
24 TRIỀ U NGUYÊN
PH Ư Ơ N G TH Ú C T Ạ O
N G H ĨA CỬ A TỤ C NG Ớ
TRIỀ U NGUYÊN'*’
I. N hậ n xét vê' tụ c ngữ , Đỗ Bình Trị
viế t: "Các thể loạ i khác củ a văn họ c dân
gian đề u đúc kế t nhữ ng trí khôn, kinh
nghiêm dân gian dư ói hình thứ c hình
tư ợ ng nghệ th u ậ t (truyệ n kể , thơ ca,... ),
hoà vào ý nghĩa chung củ a tác phẩ m ; chỉ
riêng tụ c ngữ đúc kế t nhữ ng kinh nghiệ m
ấ y dư ói hình thứ c câu nói - hình thứ c biể u
đạ t tự nhiên n h ấ t đố i vố i kinh nghiệ m đờ i
sông có ý nghĩa thự c h à n h " ' .
Phư ơ ng thứ c tạ o nghĩa củ a tụ c ngữ
khác vớ i phư ơ ng thứ c tạ o nghĩa củ a các văn
bả n thuộ c các thê loạ i văn họ c dân gian
khác chủ yế u ở “hình thứ c câu nói” ấ y.
Theo sự tìm hiế u củ a ngư ờ i viế t, có ba
phư ơ ng thứ c tạ o nghĩa trong tụ c ngữ : dùng
lôi nói trự c tiêp, dùng lôi nói nử a trự c tiế p,
và dùng lô'i nói gián tiế p.
II. MIÊU TẢ BA PHƯ Ơ NG THỨ C TẠ O NGHĨA
CỦ A TỤ C NGỮ
1. Dùng lố i nói trự c tiế p
a. Dùng lôi nói trự c tiế p, hiể n ngôn
phù hợ p vớ i việ c truy ề n bá kinh nghiệ m , tri
thứ c từ dờ i này sang đờ i khác củ a tụ c ngữ .
Phầ n lớ n đó là các kinh nghiệ m về tự
nhiên, vê sả n xuấ t nông nghiệ p và mộ t sô'
ngành nghê phổ biên, vô đờ i sông vậ t chấ t
củ a con ngư ờ i.
Các câu như “Ráng vàng thì gió, ráng
đỏ thì mư a” nhằ m dự đoán thờ i tiế t; “Trồ ng
mía phân hoai, trồ ng khoai phân rác”,
‘ ’ ThS. Hộ i V ăn ng h ệ d ân gian T h ừ a T hiên
- Huế .
nhằ m bày cách dùng ph ân cho hai loạ i cây
trồ ng là mía và khoai; “Trẻ trồ ng na, già
trồ ng chuôi”, dư a ra nh ậ n xét hay lờ i
khuyên vê việ c trồ ng cây ăn quả liên quan
đế n tuổ i tác (na lâu có quả , chuôi mau thu
hoạ ch, lạ i bồ i bô sứ c khoẻ tố t); “Tay làm
hàm nhai, tay quai m iệ ng trễ ”, là sự nhìn
nhậ n về sả n xuấ t và hư ở ng thụ , có làm mói
có ăn; “Tôm nấ u sông, bông đê ư ơ n” và
"Rư ợ u cố be, chè đáy ấ m ”, nhằ m bày cách
chê biế n hai loài thuỷ sả n là tôm và cá
bông, và bả o cho biế t rư ợ u ngon khi uố ng ở
đầ u chai, còn trà ngon thì ngư ợ c lạ i, nằ m ở
cuố i ấ m;... đề u dùng lôi nói trự c tiế p, không
có ẩ n ý gì trong cách thê hiệ n này.
Nhữ ng câu tụ c ngữ nhằ m giớ i thiệ u vê
con ngư ờ i, nghê nghiệ p, sả n vậ t, lễ hộ i các
đị a phư ơ ng, như “Ỏ i Đị nh Công, nhãn lồ ng
Thanh Liệ t" (Hà Nộ i), “Nong nia Ô Cá, rô
rá Khê c ầ u ” (Bắ c Giang), “Q uan xứ Nghệ ,
lính lệ xứ T han h”, “Sen c ẩ m Thạ ch, gạ ch
Đồ ng Mĩ” (Phú Yên), “Nem chả Hoà Vang,
bánh tố Hộ i An, khoai lang T rà Kiệ u, thơ m
rư ợ u Tam Kì” (Quả ng Nam), “Cọ p Khánh
Hoà, ma Bình T huậ n ”, “Mồ ng bả y hộ i
Khám, mồ ng tám hộ i Dâu, mồ ng chín đâu
dâu trở vế hộ i Gióng” (Bắ c N inh - Hà
Nộ i),... cũng dùng lố i nói trự c tiế p.
Bên cạ nh các nộ i dung vừ a nêu, tuy
mứ c dộ không cao bằ ng, lôi nói trự c tiế p
cũng đư ợ c sử dụ ng ỏ các vấ n dề khác củ a
cuộ c sông. Thí dụ : “M iế ng trầ u là đầ u câu
chuyệ n”, “Mồ ng mộ t tế t nhà. mồ ng ba tế t
chuồ ng, mồ ng bố n mớ i ra vư ờ n tố t cây".
“Mộ t đờ i kiệ n chín đờ i th u ’, "Nuôi dâu thì
dễ , nuôi rể thì khó”, “N hữ ng ngư ờ i da trắ n g
tóc thừ a, đẹ p thì đẹ p thậ t như ng thư a việ c
làm ”, “Tu đâu cho bằ ng tu nhà, thờ cha
kính mẹ mố i là chân tu ”,...
b. Lôi nói trự c tiế p, ở sô tụ c ngữ có câ'u
trúc hai vê cân xứ ng, thư ờ ng gặ p bô'n dạ ng
tạ o nghĩa: dạ ng 1, vê đầ u nêu mộ t sự việ c