
57Số 3/2024TẠP CHÍ ĐẠI HỌC HẢI DƯƠNG1. ĐẶT VẤN ĐỀHoạch Trạch là một làng nghề chuyên làm lược bí (loại lược có răng xếp dầy khít, có thể chải được gàu và chấy) hay còn gọi là lược Trung Quốc, do Tiến sĩ Nhữ Đình Hiền học được từ Trung Quốc và truyền lại cho dân làng. Hoạch Trạch là làng độc nhất trên cả nước làm nghề lược bí. Công đoạn làm một chiếc lược tương đối nhiều nên cần có sự liên kết, phân chia công việc giữa các thành viên như một dây chuyền sản xuất thực thụ, theo hướng chuyên môn hóa. Vì thế, nó không chỉ giúp người dân giải quyết được những gánh nặng vật chất của đời sống thường nhật mà còn giúp tạo nên sự gắn kết, cộng cảm giữa các thành viên, tạo nên một môi trường sống, lao động bình đẳng, lành mạnh. 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨUNgoài sử dụng phương pháp nghiên cứu tiểu sử, lịch sử để tìm hiểu về cuộc đời Tiến sĩ Nhữ Đình Hiền cũng như nghề làm lược bí của làng Hoạch Trạch, xã Thái Học, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương, nghiên cứu còn tiến hành thu thập cơ sở dữ liệu qua điền dã thực tế, quan sát, phỏng vấn cư dân làng nghề Hoạch Trạch. Từ đó cho thấy những giá trị văn hóa mà nghề truyền thống này mang lại cho cư dân làng nghề.3. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU3.1 Đôi nét về Tiến sĩ Nhữ Đình Hiền và nghề làm lược bí ở Hoạch Trạch3.1.1 Đôi nét về Tiến sĩ Nhữ Đình HiềnTheo sử sách địa phương và “Hoạch Trạch Nhữ tộc gia phả” do Tiến sĩ Nhữ Đình Toản (1701 - 1773) - con trai Nhữ Đình Hiền soạn vào giữa thế kỷ XVIII thì Nhữ Đình Hiền (Nhữ Tiến Hiền) sinh năm 1659 mất năm 1716. Ông là người xã Hoạch Trạch, huyện Đường An, phủ Thượng Hồng (nay là thôn Vạc/ làng Vạc, xã Thái Thái Học, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương), là con trai thứ ba của cụ Nhữ Đình Dụng (Nhữ Tiến Dụng) - người từng đậu Đồng tiến sĩ năm Giáp thìn (1664) dưới thời Lê Huyền Tông. Nhữ Đình Hiền đỗ Tiến sĩ năm Canh thân (1680) khi mới 21 tuổi. Năm 23 tuổi, ông được phong phức Hình khoa đô cấp sự trung. Năm 34 tuổi, ông giữ chức Đốc đồng xứ Kinh Bắc, rồi tiếp tục giữ chức Tham chính Sơn Nam. Năm 1697, Nhữ Đình Hiền được triều đình phái đi sứ Trung Quốc với cương vị Phó chánh sứ. Và đây có thể chính là thời gian mà ông đã học được nghề làm lược bí để truyền dạy lại cho người dân làng mình sau này.Năm 1716, Nhữ Đình Hiền mất và được dân làng lập bàn thờ tại miếu làng, thờ cùng Thành Hoàng làng với tư cách là ông Tổ nghề lược. Đền thờ họ Nhữ ở làng Tó, xã Thái Học đồng thời cũng là nơi thờ tổ nghề lược đã được xếp hạng di tích cấp Quốc gia năm 1993.3.1.2 Nghề làm lược bí ở làng Hoạch TrạchLàng Hoạch Trạch là một trong năm làng thuộc xã Thái Học, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương ngày nay. Tính đến thời điểm hiện tại, những ghi chép về chuyến đi sứ của Tiến sĩ Nhữ Đình Hiền không thấy ghi chép về việc ông cùng vợ học nghề làm lược bí ở Trung Quốc vào thời gian và địa điểm cụ thể nào. Ngay cả trong Hoạch Trạch Nhữ tập gia phả cũng chỉ ghi là do Tiến sĩ Nhữ Đình Hiền cùng vợ là bà Lý Thị Hiệu trong một lần đi sứ ở Trung Quốc đã học được, sau đó về truyền lại cho dân làng. Tính đến thời điểm hiện tại, nghề lược bí truyền thống này đã có lịch sử trên ba trăm năm.Các công đoạn để hoàn thành chiếc lược bí tuy không quá đỗi nặng nề, song lại vô cùng phức tạp, đòi hỏi sự kiên nhẫn, khéo léo và có sự hợp tác mang tính chất cộng đồng. Tất cả các thành viên (từ 5 tuổi trở lên) đều có thể góp công trong việc tạo nên một chiếc lược bí xinh xắn.Trong suốt nhiều năm, chiếc lược bí của làng Hoạch Trạch luôn là một biểu tượng mang tính thương hiệu không thể thiếu của người phụ nữ Việt Nam. Nhưng rồi với sự phát triển của xã hội, nghề làm lược bí ấy đang dần mai một đi và trong tương lai rất có khả năng sẽ bị xóa sổ như bao nghề truyền thống khác. Các thế hệ con cháu của làng Hoạch Trạch nói riêng và xã Thái Học nói chung đã không còn mấy ai tiếp nối cái nghề truyền thống của ông cha mình. Ngày nay, nghề làm lược bí chỉ được duy trì bởi một số hộ gia đình mà chủ yếu là những ông bà già vốn xem nghề làm lược bí như cái nghiệp không thể bỏ. Nhưng
Nghề làm lược bí ở làng Hoạch Trạch với việc kiến tạo văn hóa ngôn ngữ
123Đặng Thị Hoa *, Đỗ Thị Hà Thơ , Hồ Thị Xuân Quỳnh1,2,3 Khoa Sư phạm, Trường Đại học Cần Thơ*Người chịu trách nhiệm về bài viết: Đặng Thị Hoa (email: dthoa@ctu.edu.vn)TÓM TẮT: Nghề làm lược bí ở làng Hoạch Trạch, xã Thái Học, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương được Tiến sĩ Nhữ Đình Hiền truyền lại sau khi học được từ chuyến đi sứ Trung Quốc vào thế kỷ XVII. Trong suốt những năm tháng kinh tế khó khăn của đất nước, nghề làm lược bí không chỉ giúp người dân làng nghề giải quyết được vấn đề cái ăn cái mặc, mà hơn thế nó còn được xem là sợi dây vô hình giúp gắn kết mọi thành viên làng xã lại với nhau, tạo nên những nét đẹp văn hóa làng xã, cùng góp phần gìn giữ những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Additionally, the craft of making “Lược bí” has generated many words, enriching the Vietnamese language. Từ khóa: Hoạch Trạch, lược bí, Nhữ Đình Hiền, văn hóa, tiếng Việt.

58Số 3/2024TẠP CHÍ ĐẠI HỌC HẢI DƯƠNGhọ cũng chỉ là làm cho đỡ nhớ, cho đỡ buồn, cho đỡ mất nghề chứ không phải làm vì miếng cơm, manh áo nữa.trộm cắp hay đói nghèo. Ngoài những ngày nông vụ hay những lúc học hành bận rộn, người người lại chăm chỉ với nghề làm lược bí của mình. Họ vui vẻ tụ tập ở một nhà ai đó, dưới gốc cây cổ thụ đa để gần đình làng, hay dưới những bụi tre râm mát,... cùng làm việc một cách đầy đam mê. Chính là môi trường làm việc tập thể như thế đã tạo cơ hội, điều kiện cho cư dân trong làng có sự gắn bó, chia sẻ, hỗ trợ lẫn nhau. 3.2.3 Biểu tượng của người phụ nữ Việt Nam một thờiTrong suốt nhiều thế kỷ, khi trên thị trường chưa có các dòng sản phẩm lược chải đầu sản xuất hàng loạt bằng chất liệu polime cũng như các dòng sản phẩm dầu gội đầu thì chiếc lược bí được làm thủ công của Hoạch Trạch luôn là một sản phẩm thân thuộc, có mặt ở hầu hết các gia đình người Việt. Qua hình ảnh chiếc lược bí được làm thủ công, người ta có thể thấy được sự khéo léo, tỉ mỉ và óc sáng tạo của người tạo ra sản phẩm. Trong quá khứ, bên cạnh trái bồ kết thì chiếc lược bí nhỏ xinh đã trở thành một biểu tượng không thể thiếu của người phụ nữ Việt Nam với những mái tóc đen dài, óng ả một thời.3.2.4 Tạo ra các sản phẩm độc nhất vô nhịNgoài công dụng tạo ra chiếc lược bí để chải mượt tóc, trừ chấy, diệt gàu và đốt vàng mã ở một số nơi thì những phế phẩm dư thừa của các công đoạn đều được người dân làng nghề sử dụng để tạo ra những sản phẩm văn hóa khác mà chỉ ở đây mới có như: tăm xỉa răng, thon nấu bếp, chổi nan quét sân,... với công dụng tốt hơn bất cứ sản phẩm cùng tên nào trên thị trườngHình 1. Lược bí thành phẩm3.2 Nghề làm lược bí với việc kiến tạo văn hóa thôn Hoạch TrạchHoạch Trạch sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa nước và hoa màu. Thế nên tuy có cần mẫn, chăm chỉ làm việc thì cuộc sống của người dân vẫn vô cùng khó khăn, thiếu thốn. Khi Tiến sĩ Nhữ Đình Hiền, một người con ưu tú của làng, sau khi truyền lại nghề lược mà mình học được cho dân làng, đã làm thay đổi bộ mặt làng xã Hoạch Trạch. Sự đóng góp của nghề làm lược bí không chỉ dừng lại ở việc giúp người dân cơm no áo ấm, mà hơn thế là những giá trị to lớn về mặt tinh thần mà nghề lược mang lại cho vùng đất này.3.2.1 Đảm bảo vấn đề ăn, ở, mặc và học hànhTrong những năm tháng khó khăn của đất nước, với nghề lược làm lược bí truyền thống, người dân xã Thái Học nói chung và làng Hoạch Trạch nói riêng vẫn luôn có một cuộc sống tương đối ấm no. Những chiếc lược bí nhỏ xinh được các tiểu thương mang đi khắp mọi nẻo đường mang về một nguồn thu nhập rất tốt cho người dân làng nghề. Vì có nguồn thu nhập tốt và ổn định mà chất lượng cuộc sống luôn được đảm bảo, người già được chăm sóc tốt, trẻ em đó điều kiện được đến trường. Nhà cửa, đường sá, trường học, hệ thống kênh đào thủy lợi… cũng được người dân đóng góp xây dựng kiên cố, khang trang, đẩy đủ hơn. 3.2.2 Tạo sự gắn bó, liên kết cộng đồng làng xãĐể có được một chiếc lược thành phẩm, người làm ra nó phải trải qua khoảng 20 công đoạn khác nhau. Các công đoạn này tuy không quá đỗi nặng nề nhưng lại cần có sự phân công nhân sự rất rõ ràng, một cá nhân không thể đảm đương hết mà cần có sự phối hợp nhịp nhàng của tất cả các thành viên trong gia đình, trong làng xã, không phân biệt tuổi tác (trên 5 tuổi là có thể tham gia) cũng như giới tính. Hay nói một cách khác, qua hình ảnh chiếc lược bí thấy có bóng dáng của cả một cộng đồng gia đình, làng xã. Họ phân công công việc theo hướng chuyên môn hóa phù hợp với giới tính, độ tuổi. Thế cho nên trên địa làng Hoạch Trạch khi ấy, tuyệt nhiên không thấy bóng dáng của “nhàn cư vi bất thiện”, không có biểu hiện 3.2.5 Lễ giỗ Tổ nghề lược- Hơn tất cả có lẽ giá trị văn hóa mà nghề làm lược bí mang lại cho người dân Hoạch Trạch nói riêng và xã Thái Học nói chung chính là tục thờ cúng ông tổ làng nghề với lễ hội vô cùng độc đáo. Với việc học và truyền bá nghề lược cho dân làng, Tiến sĩ Nhữ Đình Hiền được người dân tôn thờ với tư cách ông tổ nghề lược và bài vị được đặt ở nơi linh thiêng nhất của làng - đình làng. Hàng năn để tưởng nhớ tới vị tổ nghề lược, người dân Hoạch Trạch và các làng thuộc xã Thái Học lại từng bừng tổ chức lễ giỗ tổ như một cách thể hiện lòng biết ơn của dân làng đối với người đã truyền dạy nghề cho làng cho mình. Lễ hội được tổ chức rất trang nghiêm và long trọng. Tất cả đều được chuẩn bị kỹ càng từ đồ lễ, trang phục, cờ Hình 2. Chổi nan

59Số 3/2024TẠP CHÍ ĐẠI HỌC HẢI DƯƠNGquạt, lễ nghi, văn tế, ca múa, ban trị sự,... Ngày giỗ tổ nghề lược thật sự đã trở thành ngày lễ hội mà dân làng nghề Hoạch Trạch trông đợi nhất trong năm.Hình 3. Lễ giỗ Tổ nghề lượcNhư vậy, cũng như bao nghề truyền thống khác trên cả nước, nghề làm lược bí truyền thống có một vai trò vô cùng quan trọng đối với cư làng xã. Nhờ có nghề làm lược bí mà rất nhiều vấn đề được giải quyết theo chiều hướng tích cực: ổn định trật tự xã hội được gìn giữ, người già được chăm sóc, trẻ em được học hành, gia đình và cộng động thuận hòa, biết yêu thương cũng như sẻ chia những khó khăn trong cuộc sống và biết yêu lao động.3.3 Nghề làm lược bí với việc kiến tạo ngôn ngữ trong tiếng ViệtCùng với các công đoạn hoàn thành chiếc lược bí, nhóm danh từ chuyên biệt của nghề này cũng xuất hiện theo tỉ lệ thuận để đáp ứng nhu cầu định danh của từng công đoạn. Theo thống kê, chúng tôi thấy có tổng cộng 30 danh từ và 18 động từ như sau:Bảng 1. Nhóm 30 danh từ chuyên biệtBàn chặt

60Số 3/2024TẠP CHÍ ĐẠI HỌC HẢI DƯƠNGNhư vậy, trong quá trình thực hiện các công đoạn để hoàn thành một chiếc lược bí thành phẩm, cư dân làng nghề Hoạch Trạch đã kiến tạo được một lượng từ ngữ đáng kể mà chỉ có người dân ở đây mới hiểu và sử dụng. Với số lượng từ ngữ chuyên biệt 48 từ, trong đó có 30 danh từ và 18 động từ, nghề làm lược bí truyền thống của người dân làng Hoạch Trạch, xã Thái Học, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương cũng như bao làng nghề truyền thống khác trên cả nước, không chỉ đã góp phần làm phong phú thêm vốn từ vựng tiếng Việt cho vùng đất Thái Học nói riêng, mà còn góp phần không nhỏ vào việc phát triển, làm phong phú thêm vốn từ vựng Tiếng Việt của dân tộc.Bảng 2. Nhóm 18 động từ chuyên biệtTÀI LIỆU THAM KHẢO1. Nhữ Đình Toản. (thế kỷ XVIII). Hoạch Trạch Nhữ tộc gia phả (bản lưu trữ tại tư gia).2. Văn Miếu - Quốc Tử Giám. (2013). Kỷ yếu Hội thảo khoa học Tế tửu Quốc Tử Giám Nhữ Đình Toản, con người và sự nghiệp.4. KẾT LUẬNLàng nghề làm lược bí truyền thống có một vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế - văn hóa - xã hội của cả nước nói chung và cư dân làng nghề Hoạch Trạch nói riêng. Trong suốt thời gian rất dài (từ thế cuối thế kỷ 17 cho đến khi có sự xuất hiện của các dòng phẩm dầu gội đầu vào những năm cuối của thế kỷ 20), nghề làm lược bí là nguồn thu nhập chính để nuôi sống cư dân làng nghề. Nhờ nguồn thu nhập ổn định từ nghề làm lược mà những đứa trẻ của cả một vùng quê có cơ hội đến trường, các gia đình luôn đủ cơm ăn áo mặc, vợ chồng thuận hòa, gia đình hạnh phúc. Nghề làm lược bí là chất keo kết dính các thành viên trong các gia đình, làng xã lại với nhau, là nhân tố giúp ổn định trật tự xã hội. Mỗi công đoạn tạo ra chiếc lược bí đều cho thấy sự khéo léo, kiên trì, sự tỉ mỉ và óc sáng tạo của người tạo ra sản phẩm. Không những thế, trong quá trình sáng tạo sản phẩm văn hóa ấy, một số lượng đáng kể từ ngữ chuyên biệt xuất hiện, góp phần làm phong phú thêm kho từ vựng tiếng Việt. Cùng với nghề làm lược bí, tục thờ cúng ông tể làng nghề cũng được ra đời và duy trì đến nay thể hiện truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ kẻ trồng cây” của dân tộc. Các lễ nghi, lễ hội, các chuẩn mực đạo đức… của cư dân làng xã cũng được gìn giữ và truyền lại cho thế hệ trẻ rất tốt. Nhưng với sự phát triển của xã hội, làng nghề làm lược bí của làng Hoạch Trạch cũng như bao làng nghề khác trên cả nước đang đứng trước nguy cơ bị xóa sổ, kéo theo đó là những giá trị văn hóa truyền thống cũng như số lượng từ ngữ chuyên biệt cũng có nguy cơ bị xóa sổ theo nếu như chúng ta không có những động thái tích cực để để duy trì hoạt động của làng nghề cũng như bổ sung hệ thống từ ngữ làng nghề vào từ điển tiếng Việt hoặc các cuốn từ điển làng nghề.Hình 4. Ken lược