VĂN HÓA - NGHỆ THUẬT
18
TET IN VIETNAMESE LITERATURE - A CASE STUDY OF TET
IN VIETNAMESE PROSE AFTER 1986
Nguyen Thi Ha
Thanh Hoa University of Culture, Sports and Tourism
Email: nguyenthiha@dvtdt.edu.vn
Received:
09/11/2022
Reviewed:
29/11/2022
Revised:
20/12/2022
Accepted:
03/01/2023
Released:
09/01/2023
DOI: https://doi.org/10.55988/2588-1264/104
The cultural imprints of the nation such as the conception of beauty, love, ancestor
worship, communication, dressing, Tet festival... reflected in a large number of literature
works are clear proofs of the inner force of culture in the movement and development of the
country. Accordingly, the strong vitality and unique identity of Vietnamese culture in the
country's literature in particular and the national life in general are affirmed. In which, Tet is
also a topic exploited in the literature. With an approach to intercultural literature, and
topics from medieval literature to modern literature, the article focuses on introducing the
picture of Tet through a multi-dimensional perspective in literature, especially Tet in
Vietnamese prose from 1986 to present.
Keywords: Tet; Vietnamese literature; Vietnamese modern prose after 1986.
1. Giới thiệu
Nghiên cứu văn học tgóc nhìn văn hoá giúp chúng ta soi rọi những giá trị về đời sống
tinh thần của n tộc qua các thời kì lịch s. thể nói, trong thời kì hội nhập, tiếp cận văn
học tgóc nhìn văn hoá là một hướng tiếp cận giữ gìn phát triển những giá trị n hóa
truyền thống Việt Nam trước nguy văn hóa dân tộc ngày càng bị mai một. Trong đó, văn
hoá Tết một văn hóa biểu trương, tổng hòa các hoạt động văn hóa, thiết chế n hóa của
người Việt. Nền văn học sau 1986 nằm trong sự vận động, phát triển và đổi mới của toàn
hội. Điều kiện lịch s, hội n a truyền thng đã tạo điều kiện cho tn văn phát
triển ợt trội. Tản văn Việt Nam sau 1986 như được tiếp sức, gia tăng nhanh chóng vsố
lượng ng tác, sự đa dạng đề tài, chủ đề sự tham gia của đông đảo đội ngũ sáng tác. Nội
dung phản ánh tập trung các vấn đề nóng bỏng của hiện thực đời sống, như: sinh thái, văn
hóa, hội, y tế, giáo dục, tình yêu, quê hương, đất nước; nét đẹp văn hóa của dân tc... đặc
biệt là văn hoá Tết với những giá trị truyền thống, hiện đại, đặc trưng, độc đáo.
VĂN HÓA - NGHỆ THUẬT
19
2. Tổng quan nghiên cứu vấn đề
Việc nghiên cứu về n hoá trong văn học Tết của văn học Việt Nam đã rất nhiều
công trình khoa học công phu, giá trị như: “Cảm nhận về văn hoá và văn học trong hành trình
đổi mới của Nguyễn Duy Bắc [1]; Văn học văn hóa, vấn đề suy nghĩ Nguyễn Văn
Hạnh [4]... Về tản văn có ng trình nghiên cứu Tản văn hiện đại Việt Nam của Trà My
[6]. Tuy nhiên, theo khảo sát của chúng tôi, nghiên cứu chuyên sâu về đề tài Tết chỉ i
Phong tục lễ tết cổ truyền của người Việt trong văn học trung đại Việt Namcủa Trần Thị
Kim Thu [9]. Bài viết nghiên cứu về Tết cổ truyền trong văn học trung đại Việt Nam.
Trên sở kế thừa những ng trình đi trước, tthực tế cho thấy, việc đầu tư, nghiên
cứu về Tết trong văn học Việt Nam - trường hợp nghiên cứu về Tết trong tản văn sau 1986
một việc làm ý nghĩa thiết thực cả về khoa học và thực tiễn.
3. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu về văn học tgóc nhìn văn hoá, tác gibài viết đã sử dụng linh hoạt
nhiều phương pháp nghiên cứu như: (1) Phương pháp nghiên cứu lịch sử - hội nhằm tìm ra
các điều kin lịch sử, văn hóa, hội của văn học Việt Nam i chung tản văn i riêng,
với diện mạo và sự vận động của thể tản văn, nội dung lịch sử - hội được thể hiện trong tản
văn qua đề tài Tết; (2) Phương pháp nghiên cứu liên ngành (văn hóa học, xã hội học, ngôn
ngữ học) trong việc tìm hiểu văn hóa vùng min, làm sphân tích nội dung nghệ thuật
của các tác phẩm văn học. Ngoài ra, tác giả n sử dụng các thao tác nghiên cứu h trợ như:
phân tích, tổng hợp, khái quát nhằm chỉ ra diện mạo, đặc điểm của các tác phẩm văn học về
đề tài Tết trong đời sống văn hc Việt Nam.
4. Kết quả nghiên cứu
4.1. Tết trong văn học Việt Nam
Xuân về là một phần trong chu trình tuần hoàn vĩnh hằng của thiên nhiên, trụ. Mùa
xuân đồng nghĩa với những biến đổi vi tế của đất trời trong giây phút thiêng liêng chuyển t
năm sang năm mới. Mùa xuân cũng đồng nghĩa với Tết, với niềm hân hoan của đất trời và
lòng người. Tthời Trần, vua Trần Thánh ng đã viết: Vạn tthiên hồng không lạn
mạn/ Xuân hoa như hứa vị thùy khai” (Nghìn hồng muôn tía luống những đua tươi/ Không
biết những hoa xuân kia vì ai nở). Vạn Hạnh thiền sư ng đã viết về cái lbiến thiên của
trời đất và con người: “Thân như điện ảnh hữu hoàn vô/ Hoa cỏ xuân tươi thu hựu khô (Thân
như ng chớp, rồi không/ y cối xuân tươi, thu não nùng)”. i phong vị Tết xưa tao
nhã ấy đã được các nhà t mới “ký họa” trong những bức tranh xuân sống động thấm đẫm
sắc màu.
Đối với người Việt, Tết nguyên đán ngày lễ cổ truyn lớn nhất, lâu đời nht
phạm vi phổ biến rộng rãi nhất trong cả nước. nguồn gốc tkhông gian văn minh lúa
nước của người Việt cổ, mang ý nghĩa vui mừng được mùa lúa sau một năm gieo trồng vất v
mừng mùa cấy trồng mi. Đó là mt ngày lễ mang tính biểu trưng, tổng hoà các hoạt đng,
thiết chế văn h của nhân n. Theo nhà nghiên cứu Trần Ngọc Thêm, “Tết nguyên đán
(nguyên = bắt đầu, đán = buổing); nó còn được gọi là Tết ta… hoặc Tết cả”. Nét đẹp truyền
thng vTết Việt thời k phong kiến được lưu lại qua nếp sống cộng đồng về văn hóa vật
VĂN HÓA - NGHỆ THUẬT
20
chất (trang tnhà cửa, mua sắm Tết, ăn uống), văn hóa tinh thần (cúng kính, chơi hoa, dựng
u, đốt pháo, đón giao thừa, khai xuân, hái lc, chơi xuân, chúc Tết) [8; tr50].
Trong tâm thức của người Việt, văn hóa là mạch nguồn không bao giờ vơi cạn, ln
tràn chy trong văn chương từ thời trung đại đến hiện đại, đặc biệt là văn hoá Tết. Đối với văn
học, Tết cũng được ghi lại khá đặc sắc qua nhiều tác phẩm của các tác giả tiêu biểu. Qua khảo
sát tư liệu văn học về phong tục lễ Tết cổ truyền, cho thấy các tác phẩm đã ghi lại phong tục
lễ Tết dân tộc dù được sáng tác một cách chủ quan hay khách quan cũng đã giúp người viết có
cái nhìn toàn din về những gtr truyn thống của văn hóa Việt trong ng chảy văn học
trung đại.
Dấu ấn của các phong tục Tết cổ truyền được thể hiện đa dạng trong các yếu tố n: nhan
đề, nội dung, ngôn từ, thể loại văn học. Từ những huyền tích về tục gói bánh chưng, nh giy
được Lĩnh Nam chích quái phản ánh về cái Tết của dân nông nghiệp lúa nước từ thời Hùng
Vương đến t văn của những tên tui ln n: Nguyễn Trãi, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương,
Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát... đã thể hiện giá trị n hóa Tết cổ truyền của người Việt. Với
các tác phẩm nổi tiếng như: Đào Hoa Thi - Nguyễn Trãi, Xuân tiêu thứ lữ - Nguyễn Du,
Cảm tết - Trần Tế Xương, Khai t - Nguyn Khuyến, Năm mới chúc nhau - Tú
Xương... phong tục ltết cổ truyền của người Việt được khắc ha u sắc qua các hot động
như: thưởng hoa, sắm Tết, dựng cây nêu, đốt pháo, đón giao thừa, mừng xuân, chúc tết, chơi
xuân... Qua đó, những giá trị văn hóa về lễ tết như có chiều sâu và sức sng cho văn hc [9].
Phong tục tết cũng xuất hiện trong các c phẩm của Đào Duy Anh, Nhất Thanh, Phan Kế
nh… như An Nam phong tục, Đất lề quê thói”, Việt Nam phong tụcCái phong vị Tết
xưa tao nhã ấy đã được các nhà tmới họa” trong những bức tranh xuân sng động thấm
đẫm sắc u, tiêu biểu là Ông đồ già trong t Đình Liên. Hay Tết trong t Đoàn Văn
Cừ: “Gạo nếp ngày xuân gói bánh chưng/ Cá đêm cuối chạp nướng than hng/ Quần đào, áo đỏ,
tranh lợn/ Cơm tám, dưa hành, thịt mđông (Tết qua bà), những nghi thức n hóa tâm linh
ngày Tết trong Chiều ba mươi tết của Anh Thơ. Phong tục mừng tuổi, vui chơi trong thơ
Nguyễn Bính: Mở hàng mỗi đứa năm xu rưỡi/ Rửa mặt hoa mùi nước đượm hương/.../ Người r
cô tôi đánh tam cúc/ Cười ầm tốt đỏ đè tốt đen (Ngày tết của mẹ tôi).
Trong dòng văn học Việt Nam hiện đại, đã nhiều sáng tác tiêu biểu về Tết, thhiện
sâu sắc cuộc sng khốn khó, vật ln với miếng cơm manh áo của nhiều tầng lớp t thức. Tiêu
biểu tác phẩm Người ngựa ngựa ngườicủa Nguyn Công Hoan. Các tác gikhác như
Thạch Lam, Nguyễn Quang Thiều, Đỗ Chu, Lựu, Nguyn Tuân, Nguyn Thị Thu Huệ đều
phản ánh không gian văn hoá Tết một cách đa chiều, hiện hữu. Tết làng Mụa” của Lựu
gắn với giai đon chiến tranh, thể hiện mong muốn i Tết yên bình, nhiều mong ước khi đất
nước đổi mới. Hay các tác phẩm của Hai người đàn bà xóm Trạicủa Nguyn Quang Thiều;
Lời thì thầm mùa xuâncủa Nguyễn Thị Thu Huệ cũng phản ánh về những câu chuyện Tết
trong cuc sống mới, của sự trống vắng hình bóng người đàn ông khi cuộc chiến đã đi qua…
Tết trong văn chương ng cho thấy sự chi phối mạnh mẽ của điều kin hội, hoàn
cảnh lịch sử. Các nhà văn đương đại nhng trang viết về những niềm mong ước, đoàn tụ,
hay về những phong tục tết đậm chất văn hóa vùng min, những cảm nhận của người trvới
VĂN HÓA - NGHỆ THUẬT
21
cách nhìn mới tư duy mới. Nhưng n hay mới, nhà văn xưa hay nay ng đều gặp
nhau một điểm trong văn học Tết là tâm thức hướng v cộng đồng, về nguồn cội, chuyn ti
những vấn đề văn học của quá khứ, đương đại và chuyển tải cuộc sống hôm nay.
4.2. Tết trong tản văn Việt Nam sau 1986
Từ cuối thế kỷ XX, bối cnh xã hội mới về chính tr, kinh tế, văn hóa, xã hi đã tạo điều
kiện cho tản văn phát triển, từng bước khẳng định được vị trí của mình. Sự bùng nổ của công
nghthông tin, i trường mạng chính là không gian tưởng cho tản n tồn tại phát
trin mạnh mẽ. Tản n Việt Nam hiện đại (tính t thế k XX cho đến nay) đã đạt được
những tnh tựu nhất định. Tính riêng tnăm 1986 đến hết thế kỷ XX, tản văn được xem
thời kkhởi sắc. Tản văn giai đon y sự gia ng nhanh chóng về số lượng ng tác, sự
đa dạng đề tài, chđề sự tham gia của đông đảo đội ngũ sáng tác. Từ đầu thế kỷ XXI đến
nay được coi thời kỳ bùng nổ, là “thời của tản văn”. Nhờ sự phát triển của ng nghệ,
mạng Internet nên tản văn đạt được thành tựu trên nhiều phương din. Thuật ngữ tản văn
mạng” trnên quen thuộc, nó là mt bộ phận kng thể tách rời của tản văn Việt Nam, p
phần tạo nên diện mạo mới cho thể loại văn học năng động phát triển bậc nhất trong 20
năm đầu thế kỉ XXI. Cho đến nay, tản văn Việt Nam đã dần khẳng định được vị thế chắc chn
của mình trong nền văn học hiện đại Việt Nam i chung các thể loi văn xuôi i riêng.
Theo đó, tản văn Việt Nam t1986 phản ánh đa dạng các vấn đề sinh thái, văn hoá, hội,
đặc biệt là cái nhìn đa chiều về đề tài Tết.
4.2.1. Tết là nơi lưu giữ những kỷ niệm, những ký ức một thời - Tết đoàn viên
Mùa xuân là mùa của đoàn viên, mùa của gia đình thọp sau cả năm trời xa cách. Cái
Tết đoàn viên luôn là cái tết ấm áp, hạnh phúc đủ đầy nhất đối với mi ngườin Việt. Và với
những người con xa xứ vì mt do nào đó không thể trở về quê ăn Tết thì điều đọng li trong
họ là ni nhớ mênh mang, da diết.
Tết là khoảng thời gian thật tuyệt vời. Mỗi chúng ta, ai ng nghĩ về Tết đón Tết theo
nhiều cách khác nhau. người t Tết là khoảng thời gian được ng gia đình vquê ăn Tết
chơi Tết. người t được cùng cha mcác anh chị em đi du lịch, đón Tết nhng
vùng đất mới. Với tác giLương Đình Khoa, Tết là khoảnh khắc đong đầy cảm xúc, được
sống trong vòng tay yêu thương của người thân, trong tiếng cười bạn...
Tản văn Gói rét ngọt nắng hanh trong của tác gi Nguyễn Quốc Văn kể về phong
tục truyn thống rất phổ biến của người Việt Nam trong dịp Tết: gói bánh chưng. Trong tản
văn này tác giả cung cấp cho chúng ta nhiều kiến thức quý về Tết cổ truyền, những điều
bây giờ ít ai biết được…
Tản văn Nguyễn Quang Thiều Những mật của Tết”. Tết chỉ diễn ra trong my ngày
nhưng lại chứa đựng những gtrị tinh thần bền vững của văn hóa Việt. Tết không phải đơn
giản sự kết thúc một vòng thời gian tính theo năm như mt tiếng lay gọi làm cho con
người thức tỉnh bao điều. Với tác giả, Tết chứa đựng trong nhng mật làm cho con
người sống tốt đẹp hơn: Thứ nhất, Khơi mở tình yêu quê hương; Thứ hai, Kết nối với quá
khứ; Thứ ba, Sự bn vng của gia đình; Thứ , Sự hàn gắn; Thứ năm, Niềm hy vọng.
VĂN HÓA - NGHỆ THUẬT
22
Với tác giả Thái Kim Lan, Tết Huế không chỉ Tết. Tết mt nhân vật. Tết Huế thực
sự một mùi hương được cời lại tđống tro tàn, cặn bám của nắng mưa, m hôi nước
mắt của cuộc đời trong suốt một năm dâu bể đã qua. Sâu hơn, “Tết là một tiếng vọng từ trong
lòng đất thoát ra” “ăn Tết đối với người xa quê thường những âm vang nhiệm kêu
gọi một sự quay về, một hồi hướng hầu như không thể gọi được gọn ghẽ một cái tên chính
xác” (Năm nay sẽ về nhà ăn Tết). Viết về Tết, Thái Kim Lan thường đi rất xa cái khởi đầu của
mình. Đi rất xa nhưng kthực lại trở về gần cái khởi đầu con tim gửi gắm. Đọc văn,
tưởng như tác gichỉ muốn kể li những câu chuyện về Tết quê hương nh nhưng ngồi li
suy ng, lân la đến từng góc chợ, ngôi chùa, con đường trong các bài viết mới thấy, mt Huế
thật mng, thật đẹp hin ra trong nhng ngày cuối năm. Thoạt tiên là phố Hàng Đường đã xa
xôi nhưng còn nguyên trong trí nhớ, rồi tới Kim Long - Khê, Thành Nội, chùa Diệu Đế,
Linh Mụ, bỗng thấy tác giả đạp xe lên Đàn Nam Giao đi tuế m chiều 30, đò ngang Tiên Nộn,
hoa giy Thanh Tiên... Từng ấy đa chỉ kể ra, quá đủ cho một bảo chứng về mt Tết Huế xưa
trong cõin gian.
Tình cm gia đình một thứ tình cảm thiêng liêng cao cả, vốn là đề tài trong n
chương txưa đến nay. Đó là hình ảnh nàng Vọng Phu hóa đá chờ chồng (Sự tích Hòn Vọng
Phu - Truyện cổ tích) hay nàng Nương sang thế giới bên kia vẫn không nguôi thương
nhớ gia đình (Chuyện người con gái Nam Xương - Nguyễn Dữ)… Viết vtình cảm gia đình,
các y bút tản văn không vẽ, không sử dụng yếu t ảo mà hết sức gần i, chân thực.
Đó là sự mong ngóng của cha mẹ đợi ngày Tết con cái sẽ trở về bên gia đình (Gió mùa thao
thức - Nguyễn Ngọc Tư); đó là những hình nh biểu trưng của Tết qua từng biến động nhỏ
của thời gian: "Tụi nhỏ không biết, thật sự của Tết bữa ba mươi này. Khi tụi nhỏ mặc bộ đồ
mới đi khoe i i m, khi ba anh tm táp xong ra hàng ba ngơ ngẩn ngắm hoa sao nhái
đốt lửa vàng run rẫy trước sân, khi nhốt than trong những bếp lửa tàn, khi chị đứng chải
c trước gương, t Tết đã chớm hết, mùng Một, mùng Hai là Tết phai; mùng Ba, mùng Bốn
Tết tàn. Tụi nhỏ không biết, mãi về sau, khi lớn lên, trong ký ức Tết ấu thơ, những ngày mùng
rất nhạt, đơn điệu, chỉ chơi chơi. Nhưng bữa ba mươi luôn sống động, lung linh những m
hôi, nhng nụ cười, những khoan khoái, những ngọt ngào…" (Khúc ba mươi).
Trong hội hiện đại, i mùi của Tết ấy bao nhiêu năm vẫn không thay đổi, vẫn mn
nồng, vẫn ấm áp và đong đầy yêu thương. Thật ra không phải vì Tết nhạt đi chúng ta đã
lớn, trách nhim phải nh vác, giá tr vật chất đè nặng khiến chúng ta đôi khi sợ, chán. Tác
giả Mộc Diệp Tử trải lòng Tết qua tản văn “Lớn rồi Tết không còn vui như ngày bé”: “Chỉ đến
khi chúng ta đi xa, những ngày giáp Tết trên đường phố lloi mới thấy nhớ cái mùi của Tết
nhường nào, mới thấy thấm thía ý nghĩa của ngày Tết chỉ để sum vầy, để trở về trong vòng
tay của mẹ, ung với cha mt tách trà có đủ ngọt ngào chát đắng, nhói lòng trước mái đầu bạc
của ngoại, cay cay mắt trước mâm cơm chan chứa yêu thương của gia đình”.
4.2.2. Tết - nơi gìn giữ giá trị văn hoá và phong tục tập quán
Nói về phong tục tập quán của Việt Nam, các tác giđề cập nhiều nhất đến phong tục
về ngày Tết như cách bày tnim hoài niệm, tình yêu đối với quê hương, nguồn cội. Đó
tục đầu năm đi lễ chùa xin lc (Lễ chùa, xin lộc đầu năm - Lam Điền). Về tập tục truyn