bởi đôi mắt sắc sảo, tỉnh tường, nên
đôi tay chịu vất vả, nhọc nhăn (tay phải
làm sao cho mắt vừa ý).
Ngắt nhịp 113 - 1/3:
- Giàu thể hiện ở đôi mắt sáng trong,
linh hoạt: khó thể hiện ở đôi bàn tay chai
sạn, đen đúa (vì làm việc nặng).
- Giàu dùng mắt để trông coi, xem xét
công việc; khó phai vận dụng sức lực của
tay chân.
Các cách tạo nghĩa vừa nêu tuy có đáng
dấp gần với lối chơi chữ, nhưng thật ra
không phải là chơi chữ. Bởi chơi chữ nhằm
tạo nên một lượng thông tin mới cùng tôn
tại bên cạnh lượng thông tin cơ sở!” còn ở
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
1l]
đây, không có cái gọi là thông tin cơ sở, tất
ca đều mới, chỉ với điều kiện là những cái
mới được tạo nên phù hợp với thực tiễn
cuộc sống, với chân lí khách quan.
+ Ngoài ra, cũng có hiện tượng một câu
tục ngữ có nhiều nghĩa đen, các nghĩa này
thể hiện tính chất nhiều mặt của đối tượng
được đề cập trong thực tiên, chúng thường
bổ sung cho nhau để có thể hiểu vấn đề một
cách đầy đủ. Ví dụ:
Câu "Một bụi có, một nắm phân", có
thể gồm các nghĩa:
- Một bụi có vùi dưới gốc, có giá trị như
một nắm phân.
- Một bụi cỏ ăn hại được nhổ bỏ, đỡ phí
đi một nắm phân vun bón cho cây.
Câu "Dâu vào nhà, mụ gia ra ngô”, có
thê gôm các nghĩa:
- Khi nàng dâu vào đến nhà (ngày
cưới), người mẹ chồng ôm bình vôi chạy
sang nhà hàng xóm, hoặc ra sau vườn ngồi
một lát, rồi mới quay về (tập quán, ngụ ý
mẹ chồng nhường quyền tay hòm chìa khoá
cho nàng dâu).
- Nàng dâu mới làm chủ nhà, mẹ chồng
bị gạt khỏi vai trò "nội tướng", trở thành
"người ngoài", thương "ra ngõ" hái rau, mót
củ1, hay tâm sự với xóm giềng.
- Nàng dâu với mẹ chồng xung đột
nhau, nàng dâu đi làm về thì mẹ chồng
lánh ra ngõ.
2.1.2. Nghĩa khái quát
+ Nghĩa khái quát được rút ra trên cơ
sở những hình ảnh, khái niệm cụ thể của
câu tục ngữ, sao cho ý nghĩa được rút phải
bao hàm ý nghĩa của câu tục ngữ. Như vậy.
nó phân biệt với cách mô hình hoá tục ngữ,
bởi bản thân mô hình là sự rút gọn đồng
nghĩa. Câu tục ngữ chỉ có duy nhất nghĩa
khái quát là câu tục ngữ có nghĩa được suy
trên cơ sở vừa nêu, và ngoài nghĩa ấy ra,
không tạo một sự liên tưởng nào khác.
Chẳng hạn, với (4), chuyện cái rôm say
(nhỏ và tác hại không đáng kể), nảy thành
cái ung nhọt (gây hại đáng kể), nhằm nói
lên ý nghĩa: sự việc nhỏ mà không khéo
giải quyết thì trở thành vấn để lón; với (5),
chuyện có bột mới làm nên hồ, nhằm nghĩa:
phải có điều kiện cơ bản (như nguyên vật
liệu, phương tiện, cơ chế, năng lực.... ), thì
mới làm nên chuyện; và với (6), chuyện
"eon vua vua dấu, con chúa chúa yêu” lại
thể hiện một tâm lí phổ biến: con của al,
người ấy yêu quý. Các nghĩa vừa nêu là
nghĩa khái quát.
+ Cách rút nghĩa khái quát thường
g4p:
- Nghĩa khái quát thường được rút ra
theo quá trình suy luận quy nạp, đó là kết
đề của quá trình này được thể hiện trong
phạm vi một câu tục ngữ (như ví dụ đã dân
của Phan Thị Đào, ví dụ (6)). Khi kết đề
của quá trình suy luận quy nạp dựa trên cơ
sở của những đơn vị tục ngữ cùng nghĩa
hay tương đương về nghĩa, thì đó là trường
hợp đặc biệt (như ví dụ đã dân của Bùi
Mạnh Nhận).
- Nghĩa khái quát cũng thường được
rút ra trên eơ sở mâu câu. Các hình ảnh cụ
thể trong mẫu câu được thay bằng các hình
anh trừu tượng hoặc các khái niệm có sức
khái quát (các ví dụ (4), (5)).
+ Đặc điểm về nghĩa khái quát của tục
ngư:
Nghĩa khái quát hoàn toàn khác với
tính khái quát của tục ngữ. Ví dụ, "Cha nào
con ấy" là một câu tục ngữ có tính khái
quát cao, nhưng bản thân nó chỉ có nghĩa
đen mà không có nghĩa khái quát (bởi
không thể suy được cái có thể bao hàm nộ);
ngược lại, nó bao hàm ý nghĩa:của các câu
như "Hổ phụ sinh hổ tử" (cha hổ sinh con
hổ), "Cha anh hùng, con hảo hán", "Cha
ninh thần con mấy trung lương".... (nhưng
bấy giờ, nó là nghĩa khái quát của các câu
Lại
Triều Nguyên
này chứ không phải là câu tục ngữ, và để
tránh hiểu nhầm, người ta có thể thay bằng
các cách nói cùng nghĩa, chẳng hạn: cha
như thế nào thì con như thế ấy; cha làm
sao thì con cũng hao hao làm vậy:...).
Nghĩa khái quát có thể có tầng bậc,
như đã trình bày ở ví dụ của Nguyễn Đức
Dân, hoặc như câu “Cái áo không làm nên
thầy tu" có hai nghĩa khái quát: a) trang
phục, đẫu là thứ trang phục đặc biệt, dành
riêng cho một giới nào đó, hắn nhiên, cũng
không tạo nên phẩm chất, đặc điểm của
giới ây cho người mang nó; b) trang phục
không làm nên giá trị con người; và câu
"Khôn tiền xu, ngu bạc vạn" cũng có hai
nghĩa khái quát: a) khôn điều vặt vãnh mà
ngu chuyện lớn lao (nên có vẻ khôn mà
thực chất là ngu dạn); b) chỉ nhìn thấy cái
lợ/hai nhỏ, không nhận ra điều được/mất
lớn - trong đó, bậc của b cao hơn a (b bao
hàm a, a bao hàm câu tục ngữ).
2.1.3. Nghĩa bóng
+ Nếu cơ sở để suy nghĩa đen là sư phù
hợp giữa đối tượng được để cập trong câu
tục ngữ với hiện thực khách quan, thì cơ sở
để suy nghĩa bóng, với trường hợp câu tục
ngữ chỉ có duy nhất nghĩa bóng, là ngược
lại (đối tượng được nói đến trong câu tục
ngữ không tương ứng với hiện thực, với
chân lí khách quan). Thường gặp nhất về
đối tượng được đề cập này, là những con
vật, đồ vật, sự vật, hiện tượng được dùng để
nói về con người và xã hội con người (tức
kiểu nói ẩn dụ). Câu tục ngữ chỉ có duy
nhất nghĩa bóng là câu tục ngữ có nghĩa
được suy trên cơ sở vừa nêu, và ngoài nghĩa
ây ra, không tạo một sự liên tưởng nào
khác.
Chẳng han, với (7) ("Mực thẳng mất
lòng cây gỗ cong") có nghĩa "người nói năng,
làm việc ngay thẳng, sẽ mất lòng kẻ trí trá,
gian manh" (Mực: thợ cưa xẻ, thợ mộc dùng
dây tẩm mực kéo căng rồi búng xuống gỗ đề
lấy đường thắng mà cưa; đường thẳng được
tạo theo kiểu ấy gọi là đường mực, vật tạo
đường mực bằng gõ, hình hộp, èó trục cuốn
dây tấm mực khô (ở trong) và tay quay (ở
ngoài), gọi là con mực); với (8) (“Nồi tròn úp
vung tròn, nồi méo úp vung méo") có nghĩa
"bản thân và hoàn cảnh ra sao thì lấy vợ
lấy chồng tương ứng như thế ấy"; với (9)
('Ếch ngồi đáy giếng coi trời bằng vunø") có
nghĩa "người hiểu biết hạn chế sẽ có cái
nhìn thiển cận, tự tôn, không biết được
những điều lớn lao trong cuộc sống". Ba
nghĩa vừa nêu là nghĩa bóng.
Cơ sở để suy nghĩa bóng, như đã nói, là
sự không tương ứng giữa đối tượng được
nói đến với hiện thực, kèm cách liên tưởng
theo lối ấn dụ. Điều này bao gồm cả trường
hợp nói như sự thật, nghĩa là thoạt nghe
ngỡ thật, ngẫm lại, thì bình thường không
ai nói vậy. Như câu "Quắng xương cho chó
cắn nhau" vẻ như gặp nhiều trong cuộc
sống, nhưng thật ra, chỉ trừ khi vô ý, chứ
không ai làm vậy (vì chó cắn nhau có thể
gây đô vỡ đồ đạc, có khi cắn lây sang
ngưởơi,...), nên câu này chỉ dùng nghĩa bóng
(ấy là: "để thao túng phường giá áo túi cơm,
chỉ cần ném cho chúng ít mồi - chức vị, lợi
lộc,... - là chúng sẽ căn xé, giành giựt nhau
ngay").
Cũng có một số trường hợp câu tục ngữ
được suy nghĩa bóng trên cơ sở cùng âm. Vị
dụ, câu "Già kén, kẹn họm”" (có hai cách
giải thích: a) khi tằm chín nhả tơ thành
kén, con tằm hoá nhộng nằm gọn trong kén
tơ đó, nếu để kén lâu ngày thì nhộông hoá
thành ngài (bướm) cắn thủng kén bay ra:
loại kén "già" khi kéo tơ thì tơ chăng đóc ra
được (tơ bị kẹn): b) khi tăm chín, người ta
tha trên cái né (vật đan bằng tre tạo các
hình ô vuông (như tấm liếp thưa), có cài
"rơm ở các ô này), để tằm nhả tơ kết kén:
nêu kén trên né mà to, mật độ dày ("già
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
Lä
kén"), thì sẽ kẹt chặt vào hom (các thanh
tre làm né) gây khó gỡ, "kẹn hom"), hầu
như không còn dùng nghĩa đen mà chỉ
dùng nghĩa bóng, ấy là: "nếu quá kén chọn
(về vợ chồng, công việc, danh vi,...), thì có
thể sẽ bỏ mất nhiều cơ hội tốt, thành ế ẩm,
đở dang" (chuyển nghĩa theo cách cùng âm:
kén "tơ tăm" (kén "chọn lựa").
+ Một câu tục ngữ chỉ có duy nhất loại
nghĩa bóng cũng có thể gồm nhiều nghĩa
bóng. Thưởng gặp là dạng các nghĩa bóng
này bô sung nghĩa cho nhau.
Ví dụ sau, môi câu tục ngữ đều có hai
nghĩa bóng: "Chạy trời không khỏi nắng"
(nghĩa bóng: a) không tránh khỏi số phận; b)
khi gây tội, dâu giỏi trốn tránh cũng không
thoát khỏi sự trừng phạt); "Đánh chó, ngó
đăng sau" (nghĩa bóng: a) khi đả kích, hạ bệ
ai đó, phải dè chừng người bậc trên của người
ấy; b) khi đánh kẻ hung hãn muốn hại mình,
phải xem người đứng đằng sau để sai khiến,
giật dây kẻ hung hãn đó là al, vì chính người
ấy mới là ke thù thật sự); "Kình nghê vui thú
kình nghê, tép tôm thì lại vui bể tép tôm"
(nghĩa bóng: a) hạng người giàu sang thì vui
chơi theo kiểu giàu sang, hạng người nghèo
hèn thì vui chơi theo lối nghèo hèn; b) tuỳ
theo điều kiện, môi trường sống của môi
ngươi, mà có những kiểu ăn chơi, cách tìm
thú vui riêng).
Trường hợp ít gặp hơn, là khi câu tục
ngữ có nhiều cách hiểu (mà vẫn không có
nghĩa đen), thì mỗi cách hiểu có một nghĩa
bóng tương ứng. Ví dụ, câu "Bò bổ nhằm
khi khế rụng" (bò ngã chết đúng vào mùa
khế - thịt bò nấu với khế rất hợp) có hai
nghĩa bóng: a) điều không hay xảy ra đúng
lúc có sự kiện bất lợi cho nó hình thành,
khiến càng phức tạp, khó khăn hơn (hiểu
"bò bổ" là điều không may); b) sự phù hợp
ngâu nhiên (trong điều kiện thuận lợi), sẽ
đem lại kết qua ngoài mức mong đợi (hiểu
"bò bổ" là bình thường).
2.2. Những câu tục ngữ có nhiều
loạt nghĩa
Những câu tục ngữ có nhiều loại nghĩa
thưởng gặp, là hai nghĩa thuộc vào hai loại
nghĩa khác nhau. Số ít hơn, là có hai nghĩa
thuộc vào hai loại nghĩa khác nhau kết hợp
với nghĩa của cùng một loại nghĩa đen,
cùng một loại nghĩa khái quát,...
2.2.1. Nghĩa đen uà nghĩa bhúi quát
+ Câu tục ngữ vừa có nghĩa đen vừa có
nghĩa khái quát khi nó thoa mãn các yêu
cầu tạo nghĩa của hai loại nghĩa này (và
không có loại nghĩa bóng).
Chẳng hạn, với (10), nghĩa đen: "cờ bạc
(qua đêm) phải đến sáng mới rõ được thua",
nghĩa khái quát: "công việc phải đến khi
sắp kết thúc mới rõ thành công hay thất
bại"; với (11), nghĩa đen: "trâu gầy ốm sức
cày kéo cũng bằng bò khoẻ mạnh", nghĩa
khái quát: "cái thuộc cấp hạng trên dâu có
kém cỏi vẫn sánh ngang với cái cao nhất
thuộc cấp hạng dưới kế đó”; với (12), nghĩa
đen: "ruộng vườn của ai thì người ấy lo đắp
bờ, rào giậu", nghĩa khái quát: "vật riêng
của ai thì người ấy lo giữ gìn, bảo vệ".
+ Trường hợp có nhiều nghĩa đen do
hiện tượng cùng âm, thì nghĩa khái quát
thường chỉ duy nhất một nghĩa (bao trùm
các nghĩa đen kia). Hai câu tục ngữ được
dẫn kèm phân tích dưới đây cho thấy điều
đó:
Câu "Khỏi lỗ thì vỗ vế", do "lỗ" có thê
gồm ba từ (cùng âm) mà có ba nghĩa đen:
- Thoát ra khỏi hang hốc (ít nhiều nguy
hiểm), thì lấy làm vui mừng ( lô": hang
hốc).
- Người buôn bán gặp mặt hàng khó
bán, may mắn bán được mà không bị lô
vốn, thì lấy làm vui mừng ("lô": thua thiệt,
trái với lãI).
14
Triều Nguyên
- Người đàn ông sau cuộc làm tình
vụng trộm được an toàn, thì lấy làm vui
mừng ("lỗ": bộ phận sinh dục nữ).
Và nghĩa khái quát là "thoát khỏi tình
trang bất lợi hay không an toàn, thì lấy
làm vu!'.
Câu "Cha đào ngạch, con xách nồi" do
"ngạch" có thể gồm hai từ (cùng âm) mà có
hai nghĩa đen:
- Cha đào đất bùn mà bắt lươn, thì con
xách nổi đi theo để đựng lươn bắt được -
nổi thường được dùng để đựng lươn
("ngạch": ngách hẹp ở trong đất, ở đây là
hang lươn).
- Cha đào ngạch để đột nhập vào nhà
người ta ăn trộm, thì con đi theo để xách
nồi - tức mang đồ trộm được ("ngạch": phần
bên dưới ngưỡng cửa, tường phên, tiếp giáp
với nền đất).
Và nghĩa khái quát là: "cha làm việc øì,
con làm theo việc ấy".
Đây là một đặc điểm khác của nghĩa
khái quát (chưa được nêu ở 3.1.3.).
+ Xét tương quan giữa nghĩa đen và
nghĩa khái quát ở dạng tục ngữ đang bàn,
thì chúng không cố định mà ít nhiều được
phân chẻ ra theo tình huống phát ngôn.
Như với trường hợp đối tượng được đề cập
trong câu tục ngữ đồng thời là thực tiễn
(hay bối cảnh) đang được hướng đến lúc
nói, thì nghĩa của câu tục ngữ nghiêng về
nghĩa đen (nghĩa khái quát chỉ hình thành
thứ yếu, nhằm muốn hiểu sâu hơn, nếu
cần); còn như đối tượng được đề cập trong
câu tục ngữ không quan hệ gì với bối cảnh
nói, thì nghĩa của câu tục ngữ nghiêng về
nghĩa khái quát (người tiếp nhận buộc phải
suy nghĩa khái quát để hiểu ý người nói,
còn nghĩa đen nhằm củng cố điều đã được
Suy).
Ngoài ra, khi nghĩa đen là một kinh
nghiệm cụ thể, xác thực, thì vai trò của
nghĩa khái quát có phần mờ nhạt. Ví dụ,
câu "Canh bầu thì nấu hanh hao, bí ngô
nấu tói, bí đao nấu hành" (hanh hao: có vị
tương tự ngò - hiện nay, nấu canh bầu
ngươi ta dùng ngò thay hanh hao), do
nghĩa đen là bày kinh nghiệm nêm gia VỊ
cho các loại canh bầu bí, nên nghĩa khái
quát "mỗi loại thức ăn đòi hỏi một (hoặc
một số) gia vị riêng, mà nếu thiếu sẽ mất
ngon" có về như không cần lắm.
2.2.2. Nghĩa đen uà nghĩa bóng
+ Câu tục ngữ vừa có nghĩa đen vừa có
nghĩa bóng khi nó thoả mãn các yêu cầu
tạo nghĩa của hai loại nghĩa này (và không
có loại nghĩa khái quát).
Chẳng hạn, câu (13), có nghĩa đen: "có
chạy đường dài mới biết con ngựa đang
dùng là hay hoặc kém"; nghĩa bóng: "con
người phải trải qua một giai đoạn thử
thách nhất định về một công việc nào đó,
mới biết rõ được năng lực, tài cán, để có thể
sử dụng phù hợp, lâu dài". Câu (14), có
nghĩa đen: "chó hay yÿ thế nhà (một con chó
thường ru những con chó nó thích về nhà
và cắn đuổi những con chó khác); gà cũng
vậy, hay ÿ thế vườn nhà (một con gà vườn
này vừa qua khỏi hàng rào, sang địa phận
vườn khác, là bị cắn đuổi ngay)"; nghĩa
bóng: "con người có lắm khi dựa vào thế lực
do quen biết ở nơi mình sinh sống, hoạt
động, để chèn ép người xa lạ". Câu (15), có
nghĩa đen: "trâu ăn uống lơ là, không ham
thích, thì cày kéo cũng lừ đừ, uế oải"; nghĩa
bóng: "người khi đau ốm hay già yếu.
không ham thích chuyện ăn uống, thì cũng
không còn thiết tha đến công việc nữa".
+ Nếu con đường đi đến nghĩa bóng của
dạng tục ngữ chỉ có duy nhất loại nghĩa
bóng là trực tiếp từ các hình ảnh của tục
ngữ, thì con đường đến nghĩa bóng đối với
dạng tục ngữ vừa có nghĩa đen vừa có
nghĩa bóng phải có sự tham gia của nghĩa
đen. Cho nên, nếu câu tục ngữ vừa có nghĩa
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỐI
đen vừa có nghĩa bóng, mà nghĩa đen gồm
nhiều nghĩa, thì nghĩa bóng cũng được hình
thành từ các nghĩa đen tương ứng.
Ví dụ, câu "Trâu béo kéo trâu gầy" có
hai nghĩa đen:
- Cùng một chủ, trâu béo, khoẻ bù chỗ
kém, thiếu ở phần việc của trâu gầy, yếu;
- Trâu béo, khoe cày kéo tốt, khiến trâu
gầy, yếu hơn cũng phải cố theo (tạo hiệu
quả tốt cho công việc).
Và hai ngh1a bóng tương ứng:
- Trong một tập thể, người giỏi giang,
siêng năng bù đắp công việc cho người kém
cỏ1, lười biếng:
- Người giỏi giang, năng nổ có tác động,
anh hưởng tốt đến người kém cỏi, ù lì, giúp
người này cùng tiến bộ.
Điều này phân biệt với nghĩa khái
quát, dù nghĩa đen (trong trương hợp câu
tục ngữ vừa có nghĩa khái quát vừa có
nghĩa đen), gồm nhiều hướng nghĩa, thì
nghĩa khái quát vẫn ổn định, không lệ
thuộc vào các hướng nghĩa ấy, đã nêu
trước.
Một ngoại lệ được tìm thấy là trường
hợp nghĩa bóng được hình thành trên cơ sở
cùng âm, gần như không quan hệ gì với
nghĩa đen, dù nghĩa này vân được sử dụng:
Câu "Gần đâu xâu đó" có nghĩa đen
"sân ở đâu thì đi xâu hay nộp sưu thuế ở
đó" ("xâu": sưu dịch - sưu thuế và phục
dịch), và nghĩa bóng xuất phát từ hiện
tượng cùng âm với "xâu" (xỏ qua lỗ để nối
kết các vật rời với nhau): "tiện đâu thì lấy
vợ ở đó".
2.2.3. Nghĩa hút quút 0uà nghĩa bóng
+ Câu tục ngữ vừa có nghĩa khái quát
vừa có nghĩa bóng khi nó thoả mãn các yêu
cầu tạo nghĩa của hai loại nghĩa này (và
không có loại nghĩa đen).
lỗ
Chắng hạn, câu (16) ("Tam quan cao
hơn chùa") có nghĩa khái quát: "cái để phô
phang thương vượt quá cái dùng làm cơ sở
cho nó" (œm quan: cổng có ba lối 0ào,
thường xây trước đình, chùa, nhà thờ họ):
ngh1a bóng: "những kẻ thuộc cấp có vai trò
quan trọng, không thể không quan tâm".
Câu (17) (“Fo thuyền thì to sóng") có nghĩa
khái quát: "mỗi sự vật (khi phát huy tác
dụng) đều tương xứng với những cái có
quan hệ sở thuộc hay tất yếu với chúng";
nghĩa bóng: "chức quyền, địa vị càng cao
thì những trở lực, gian nguy càng lớn (cần
phải dàn xếp, võ yên mới dễ bề thăng
tiến)". Câu (18) (Môi hở, răng lạnh") có
nghĩa khái quát: "sự an lành của cái được
che chở, được bảo đảm từ phía cái che chở;
khi cái che chở bất ổn, thì cái được che chở
có thể sẽ bị tác động làm cho xấu đi"; nghĩa
bóng: "anh em, bà con hay những người
cùng gắn bó trong một tổ chức, cần thuận
thảo, đoàn kết, đùm bọc nhau: nếu bất hoà
sẽ tạo nên sự thiếu ổn định về tâm lí, là cơ
sở tiềm ấn của nhiều tai hoạ".
Có thể không khó nhận ra (qua ba câu
tục ngữ vừa phân tích) là với dạng tục ngữ
vừa có nghĩa khái quát vừa có nghĩa bóng
này, tính khái quát - ấn dụ cao hơn các
dang khác. Đồng thời, sũng cho thấy cách
suy nghĩa khác nhau giữa hai loại nghĩa
đang bàn: nghĩa khái quát theo con đương
suy lí, logic, gắn kết với vấn đề đặt ra từ
câu tục ngữ mà nó khái quát, trong lúc
nghĩa bóng đi theo lối lên tương, tưởng
tượng, từ những hình ảnh ngoài con người
sang những vấn để thuộc con người và xã
hội con người.
Cũng do con đương suy nghĩa không
giống nhau và việc suy nghĩa ấy không xuất
phát từ nghĩa den, mà ở dạng đang bàn,
nghĩa khái quát và nghĩa bóng có ve như ít
phù hợp với nhau hơn các trương hợp khác
(như so với những câu tục ngữ vừa có nghĩa
16
Triều Nguyên
đen vừa có nghĩa khái quát, vừa có nghĩa
đen vừa có nghĩa bóng đã nêu).
+ Có khi nghĩa khái quát và nghĩa
bóng khó phân định, chúng như nhập vào
nhau. Thường gặp là dạng rút nghĩa khái
quát của nhiều câu tục ngữ cùng nghĩa
(hay tương đương về nghĩa), mà khi rút
như vậy đã bao gồm nét nghĩa về con người
và xã hội con người.
Ví dụ dưới đây gồm ba đơn vị tục ngữ,
mỗi đơn vị có hai câu cùng nghĩa:
hn treo, heo nhịn đói".
"Cơm treo, mèo nhịn đói".
Nghĩa khái quát - nghĩa bóng: "có thức
ăn, vật dùng, mà không được dùng (điều
không đáng để xảy ra)".
Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng".
"Gần son thì đỏ, gần mực thì đen".
Nghĩa khái quát - nghĩa bóng: Sống
gân/trong môi trường nào, sẽ chịu ảnh
hưởng của môi trường ấy: có bạn xấu, sống
gần/trong môi trường xấu, thì dễ bị nhuốm
thói xấu; có bạn tốt, sống gần/trong môi
trường tốt, thì được ảnh hưởng điều tốt
đẹp.
"Cây đắng sinh trái ngọt".
"Cây ngọt sinh trái đắng".
Nghĩa khái quát - nghĩa bóng: "tính
khí (hiển dữ, ngay gian,... ) của con trái
ngược với tính khí của cha mẹ".
2.2.4. Nghĩa đen, nghĩa khút quút 0uà
nghĩa bóng
+ Câu tục ngữ vừa có nghĩa đen, vừa có
nghĩa khái quát lại vừa có nghĩa bóng khi
nó thoả mãn các yêu cầu tạo nghĩa của cả
ba loại nghĩa này.
Chẳng hạn, câu (19) ("Cá kể đầu. rau
kể mớ") có nghĩa đen: "cá thì tính theo đầu
con, còn rau thì tính theo mớ"”; nghĩa khái
quát: "vật có giá trị cao được tính từng đơn
vị, vật có giá trị thâp thì thưởng được tính
gøộp"; nghĩa bóng: "những nhân vật quan
trọng cần được xem xét cụ thể khi muốn sử
dụng hay loại trừ, còn những ngươi bình
thường thì chỉ cần tính chung theo một
dạng thức, đơn vị nào đó". Câu (20) ("Mắm
măn nỏ chết troi") có nghĩa đen: "mắm tuy
mặn nhưng không giết chết được gi1ò1':
nghĩa khái quát: "dù môi trường khắc
nghiệt vân có loại sinh vật thích nghi
được"; nghĩa bóng: "biện pháp. cơ chế chính
trị khắc nghiệt gây nguy hại đến nhiều
tâng lớp người, nhưng vẫn có một số đối
tượng nhất định chẳng hề hấn gì". Câu (21)
("Mía sâu có đốt, nhà đột có nơi") có nghĩa
đen: "thông thường, mía có bị sâu cũng chì
một số đốt nhất định, nhà có dột cũng ở vài
chỗ"; nghĩa khái quát: "sự vật có thể bị hư
hỏng ở một bộ phận nhất định, không nên
thấy có chô hỏng mà cho là hỏng cả"; nghĩa
bóng: "trong một gia đình, tổ chức nào đó,
có thể có một vài kẻ xấu, nhưng không vì
thế mà đánh giá cả tập thể ấy đều xấu cả".
+ Như đã trình bày ở trường hợp nghĩa
đen và nghĩa khái quát, nghĩa đen của
dạng này cũng vậy, chúng chỉ thể hiên
mạnh khi đối tượng được để cập trong câu
tục ngữ có bối cảnh, hoàn cảnh nói ủng hộ
(như câu (20) được nói khi đang gắp mắm,
câu (21) được nói khi có người chê mía
sâu,...). Trên thực tế, dạng tục ngữ vừa có
nghĩa den, vừa có nghĩa khái quát lại vừa
có nghĩa bóng, cùng với dạng tục ngữ vừa
(5)
có nghĩa đen vừa có nghĩa bóng, có rất ít”.
3. Đến đây, để có thể nêu nhận xét
chung, có lẽ cũng cần nhắc lại định nghĩa
về tục ngữ: "Tục ngữ là những câu nói ổn
định về cấu trúc, phản ánh những tri thức,
kinh nghiệm và quan niệm (dân gian) của
một dân tộc về thế giới khách quan, tư
nhiên cũng như xã hội""”. Định nghĩa này
được các nhà tục ngữ học thống nhất, chỉ
khác đôi chút về diễn đạt. Chẳng han. chỉ
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
17
————ễỄẼỲẼ ẼŠẼŠẼŠẼŠẼễẼễẼễẼễễễ==
tiết "ổn định về cấu trúc" được Chu Xuân
Diên gọi là "có hình thức bền vững"“?) Đỗ
Bình Trị cho là "gọn chắc", "một câu hoàn
chỉnh về mặt ngữ pháp"”".
Chi tiết vừa nêu cũng là chi tiết cần
chú ý khi xét về nghĩa. Bởi một khi cái biểu
đạt (lời tục ngữ) "ổn định", "bền vững", "gọn
chắc", thì cái được biểu đạt (nghĩa của tục
ngữ) cũng sẽ như vậy. Theo đó, thì những
trình bày về "hiện tượng "nhiễu" ở một vị
trí được "đánh dấu" trên trục dọc" (ở 2.1.1.)
nên được hiểu là trường hợp đặc biệt của
tục ngữ (bởi trên thực tế chúng chỉ có rất
ít). Và tuy cái đặc biệt cũng mang những
thuộc tính như cái bình thường trong hệ
thống mà chúng xuất hiện, nhưng đồng
thời chúng cũng có những đặc điểm có thể
thuộc vào những hệ thống khác mà những
cái bình thường trong hệ thống chúng
xuất hiện đang đề cập không có. Tức nếu
xuất phát từ cái đặc biệt, nắm bắt các tính
chất của nó để suy ra tính chất ấy là
chung cho cả hệ thống mà cái đặc biệt có
xuất hiện, thì không phù hợp về mặt lí
luận, là nguyên nhân dân đến cái nhìn
nhận sa! lệch.
Mặt khác, nghĩa của tục ngữ là nghĩa
của các phán đoán, nghĩa của các nhận
định, kinh nghiệm dưới hình thức câu, tức
diễn đạt một ý trọn vẹn (điều đã được
thống nhất cao, ở đây xin được nêu mà
không lí giải) "”.
Hai đặc điểm về nghĩa (tính ổn định,
bền vững; tính hoàn chỉnh, trọn vẹn) vừa
nêu, đặc điểm đầu giúp tục ngữ được lưu
truyền, sử dụng một cách thuận tiện, thống
nhất trong cộng đồng, đặc điểm sau nhằm
phân định giữa tục ngữ và thành ngữ 10,
đồng thời là cơ sở quan trọng để xếp tục
ngữ với tư cách là một thể loại thuộc văn
học dân gian (và cũng là chỗ dựa cho việc
giải thích, trình bày nghĩa tục ngữ, tránh
trường hợp trình bày nghĩa theo lối từ
vựng, lối nghĩa khái niệm).
Hệ thống (hay các bình diện) nghĩa của
tục ngữ đã trình bày, cùng hai đặc điểm về
nghĩa được nhấn mạnh, là vấn để cơ bản
của thi pháp tục ngữ, chúng góp phần làm
sáng rõ đặc điểm thể loại của loại hình văn
_học dân gian này, và về mặt thực tiễn, sẽ
giúp việc sưu tầm, biên soạn và chú giải
tục ngữ được dễ dàng, nhất quán hơn.f
1.N.
(1) Xét ở bình diện phát ngôn, thì vấn đề
có thể khác. Xem: Nguyễn Xuân Đức, Những
uấn đề thi pháp uăn học dân gian, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội, 2005, tr.133
(2) Mục “Tục ngữ” này được trích lại từ
“Bài giang cho sinh viên khoa Văn các trường
đại học”.
(3) Tính khái quát và nghĩa khá! quát của
tục ngữ, ở đây, cũng không được phân định.
(4) Cái thú vị của chơi chữ nhờ sự đôi
sánh giữa hai lượng thông tin khác biệt trên
cùng một hình thức ngôn ngữ này.
(5) Sự có mặt của chúng cho thấy tính
chất hoàn thiện, tròn đây của hệ thống nghĩa
tục ngữ được trình bày.
(6) Nguyễn Đức Dân, “Đạo lí trong tục
ngữ”, Bài đã dẫn, tr.58.
(7) Chu Xuân Điên, “Pục ngữ”, trong sách
Từ điển uăn học, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội, 1984, tr.473.
(8) Đỗ Bình Tri, “Những đặc điểm thi
pháp của tục ngữ”, trong sách Góp phần nâng
cœo chất lượng sưu tâm, nghiên cứu uăn hoá,
Uuăn nghệ dân gian, Nxb Văn hoa dân tộc, Hà
Nội, 2000, tr.352, 354.
(9) Dù chức năng của các loại nghĩa
không giống nhau, như với nghĩa khái quát,
nghĩa bóng giúp vào việc lĩnh hội, nhận thức
(biết để có sự nhìn nhận đúng đắn về những
vấn đề của cuộc sống), với một bộ phận quan
trọng của nghĩa đen (như tục ngữ về dự đoán
thời tiết, kinh nghiệm trồng trọt, chăn nuôi,
đánh bắt cá, các nghề thủ công,... ), giúp việc
chỉ hướng hành động (biết để làm theo).
(10) Nghĩa của thành ngữ tương đương
với nghĩa của khái niệm.